Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

Sai quá rùi còn giè? ( Bản tư niệu ngên cếu )

cuộc nổi dậy của rác thải

1/
Tôi còn nhớ rõ cảm giác của mình, một nỗi buồn lạ lẫm thời sinh viên, khi lần đầu tiếp xúc với những bài thơ “dơ bẩn” của các thành viên Mở Miệng một người bạn của tôi in ra từ mạng internet mang tới, thời điểm các diễn đàn văn chương mạng đang là một nguồn hấp dẫn mới, tôi nghĩ: phải chăng không có cách nổi loạn nào khác ngoài sự phá phách thơ ca? Sau đó, từ việc đọc và quan sát việc làm của họ, tôi thu nhận thêm những ý nghĩ mới và tôi tự cười chính cảm xúc nghiêm trọng ban đầu của mình. Cho đến giờ, với tôi, Mở Miệng là những người bạn: tôi được nhận những tập thơ họ mới xuất bản, chia sẻ những tin tức về họ, tôi đã đọc các ấn phẩm thơ của Mở Miệng từ tập thơ photo đầu tiên tới tập mới nhất, ngoài một đôi tập không thể tìm được nữa sau các đợt thẩm tra của công an văn hóa. Tôi quan tâm tới sự thay đổi của các thành viên: từ 6 thành viên ban đầu, vốn là một nhóm bạn văn chương trường Đại học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Sài Gòn khóa 1997-2001 gồm Lý Đợi, Bùi Chát, Khúc Duy, Nguyễn Quán, Hoàng Long, Trần Văn Hiến (in chung tập Vòng tròn sáu mặt năm 2002), rồi Hoàng Long và Trần Văn Hiến rời khỏi nhóm ngày sau đó vì những khác biệt trong quan niệm văn chương, bốn tác giả còn lại cho ra đời tập Mở Miệng (tháng 6.2002), rồi một thời gian sau, Nguyễn Quán rời nhóm, đi tu, Khúc Duy sau tập thơ riêng Hầm bà lần (2004) cũng “mất tích” khỏi văn đàn. Trong vòng hơn mười năm qua, Mở Miệng, với hai thành viên còn lại là Lý Đợi và Bùi Chát, bên cạnh việc ra các tác phẩm thơ riêng đã kiên trì theo đuổi các hoạt động tự xuất bản với việc sáng lập Nhà xuất bản Giấy Vụn, một điểm nổi bật của phong trào xuất bản samizdat chống kiểm duyệt và đấu tranh cho tự do xuất bản, tự do ngôn luận ở Việt Nam đương đại. Nhiều năm trở lại đây, thậm chí sự nổi tiếng về hoạt động xuất bản của họ dường như đã lấn át vị trí thơ ca trong sự nghiệp cá nhân của các nhà thơ, hình ảnh về Mở Miệng chỉ còn nổi bật như một nhóm thơ bất đồng chính kiến với đặc sản thơ tục, thơ rác, thơ phản kháng, nhất là sau sự kiện Bùi Chát được vinh danh bằng giải thưởng xuất bản và thường xuyên chịu sự theo dõi, bắt bớ, thẩm vấn của cơ quan an ninh.[2] Với tôi, sự kiên trì với hoạt động tự xuất bản này luôn đáng kính trọng, và đó thực sự là một biểu hiện của cuộc sống mang thi tính, không vừa với những trật tự. Tuy nhiên, bởi sự thiên vị của tôi với các vấn đề thơ ca (chứ không phải sự lảng tránh những vấn đề khác), tôi không có tham vọng nhận diện đầy đủ, khách quan, tỉ mỉ về nhóm thơ nổi tiếng này, dù có thể là không công bằng nếu tôi nhìn các vấn đề thơ ca tách biệt khỏi các thực hành xuất bản và thậm chí, tách khỏi cuộc sống ngoài lề của họ. Mở Miệng, tôi muốn coi là một nút thắt để mở ra những câu hỏi khác của thi ca. Vậy, với tôi, Mở Miệng là ai ở vị trí các nhà thơ? Các thực hành thơ của Mở Miệng, nổi bật là cuộc tấn công vào chất liệu với các tên gọi thơ Rác, thơ Dơ, thơ Nghĩa Địa, từng châm ngòi cho những tranh luận nhiều chiều, chủ yếu trên các diễn đàn văn hóa nghệ thuật liên mạng đặt tại hải ngoại, có tiềm năng cách tân và cách mạng như thế nào? Chúng đóng góp gì vào sự thay đổi nhận thức về thơ ca và với sự phát triển của thơ Việt đương đại? Thông qua việc phân tích tuyên ngôn và các thực hành thơ của Mở Miệng, tôi hi vọng những câu hỏi này sẽ được sáng tỏ ít nhiều. Bản sắc của các nhà thơ Mở Miệng sẽ được nhận diện từ chính ngôn ngữ thơ ca của họ, đặt trong một văn cảnh rộng hơn các văn bản thơ, bao gồm cả bối cảnh xã hội, văn hóa, chính trị và cả các diễn ngôn phê bình về thơ, hơn là từ những hành vi xã hội có tính chất tham dự vào bối cảnh. Ở góc nhìn nào đó, thơ ca định vị mối quan hệ của nó với thời đại bằng kinh nghiệm riêng biệt của ngôn ngữ, và sự tra vấn thân phận của ngôn ngữ trong thời đại, ngược lại, sẽ định vị bản sắc cá nhân của nhà thơ.
Sự chú ý tới các tra vấn về ngôn ngữ đặt ra từ các thực hành thơ của Mở Miệng, thú thật là một sự dè chừng của tôi trước tiềm năng xây dựng một thứ huyền thoại về các hiện tượng thơ bất đồng chính kiến ở Việt Nam, thường bị quy giảm thành thơ phản kháng chính trị, điều (được cho là) hấp dẫn dư luận bên ngoài và được chú ý khai thác nhiều hơn, trong khi những tra vấn về các vấn đề mĩ học của thơ ca có thể bị giảm thiểu hoặc có vị trí yếu hơn. Chính bởi thế, tôi cho rằng đã xảy ra điều đáng tiếc với thơ ca Việt Nam: các tranh luận về thơ đương đại, nỗ lực của các nhà thơ, các nhà phê bình trong nhiều năm trước đã trở thành những dấu tích trong “cái ao” văn chương Việt Nam đương đại. Dường như sẽ là một thiệt thòi cho các nền thơ ca được biết tới chỉ với những biến động của bối cảnh chính trị, bởi khi chính trị đã vượt ra khỏi những vấn đề địa phương thì sự bình đẳng của thơ ca một quốc gia trong nỗ lực chia sẻ với vận động của văn chương và thời đại ở phạm vi toàn cầu sẽ không thể có được nếu nó chỉ được chú ý như một thứ hương vị ngoại lai.

