Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Hầm bà lần

Tôi giả sử rằng, “lựa chọn” là một từ chủ động nhất trong đời sống ngôn ngữ của một con người tự do. Nhưng cả quyền lựa chọn cũng là một sự tự do có ngoại trừ, để nhớ một ý tưởng tôi mượn tạm đâu đó, không biết có liên quan tới Camus: người ta không thoát khỏi sự lựa chọn.
Một lời nói ra bao giờ cũng chứa một nguy cơ với người nói: nguy cơ của việc lời nói được nói ra. Tôi đã lựa chọn sự im lặng hoặc tự cho mình nhã hứng mở lời. Nếu cần viện đến một lý do, thì lúc này, đó là để góp thêm vào việc bày tỏ và thực hành lý tưởng huyên thuyên nhã nhặn của mình.
Trong trận mưa gió ngôn từ làm tốn giấy, tốn mực (in và trời), tốn đất đai báo chí và internet suốt mấy tháng nay, rút cục tôi đã không thể ứng dụng được cách ứng xử của nhà thơ Lê Đạt: người ta đang nói về một Nhã Thuyên nào đó, hẳn không phải tôi. Một người dẫu hết sức muốn tránh ảo tưởng về bản thân, cũng có thể thấy mình quan trọng quá. “Khôn đâu đến trẻ”, tôi hiểu câu tục ngữ của người Việt ta theo nghĩa nhất định người trẻ thì không nên khôn ngoan. Tôi thì nhất định tin rằng tôi còn trẻ.
Lựa chọn viết về Mở Miệng, với tôi, đơn giản nghĩa là tôi đã không chọn viết về Trần Dần, Lê Đạt hay Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng hay Nguyễn Du Nguyễn Trãi hay Ca Dao. Hẳn nhiên, tôi hiểu rằng, người ta có thể an toàn khi nương dựa và trông đợi vào những điều đang được bảo lãnh, nhưng người ta cũng có thể bình yên khi không tìm cách để được bảo lãnh.
Một hiện tượng thơ là một hiện tượng thơ, bất kể mọi nỗ lực Photoshop nó thì dấu vết của thơ ca vẫn còn đó: bằng những bài thơ đã được viết, những cuốn sách đã ra đời, bằng những con người đang sống hay đã chết vẫn còn đang biết nói năng.
Trong thơ ca, “cấm kỵ” là một từ ngữ vừa cổ xưa vừa tạm bợ. Nếu tôi hình dung cấm kỵ không phải như một cái ngoài ta, mà nằm sẵn trong ta, thì hẳn nhiên, tôi cũng không cần nương dựa vào từ “cấm kỵ” để tán dương sự can đảm hay để miệt thị thói yếu hèn. Nhưng khi thừa nhận những cấm kỵ giả định đang lừng lững trong đời sống và ngôn ngữ của chúng ta, tôi lại thấy ở đó tiềm năng của va chạm và thay đổi. Bởi lẽ, bất cứ khi nào chạm đến những cấm kỵ thì câu hỏi về sự tự do lại được đặt ra. Có giới hạn nào cho sự tự do này không?
Tôi chưa bao giờ có cảm giác ông Midas có đôi tai lừa là một ông vua đáng bỉ vì không dám “nói ra sự thật”. Tôi chỉ thấy một ông lão cô đơn. Cô đơn trong nỗi bất an về đôi tai bất thường của mình. Đòn trừng phạt mà Apollo giáng xuống ông vua tội nghiệp rút cục là vì… xung đột quan điểm thẩm mỹ.
Tôi không nói về nỗi thất vọng, niềm hi vọng, sự cảm kích, thói lãnh đạm, nỗi bất bình, thói cầu an… hay sử dụng các từ ngữ giàu khả năng bày tỏ thái độ xung quanh sự việc này. Nhưng tôi hẳn phải thẳng thắn về thái độ của mình: nếu nhất định người ta phải nói chuyện với nhau trên sự “nhân danh”, nhất là nhân danh những thứ lớn lao như lý tưởng, khoa học, lịch sử, tôi xin được im lặng. Tôi lựa chọn một trạng thái sống không nhân danh gì cả ngoài sự phô bày: ở đó, cái riêng tư, cái nhỏ bé, cái khoái cảm có câu chuyện của riêng nó. Trong sự tìm kiếm những khoái cảm, tôi tin sẽ chảy ra những dòng đậm vị của suy tư và yêu thương, và hẳn cũng sẽ có một chút khe hẹp dành cho những người ham muốn gắn kết và trao đổi.
Và đây có thể là cách ứng xử tôi đã học được từ thơ ca: tôi chưa bao giờ thấy thơ ca muốn là một thứ vũ khí, dù để được bọc vàng trong tay kẻ mạnh hay nằm đợi thời trong tay kẻ yếu. Để lựa chọn không trở thành vũ khí, để không nhận cái vinh hạnh khổ nạn của một vật tế, thơ ca, thường lựa chọn bảo vệ thứ mà nhiều người không tiếc cho đi: sự cô độc tự nó. Thậm chí, thơ, như tôi hiểu, sẵn sàng nhận về mình sự tổn thương, sự không được chia sẻ, không tìm cách che chắn hay gồng mình tự vệ.
Sự cô độc đó có thể gây ra ít nhất một chút quan hoài thiết thân của mỗi người, và có thể trở thành một mối quan tâm chung của cộng đồng, biết đâu.
Lúc tôi viết về thơ Mở Miệng, đó đang là chuyện đang-diễn-ra. Lúc tôi viết xong phần viết của mình, có thể thơ Mở Miệng đã là chuyện của quá khứ. Lúc tôi đang viết những dòng này, tôi tưởng tượng rằng tất cả chúng ta đã đang dần hoá thạch. Tôi chưa biết, có thể cả những bức tượng thạch cao cũng có thể giao tình.
Dẫu thế nào, có những điều đang trôi đi và thay đổi trong cảm giác về sự lặp lại băng giá của tồn tại. Và bất kể vị thế bé nhỏ của văn chương và thơ ca, tôi cũng đã có lúc tin rằng chuyện mua vui cũng được một vài trống canh đôi khi cũng không phải là vô ích.
3.8.2013
Nhã Thuyên