2/
Trước khi đi vào phần chính của tiểu luận, tôi muốn phác lại đôi nét thông tin về các bài viết, các tranh luận xoay quanh tuyên ngôn và các sáng tác thơ của Mở Miệng nhiều năm trước để lý giải tại sao họ lại từng là điểm nóng trên thi đàn. Đây là một phác họa hấp dẫn của biên tập viên Đinh Tuấn Anh về chân dung nhóm thơ đã từng gây náo loạn văn đàn những năm đầu tiên của thiên niên kỉ này, trong chuyên đề Thơ trẻ Sài Gòn năm 2004 của báo điện tử văn chương Tiếng Việt chính thống trong nước Evan[3]:
“Có một nhóm sáng tác trẻ tự xuất bản những tác phẩm của họ dưới dạng photocopy, và coi đó như văn bản chính thức. Họ rảo bước qua những đường phố Sài Gòn, những quán café, quán thịt chó, ngày và đêm, ánh đèn, xe cộ, bụi và tiếng ồn. Họ làm thơ. Rồi cả truyện, tiểu thuyết, tiểu luận, trình diễn, sắp đặt, nghệ thuật ý niệm (conceptual art), nghệ thuật thị giác (visual art)… và họ tuyên ngôn. Tự xếp mình, đúng hơn là tự xem mình nằm trong các trào lưu tiền phong, chẳng hạn như hậu hiện đại, họ đẩy thơ vào “ngõ cụt”, chiếu bí người đọc bằng ý thức đổi mới ngôn ngữ. Họ sẵn sàng thách thức những người làm thơ khác về tính chuyên nghiệp, tính học thuật trong thơ; nhất là, như họ nói thẳng thắn, với lớp nhà thơ bảo thủ, không chịu rời bỏ những sở trường của mình. Và tất nhiên, họ chấp nhận bị thách thức.”
Nhiều người sẽ còn nhắc nhỏm rằng một phần chính vì chuyên đề này mà Đinh Tuấn Anh, và cùng với anh là Trần Tiễn Cao Đăng “được” thôi nhiệm kì làm việc tại Evan vào năm 2005, và toàn bộ dữ liệu của Evan về thơ giai đoạn 2004-2005 bị gỡ sạch. Năm 2005, Đinh Tuấn Anh, trong vai trò là trợ lý cho giám đốc Viện Goethe Hà Nội tiếp tục đề xuất chương trình đọc thơ của Mở Miệng tại Viện Goethe Hà Nội (được ấn định vào lúc 18h30 thứ 6 ngày 17/6/2005) và chương trình bị hủy theo thư yêu cầu của Bộ văn hóa. Mở Miệng trở thành một điểm công kích của truyền thông dòng chính với những bài báo mà các nhà thơ Mở Miệng xem là “không đáng trả lời”[4]. Cho đến nay các báo chí trong nước vẫn từ chối các bài viết về Mở Miệng, hay thậm chí việc điểm danh cũng không dễ được chấp nhận. Việc xuất bản sách chính thức cũng vậy, trong cuốn sáchThơ đến từ đâu (nhà xuất bản Lao Động, 2009) của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, đang sống tại Canada, gồm loạt bài phỏng vấn các nhà thơ trong nước và hải ngoại đăng tải nhiều kì trên Talawas trước đó, phần phỏng vấn Lý Đợi bị gạt bỏ, và tên Bùi Chát thậm chí bị viết tắt, không nói tới những biên tập cắt xén khác đã khơi mào cho những tranh luận đến giờ vẫn chưa có hồi kết trên các diễn đàn mạng trong/ngoài Việt Nam. Những sự kiện như vậy cho thấy, chính truyền thông chính thống dán nhãn thân phận “ngoài lề” cho họ, và sau đó, Mở Miệng đã bị đối xử như một taboo, thậm chí với cả giới hàn lâm trong các viện và các trường đại học.
Những cổ vũ nhiệt thành bằng việc dịch, giới thiệu sang tiếng Anh của Đinh Linh, sự xuất hiện với tư cách cá nhân trong các tập thơ Việt xuất bản ở hải ngoại như 26 nhà thơ Việt Nam đương đại (Tân Thư xuất bản, Hoa Kỳ, 2001), Tuyển tập Tân Hình Thức (CLB Tân Hình Thức, 2006, Khế Iêm chủ trương), các bài báo giới thiệu Mở Miệng chủ yếu như một nhóm thơ phản kháng[5] cho thấy sự tham dự năng động của các tác giả này cũng như sự hấp dẫn của hiện tượng Mở Miệng ở bên ngoài Việt Nam. Ở trong nước, Inrasara, một nhà thơ, nhà phê bình trong Hội nhà văn có tham vọng nhận diện thơ Việt đương đại ở tất cả các khu vực, không kể chính thống/phi chính thống đã từng cố gắng lập lại biên bản về không gian sôi động của thơ ca giai đoạn đó với bài viết Khủng hoảng thơ trẻ Sài Gòn, xuất bản trên Tiền Vệ (2005) và được đưa vào cuốn Song thoại với cái mới (2008), “không bị biên tập một chữ” theo lời tác giả – dường như là bài viết duy nhất được xuất bản chính thống cho đến nay. Xin được trích dẫn một đoạn:
“Đeo vào bộ mặt cực đoan đến quá khích, nhóm Mở Miệng cùng với sản phẩm của thơ của họ như “làn gió thối thổi vào không khí thơ” phẳng lặng hôm nay. Bản thân nó là một khủng hoảng. Nó đột ngột xuất hiện và gây sốc, cố tình lôi kéo sự chú ý của chúng ta về khủng hoảng chung của thơ Việt, một khủng hoảng cần được nhìn nhận như một tín hiệu tốt lành.[6]
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Hiếu (một bút danh khác là An Vân) đã tiếp cận Mở Miệng, những kẻ “viết văn với cây búa của Nietzsche”, như một nguồn nguyên liệu tươi mới cho việc khám phá bản chất khiêu khích của văn chương, đề xuất nhiều vấn đề có tính lý thuyết và cách thức tiếp cận thơ ca đương đại.[7] Sự chào đón nồng nhiệt của nhà phê bình Đoàn Cầm Thi[8], thái độ ủng hộ rõ rệt của các nhà thơ và bạn bè Nam – Bắc, trong/ngoài nước như Nguyễn Quốc Chánh, Đinh Linh, Đỗ Kh., Đặng Thân, Nguyễn Đăng Thường, Trần Wũ Khang, Như Huy[9], Liêu Thái v.v. đã góp phần kích thích văn đàn và đồng thời, tạo nên một thứ “huyền thoại” về Mở Miệng, những nhà thơ du thủ du thực ở Sài Gòn, những từ ngữ công dân hẻm 47, La Hán Phòng, xuất bản photo, thơ dơ, thơ rác, thơ phản kháng, cuộc cách mạng thơ, làn gió thối của thơ ca… trở nên nổi tiếng. Phản ứng ngược lại, tiêu biểu là các bài viết của Phan Nhiên Hạo[10], một cảnh giác với không khí ngợi ca đang có nguy cơ lấn át văn đàn đã tiếp tục “hâm nóng chảo thơ” (từ dùng của Lý Đợi). Có thể nói, sự cực đoan của Mở Miệng trong phát ngôn và sáng tác đã là một cú hích cho những trao đổi, đặt vào thời điểm cộng đồng văn chương trong – ngoài Việt Nam đang có nhu cầu đổi mới mạnh mẽ. Vượt ra ngoài ý nghĩa văn chương, những trao đổi này tiết lộ một khí hậu đời sống và nghệ thuật rộng hơn ở Việt Nam đương đại. Một mặt, trong quan hệ với truyền thông chính thống, sự xuất hiện và hoạt động của Mở Miệng cho thấy sự ngột ngạt của kiểm duyệt văn hóa, sự gay gắt mỗi lúc một tăng của mối xung đột chính thống và phi chính thống. Mặt khác, qua các bài viết của những người “cùng hội cùng thuyền đâu xa”, cùng xuất hiện trên các diễn đàn phi chính thống, dù ở hải ngoại hay trong nước, Mở Miệng có thể coi là một điểm nút để nhìn lại thơ Việt, trong đó nổi bật lên các vấn đề: sự cách tân, thơ và chính trị, tiềm năng phản kháng của thơ, thanh và tục trong thơ, hậu hiện đại… Tính chất tự do và rộng mở của không gian mạng thu hút nhiều ý kiến đa chiều, dù là các tranh luận nghiêm túc hay sự tán dương quá khích, tạo thành một vùng thông tin giàu có mà những nhà văn học sử và những nhà nghiên cứu văn hóa có thể coi như một nguồn dữ liệu quan trọng.