Phần nhận xét hiển thị trên trang

CÂU CHUYỆN CON VOI


CHUYEN CON VOIMột người đàn ông đi qua chỗ đàn voi đang đứng. Bất chợt ông dừng lại, ngạc nhiên khi thấy những con voi to lớn này chỉ bị cầm giữ bởi một sợi dây thừng rất nhỏ buộc phía chân trước. Không hề có xích sắt, cũng chẳng có chuồng giam.
Có thể thấy rõ, hiển nhiên, lũ voi có đủ khả năng để dứt đứt dây, chạy đi bất cứ lúc nào. Nhưng không hiểu vì sao, lũ voi vẫn chưa làm vậy.
Người đàn ông trông thấy người quản tượng đứng gần đó. Ông hỏi anh ta tại sao lũ voi cứ đứng yên vậy mà không hề có vẻ muốn tháo chạy. 
- “Ồ”, người quản tượng đáp, “khi chúng còn nhỏ, chúng bé hơn thế này rất nhiều, chúng tôi vẫn dùng loại dây thừng cỡ đó để buộc chúng lại. Ở độ tuổi đó, dây như vậy là đủ giữ chúng rồi. Nhưng khi đã lớn hơn, chúng vẫn tin mình không thể dứt nổi những sợi dây thừng này. Chúng cho rằng, sợi dây thừng ngày xưa vẫn có thể giữ chúng được, thế là chẳng bao giờ chúng có ý nghĩ dứt bỏ dây và chạy đi”.
Người đàn ông vô cùng kinh ngạc. Những con thú đó hoàn toàn có khả năng chạy thoát khỏi sợi dây ràng buộc chúng, nhưng chỉ vì không tin mình có thể, nên chúng vẫn cứ chấp nhận một thực tiễn như đang có.
Cũng giống như những con voi đó, có biết bao người trong chúng ta, đã đi qua cuộc đời với ý nghĩ, chúng ta không thể làm được gì đó, đơn giản chỉ vì ”ta cứ nghĩ rằng ta sẽ thất bại”
SƯU TẦM

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tưởng nhớ nhà thơ Hoàng Cầm - Hỏi chuyện chủ quán “Lá Diêu Bông”



Nghe nói ở làng Hạnh Hoa có một cô chủ quán rượu xinh đẹp lấy tên bài thơ Lá Diêu Bông cuả Hoàng Cầm đặt tên quán của mình, tôi bèn mang máy ghi âm bỏ túi đến… uống rượu. Quán nhỏ, lợp tranh đơn sơ, nhưng lịch sự. Các tửu khách trông có vẻ trang nhã, không giống như quán rượu ở quê. Cô chủ quán đẹp như tiên, đi lại nhẹ nhàng như mây gió. Nghe nói ngày xưa chị trót yêu một chàng trai kém mình tám tuổi, gia đình cấm đoán, nên quyết định không lấy chồng. Từ hồi “đổi mới” chị mở quán rượu sinh sống, và luôn mơ được gặp tác giả Lá Diêu Bông.




Nhà thơ Hoàng Cầm. (Hình: dutule.com)


Thấy tôi là khách lạ, chị ưu tiên tiếp rượu, và cuộc trò chuyện đã diễn ra như vầy:
- Chắc chị mê thơ lắm mới đặt tên quán bằng tên một bài thơ?
- Tôi mê tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Nhưng khi đọc được bài thơ Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm là tôi quên Vũ Trọng Phụng luôn. Từ đó tôi cũng hình dung Hoàng Cầm là cái cậu con trai cứ lẽo đẽo theo tôi đi tìm lá thuốc cho mẹ từ hồi mới lớn. Nhưng người phụ nữ trong bài thơ Hoàng Cầm thì đi lấy chồng, có con, còn tôi thì không.
- Chắc chị thuộc nhiều bài thơ Hoàng Cầm?
- Từ khi đọc bài thơ Lá Diêu Bông, là tôi đi tìm đọc Hoàng Cầm. Nghe nói trong “đổi mới” thơ ông bị “lưu ban” một thời gian dài. May mà từ khi tôi thích thơ Hoàng Cầm, thơ ông lại được in ra liên tiếp. Tôi có đủ các tập Về Kinh Bắc, Men đá vàng, 99 tình khúc, Mưa Thuận Thành, Bên kia sông Đuống, và cả cuốn kịch thơ Kiều Loan ông viết từ hồi bốn lăm (1945). Tôi đọc đến đâu là thuộc đến đấy, vì thơ ông rất Việt Nam, rất thích hợp với tư duy của tôi. Như là ông viết riêng cho tôi.
- Chắc chị từng học đại học văn?
- Mấy đứa cháu tôi nó mới học đại học văn. Nhưng chúng nó chẳng hiểu gì về thơ. Chúng nó thạo kinh tế hơn. Bây giờ đứa nào cũng nhà lầu xe hơi trên phố.
- Thế chị học gì?
- Tôi học thơ Hoàng Cầm. “Sông Đuống trôi đi – Một dòng lấp lánh – Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”. Đọc câu thơ này, nhiều đêm tôi nằm nghiêng và thấy mình cũng như đang trôi đi.
- Chị lãng mạn thật.
- Con người, ai mà chả lãng mạn. Nhưng lãng mạn bằng thơ thì nó đẹp gấp trăm nghìn ngoài đời. Thơ làm cho người ta sống đẹp hơn.
- Nhưng phải là thơ Hoàng Cầm?
- Tất nhiên là với tôi. Nhưng có một ông khách trên phố về đây uống rượu, ông ta cũng mê thơ Hoàng Cầm lắm. Ông ấy bảo chỉ có thơ Hoàng Cầm và thơ Hàn Mặc Tử là nhất. Suýt nữa tôi với ông ấy đã thành đôi…
- Sao lại không thành?
- Vì tôi chỉ thích thơ Hoàng Cầm.
- Rắc rối nhỉ?
- Này anh, nghe nói ông Hoàng Cầm lại sắp lấy vợ phải không?
- Năm nào tôi cũng nghe nói như vậy. Nhưng rốt cuộc thì mười mấy năm nay chả có đám cuới nào cả.
- Thế cũng tốt.
- Sao lại tốt?
- Mỗi lần thi sĩ yêu lại có thêm bài thơ hay cho đời.
- Chị không ghen với các giai nhân thật sao?
- Việc gì mà tôi phải ghen với họ.
- Ở Sài Gòn cũng có một cái quán Lá Diêu Bông như quán chị…
- Tôi biết. Những cái quán ấy ra đời sau quán tôi. Đọc báo tôi biết mà. Hai “anh- chị” còn làm thơ tặng nhau nữa. Thi sĩ Hoàng Cầm phủ dụ chị ta bằng những câu thơ thật sang trọng: “Kinh Bắc lên men đằm hương vương phi – Hỡi mưa Phương Nam bao giờ mưa đi?”. Thế mà chị ta không chịu đi thì thật là “trời không có mắt”.
- Nếu ông Hoàng Cầm mà làm thơ tặng chị, hay nói như chị là “phủ dụ” chị thì chị tính sao?
- Với tôi thật không có hạnh phúc nào bằng. Tôi phóng to bài thơ lên dán trên vách quán để khách rượu cùng thưởng thức.
- Nhỡ có người lại chê thì sao?
- Chê là quyền của người ta. Tôi cũng đọc một bài người ta phê bình thơ Hoàng Cầm là “thơ tình dục khiêu dâm”. Và tôi thấy chính cái tay phê bình ấy mới thực sự có một cái đầu “dâm”. Cứ theo cái đầu của anh ta thì Hồ Xuân Hương hay Nguyễn Du khi viết về tình dục sẽ bị anh ta xử trảm.
- Có lẽ chị nói đúng.
- Tôi nói đúng là cái chắc. Ví dụ những câu thơ đẹp như thế này: “Ấm êm em trong trắng thịt da đêm – Ngọn gió nào cũng ấp một hơi thèm” mà anh ta lại phán là “thơ khiêu dâm” thì tôi không hiểu là anh ta đọc thơ theo cách nào.
- Thơ cần có tri âm. Cũng như Bá Nha gẩy đàn phải có Tử Kỳ nghe. Chị là Tử Kỳ của riêng Của Hoàng Cầm rồi đấy!
Có thêm khách đến. Tôi chia tay chị chủ quán Lá Diêu Bông. Biết tôi quen Hoàng Cầm, chị mừng lắm, gửi tặng ông chai rượu Hạnh Hoa, và nhờ tôi mời thi sĩ ghé thăm quán. Hoàng Cầm cũng mừng lắm. Tôi và ông chuẩn bị “hành quân” thì ông bị đau phải vào bệnh viện. Vậy mà cái cậu con trai lẽo đẽo theo Chị đi tìm lá Diêu Bông đã gần chín mươi xuân. 



Thủ bút của nhà thơ Hoàng Cầm. (Hình: dutule.com)


Giờ thì “Con người Hoàng Cầm” – con người đẹp trai da trắng môi đỏ, hào hoa và tài hoa ấy đã không còn lại trên cõi đời này nữa, ngợi ca hay chê trách ông cũng là chuyện đã rồi. Nhưng ông đã sống, đã yêu, đã đắng, đã ngọt và đã thơ. Thật kiêu hãnh đọc câu thơ ông viết: “Chim vàng phải tên dưới bụng/ Giận mình bay quá cao”, “Đợi sau khi Em qua đời/ Sẻ đồng thành phượng núi”. Hàng ngàn trang viết của ông còn đó, nói hộ chúng ta rất nhiều điều về một con người nghệ sĩ đến tận cùng chân tóc. Dân tộc và Ái tình chính là hồn ông gửi lại. Đó là những tác phẩm trầm đầy tinh thần Việt mà trong đó sử Việt, văn hóa Việt hay văn hóa Kinh Bắc đều ánh xạ qua trái tim mạnh mẽ và yếu mềm của ông. Vì thế tôi tin ông không mất. Ông còn rất gần ta và đang “Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc”. Vâng, người ta còn đọc ông, và ông còn tồn tại, cũng có thể là “tam bách dư niên hậu”…

Nguyễn Trọng Tạo
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhận diện nhóm lợi ích và lợi ích nhóm ở Việt Nam


Anh Vũ


Sự hoạt động của các nhóm lợi ích trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội là sự cấu kết giữa những chủ đầu tư với các quan chức trong bộ máy Nhà nước. Đây là nguyên nhân làm cho kinh tế đất nước suy kiệt. Sự thực của vấn đề này đang diễn ra ở như thế nào, Anh Vũ phỏng vấn TS. Kinh tế Phạm Chí Dũng.
Các nhóm lợi ích
Anh Vũ: Thưa ông, lâu nay ta thấy cụm từ “nhóm lợi ích”được nhắc tới rất nhiều. Trên thực tế, các nhóm lợi ích xuất hiện và phát triển rất mạnh. Nó có thể khuynh đảo cả kinh tế - xã hội và kể cả chính trị. Xin ông đánh giá khái quát về vấn đề này?
TS. Phạm Chí Dũng: Cho dù đã hình thành và gây hậu quả từ lâu, nhưng đến đầu năm 2011 cụm từ “nhóm lợi ích” mới bắt đầu được dư luận xã hội đề cập một cách chính thức. Khái niệm “nhóm lợi ích” thường được hiểu là mối quan hệ cấu kết giữa hai thành phần tư sản tư nhân và quan chức cấp cao của nhà nước, với mục đich nhằm trục lợi.
Nhóm lợi ích tạm chia thành ba loại: Nhóm lợi ích thứ nhất là nhóm đầu cơ liên quan đến tài chính như ngân hàng, vàng, bất động sản, chứng khoán; điển hình như nhóm ngân hàng G5, Công ty vàng SJC... Nhóm lợi ích thứ hai liên quan đến tính bao cấp là những nhóm độc quyền như xăng dầu, điện, nước mà điển hình là Tổng công ty xăng dầu (Petrolimex), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN)  là những điển hình. Nhóm lợi ích thứ ba là các Tổng công ty nhà nước như Vinashin, Vinalines… Các nhóm lợi ích tuy không được bao cấp, phải tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất và kinh doanh, nhưng lại được hưởng lợi khá lớn từ hệ thống chính sách ưu đãi của chính phủ.
Các nhóm lợi ích tuy không được bao cấp, phải tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất và kinh doanh, nhưng lại được hưởng lợi khá lớn từ hệ thống chính sách ưu đãi của chính phủ.

TS. Phạm Chí Dũng
Trong hai năm 2011 và 2012, làn sóng thâu tóm ngân hàng cho thấy một sự chiếm đoạt và giành giật lẫn nhau giữa các nhóm lợi ích. Trong bối cảnh nền kinh tế còn tương đối ổn định thì các nhóm lợi ích vẫn còn đất sống, nhưng khi nền kinh tế rơi vào suy thoái thì đã có những nhóm lợi ích như BĐS và chứng khoán đã gặp khốn đốn. Khi ấy, chỉ còn một số nhóm lợi ích như vàng, ngân hàng, xăng dầu, điện, nước vẫn có thể tồn tại.
Trong các nhóm lợi ích thì nhóm lợi ích thứ nhất được đánh giá là nhóm trục lợi ghê gớm nhất, có tỷ suất lợi nhuận cao nhất trong các chiến dịch đầu cơ vào thời điểm các năm 2006-2009. Giai đoạn này nhiều triệu phú đô la ở Việt Nam xuất hiện, có nhiều đại gia có tài sản từ vài trăm triệu đến hàng tỷ USD. Đáng chú ý là theo dư luận, trong nhóm đại gia này còn có sự liên quan đến không ít các quan chức.
Anh Vũ: Xin ông cho biết về sự nguy hại của nó đối với đất nước như thế nào?
TS. Phạm Chí Dũng: Rất nguy hại làm cho kinh tế suy thoái. Trong thời gian qua, các tập đoàn và nhóm lợi ích đã lũng đoạn và thao túng nền kinh tế và khiến cho các doanh nghiệp hết sức khốn đốn, lâm vào tình trạng phá sản và đời sống dân sinh trở nên kiệt quệ. Từ đó dẫn đến khoảng cách lớn về phân hóa thu nhập trong xã hội. Tuy nhiên, bất chấp làn sóng phản ứng gay gắt của dư luận, các nhóm lợi ích xăng dầu, điện vẫn không ngừng tăng giá, một phần để bù đắp cho những khoản lỗ ngoài ngành, phần khác để gia tăng lợi nhuận. Vừa rồi đã giá xăng tăng 3 lần và giá điện tăng 5%.
Điều đáng lưu ý là các nhóm lợi ích đang có dấu hiệu hoạt động theo kiểu mafia với hai yếu tố quyền lực và tiền bạc để lũng đoạn. Khác với ban đầu là các nhóm lợi ích chỉ dùng quyền để trục lợi thì bây giờ, người ta dùng cả quyền lẫn tiền không những nhằm khuynh loát chính trị mà còn lợi dụng vét kiệt hết tài nguyên của đất nước và tài sản của dân chúng.
Từ năm 2011, dưới sự bảo trợ của Ngân hàng nhà nước, nhóm lợi ích vàng xuất hiện, đã khuấy đảo và thao túng thị trường vàng trong tất cả các khâu. Tính chất độc quyền trong kinh doanh vàng đã tạo ra sự chênh lệch khá lớn giữa giá vàng trong nước với thế giới 5- 7 triệu đồng/lượng và gây thiệt hại cho người dân.
Mâu thuẫn phát sinh
clip_image002
Một khu dân cư cao cấp đang xây dựng ở Hà Nội, ảnh minh họa. R. photo