3/
Mặc dù chúng ta biết rằng mỗi nhà thơ quan trọng đều mang tiềm năng giải trung tâm các quan niệm thơ, các sáng tác của họ không bao giờ chỉ đơn thuần là sự góp thêm vào những bài thơ mà luôn mang nỗ lực đưa ra những ý niệm về hành vi làm thơ, nỗ lực phá hủy và đề nghị, nhưng không phải lúc nào nó cũng trở thành một tuyên ngôn hay một yếu tố có tính gây hấn – và thật nghịch lý, từ “cách mạng” xuất phát từ một lĩnh vực dường như không dính đến thơ ca lại thường được dành để chỉ các hành vi thơ. Bài viết Thơ và chúng tôi không làm thơ của Lý Đợi, Talawas 16.04.2004 & 17.04.2010, thường được coi như tuyên ngôn của nhóm Mở Miệng, bắt đầu bằng một phản ứng trước việc các nhà phê bình ở Việt Nam dường như không nhìn ra được chuyển động thật sự của thơ trẻ Việt, cụ thể là không nhìn ra sự khác biệt của thơ trẻ ở Sài Gòn. Phản ứng về sự nghiêng lệch quyền lực định danh và định vị đi cùng nhu cầu và nỗ lực phơi mở cái vắng mặt, cái còn ẩn giấu, cái chưa được nhận diện trong thơ Việt, nhu cầu cất lên tiếng nói tự bên trong của một hiện hữu đang bị trấn áp. Sau khi đưa ra bài thơ với thủ pháp giễu nhại của Bùi Chát, họ nhắc tới Dada như một nguồn cảm hứng:
“Chúng tôi (những cây viết trẻ ở Sài Gòn) gọi kiểu này là thủ pháp pastiche – phỏng nhại, cài-đặt-lắp ráp. Giống như thủ pháp collage - cắt dán mà Dada đã làm với tranh cắt-xé-dán và tranh giấy tổng hợp. Hay cũng có thể gọi là sự cưỡng chế. Bài thơ của Thanh Tùng đã bị Bùi Chát cưỡng chế. (Như cái cách của chủ nghĩa Hậu hiện đại cưỡng dâm cái cách của chủ nghĩa Hiện đại). Vậy thì sự sáng tạo ở đâu? Sự sáng tạo ở ngay cái ngưỡng hành động của cái cưỡng chế và cái bị cưỡng chế.
“Thơ nhiều khi chỉ là chuyện gây hấn, một chút hài hước, một cú sốc nhận thức, thậm chí là một trò đùa vui nơi bàn nhậu, chẳng kém phần nhảm nhí. […] Chúng tôi không làm cái gì quá cao cấp, quá dung tục hay lập dị, bởi chúng tôi vẫn nghĩ rằng bên dòng thẩm mỹ chính thống đại trà, đã/đang tồn tại một thứ thơ khác – thơ của chúng tôi/thẩm mỹ của chúng tôi, thẩm mỹ của những người mải mê làm thơ, chứ không phải của những nhà phê bình hay đạo đức, luân lý hay xã hội học.”
Không bàn đến mức độ thẩm thấu các lý thuyết phương Tây như thế nào, ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đến thái độ tuyên chiến quyết liệt với ý thức thẩm mĩ cũ, như phẩm chất của những người tự nhận lãnh sứ mệnh tiên phong, biểu hiện rõ nhất bằng sự gây hấn về quan niệm thơ, điểm cốt lõi làm nên giá trị bản tuyên ngôn của Mở Miệng, một tuyên ngôn dường như mang tính ứng khẩu hơn là được chuẩn bị kĩ lưỡng: “Chúng tôi không làm thơ”. Phát ngôn này có thể được nhìn trong ý nghĩa rộng: một cuộc đối thoại/đối đầu của hiện tại với quá khứ, của cái mới mẻ, tiền phong với sự già cỗi, bảo thủ. Chúng ta biết rằng những lối thơ – phản thơ xuất hiện trong những thời điểm khủng hoảng không phải hiếm hoi, để chống lại những hình dung về thơ của cộng đồng đọc phổ biến đã được cố định hóa ở những đặc điểm nào đó (như vần điệu, nhạc tính, ngôn từ thi hóa).
Đề xuất của Mở Miệng về việc thực hành thơ mang tính ý niệm hay cái gọi là nghệ thuật ý niệm không nên được xem là một sản phẩm bắt chước cái ngoại nhập thời thượng hay một sự đột biến không có mối dây dưa với “truyền thống”, mà nhiều hơn là một nhu cầu từ bên trong. Trong tuyên ngôn này, khi dùng cụm từ “thực hành thơ”, ý hướng phản thơ để tồn tại như một Cái Khác của Mở Miệng biểu hiện ở cả hai phương diện: phản thơ ở chất liệu,“không ngại bất cứ đề tài nào, ngay cả những thứ mà thẩm mỹ thơ Việt còn xa lạ hoặc xem là dung tục” và phản thơ bằng hành vi “không làm thơ”, đề xuất một ứng xử khác của chủ thể với chất liệu của họ, với thơ, xác quyết thuộc về “mạch ngầm”, “thơ chúng tôi không đi qua cửa biên tập của nhà xuất bản.” Phản thơ, đồng thời cũng là một thái độ phản kháng kép: không phản kháng trong mối quan hệ với truyền thống mà họ coi là ý thức thẩm mỹ cũ, các nhà thơ Mở Miệng phản kháng cả xu hướng làm thơ vớichữ hay với nghĩa nhằm tra vấn những chiều kích mới trong các đơn vị cấu thành ngôn ngữ, đề xuất việc làm thơ như một hành vi. Toàn bộ con người nhà thơ, bằng các thao tác, bằng môi cảnh… vẫn làm ra bài thơ, nhưng bài thơ ấy không tồn tại độc lập mà là một mắt xích trong chuỗi tương tác vô tận.
Kẻ ngoài lề nhận ra tình thế ngoài lề của mình, nhận ra cái khác của mình, đồng thời nhận ra sự tồn tại của mình không được thừa nhận hay đang bị đè nén. Không muốn mình thuộc về bóng tối, họ đặt câu hỏi về cách mạng và kẻ lãnh nhận cách mạng thơ, họ đặt câu hỏi về chính từ “không chính thống” được dán nhãn cho họ, như dán nhãn một loại thực phẩm lạ cần cảnh giác. Đồng thời với tuyên ngôn, sự xác quyết về Cái Khácnày sẽ được thực thi bằng những quan niệm thơ mà Mở Miệng triệt để thực hành: thơ Rác, thơ Dơ, thơ Nghĩa Địa, những thực hành được gợi cảm hứng từ các trào lưu nghệ thuật rác và dơ trên thế giới. Nó không phải cái đột biến, mà là sự thức tỉnh. Phát ngôn khẳng định sự hiện diện của Mở Miệng cho người đọc phản tư về tình trạng đông cứng của quan niệm thơ ca, ý thức về sự thiếu hụt của thơ Việt khi đặt vào một không gian rộng lớn thời toàn cầu hóa. Trong sự tạo nghĩa lại quan niệm về thơ và làm thơ, chữ “không” chính là khoảng chơi tự do của ngôn từ lẫn ý thức. Chính vì thế, cũng như việc thêm các tiền tố “post” vào các chủ nghĩa, cuộc giải trung tâm quan niệm thơ, nhu cầu định nghĩa lại luôn không có hồi kết. Những gì đang đặt nền tảng cho các thiết chế, cả sáng tạo lẫn phê bình, sự quy chiếu cái này là thơ cái kia không phải là thơ vào một hình ảnh thơ siêu hình, trừu tượng nào đó chính là những gì cần phá dỡ, để mở ra những khả năng khác của việc đọc và viết, tạo cho đời sống thơ đương đại và chính những cá nhân tham dự khả năng không an ổn. Mỗi một kẻ làm thơ trong cảm thức hậu hiện đại, những kẻ sống với cảm giác về nỗi bế tắc, sự dối trá của sáng tạo, đều phải thức tỉnh về hành vi làm thơ mang tính chất cá nhân đó: làm thơ, nghĩa là tạo ra những khả thể, hay những ý niệm về thơ. Sự truy nguyên một quan niệm thơ và làm thơ về thơ là bất khả và vô nghĩa, chủ thể làm thơ luôn phải rượt bắt những quan niệm luôn trượt đi, một cuộc rượt bắt, theo nghĩa nào đó, đã xóa đi ranh giới của Chơi và Thực, của Làm và Không Làm, của nghiêm túc và nhảm nhí, và dường như là cuộc rượt bắt không tránh khỏi.