Anh Vũ: Hiện nay, giữa các phe nhóm lợi ích đang có vấn đề mâu thuẫn về quyền lợi và quyền lực. Xin ông cho biết về hậu quả của việc xung đột ở đỉnh điểm trong tương lai (nếu có) sẽ diễn ra theo chiều hướng nào?
TS. Phạm Chí Dũng: Vì khó khăn của nền kinh tế mà thị phần và tỷ suất lợi nhuận của các nhóm lợi ích đã bị giảm đi tương đối. Từ đó, các nhóm lợi ích phải quay sang cạnh tranh với nhau như trong vài năm vừa rồi. Sự tồn tại và chiếm lĩnh của các nhóm lợi ích sẽ phụ thuộc rất lớn vào biến động của nền kinh tế. Khi đó, kênh tạo ra lợi nhuận tối ưu lại phụ thuộc vào các chính sách độc quyền và tạo ra đặc quyền của nhà nước.
Muốn có được chính sách độc quyền và đặc quyền lại cần có những người tạo ra chính sách. Trong trường hợp này, nhóm thân hữu xuất hiện và các nhóm lợi ích đã bắt rễ với nhau và hình thành nên mối liên kết hữu cơ, hay còn gọi là mối quan hệ “ăn chịu”.
Nếu không có được một thay đổi đột biến về chính sách vào ngay lúc này, tất yếu sẽ kéo theo phản ứng bùng nổ mang tính cách mạng của nhân dân. Tương lai bùng nổ như thế sẽ không còn bao lâu nữa.
Anh Vũ: Ngoài nguyên nhân về trục lợi, sự tồn tại của nhóm lợi ích còn là hệ quả tâm lý của các quan chức, ông có đánh giá  như thế nào?
TS. Phạm Chí Dũng: Mục tiêu của mối quan hệ nhóm lợi ích – nhóm thân hữu không chỉ thuần túy là tạo ra lợi nhuận. Như bài học lịch sử ở các nước tư bản từ thời kỳ đầu đến nay, tiền bạc luôn có khuynh hướng biến thái thành quyền lực, thông qua phương tiện chính trị. Thì hoạt động chính trị không chỉ nhằm gia tăng và bảo vệ tài sản cá nhân, mà còn để thỏa mãn tâm lý ham thích và thể hiện quyền lực đối với đối tượng bị cai trị.
Nếu không có được một thay đổi đột biến về chính sách vào ngay lúc này, tất yếu sẽ kéo theo phản ứng bùng nổ mang tính cách mạng của nhân dân. Tương lai bùng nổ như thế sẽ không còn bao lâu nữa.

TS. Phạm Chí Dũng
Nền chính trị đã tạo ra cho quan chức thói quen thích thể hiện quyền lực và đặc biệt thích cai trị. Với cố tật của nó, nó có khả năng sẽ bị biến thái trong những năm tới, với một phần lớn nền chính trị sẽ rơi vào tay các nhóm tài phiệt và chính khách tham lam.
Anh Vũ: Vậy theo ông cần có những giải pháp nào để khắc phục tình trạng này?
TS. Phạm Chí Dũng: Chính quyền phải có biện pháp ngay, không thì sẽ quá muộn. Trong những năm qua, mặc dù không ít vụ việc lợi dụng chính sách trục lợi đã bị công luận và dư luận phanh phui và lên tiếng phản ứng mạnh mẽ. Tuy vậy vẫn không có bất kỳ một hành động cụ thể nào của các cơ quan đảng và nhà nước đối với bất kỳ một nhóm lợi ích nào.
Vì thế một yêu cầu cần phải tiến hành cuộc đại phẫu đối với khối doanh nghiệp nhà nước là hết sức bức thiết. Nhưng cần hơn tất cả, là phải có nhát cắt đại phẫu vào vị trí của những nhóm lợi ích. Nếu không, nguy cơ nền kinh tế bị thao túng và lũng đoạn hoàn toàn bởi nhóm lợi ích và nhóm thân hữu là rất dễ xảy ra. Khi đó, mức độ xấu nhất của tình trạng kinh tế xã hội không còn được quy chiếu từ năm 1991 như TS. Lê Đăng Doanh đã nói, mà sẽ ghê gớm hơn gấp bội.
Anh Vũ: Xin chân thành cảm ơn TS. Phạm Chí Dũng.
A.V. – P.C.D.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Địa vị siêu cường đã bị từ chối? Những lý do cho thấy “sự trỗi dậy” của Trung Quốc có thể đã lên tới điểm đỉnh – một sự kết hợp độc hại gồm những thách thức kinh tế, dân số, môi trường, và quốc tế có khả năng chấm dứt sự trỗi dậy của Trung Quốc