tôi ngịch thơ 
jã chàng ngịch cát 
con lít ngịch những thứ khác
Thơ Rác, thơ Dơ, là những khái niệm được đề xuất bởi Bùi Chát – bắt đầu với tập Xaùo choän chong ngaøy(2003), một tập thơ quan trọng cho thấy sự chuyển đổi và ý thức lật đổ quan niệm cũ của Bùi Chát với slogan “thơ jác từ jưởi”. Ý hướng này tiếp tục được anh phát triển với thuật ngữ thơ Nghĩa Địa, được trình bày rõ ràng trong phần Hỏa/Mù/Mờ thay cho lời giới thiệu tập thơ Xin lỗi, chịu hổng nổi (2007). Tôi xin trích lại toàn bộ:
Hỏa/mù/mờ
Sau gần hai năm ngưng hẳn các hoạt động liên quan đến văn chương, xuất bản vì lí do sức khỏe. Đầu tháng 8, tôi bắt tay vào thực hiện “Có jì dùng jì có nấy dùng nấy”: dự án về xuất bản thơ vỉa hè, một 1 tập thơ chung 47 tác giả & nhiều tác phẩm cá nhân khác. Vì nhu cầu của dự án, tôi lục lại bản thảo cũ & tìm thấy: Xin lỗi, chịu hổng nổi.
Xin lỗi, chịu hổng nổi vốn dĩ là tập 1 của Xác ướp trở lại, tập thơ nghĩa địa 333 bài được hoàn tất 2004, tôi cũng thực sự không hiểu vì sao đến giờ vẫn chưa được (tôi) xuất bản. Tập thơ nghĩa địa này lại là phần rất quan trọng trong Made in Vietnammột tác phẩm ý niệm (conceptual art) đã gây tranh cãi.
Công việc của tôi chỉ đơn giản là tách một bộ phận của một phần trong một dự án đã hoàn tất, để tạo thành 1 bộ phận của 1 phần trong 1 dự án khác đang thực hiện, khi tham gia “Có jì dùng jì có nấy dùng nấy” – phần 2 với tư cách tác giả. Thao tác này cũng hệt như thao tác lấy 1 bài thơ đã hoàn chỉnh của người khác làm thành bài thơ (có thể sẽ) không hoàn chỉnh của mình.
Mục đích để tập thơ được trở về đúng vị trí & vai trò cả nó: hàng nghĩa địa.
Tại sao tôi phải làm như vậy ư? Dĩ nhiên có rất nhiều giải pháp cho một câu hỏi đại loại như thế, và điều quan trọng trước tiên vẫn là: không tổ chức hoặc cá nhơn nào bắt buộc hay dụ dỗ/mua chuộc tôi cả. Chỉ vì muốn thực hiện triệt để cái chủ trương của tôi nhiều năm qua: Không cố gắng tạo ra bất cứ điều gì mới mẻ, nếu được: nên sử dụng lại những cái đã/sẵn có.
(Thế chẳng phải đỡ tốn công sao?)
Cuối cùng tập thơ là một bộ phận không thể tách rời của thơ rác & nghệ thuật rác, vấn đề tiêu điểm gây chia rẽ dư luận nhất của Mở Miệng nhiều năm qua. Việc thực hành thơ nghĩa địa – thơ rác một cách ý thức và triệt để, theo thiển ý của tôi đã đưa các nghệ sĩ Mở Miệng & những người cùng ý hướng trở thành những tác giả (có lẽ) mang màu sắc truyền thống nhất trong lịch sử văn hóa/chương Việt Nam.
Lịch sử một nền văn hóa/chương rác.”
Nhìn ở cấp độ ý niệm về thơ, dễ dàng đồng thuận rằng Bùi Chát và các nhà thơ Mở Miệng đã tiếp nhận nghệ thuật phương Tây, với Dada, Pop Art đồng thời dùng các phương cách được tiếp nhận này như một thái độ, một dạng phản ứng với quá khứ với một thái độ hủy diệt và lật đổ trong sự nhạo báng: quá khứ văn chương trở thành một bãi rác vô tận mà họ được quyền nhặt nhạnh để sử dụng lại. Việc dùng ngôn từ vốn được cho là tục tĩu cũng chia sẻ ý hướng làm việc với các chất liệu dơ bẩn, quá khích, gây sốc trong nghệ thuật đương đại.
Phần nhiều những bài thơ ở Xaùo choän chong ngaøy như các tiếu lâm dân gian, kể chuyện về những vật nhỏ nhoi, cái tưởng như vô nghĩa, cái chỉ tồn tại trong đời sống thông tục, một thế giới ngầm, chuyện cái chổi, những người đàn bà đang là chuột dưới cống, quần lót, cái bát, chuyện mấy cái lông, rắm rít, sự giao cấu, và tất nhiên, nhiều chuyện vốn bị cho là tục tĩu khác (và những kiểu chơi chữ như vậy thật khó dịch sang một ngôn ngữ khác). Sau đó, Bùi Chát dành hẳn một tập theo “ý niệm” chửi bới lộn Cái lồn bỏ đi và những bài thơ chửi rủa [bới, lộn], khai thác cường độ mãnh liệt của ngôn ngữ bình dân, tiếu lâm. Chủ nghĩa đa phương ngôn ngữ (plurilingualism) ở Bùi Chát được thực hiện triệt để với sự biến thái về ngôn ngữ theo kiểu dùng phương ngữ Bắc Bộ, nhưng không phải ngôn ngữ của đô thị và ngôn ngữ chính thức hóa với quy tắc chính tả được chấp nhận mà là ngôn ngữ của vùng nông thôn (mà Thái Bình – quê gốc của Bùi Chát là một vùng điển hình của thứ ngôn ngữ “sai lạc” với ngôn ngữ quy chuẩn), ngôn ngữ thế tục của những kẻ dưới đáy, vốn chỉ còn trong truyện tiếu lâm dân gian, một thứ taboo với ngôn ngữ văn chương đương thời, khác với kiểu “phu chữ” nơi phòng văn để tìm độ bóng chữ, những chữ lạ, từ độc của những nhà thơ dòng chữ[11] phía Bắc như Lê Đạt, Dương Tường. Khi đưa những cái tục vào trong thơ của mình, Bùi Chát không thách thức, không văng tục để thách thức, mà viết và sử dụng từ ngữ như những vật liệu bình đẳng, nơi thơ ca không phải chỉ là thế giới của thứ ngôn ngữ cao sang, tinh tuyển, nơi con người − những kẻ tưởng mình có quyền năng sử dụng ngôn ngữ, nếu đối xử với chúng như công cụ vô tri có thể bị ngôn ngữ làm phản, lật mặt bất thần. Sự lệch chuẩn − cái mà các nhà thơ thường cố công đi tìm − nằm ở tự bản thân đời sống mà nhà thơ phát hiện ra và biến nó thành một quy tắc thơ, từ đó khai mở những khía cạnh mới của hành vi làm thơ trong tương tác với ngôn ngữ và hiện thực đời sống thông tục.
vô địch
một con cặc tầm thường, nó giữ. theo cách cha ông dạy 
bảo vệ, nâng niu – không gì sai sót 
nó gồng mình chịu trận dù muốn một phát 
huy xứng đáng cho cặc tính mình 
thề trinh tiết đến cùng, tuy gái gú theo 
bởi phẩm hạnh. mỗi ngày nó soi gương, quấn vải 
quanh háng [thật] nhiều lần nhằm sở hữu… tương lai được chuẩn bị 
từng cái lồn bỏ đi như những dòng sông nhỏ 
nó đâu biết [bọn] cha ông ngỏm từ khi nó lọt lòng 
nửa đời không ai đụng, nó không chạm ai 
vẫn còn… nguyên si & đen đúa 
để yên ủi mỗi khi về già. nó lén lút chuyển 
con cặc ra sau rồi đâm vào đít
[thut thit]
phụ chú: tựa bài thơ có thể đọc là vô địt… theo cách phát âm của một số vùng Bắc Bộ.
Trong xu hướng triệt tiêu cảm xúc, khai thác bề mặt, sử dụng và khai thác cái tục tĩu, mức độ thành công của các tác giả Mở Miệng không như nhau. Khúc Duy, khi văng tục hầm bà lần với tập Hầm bà lần (2003), một tập thơ chủ trương “tiếp tục tĩu”, đã chỉ bày ra một cơn trút xả vô nghĩa, chán chường. Bùi Chát nói tục như người kể chuyện dân gian, như Ba Giai, Tú Xuất, Thủ Thiệm, như một cách thức khuyến mại thơ cho những lỗ tai đã ngấy cái thanh, Lý Đợi khai thác nhiều nguồn chất liệu thông tục cho thơ từ báo chí, một cách diễn giải lại các văn bản báo chí, và các văn bản xã hội khác, đưa thơ tiến gần đến các khẩu hiệu và sự nhại lại các khẩu hiệu. Họ đã tạo thành một cái chợ đồ Tàu đồ Ta, đồ chính hãng, đồ nhập lậu thập cẩm. Sự đóng góp trước hết của Mở Miệng trong việc thực hành thơ dơ là sức mạnh của quá trình giải điển phạm quan niệm thẩm mĩ về một thứ ngôn ngữ thơ “văn chương, “cao quý” đã trở thành một lực cản của sáng tạo ở Việt Nam, đưa ra một ứng xử mới với ngôn ngữ và chất liệu thơ. Sự đóng góp của họ không nằm ở việc dùng những từ “tục tĩu” mà ở tinh thần carnival hay chất thơ quảng trường, đưa thơ gần với hành vi một sinh hoạt văn hóa – tập tục dân gian. Lập luận rằng việc dùng một cách công khai và vô tội [vạ] các từ chỉ bộ phận sinh dục, hành vi tính giao bằng từ ngữ nguyên thủy của nó như lồn, cặc, đụ, địt… là nỗ lực trả lại sự bình đẳng của từ ngữ ít nhất đã có một sức hấp dẫn mạnh mẽ ở tính chất lật đổ của nó.
Thực tế, ở Việt Nam, việc sử dụng ngôn từ tục tĩu nhằm thác hiệu ứng có tính chất chính trị của ngôn ngữ dường như còn là một thái độ thơ. Dòng văn tục − thường bị loại trừ, bị chèn ép nhưng luôn tồn tại một mạch chảy trong đời sống văn chương các dân tộc − có thể truy nguyên từ các hình thức hề chèo dân gian, truyện tiếu lâm… Trong suốt ba mươi năm chiến tranh ở Việt Nam, dòng chủ lưu là văn thơ cách mạng đã bị “ý thức hệ” thành một hệ thống ngôn ngữ công thức, xa rời đời sống. Để đòi lại quyền lên tiếng của thơ ca, nhiều nhà thơ đương đại sử dụng cái tục để chống lại sự cấm đoán việc dùng nó, đồng thời cũng là một cách tấn công vào những taboo khác, để bày tỏ nỗi căm uất và bức bối về chính trị, hay nhu cầu giải phóng những áp chế về tình dục. Nhà thơ Nguyễn Quốc Chánh coi cái tục là “những biến chứng của ám ảnh chính trị trên thân xác”, là cách “nhổ vào ngôn ngữ tuyên huấn giả trá” bởi ông cho rằng: “Ở đâu con người còn bị tước đoạt quyền tự do ngôn luận, quyền bày tỏ chính kiến, thì ở đó phương tiện nào trở nên hữu dụng nhất để làm văn chương phản kháng đều có lý để được chọn lựa, bởi đây là một vùng phi lý thuyết.”[12] Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc trong một tiểu luận đã phát ngôn rằng: “Sống trong một xã hội như xã hội Việt Nam, chỉ có thánh may ra mới không biết chửi tục.”[13]
Ý thức gây hấn bằng chất liệu và từ ngữ “dơ bẩn” của Mở Miệng chỉ là một trong những biểu hiện đa dạng của những phản tư về ngôn ngữ trong thơ đương đại, nhưng nó gây ồn ào, một phần bởi những thực hành này dường như vượt ra ngoài những đường biên của ngôn ngữ khi động đến chuẩn thẩm mĩ của con người, nó không chỉ gây sốc thị giác, mà còn gây sốc nhận thức, nó sử dụng những thứ là của chung xã hội, nhưng cũng vấp phải những cấm kỵ của xã hội. Bất cứ khi nào chạm đến những cấm kị thì câu hỏi về sự tự do của nghệ thuật lại được đặt ra. Có giới hạn nào cho sự tự do này không? Điều này nằm trong bản thân nhận thức của mỗi người, cái nhận thức luôn bị giới hạn trong những taboo được thêu dệt, không phải là cái ngoài ta, mà nằm sẵn trong ta. Khi thơ dơ đòi vượt quá ngưỡng thẩm mĩ quen thuộc của con người, chúng đã gây nên một nỗi nghi ngại về thái độ buông xả hoàn toàn của ngôn ngữ, sự “thiếu quy tắc” của chính bản thân nhà thơ, ngay cả ở lớp độc giả tiền vệ. Trong việc sử dụng cái tục như một phương tiện, một thao tác xử lý văn bản, ở khía cạnh nào đó, các nhà thơ Mở Miệng đã nỗ lực giải quyết vấn đề được nói, và sự lặp lại, sự rậm rạp của ngôn ngữ tục đến nỗi bịt kín những lối đi khác, việc “cái không thơ” soán ngôi, đội vương miện khiến sự sáng tạo thành một lực cản mới. Gương mặt và cơ thể dơ bẩn của thơ ca sẽ đưa thơ đến đâu? Nhìn rộng ra, sự tranh luận về Thanh − Tục sẽ còn kéo dài bất tận trong lịch sử văn chương. Ý thức về văn minh hình thành nên cấm kị. Và khi cấm kị thành sức mạnh cưỡng áp thì sự giải bó nó là một nhu cầu của sáng tạo. Nhưng cái tục không phải là chốn cư ngụ duy nhất của thơ ca, và trong lý tưởng về sự ứng xử bình đẳng với chất liệu và các từ ngữ, thơ ca luôn tự hiểu rằng nó phải tìm được một năng lượng sống, và năng lượng này, như những nguồn sống dân gian, sẽ giữ gìn sự sống của nó.
Song hành với thơ Dơ, thơ Rác cũng là một đặc sản của Mở Miệng với thủ pháp giễu nhại. Thao tác này gây tranh luận khi các tác giả không chỉ nhại chính mình, (như Bùi Chát thực hiện chế lại, nhại lại các bài thơ của mình ở tập Xaùo choän chong ngaøy, bằng cách làm méo mó câu chữ, đảo ngược quy tắc chính tả, dùng phương ngữ Bắc bộ và các vùng miền khác, nhằm hủy hoại cảm xúc, chủ thể thơ bị soi vào một tấm gương lồi, phình đại, méo mó) mà ứng dụng chế biến thơ từ những nguyên vật liệu có sẵn là các bài thơ nổi tiếng và được phổ biến rộng rãi, cũng như việc Duchamp lấy bức tranh Mona Lisa hay cách Andy Warhol sử dụng hình ảnh của Monroe. Một ví dụ trong tập Xin lỗi, chịu hổng nổi, Bùi Chát dùng bài thơ Chọn lựa của Văn Cao thành bài thơ diễn giải về bài thơ này Chọn lựa của Văn Cao:
Chọn lựa của Văn Cao
Giữa sự sống và sự chết 
Ông chọn sự sống 
Để bảo vệ sự sống 
Ông chọn sự chết 
Thế là hết [the end]
Nguyên liệu: Chọn của Văn Cao
Bài thơ của Văn Cao, thường được đọc như một bi kịch của lựa chọn, một khát vọng hướng thượng, một thứ mĩ học sự sống, đã nảy ra cái hài ngay trong sự nghiêm trang của nó. Thêm vào mấy chữ “thế là hết” (the end) như một bình luận của người xem khi kết thúc một vở kịch vừa hài hước vừa bi thảm, Bùi Chát chế nhạo lý tưởng hướng thượng mang nặng tính chất ý thức hệ, đang trở thành một thứ “tử ngữ” nghiêm trọng mà thơ ca có lẽ cần đào sâu chôn chặt. Bằng cách đó, tiếp tục lối kể chuyện tiếu lâm dân gian, hoặc học các thao tác của thơ tuyên truyền, thơ bờ tường, thơ Bút Tre, thơ khẩu hiệu, Bùi Chát lôi tuột những lý tưởng cao vời, những suy tư sâu xa xuống các vấn đề thực hữu, trong thứ ngôn ngữ không siêu hình, không triết lý mà mang niềm vui, tiếng cười, sự giải tỏa, cùng lúc, đem lại sự phản tỉnh, những giật mình thú vị, tất nhiên, người đọc nó phải chia sẻ một không gian văn hóa Việt Nam. Ở đây, sự chơi tự do với ngôn ngữ và nguyên liệu bằng các thao tác thêm từ, cắt câu, ghép, râu ông nọ cắm cằm bà kia tạo nên những bài thơ nổi tiếng mới của Bùi Chát, không phải để xóa bỏ bài cũ, mà là để cùng tồn tại song song, và ngôn ngữ thơ do đó, có thể gia tăng ý nghĩa. Đó là lí do khiến cho, mặc dù thao tác hết sức đơn giản và có thể nhanh chóng áp dụng với các bài thơ khác, thậm chí các nhà thơ và các không – nhà thơ khác có thể làm ra vô vàn, thừa thãi, nhảm nhí chỉ cần với trình độ đọc hiểu căn bản về ngôn ngữ, nhưng, như hành vi thêm râu của Duchamp, nó là một dấu mốc của việc tái định nghĩa cái đã có, nhất là những cái đã và đang có nguy cơ biến thành chân lý, thành thiết chế, như thiết chế của niềm tin tuổi trẻ về lý tưởng, sự lựa chọn, về thơ ca, về quá khứ, về Hồ Chí Minh,…
Thao tác nhại của Lý Đợi lại được tiến hành chủ yếu trên nguồn nguyên liệu rác là các bài thơ bài thơ Đông Âu có nội dung chính trị và bình luận xã hội mạnh mẽ qua các bản dịch của các nhà thơ, dịch giả Việt Nam như Hoàng Ngọc Biên, Diễm Châu…, các bản tin thời sự báo chí, các văn bản xã hội, Kinh Thánh để bày tỏ sự tương tác thơ một cách trực diện, nhằm giễu nhại các đối tượng chính trị. Những thông tin thời sự được lưu giữ trong văn bản thơ đã chứng tỏ chúng không phải là những thứ tiêu dùng và tiêu tùng, mà chúng tiết lộ các đặc điểm của thể chế, của hệ thống chính trị, của văn hóa, của sự phát triển hay tàn lụi của bối cảnh xã hội, văn hóa ở Việt Nam. Ví dụ, bài thơ Hiện thực xã hội chủ nghĩa của Lý Đợi có nguồn từ bài Hiện thực xã hội chủ nghĩa của Ryszard Krynicki do Hoàng Ngọc Biên dịch, đăng trên Tiền Vệ:
Hồn ma là chim bồ câu hòa bình 
Xác người là đĩa mồi nhậu 
Với chai rượu trắng nhỏ, vỏ chai màu đỏ 
Lá cờ màu trắng – cắm ngay giữa mỏ 
Đun qua xỏ lại 
Ngồi xuống đứng lên 
Bên thằng bán kem 
buổi chiều êm đềm 
dọc tường vôi vàng 
trong hẻm 47 
vài tên nghe lén 
mặt như đầu rắn 
những không thể cắn 
thế mới cay đắng
v.v
Bài Mới khai quật được bản sắc văn hóa Việt Nam là ví dụ của một thứ dân gian đương đại, lấy nguồn từ talaCu ngày 7.12.2005, kể chuyện một ông nông dân ở Thanh Hóa đã tìm thấy bản sắc văn hóa Việt Nam trong khi đang đào ao nuôi cá. Ông Cù kể: “Chúng tôi đào sâu năm mét thì gặp phải vật lạ. Khi tôi và anh em lôi được nó lên thì tôi nghi ngay đây là bản sắc văn hóa Việt Nam vì tôi thấy nó rất là kì dị….”
Tuy nhiên, khi tác giả kết luận:
“Bản sắc văn hóa Việt Nam 
Nó giống như một cái xác chết thối 
Giống như một cái gối cũ 
Như một vết thương bưng mủ 
Được lôi lên từ vũng bùn 
Đầy mùi xú ế…”
thì bài thơ bộc lộ sự dễ dàng và ít tiếng cười.
Bởi vì không có nhiều sự phân biệt về nội dung hay thi liệu của văn bản gốc và văn bản thơ của các nhà thơ, và hành vi truy nguyên gốc các bài thơ cũng là bất khả và vô nghĩa, như việc tìm lại những mẩu báo ngày, tôi nghĩ khi chuyển sang một ngôn ngữ khác, khi bị bứng khỏi môi cảnh là đời sống ở Việt Nam, những bài thơ của Lý Đợi có thể sẽ mất đi tiếng cười và ý nghĩa giễu nhại. Những bài thơ của Lý Đợi, được đọc lên bằng giọng trực tiếp của tác giả, theo âm Điện Bàn, Quảng Nam quê hương của anh mà tôi từng được nghe, trong căn phòng tại Sài Gòn dường như tự nhiên, sống động và gây cảm xúc hơn nhiều.
Về phẩm chất của giễu nhại như một thủ pháp và một ý hướng chính trị, nhiều ý kiến cho rằng Mở Miệng không đem lại cái gì mới khi thao tác tái sử dụng nguyên liệu cũ cho mục đích mới, coi kiệt tác nghệ thuật quá khứ như một thứ nguyên liệu của Duchamp và xu hướng nghệ thuật ready-made đã trở thành một thứcliché trong sáng tạo. Nhưng thơ nghĩa địa đã chết chưa? Liệu Dada đã chết? Tôi cho rằng, các trào lưu nghệ thuật sau khi kết thúc ở một bối cảnh này có thể tái sinh ở một bối cảnh khác, dung hợp những yếu tố mới. Tính tương tác với bối cảnh và khả năng liên văn bản của thơ dường như phải được hiểu rộng hơn, trong đó tính văn bản bao trùm cả các hiện tượng chính trị, văn hóa, xã hội. Cách hiểu rộng về khái niệm văn bản và tính văn bản sẽ giải thích được những câu hỏi về việc ý nghĩa hay giá trị các văn bản thơ của Mở Miệng, hay phần “sáng tạo” so với các văn bản trước đó như thế nào. Khi bản thân văn bản đã bao hàm tính liên văn bản, thì giá trị của nó không được xác định như một công trình hoàn tất về ngôn ngữ − trong đó, từ ngữ mang sứ mệnh về giá trị − mà nó như một phản ứng văn hóa triển hạn bất tận trong những ngữ cảnh cụ thể, trong không gian, trong các động thái đọc khác nhau. Tất nhiên, hiểm họa bắt chước luôn tiềm tàng trong mọi nỗ lự sáng tạo của thời hậu hiện đại. Nhất là trong không gian internet, sự bắt chước thủ pháp, bắt chước cái mới dễ dàng và cũng dễ đánh lận con đen hơn, thời gian sống của một – thủ – pháp – mới trở nên ngắn ngủi đến đáng sợ. Giữa cái cách tân và cái na ná cách tân chỉ còn là một lằn ranh mơ hồ.
Ý tưởng về thơ rác của Mở Miệng có thể được chia sẻ bởi nhiều người khác. Nhà thơ Nguyễn Đăng Thường, trước đó, đã [tự] đăng kí bản quyền việc chế tạo ra thể không-thơ tiếng Việt, trong đó, anh dùng phủ định từ như một thao tác để chế biến các bài thơ đã tồn tại thành các bài thơ mới. Phan Bá Thọ cho in Đống rác vô tậnNguyễn Quốc Chánh, chính trong một trả lời phỏng vấn Lý Đợi, đã nói:
“Thơ tôi chắc chắn thuộc truyền thống rác. Vì Việt Nam là một cái sọt của cả đông và tây. Hơn một ngàn năm chống chọi, chung chạ với các đế quốc Tàu, Tây, Nhật, Mỹ, Nga nên Việt Nam có cái số phận văn hoá bi đát kỳ lạ, nghĩa là vừa đĩ thõa vừa chính chuyên y chang cuộc đời cô Kiều… Những cuộc cãi vã giữa cũ và mới, giữa truyền thống và cách tân chẳng qua chỉ là những cuộc nội (chiến, mông, thất, trợ, bài) giữa hai cọng rác đông và tây. Trong cái môi trường văn hoá giả cầy như vầy, giải pháp của tôi là: xài và vứt thật nhanh những cọng rác vừa lượm, cả đông (tà) lẫn tây (độc).”[14]
Trong các thực hành nghệ thuật đương đại ở Việt Nam, nhiều nghệ sĩ cũng dùng chất liệu Rác và Dơ để tra vấn về cái gọi là thẩm mĩ. Một triển lãm nghệ thuật gây tranh luận gần đây với tên gọi Xà bần, trong dự ánKhoan cắt bê tông, tập hợp một số họa sĩ, nghệ sĩ quanh xưởng vẽ của Ngô Lực với ý hướng về một không gian tương tác “không giám tuyển, không tuyên ngôn”, trưng bày những thứ rác rưởi đối trọng với xu hướng thực hành nghệ thuật “từ bên trên”, với không gian đậm chất trí thức xa lạ của các trung tâm văn hóa, các gallery sang trọng, một nỗ lực giải trung tâm trong hành vi và không gian nghệ thuật cũng cùng ý hướng này. Hiệu ứng thẩm mĩ của họ: không đem đến cảm giác về cái đẹp, cái thẩm mĩ, và cũng có nghĩa, họ muốn giải trung tâm khái niệm “thẩm mĩ” đang ngự trị và thành định kiến với người xem Việt Nam. Điều này, ít nhất là dấu hiệu của một sự vận động không chịu chấp nhận những áp chế từ bên trên, dù là sự áp chế của quyền lực tri thức. Nhưng câu hỏi về ý nghĩa [thẩm mĩ] và cái đẹp về mặt thị giác, cũng như cá tính của nghệ sĩ, sự ám ảnh của chủ đề, mối quan hệ của tính chính trị và nghệ thuật của thơ rác, nghệ thuật rác vẫn được đặt ra và điều này liên quan nhiều hơn tới tài năng và độ kĩ lưỡng trong thao tác nghề nghiệp của các nghệ sĩ.