Minxin PeiThe Diplomat, 09/08/2012
Trần Ngọc Cư dịch

Nếu việc định thời điểm về sự thăng trầm của các đại cường đòi hỏi nhiều tinh tế, thì việc xác định điểm đỉnh của một cường quốc đang lên lại gần như vô vọng. Một vấn đề hiển nhiên là ta phải tìm cho ra cái thước đo quyền lực. Liệu ta nên nhìn vào tầm cỡ kinh tế của một nước hay nhìn vào mức giàu có của nó? Liệu ta có nên xét đến cái đà [the momentum] và tính bền vững của tăng trưởng kinh tế nước đó? Liệu môi trường bên ngoài có là một biến số chính đáng cần được đưa vào để đo lường quyền lực của nước đó vì quyền lực của bất cứ quốc gia nào cũng đều có giá trị tương đối, cần phải so sánh với quyền lực của những đối thủ tiềm năng?
Đây là những câu hỏi ta phải có trong đầu khi đối diện với một vấn đề quan trọng trong thế giới thực: Sự vươn dậy của Trung Quốc đã đạt tới điểm đỉnh chưa? Nếu một người nào đó nêu câu hỏi này chỉ vài năm trước đây thôi, thì chắc hắn ta sẽ bị chế nhạo đến xấu hổ phải bỏ ra khỏi hội trường. Quan niệm thông thường lúc bấy giờ là, sự trỗi dậy của Trung Quốc nhất định sẽ kéo dài liên tục. Nhưng ngày nay, nghi vấn trên gần như lởn vởn trong đầu óc mọi người.
Vậy thì cái gì đã thay đổi?
Gần như mọi thứ.
Nếu người ta cần phải đưa ra một lập luận, thì có lẽ là một điều hợp lý khi cho rằng Thế vận hội 2008 tại Bắc Kinh là mốc giới tượng trưng cho điểm đỉnh quyền lực của Trung Quốc. Sau đó, mọi việc bắt đầu xuống dốc. Bị cuốn vào trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế Trung Quốc chưa bao giờ hoàn toàn lấy lại đà tăng trưởng trước đó. Chắc chắn là, gói kích thích kinh tế 2008-2009, được thúc đẩy bằng việc chi tiêu thâm thủng [deficit spending] và cấp tín dụng tràn lan, có thể đã giúp Trung Quốc tránh được một cuộc suy thoái và có thêm một năm tăng trưởng ở mức hai con số vào năm 2010. Qua một thời gian ngắn, việc Bắc Kinh duy trì tăng trưởng kinh tế cao được ca ngợi khắp thế giới như là một dấu hiệu Trung Quốc có lãnh đạo mạnh và có sức bật tốt. Lúc đó, ít ai biết rằng Trung Quốc đã trả một cái giá khủng khiếp cho một chương trình kích thích chệch hướng và phí phạm. Phần lớn gói kích thích của Trung Quốc, khoảng 1.500 tỉ đôla (với 2/3 dưới dạng những khoản vay từ các ngân hàng nhà nước), bị phung phí trong những đầu tư vào tài sản cố định, như là cơ sở hạ tầng, nhà máy, và bất động sản thương mại. Do đó, nhiều dự án thuộc loại này là bất khả thi về mặt kinh tế và đặt lên hệ thống ngân hàng một núi nợ không thanh toán được [non-performing loans/nợ xấu]. Bong bóng nhà đất vẫn tiếp tục sủi bọt. Sự mất quân bình kinh tế vĩ mô giữa việc đầu tư và tiêu thụ hộ gia đình gần như không được cải thiện. Ngày nay, những nhà làm chính sách kinh tế Trung Quốc gặp quá nhiều hạn chế trong nỗ lực phục hồi tăng trưởng kinh tế. Sự kết hợp cùng một lúc các hiện tượng như tình trạng nợ nần của các chính quyền địa phương, những đống nợ xấu tiềm ẩn trong hệ thống ngân hàng, nhu cầu tiêu thụ yếu kém ở nước ngoài, và lợi nhuận đầu tư ngày càng suy giảm, khiến Bắc Kinh không còn sử dụng được bài bản trước đây để kích hoạt nền kinh tế.
Những khó khăn ngắn hạn không phải là những lo âu không đáng kể của Bắc Kinh. Trong thập kỷ tới, nhiều yếu tố cơ cấu thuận lợi đã từng đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế hai con số của Trung Quốc trong hai thập kỷ qua, sẽ biến mất. Đứng đầu danh sách là vấn đề dân số. Tỉ lệ dân số Trung Quốc ở tuổi lao động đã lên điểm đỉnh năm 2011 và bắt đầu giảm vào năm 2012, theo một nghiên cứu của RAND. Đồng thời, số người già trong dân số Trung Quốc đang bắt đầu gia tăng nhanh chóng. Vào năm 2010, chỉ có 8,6% dân số Trung Quốc ở tuổi 65 hoặc già hơn. Vào năm 2025, lứa tuổi này có thể chiểm 14,3% dân số. Một dân số già nua sẽ đẩy giá lao động lên cao, làm giảm vốn tiết kiệm và đầu tư, gia tăng phí tổn y tế và hưu trí – và làm cho đà tăng trưởng chậm lại.
Một khó khăn trở ngại khác nằm ngay trước mắt là tình trạng xuống cấp môi trường. Bắc Kinh đã lơ là việc bảo vệ môi trường vì muốn dành ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế chớp nhoáng. Nhưng cái giá phải trả cho sự xuống cấp môi trường đã đến mức không còn chịu đựng được nữa, cả về kinh tế lẫn chính trị. Ô nhiễm nước uống và không khí hiện nay đã khiến 750 ngàn người chết yểu và gây một tổn thất khoảng 8% GDP. Người dân đau khổ triền miên của Trung Quốc cuối cùng đã bắt đầu đấu tranh quyết liệt để giành quyền được hưởng một môi trường lành mạnh [environmental rights]. Chỉ trong vòng năm nay thôi, những cuộc biểu tình trên qui mô lớn đã buộc Chính phủ phải hủy bỏ những kế hoạch xây dựng những nhà máy có thể đe dọa sức khỏe và sinh kế của cư dân tại hai thành phố Trung Quốc. Trong thập kỷ tới, một sự kết hợp gồm có sự xuống cấp môi trường và những hậu quả của tình trạng hâm nóng địa cầu sẽ làm trì trệ tăng trưởng kinh tế Trung Quốc thêm nữa. Lực cản nghiêm trọng nhất về lâu về dài cho tăng trưởng kinh tế Trung Quốc chính là hệ thống tư bản nhà nước của nó. Trong thập kỷ qua, Bắc Kinh đã đảo ngược phần lớn những cải tổ theo xu thế thị trường [pro-market reforms] và lao vào đường lối phát triển do Nhà nước quản lý. Hậu quả là, các công ty nhà nước đã nắm được quyền lực to lớn trong lãnh vực kinh tế và hưởng nhiều độc quyền. Hệ thống tài chính Trung Quốc ưu đãi các công ty nhà nước, bất chấp sự thiệt thòi của giới tư doanh. Thu nhập hộ gia đình, ở mức 43% GDP, vẫn còn quá thấp nên thông thể hỗ trợ một mức tiêu thụ cao hơn, vốn là một yếu tố quyết định trong việc tái quân bình nền kinh tế Trung Quốc và tạo ra một nguồn tăng trưởng kinh tế tương lai. Theo một nghiên cứu nổi tiếng của Ngân hàng Thế giới, nếu Trung Quốc không chịu cải tổ hệ thống, tăng trưởng kinh tế trong hai thập kỷ tới sẽ rơi xuống dưới 7% một năm. Nhưng cải tổ chế độ tư bản nhà nước gần như là một điều bất khả thi về mặt chính trị vì điều đó sẽ làm lung lay nền móng thống trị của Đảng Cộng sản. Trên mặt trận chính trị, thập kỷ tới có khả năng là một thập kỷ dân chúng vùng lên chống lại độc quyền chính trị của Đảng. Người dân Trung Quốc đã trở nên mạnh dạn thẳng thắn hơn trước rất nhiều và sẵn sàng thách thức uy quyền của Đảng. Mặc dù chế độ có những đầu tư khổng lồ vào hệ thống kiểm duyệt, nhưng hiện nay Bắc Kinh thậm chí phải nhìn nhận rằng Internet đã cho phép người dân Trung Quốc bình thường một tiếng nói tập thể mạnh mẽ trong việc tạo dư luận. Những chính sách Nhà nước trên một loạt vấn đề rộng lớn, như chính sách một con, các chính sách minh bạch ngân sách, giáo dục và y tế đang bị người dân thách thức về tính hợp lý và hợp pháp của chúng. Đằng sau những diễn biến này là một cuộc khủng hoảng cơ bản về tính chính đáng của chế độ đang cầm quyền.
Còn về giới thống trị chóp bu, sự đoàn kết nội bộ của họ không còn là một chuyện đương nhiên. Vụ Bo Xilai [Bạc Hi Lai] đã phơi bày sự rạn nứt ngay ở cấp cao nhất của chế độ. Tệ hại hơn nữa, một cảm thức bất ổn chính trị và mất phương hướng hiện nay đang tràn ngập trong Đảng. Hiện nay, nhiều đảng viên tinh anh nhất nhận ra rằng những ngày tốt đẹp nhất của chế độ đã lùi vào quá khứ và, nếu không có những cải tổ chính trị cơ bản, Đảng sẽ không thể bám víu quyền hành thêm bao lâu nữa. Về đối ngoại, môi trường quốc tế thuận lợi của Trung Quốc trước đây đang bắt đầu trở nên tồi tệ. Quan hệ của Trung Quốc với nhiều nước láng giềng đã trở nên căng thẳng hơn trước nhiều vì những tranh chấp lãnh thổ. Những đối tác mậu dịch chính của Trung Quốc đã mất hết kiên nhẫn vì những chính sách thương mại đầy thủ đoạn [mercantilist policies] của nước này. Quan hệ Mỹ-Hoa hết sức cần thiết lại ngày càng mang tính cạnh tranh. Những nứt rạn cơ bản trong mối quan hệ này đã trở nên sâu sắc thêm vì xung đột ý thức hệ, vì tranh giành ảnh hưởng địa chính trị, và vì nghi ngờ ý đồ chiến lược của nhau. Khi các nước khắp thế giới, vì những lý do riêng, đề cao cảnh giác chống lại ảnh hưởng của Trung Quốc và bắt đầu đẩy lùi nó, Bắc Kinh không thể tự do bành trướng địa vị kinh tế của mình và nắm giữ lợi thế tiếp cận thị trường và tài nguyên tại các nước khác thêm nữa.
Điều mà bài phân tích này muốn vạch ra là sự bành trướng quyền lực của Trung Quốc dưới chế độ độc đảng đã lên tới điểm đỉnh, không thể vươn cao hơn nữa. Mô hình phát triển tư bản nhà nước độc tài đầy ma lực đã mang lại phép lạ kinh tế trong thời hậu Thiên An Môn; nhưng trong mọi ý nghĩa thực tế, hiện nay mô hình này đã mất hết ma thuật, nếu chưa hoàn toàn phá sản. Tuy nhiên, tương lai của Trung Quốc không nhất thiết là một tương lai u ám. Mặt ngửa của bài phân tích này là, với những cải tổ đúng đắn, nhất là trở về với chiến lược tăng trưởng theo khuynh hướng thị trường và chuyển đổi sang thể chế dân chủ, Trung Quốc có thể dễ dàng đối đầu với những thách thức trong và ngoài nước này. Một hệ thống kinh tế thị trường thông thoáng hơn sẽ sử dụng nguồn lực có hiệu quả và công bình hơn chế độ tư bản nhà nước. Những cải tổ dân chủ sẽ cho chế độ một cái gốc cơ bản về tính hợp pháp chính trị đối với người dân trong nước và còn giúp giảm bớt thái độ xung khắc và hoài nghi của thế giới bên ngoài đối với Trung Quốc. Nhờ thế, Trung Quốc sẽ có một cơ may tuyệt vời để đặt những nền móng kinh tế và chính trị cho một siêu cường của Thế kỷ 21. Nếu điều này thực sự xảy ra, những ngày tốt đẹp nhất của Trung Quốc sẽ còn tiềm ẩn ở tương lai, chứ không hoàn toàn rơi vào quá khứ. 
M. P.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Tư, 21 tháng 8, 2013

Trần Đăng Khoa

Nguyễn Quang Lập 

Mấy hôm nhờ thằng Khoa một việc, chẳng biết nó giúp được không mà không thấy điện thoại nhắn tin gì, đầu óc cứ lởn vởn thằng Khoa, chẳng làm ăn gì được cả. Thằng Đ. đang ở Đà Nẵng nhắn tin nói khéo không nó lại cuội đấy.

Chả phải, nó giống mình, chỉ tếu táo mấy chuyện ba lăng nhăng, đụng chuyện nghiêm túc thì không bao giờ.


Lại kể Chuyện không có trong sự thật in ở Văn nghệ Quân đội tháng 7-1996 (hình như thế), anh Huân anh Đỉnh đang đau đầu, họp hành kiểm điểm lia xia, nó gặp mình, nói ông viết sai có một từ mà làm khổ ông, khổ cả chúng tôi. Mình hỏi từ nào, nó nói cái ông nhân vật trong truyện đếch phải chính khách. 

Mình giật mình thấy nó nói đúng, nhưng truyện đã in ra rồi, biết làm sao. Họp hành ở đâu, nó cũng chê mỗi hai chữ chính khách ấy thôi, tuyệt không nói thêm gì cả.

 Khác với cái ông Z. gặp mình ở cổng Văn nghệ Quân đội thì vỗ vai nói không có gì đâu, Lập yên tâm, tụi mình biết cách làm cho mọi chuyện ổn thoả mà. Nhưng vào gặp anh Huân thì nói tôi vừa đuổi thằng Lập đi rồi. Từ nay cấm cửa mấy thằng khốn nạn ấy.