5/
Tiến trình phân tích của tôi về các thực hành thơ của Mở Miệng, từ tuyên ngôn đến thực hành thơ Rác, thơ Dơ, thơ Nghĩa Địa được tôi hiểu như một nỗ lực xây dựng lại hình ảnh về Mở Miệng như một nhóm thơ và vấn đề trung tâm cần tra vấn ở hiện tượng thơ này chính là chiến lược tồn tại của nó trong thực hành thơ, chứ không phải như một nhóm hoạt động văn hóa xã hội bất đồng chính kiến ở Việt Nam mà nhà cầm quyền đã dán nhãn hiệu “những kẻ phản động”. Vậy đâu là đóng góp quan trọng nhất, mang thi tính hơn cả từ các thực hành thơ này? Có thể bình luận như thế nào về tính cách tân và cách mạng của các thực hành thơ của Mở Miệng?
Có một mảng tác phẩm khác của Mở Miệng thường gây chú ý là những tác phẩm mang nội dung bình luận xã hội – chính trị trực diện, một dạng taboo vào loại nguy hiểm trong xã hội Việt Nam. Bày tỏ phản ứng cá nhân trước thời sự xã hội đang biến động, không kì vọng vào sự bất tử của thơ ca, cũng không nỗ lực xây dựng tên tuổi cá nhân trong ngôn từ với những chủ đề “vĩnh viễn”, mảng thơ ca này của Mở Miệng đã tự định vị nó trong dòng thơ bất đồng chính kiến ở Việt Nam. Hàng loạt các bài thơ của Bùi Chát, Lý Đợi, Khúc Duy xoay quanh sự kiện đọc thơ bị hủy ở Viện Goethe năm 2005, xoay quanh những sự việc bị công an tra khảo, thậm chí xoay quanh những bức thư trao đổi giữa các nhà thơ, bàn luận về chế độ… Lý Đợi bộc lộ mạnh mẽ phẩm chất của một nhà báo xã hội và văn hóa với vệt “thơ tiêu dùng” mang nội dung bình luận xã hội, các vấn đề thời sự. Với tập Bài thơ một vần, xoay quanh “một vần” là từ khóa cộng sản, Bùi Chát bộc lộ tham vọng lật đổ các slogan xã hộicác ảo tưởng được đóng đinh trong ngôn ngữ ý thức hệ. Chẳng hạn một đoạn thơ được làm bởi hàng loạt các câu đề nghị, trong đó chứa những nghịch lý của xã hội và thân phận con người:
- Các ông cho chúng tôi được biết sự thật nhé! 
- Các ông cho chúng tôi được ngủ với vợ/chồng chúng tôi nhé! 
- Các ông cho chúng tôi được thở nhé! 
- Các ông cho chúng tôi được bình đẳng trước pháp luật nhé! 
- Các ông cho chúng tôi được suy nghĩ khác với các ông nhé! 
-Các ông cho chúng tôi được chống tham nhũng nhé! 
-Các ông cho chúng tôi được tự do ngôn luận nhé! 
-Các ông cho chúng tôi lập hội vỉa hè nhé! 
- Các ông cho chúng tôi được viết bài thơ này nhé! 
(Thói)
Theo một góc nhìn cá nhân, tôi cho rằng các bài thơ với “nội dung chính trị trực diện” kiểu này dường như không còn chia sẻ con đường tìm tòi mà Mở Miệng đã thực hành với thơ Rác, thơ Dơ, và nhiều khi chúng trở thành một dạng thức phản – tuyên truyền mang tính chất tuyên truyền, bởi mang đặc điểm kích động, tập họp có tính chất thời điểm của truyền thông, xoay quanh các sự kiện chính trị nóng hổi. Những sự diễn giải về ám chỉ chính trị có thể gây hiểu lầm, hoặc bị lợi dụng, và do đó, gây nguy hiểm − những phản ứng của an ninh văn hóa đối với Mở Miệng là sự suy diễn và trấn áp về nội dung chính trị, cũng như sự đề phòng độc tài của nhà nước về những “hành vi chính trị đội lốt văn chương”. Chịu hệ quả ngao ngán từ việc bội thực thứ văn chương [phục vụ] chính trị trong quá khứ, cụm từ “thơ chính trị” ở Việt Nam cho đến hôm nay vẫn thường lệ thuộc vào một từ “chính trị” được cắt nghĩa rất hẹp hòi, thấm đẫm nguyên lý ý thức hệ. Khi văn chương như một bình luận xã hội đã bị nghi ngờ trên phạm vi toàn thế giới vào thời điểm bùng phát của thuyết hậu cấu trúc, trong đó, mọi diễn giải chỉ còn là cuộc chơi của ngôn ngữ, khi văn chương Việt Nam vẫn phải nỗ lực thoát ra khỏi từ trường ý thức hệ, phủ quyết việc phục vụ một ý thức hệ của nhà nước để tham dự vào sự sáng tạo tính cá nhân tiền phong thì sự nở rộ các bài thơ mang nội dung chính trị trực tiếp của Mở Miệng sau này dường như làm giảm thiểu, không phải chỉ là phẩm chất mĩ học, mà còn là, hay chính là “tính chính trị” đầy sức mạnh của thơ ca mà họ đã tạo ra giai đoạn đầu.
Từ góc nhìn của mình, tôi cho rằng thành công trước hết của Mở Miệng là sự tấn công dữ dội, triệt để vào chất liệu, một cuộc tấn công đặt ra những câu hỏi quan trọng về thân phận của ngôn ngữ − cũng là thân phận của chính con người − trong mối quan hệ khó tách rời với môi cảnh văn hóa, chính trị của thơ. Cũng chính ở cuộc tấn công này, sự hiện diện của Mở Miệng trở thành một dạng văn bản rộng hơn các văn bản ngôn từ, vừa là hệ quả vừa phản ánh văn cảnh đặc thù của xã hội Việt Nam, một không gian xã hội nóng bỏng và căng thẳng cao độ với chính sách truyền thông và văn hóa hà khắc, đang ngầm ẩn những bức bối, môi cảnh cho những phá phách, hỗn loạn, hư vô. Thái độ dám hủy thi tính của mình để đổi lấy một hành vi mới, tạo ra một ý niệm mới về việc làm thơ với tôi là một biểu hiện “thơ ca” hơn hết của hiện tượng thơ này. Để trở thành những người cách mạng, thậm chí, các nhà thơ phải hi sinh cả những tiềm năng bứt phá của nội tâm cá nhân cho một ý hướng tiên phong và có thể kích thích các thực hành tập thể. Có thể nói, chính sự giải phóng về ngôn ngữ và chất liệu khi va chạm quyết liệt với một trật tự đã cố định của quan niệm thơ và ngôn ngữ thơ, chứ không phải những phát ngôn hay những bình luận xã hội làm nên bản chất chính trị độc đáo, sự phản kháng có tính mĩ học (hay mĩ học có tính chất phản kháng) của Mở Miệng và bản chất chính trị này lại đồng thời làm nên, hay là điều kiện cho tính tiền phong của các thực hành này.
Trong nỗ lực giải phóng của nghệ thuật Việt Nam đương đại, Mở Miệng, dù tôi không muốn nhìn họ như một sự đại diện cho một thế hệ nào, bởi sẽ phải tính đến những thế hệ khác nhau, có thể coi là tiếng nói mạnh mẽ đòi phá vỡ những thành trì kiên cố của sự chuyên chế, khi niềm tin vào chế độ, sự tự do, sự trông đợi vào các ý thức hệ chính thống đang có đang tan rã. Trong nỗ lực nhập lưu với thế giới, cái đập ngăn khủng khiếp không chỉ là cuộc kiếm tìm của ngôn ngữ thơ ca, mà còn là đập ngăn về ý thức hệ, tư tưởng. Cái “bức tường Berlin”, hữu hình là chế độ kiểm duyệt, vô hình là ý thức làm thơ – và cùng với nó – ý thức đọc thơ lừng lững ngự trị, kiên cố, những thiết chế bảo toàn chân lý trong ngôn ngữ mang nặng tính chất ý thức hệ. Mở Miệng khiến chúng ta, không phải lâm vào cái hỗn loạn vô chính phủ, mà nhận thức về tình trạng hỗn loạn của không gian sống bọc quanh ta, nơi mọi cái đang vùng vẫy đòi xáo tung, bị nhạo báng, bị thách thức, đòi làm xô lệch những ý niệm và giá trị đã ổn định, hoặc tưởng là ổn định để mở ra những khả thể của không gian chơi trong văn học. Sự từ chối trong nghệ thuật nói chung bao giờ cũng là một phẩm tính của sáng tạo, nhất là khi quá khứ trở nên bất tín, không phân minh và bề bộn, khi hiện tại cũng bề bộn và nóng bỏng. Dù ảo tưởng về sự đột phá, thay máu hoàn toàn là một ảo tưởng lớn và dù giấc mơ lập thuyết thường bất thành và vỡ vụn ở Việt Nam, dù những giấc mơ đổi thay được cổ vũ có thể biến thành một quyền lực mới nhưng chắc chắn đó luôn là những giấc mơ quan trọng.
Nghệ thuật có thể trở thành một tác nhân của vận động xã hội hay không? Sự biến động chóng mặt của bối cảnh kinh tế, chính trị xã hội thúc đẩy nghệ thuật và người nghệ sĩ vào vai trò của kẻ tham dự. Trong các trào lưu tiền phong và hậu hiện đại, vấn đề của nghệ thuật được đẩy xa hơn những khoái cảm mĩ học “thuần túy” của nghệ thuật tự thân và trở thành một nhân tố tác động, gây hiệu ứng với cuộc sống của con người, như Arthur Rimbaud đã kêu gọi “thay đổi cuộc đời”. Trong bối cảnh Việt Nam, một ý thức văn hóa mới dường như không thể tách rời với ý thức về bản chất chính trị của văn hóa. Có lẽ vì tính chất vô ích của loại hình nghề nghiệp này, những câu hỏi về vị trí trách nhiệm của người viết với xã hội và bối cảnh vẫn cứ được đặt ra, nhiều nghịch lý hài hước khó trốn thoát. Tuy nhiên, ý thức về bản chất chính trị của văn hóa dường như không thể đồng nhất với “ý thức chính trị” với nghĩa sự nhận thức đúng/sai về các ý thức hệ, về hệ thống chính sách của một quốc gia. Khi chỉ bận tâm vào sự đúng sai mang tính ý thức hệ, khi không gắn với những trải nghiệm và thực hành cá nhân, ý thức này có thể bị biến thái thành một thứ hàng giả mạo, một dạng hàng nhái nhằm thu hút khách nước ngoài. Hơn nữa, sức mạnh lật đổ của thơ ca dường không bao giờ là cái dễ thấy, dễ miêu tả bằng vài ba khẩu hiệu, và ngay cả khi nhà thơ tự đem mình ra như tang chứng của đời sống, của sự áp chế, họ không sở hữu quyền lực thực sự. Dường như nhà thơ/nghệ sĩ Việt Nam đang mắc kẹt giữa tình thế lựa chọn, hoặc là thoát khỏi bối cảnh, trở thành một công dân toàn cầu, hoặc vị nghệ thuật vị cá nhânhoặc là gắn chặt với bối cảnh thì phải vừa chính trị, mà lại vừa cách tân? Chỗ mắc mớ dường như cũng chính là điểm giải thoát: một cách cắt nghĩa về “chính trị” không khuôn hẹp vào các nội dung chính trị cụ thể. Không bàn luận xa hơn về khả năng dung hòa hay sự xung đột của công dụng xã hội và ý nghĩa mĩ học của thơ ca, tôi cho rằng sức mạnh lật đổ của thơ ca, của nghệ thuật không thể chỉ quy giảm thành tiếng nói của những kẻ chống đối, và thơ chính trị chỉ tồn tại, không phải như một văn bản tuyên truyền, khi nó đến từ nhu cầu lên tiếng của cá nhân. Điều kiện ngoài lề, dù là lựa chọn có ý thức hay tình cờ, có thể nuôi dưỡng một thứ ngữ pháp giải phóng của thơ ca, nhưng nó chỉ thực sự mạnh mẽ với năng lượng của những kẻ lặn ngụp trong cuộc sống của ngôn ngữ để tạo nên bản sắc. Và bản thân sự bất tuân dường như không cần tới những phát ngôn biện hộ hay diễn giải.