Ngày đầu mới gặp thằng Khoa, nó vỗ vai nói ông tài, đang sướng thì thấy nó vỗ vai cái ông bên cạnh nói ông tài. Sáng sau đến cổng Hội Nhà văn, gặp nó đứng với cái ông văn chương nhạt hoét, vỗ vai nói ông tài. Từ đó nó khen gì, mình cũng cười nhạt nhạt, gật gật đầu qua chuyện, kì thực bỏ ngoài tai hết.

Một hôm đi ăn cơm bụi với nó, nó lôi truyện ngắn mình ra bình, chuyện này hay chuyện kia dở cứ vanh vách, mình ngạc nhiên quá trời. Hoá ra nó có hai cách vỗ vai, một của anh Khải, một của nó.

Hiếm ai nổi tiếng như cồn bền bỉ bốn, năm chục năm như nó. Mình gặp mười người thì có sáu người không biết mình là thằng nào, hai người nghe cái tên, xem cái mặt trên ti vi thì nhớ vậy thôi chứ chẳng biết viết cái gì, hai người còn lại thì may ra có một người biết mình viết văn, còn lại cứĐời cát… Đời cát nhắc hoài nhắc huỷ, mệt bã người. Nó thì mười người nhớ cả mười, ít nhất cũng nhớ được một đôi câu thơ nó. Kinh.

Mình về quê khoe với tụi bạn là chơi thân với nó. Tụi bạn bỉu môi xì, bốc phét! Mày mà quen được Trần Đăng Khoa, lại còn chơi nữa, cứ làm như tụi tao ngu lắm.

Tưởng nó lơ ngơ, nói trước quên sau, hoá ra không phải. Hôm vợ thằng Phong dạy trường Trưng Vương gọi điện cho mình, nói 20/11 này anh làm sao mời được Trần Đăng Khoa về nói chuyện cho em với. Mình có hai thằng con học ở đó, cô giáo nhờ bố bảo cũng không dám chối.

 Mình gọi điện cho nó, nó nói như không: Ai chứ bố đã bảo thì tôi phải đi chứ. Mình nghi nghi, nó khét tiếng nói chuyện thơ, những ngày lễ lạt cả trăm nơi mời, nếu có nhận lời cũng phải khó khăn lắm, chứ nhận phát nhẹ tênh kiểu này dễ ăn cứt với nó lắm.

Sáng sau mình đến, thấy sân trường cả ngàn em đang ngồi, các cô  thầy giáo ngồi đầy hai dãy ghế, mặt ai nấy vô cùng háo hức, nhưng không thấy nó đâu, gọi điện nó không nhấc máy, lo thắt ruột.
ư
Nghĩ bụng mình phải liều chết chữa cháy rồi ném một mớ tục tĩu vào mặt nó, cạch đến già không chơi với nó nữa. Hoá ra nó đến, cười cái xoẹt nói tắc đường, rồi đủng đỉnh đi vào, tương một phát hai giờ không nghỉ, chỉ uống đúng ngụm nước, cả ngàn em nhỏ sung sướng ngây ngất.

Mình thở phào nhẹ nhõm nói cảm ơn ông quá, nói thật tôi tưởng ông không đến, nó cười nhẹ tênh, nói ông không biết tôi quí ông à.

Thằng Khoa nói chuyện thơ phải tôn nó lên bậc thiên tài. Xuân Diệu cũng nổi tiếng nói chuyện thơ nhưng mình nghĩ Xuân Diệu viết lách thôi, nói chuyện thì chán ốm, buổi nào cũng giống buổi nào, quanh đi quẩn lại chỉ một bài, tóm lại ông đi khoe ông chứ chẳng phải đi nói chuyện.

Thằng Khoa khác, nó biết trộn nhuần nhuyễn chuyện ba lơn với chuyện nghiêm túc, chuyện thơ với chuyện đời, thỉnh thoảng nhả ra mấy nhận xét rất quái.

 Một hôm thằng Bùi Chí Vinh nói chiều nay tao với thằng Khoa nói chuyện ở trường Công Đoàn, mày đến xem tao đấu với nó. Mình không đi, chiều gặp thằng Vinh hỏi nó đấu thế nào, nó cười khì nói thua... đú má.

Nói chuyện với giáo viên, học sinh đã sẵn lòng ngưỡng mộ rồi, không tính làm gì. Nói chuyện với mấy ông công chức nửa mùa, chuyện gì cũng ta đây biết cả, đến  nghe mày nói thế nào thôi. Thế mà chỉ sau mười phút thằng Khoa làm mấy vị này nghiêng ngả cả, tài!

Một hôm nghe nó hẹn đi nghe nói chuyện với hội ngườì mù, bụng nghĩ thằng này chắc điên nhưng cũng dò theo nó xem thế nào. Vào hội trường thấy lặng ngắt, có thấy gì đâu mà chào với vỗ tay. Thế mà sau hai tiếng nó dừng, các vị người mù vây lấy nó, kẻ cầm tay, người sờ lưng vô cùng cảm động. Mình phục lăn nó luôn.

Vào Thanh Hoá, buổi sáng nói chuyện với tỉnh uỷ, lúc đầu mấy ông ngồi cho phải phép, vừa nghe vừa nói chuyện riêng, sau mười phút bỗng im phăng phắc, có ông còn lấy sổ ra ghi chép. Mình ngồi sau mấy ông, họ rỉ tai nhau nói ông Khoa này tầm cỡ uỷ viên trung ương, he he.

Buổi chiều nói chuyện với với trại thương binh, cả mấy trăm người,  công thần có, bất mãn có, lớp một có, đại học có, có cả một phần ba thương binh tâm thần, không cẩn thận, nói hớ một câu là vỡ mặt liền. Thế mà không, nó cứ nói tưng tửng nhưng ai nấy càng nghe càng say. Một nữ thương binh bỗng đứng vụt lên kêu to cảm ơn đồng chí nhà thơ Trần Đăng Khoa! Rồi bưng mặt khóc hu hu. Tài đến thế là cùng.

Chị L. xưa văn công tỉnh rất xinh đẹp, nghe Khoa nói chuyện, rỉ tai hỏi mình ông Khoa có vợ chưa. Mình nói chưa, chị bảo tôi cũng vừa bỏ chồng, ông làm mối tôi đi. Mình nói hồi sáng bà còn kêu ông Khoa bẩn nổi tiếng mà, khéo không phải lấy đũa gắp chim ông ấy đấy. Chị nói  kệ, gắp thì gắp, tôi cũng phải kiếm miếng thiên tài đã.
He he 
NqL


Phần nhận xét hiển thị trên trang

“Ông Cục phó Cục CSGT đang tự đặt... lệ làng”

(GDVN) - "Ông Cục phó C67 ký một văn bản như vậy là không đúng, về mặt luật pháp nó không được thừa nhận. Và như vậy, ông Cục phó Cục CSGT tự lập ra 'lệ làng', bắt người khác phải theo".

Như Báo Giáo dục Việt Nam đã đưa tin, mới đây Cục CSGT đường bộ, đường sắt (C67 - Bộ Công an) có văn bản số 1042/C67-P3/2013 do Đại tá Trần Sơn Hà, Phó Cục trưởng ký gửi Trưởng phòng Cảnh sát giao thông (CSGT) Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó có đoạn: “Luôn luôn nâng cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm rõ với những đối tượng có lời nói đe dọa, lăng mạ hoặc có hành vi chống đối CSGT đang thực thi công vụ, hoặc quay phim, chụp ảnh hoạt động tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm khi chưa được phép của CSGT đang làm nhiệm vụ.

Nếu đúng là nhà báo thì tập hợp thông báo cho cơ quan chủ quản
; nếu giả danh nhà báo thì tạm giữ, lập hồ sơ chuyển cơ quan chức năng xử lý theo quy định của pháp luật”.

Văn bản của C67 đang "đè" lên luật
Trao đổi với Báo Giáo dục Việt Nam, ĐB Quốc hội Nguyễn Ngọc Bảo (đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc) thẳng thắn đánh giá, việc C67 ra văn bản này chẳng khác gì tự đặt “lệ làng”.
“Đây là một văn bản sai trên mọi khía cạnh, nếu nó làm ảnh hưởng tới hoạt động của báo chí thì đã vi phạm luật. Nhà báo có quyền tác nghiệp và được luật báo chí bảo vệ, các đồng chí CSGT làm nhiệm vụ không có quyền yêu cầu phải xuất trình thẻ mới cho quay phim, chụp ảnh.

Còn nếu không phải là báo chí thì là người dân quay phim, chụp ảnh và CSGT cũng không có quyền ngăn cản. Do vậy, Cục phó C67 ký một văn bản như vậy là không đúng, về mặt luật pháp nó không được thừa nhận. Và như vậy, ông Cục phó Cục CSGT tự lập ra 'lệ làng', bắt người khác phải theo”, ông Bảo nói.
ĐBQH Nguyễn Ngọc Bảo: Văn bản của C67 chẳng khác gì tự lập ra lệ làng.
Theo ĐBQH Nguyễn Ngọc Bảo, Việt Nam đang hướng tới “một đất nước pháp quyền”, mà đã là "pháp quyền" thì mọi việc làm phải căn cứ trên luật, không thể có chuyện một văn bản ở cấp cục mà lại đè lên luật.
“Hàng năm, Quốc hội họp để bàn chuyện làm luật, rất tốn kém thời gian, sức lực và kinh phí. Nếu C67 ra văn bản kiểu này thì ở Bộ khác cũng có các cục ra văn bản kiểu như vậy, thế thì luật Quốc hội thông qua không còn hiệu lực? Đó là chưa nói, Cục phó C67 cũng không có đủ thẩm quyền để ra một văn bản với nội dung hạn chế quyền của báo chí và quyền của người dân”, ông Bảo bày tỏ.
Trước những thông tin Đại tá Trần Sơn Hà – Cục phó C67 lý giải rằng, văn bản này nhằm ngăn chặn những đối tượng không phải là phóng viên nhưng lại quay phim, chụp ảnh làm ảnh hưởng tới hoạt động của CSGT, ông Bảo phản biện: “Lý giải của đồng chí Cục phó chỉ là biện minh và nó không đúng, nếu phát hiện ra trường hợp nào vi phạm pháp luật thì họ được phép ngăn chặn, điều tra và đề nghị khởi tố.

Còn nếu viện ra lý do này để đưa vào văn bản nội dung yêu cầu nhà báo, phóng viên phải xuất trình thẻ, gây khó khăn cho hoạt động báo chí là hoàn toàn sai. Với người dân, CSGT càng không được phép ngăn cản họ, còn ai làm điều ấy vì ý đồ xấu thì sẽ bị xử lý theo luật”.

CSGT làm đúng quy trình không sợ quay phim, chụp ảnh
ĐBQH Nguyễn Ngọc Bảo cũng thẳng thắn nói rằng, nếu CSGT làm nhiệm vụ và tuân thủ đúng các quy trình của ngành thì không phải lo ngại ai quay phim, chụp ảnh. Tuy nhiên, trong một chương trình trả lời trên Cổng điện tử Chính phủ gần đây, chính một lãnh đạo của C67 thừa nhận khi thực hiện công vụ đã có những CSGT vướng vào tiêu cực và bị xử lý kỷ luật.
Ông Bảo nói: “Chỉ có đồng chí nào làm không đúng thì mới sợ bị quay phim, chụp hình, còn nếu làm đúng thì chẳng việc gì phải sợ; thậm chí để chống tiêu cực trong ngành thì còn phải khuyến khích nhân dân và báo chí tăng cường giám sát.

Lâu nay, chúng ta cứ nói đi nói lại là người dân phải được biết, được quyền giám sát – kiểm tra các hoạt động của cơ quan công vụ, vậy thì tại sao lại ra văn bản trái khoáy như vậy. Tôi nhắc lại là một Cục phó không có thẩm quyền ra văn bản với nội dung như vậy, nội dung này đè lên cả luật khác, sai trầm trọng”.
PV Báo Giáo dục Việt Nam cũng đề cập tới thông tin trước đó Báo Lao động đã đăng tải, cho biết khi tác nghiệp ở Hải Phòng đã bị một nhóm CSGT chặn xe, gây sức ép, buộc phải trình thẻ nhà báo mới cho đi.

ĐBQH Nguyễn Ngọc Bảo cho biết: “Tôi đã đọc thông tin này, nhà báo tác nghiệp ở khu vực không bị hạn chế, và cũng không phỏng vấn, làm việc trực tiếp với nhóm CSGT, do đó CSGT ép họ phải trình thẻ mới cho đi là sai luật.

Thời gian qua, đã có rất nhiều vụ việc tiêu cực ở lực lượng CSGT đã được báo chí công khai, đây là việc làm cần thiết để góp phần làm trong sạch lực lượng Công an nhân dân. Nếu phóng viên báo cho CSGT rằng sẽ chụp ảnh, quay phim thì liệu có còn phát hiện ra tiêu cực? Tôi nghĩ là không”.
Ông Bảo cho hay, những năm gần đây, các cơ quan công quyền đã ra hàng nghìn văn bản dưới luật không đúng luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, và cũng có nhiều văn bản trái luật, không phù hợp với thực tế đời sống và văn bản này của C67 cũng là mộ trong những trường hợp như vậy.
“Tôi cho rằng, C67 cần phải rút lại văn bản này và có sự điều chỉnh cho phù hợp, đồng thời công khai để dư luận cả nước được biết. Tôi và nhiều ĐBQH khác sẽ nêu vấn đề này trong kỳ họp Quốc hội tới đây”, ông Bảo cho biết.

Phần nhận xét hiển thị trên trang