[1] Tác giả cảm ơn nhà nghiên cứu Trần Ngọc Hiếu, nhà thơ – dịch giả Lê Đình Nhất-Lang, dịch giả Trần Thiện Huy và Phùng Hà Thanh đã có những trao đổi, góp ý quý báu cho bài viết này.
[2] Ngày 25 tháng 4 năm 2011, trong bối cảnh Hội Chợ Sách Quốc Tế lần thứ 37, Bùi Chát, với tư cách nhà sáng lập nhà xuất bản Giấy Vụn, đã nhận giải thưởng Tự Do Xuất Bản, trao tặng bởi Hiệp Hội Nhà Xuất Bản Quốc Tế (IPA), một hội đoàn ra đời năm 1896 với sứ mệnh bảo vệ nhân quyền và tác quyền, tranh đấu chống kiểm duyệt, khuyến khích mọi sinh hoạt đọc sách và tôn vinh tinh thần tự do xuất bản.
[3] Địa chỉ www.evan.com, trực thuộc một cơ quan báo chí quốc gia là báo điện tử Vnexpress tại Việt Nam.
[4] Các bài báo Nhóm Mở Miệng với thứ rác rưởi được gọi là thơ của Trúc Linh trên trang 3, báo Công An Thành Phố ngày 22.12.2005 và bài Có một nhánh kênh đen trong dòng văn học Việt Nam của Hồng Cương, Báo Công An Nhân Dân TPHCM 18/03/2006. Xem bài viết của Lý Đợi – Bốn lý do để xem bài viết của Trúc Linh là không đáng trả lời – Talawas 26.12.2005. Lưu trữ tại: http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=6120&rb=0101
[5] Có thể kể tới bài báo trên BBC Việt Nam: Vietnam’s rude poetry delights intelligentsia của Nga Phạm (2004), bài của Jean-Claude Pomonti Thư từ thành phố Hồ Chí Minh: Thơ không biên giới trên Focus Asie Du Sud-est (số 2, tháng 2 năm 2006) (Bản dịch của Phan Bình), Mở Miệng & Hip Hop của Khánh Hòa tại tạp chí Nhà, tạp chí theo tay khách hàng của Hãng hàng không EVA AIR số tháng 1-2, năm 2005, San Jose, USA vàOpen Mouth [Mo Mieng]:Begins a new history in Vietnamese Literature của Đỗ Lê Anh Đào cũng trên Tạp chí Nhà nói trên, số 5&6-2005.
[6] Inrasara – Song thoại với cái mới, nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2008. Trang 87.
[7] Xin xem các bài viết: Cuộc nổi loạn của ngôn từ trong thơ đương đại, ghi nhận qua một số hiện tượng, Talawas 12.5.2005 – bài viết tham dự hội thảo Văn học sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy tại khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Góp phần nhận diện thơ trẻ những năm đầu thế kỉ (08.2005);Nhà thơ – bạn đọc trong đời sống văn học hôm nay (11.2005); Văn trẻ 2005 – Đôi điều suy nghĩ ; một tiểu luận mang tính đối thoại với các cuộc tranh luận về Mở Miệng trên talawas thời điểm đó Góp thêm lời bàn về một dòng thơ mới (bút danh An Vân) (Talawas 05.04.2006); Viết thơ là gì – Tiếp cận một số thực hành thơ ca hiện nay từ hành động viết (Tham luận tại hội thảo Thơ Việt Nam đương đại, Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn TP Hồ Chí Minh, 2008).
[8] Xem các bài viết Về khoan cắt bê tông (Talawas 11.11.2005), Lại khoan cắt bê tông (Talawas 23.12.2005); “Ta, một công dân ô nhục bậc nhất, một thánh nhân nát rượu…” — Thơ và Lề trong xã hội Việt Nam đương đại, bản dịch Việt trên Tiền Vệ từ nguyên tác Pháp văn «Moi, citoyen ignominieux, génie alcoolique…» — Poésie et marginalité dans le Vietnam contemporain, đăng trên La Revue des Ressources, ngày 28 tháng 5 năm 2007. Đoàn Cầm Thi cũng có bài nói chuyện: Văn học đương đại Việt Nam: sự xuất hiện một phong trào thơ mới tại Thành phố Hồ Chí Minh tại EHESS (Học viện cao học Khoa học xã hội), 54 bd Raspail, Paris, ngày 8 tháng 2 năm 2006, trong khuôn khổ Séminaire “D’une histoire des Etats-nations à une histoire des identités plurielles au Vietnam, Laos et Cambodge contemporains” bản tiếng Việt: Một nền thơ mới Việt Nam: Sự xuất hiện một dòng thơ mới tại Sài GònTiền Vệ 15.2.2006, và sau đó là bài viếtĐoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kếtTiền Vệ, 22.2.2006.
[9]Xem bài viết của Như Huy: Tản mạn đôi chút về bài thơ Vô Địch của Bùi Chát (Talawas 21.1.2004), Vàinhận định về nhóm Mở Miệng, Talawas 2005, bài viết nhân chương trình đọc thơ của nhóm Mở Miệng tại viện Goethe – Hà Nội [được ấn định vào lúc 18h30 thứ 6 ngày 17/6/2005] sau bị hủy. Như Huy có tham gia một số tập nhóm, cũng là một trong những người chia sẻ các thực hành thơ và nghệ thuật của các thành viên Mở Miệng trong giai đoạn đầu.
[10] Xem các bài viết của Phan Nhiên Hạo: Thơ trẻ không nhất thiết phải là “làn gió thối” Talawas 29.12.2003, Nhà văn thế hệ sau chiến tranh và ông vua cởi truồng,Talawas 24.02.2004; Mới – Cũ trong thơ và Hậu hiện đại, Talawas 21.05.2004, Ba (khẩu) phần, Talawas 03.06.2004; Trao đổi với Đoàn Cầm Thi về… rác, Talawas 21.2.2006 v.v.
[11] Chữ dùng của nhà thơ Hoàng Hưng cho một xu hướng cách tân thơ chống lại xu hướng dòng nghĩa vốn áp chế trong thơ Việt truyền thống. Xin xem bài viết Ngoảnh lại 15 năm, Talawas 12.06.2004. Lưu trữ tại: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=2170&rb=0101:….

[12] nguyễn quốc chánh – nguyễn quốc chánh, trịnh cung, phan nhiên hạo, chân phương, nguyễn viện, trần vũ :văn chương hôm nay nhìn từ ngoài lề - bàn tròn văn chương trên trang litviet.com, trang web của nhà thơ phan nhiên hạo.

[13] Nguyễn Hưng Quốc – Và những thứ con khác – Tienve.org
[14] Lý Đợi phỏng vấn Nguyễn Quốc Chánh – Thơ là (thờ ơ) khoét cho cái nhục (nhã, dục, vương) bốc mùi – Talawas 26.7.2004

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tư liệu Văn học:

Toàn Văn Luận Văn Nhã Thuyên: "Vị Trí Của Kẻ Bên Lề: Thực Hành Thơ Của Nhóm Mở Miệng Từ Góc Nhìn Văn Hóa"

 Trong suốt quá trình diễn tiến của sự kiện “Luận Văn Nhã Thuyên”, bắt đầu từ giữa năm 2013 cho đến giờ và có khả năng rất lớn sẽ tiếp tục trong tương lai, nhiều sự việc và văn kiện liên quan được phơi bày trên các phương tiện truyền thông. Duy có một trong những văn kiện quan trọng nhất, đúng ra là văn kiện quan trọng nhất, vẫn chưa được công khai hóa.
Trong quan điểm của Kệ Sách eBook (http://kesach.org), bản luận văn Vị Trí Của Kẻ Bên Lề: Thực Hành Thơ Của Nhóm Mở Miệng Từ Góc Nhìn Văn Hóa đã thuộc về công chúng (public domain) từ lâu. Trước khi cái thế lực đen tối sau lưng biến cố Luận Văn Nhã Thuyên chỉa mũi dùi vào tác giả, thạc sĩ Đõ Thị Thoan – tức Nhã Thuyên, bản in luận văn này đã được phổ biến trong một hay nhiều hệ thống thư viện trong nước như trong hình dưới đây. Sau khi nổ ra sự kiện luận văn, hầu như không ai còn có thể tìm được luận văn này, và điều hợp lý nhất để giải thích hiện tượng này là văn bản đã bị tịch thu và cấm lưu hành công khai.




Kệ Sách eBook quyết định công bố toàn bộ bản in điện tử luận văn Vị Trí Của Kẻ Bên Lề: Thực Hành Thơ Của Nhóm Mở Miệng Từ Góc Nhìn Văn Hóa bởi vì sự cần thiết của văn bản cho tất cả những ai quan tâm đến sự cố “Luận Văn Nhã Thuyên” và những nội hàm vô cùng quan trọng của nó không những cho ngành giáo dục trong nước mà còn, ở một bình diện cao/rộng hơn, phát triển tư tưởng và văn hóa của nhân dân cả nước.
Luận văn Vị Trí Của Kẻ Bên Lề: Thực Hành Thơ Của Nhóm Mở Miệng Từ Góc Nhìn Văn Hóa của thạc sĩ Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên) có thể đọc trực tiếp hoặc tải xuống máy vi tính, tablet, điện thoại thông minh ở link dưới đây:


Kệ Sách eBook dành quyền bảo vệ nguồn của văn bản điện tử này. Xin vui lòng đề cập Kệ Sách eBook khi sử dụng văn bản  Vị Trí Của Kẻ Bên Lề: Thực Hành Thơ Của Nhóm Mở Miệng Từ Góc Nhìn Văn Hóa dưới mọi hình thức.
Ngoài ra, Kệ Sách xin giới thiệu toàn bộ đường dẫn đến tiểu luận “Những Tiếng Nói Ngầm” của Nhã Thuyên trên mạng Da Màu để bạn đọc có thêm cơ hội tham khảo các tư liệu có liên hệ mật thiết đến bản luận văn đầy sóng gió của thạc sĩ Đỗ Thị Thoan:


Kệ Sách eBook
http://kesach.org
- See more at: http://kesach.org/#sthash.akcfvBoc.dpuf

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hồi ký Yevgeny Yevtushenko


images
Nhà thơ E. Evtushenko
  1. Cuốn sách có những trang bị xé
 Hồi trẻ có lần người bạn của tôi là họa sĩ Oleg Tselkov tình cờ tìm thấy ở một hố rác tại vùng quê Tushin của mình cuốn tiểu thuyết “Tội ác và sự trừng phạt” đã được đọc đến sờn rách với những trang bị xé hay đơn giản là bị mất. Anh bạn họa sĩ coi đó là món quà của số phận nên gần một năm đi đâu anh cũng cứ kè kè cuốn tiểu thuyết bên mình, khi thì trong metro, khi thì ở một quán rượu nhỏ, còn có khi lại là một buổi sáng trên chiếc đi văng võng xuống vì tình yêu của một cô bạn gái qua đường thuộc về bộ phận loài người chưa từng bao giờ nghe nói đến Dostoevsky.
Nhà họa sĩ đoan chắc với tôi rằng đọc cuốn sách có những trang bị xé thú vị hơn nhiều, bởi vì những chỗ trống buộc mình phải ức đoán.
Cứ coi như là bạn tìm thấy cuốn sách này của tôi trong hố rác. Nó cũng giống như cuốn tiểu thuyết có những trang bị mất hay thậm chí có những chương bị lược bỏ. Nhưng chúng không phải bị xé – chúng chỉ đơn giản là chưa được viết ra.
Suốt cả cuộc đời, với tính chính xác của một chiếc máy ghi địa chấn, tôi đã ráo riết ghi lại tất cả những chuyển động dưới lòng đất và những cơn động đất của thế kỷ hai mươi, đôi khi vì thế mà tôi đã không ghi lại được nhịp đập trái tim mình.
Người ta gọi tôi là kẻ coi mình là trung tâm, thực ra tôi chỉ là kẻ đứng ở vòng ngoài. Nhưng những gì tôi viết – ngay cả là không phải về mình – cũng chính là về tôi. Còn những gì tôi viết dường như chỉ về mình thì đôi khi lại còn lớn hơn chỉ mình tôi. Cuốn sách này là một điện tâm đồ kép – của tôi và của thế kỷ hai mươi.
Khi hai lăm tuổi, tôi đã chia tay với một phụ nữ hai mươi tuổi tài năng hiếm có mà tôi yêu nhất trên đời. Dịp đó tôi đã viết ra, đúng hơn là đã thở hắt ra, bài thơ “Chuyện xảy ra với anh”. Tôi không gán cho bài thơ đó một “ý nghĩa xã hội” nào, chỉ coi nó là một thứ rất riêng tư, được viết ra chỉ để cho nàng và cho tôi, mong nó giúp được chút gì cho chúng tôi. Bài thơ đã không giúp gì được, mọi điều đã muộn. Nhưng khi nó vừa được in ra nhiều bạn trẻ đã chép chuyền tay nhau, dường như tôi viết nó là về họ, vì họ và cho họ.
Tôi đã vĩnh viễn chia tay người yêu của mình, dù vẫn còn làm bạn với nhau lâu, ngay khi tôi đã có vợ và nàng đã có chồng, cho đến khi một bàn tay nào đó – mong rằng đấy không phải là tay nàng – đã báo thù hèn hạ bằng cách xóa hết tất cả những lời đề tặng tôi trong các bài thơ nàng viết.
Nhưng không ai có thể xóa được những lời đề tặng nàng trong các bài thơ của tôi. Thật hết sức vô nghĩa là sự ghen tuông hằn học đối với quá khứ. Không thể làm lại được gì ở đấy hết.
Còn bài thơ “Chuyện xảy ra với anh” thì vẫn sống, bởi điều nói trong đó vẫn lại tiếp tục xảy ra, không chỉ là với tôi. Thoạt đầu nó bất ngờ vang lên say đắm bằng tiếng Đức được dịch ra ở Cộng hòa dân chủ Đức nhưng không phải để nói về sự ngăn cách của hai người, mà của cả một dân tộc ở hai bên bức tường Berlin.
Mấy năm sau bài thơ được phổ nhạc trong phim “Sự mỉa mai của số phận” của Ryazanov và được hát với đàn ghi ta trong các khu sinh viên, công nhân, bên những đống lửa của dân du lịch. Sau nữa, bài thơ dường như là tiếng lòng thầm kín nhất này của tôi đã vượt ra ngoài ý muốn của tác giả bắt đầu trở thành bài thơ mang tâm trạng công dân, khi những con người hết sức gần gũi về tinh thần lại bị phân cách về địa lý. Tại các buổi đọc thơ những người đồng hương cũ của tôi bây giờ tản mát khắp thế giới – ở Israel, Mỹ, Australia, Đức – rất hay đề nghị tôi đọc nó.
Giờ đây, khi tôi bước vào cái gọi là “nước ngoài kề bên”, nơi biết bao người Nga đột nhiên bị rơi vào tình cảnh buộc thành người “ngoại quốc”, thì những vần thơ của tôi viết ra khi tôi không thể ngờ là sẽ có lúc Liên Xô biến mất, vang lên đặc biệt cay đắng.
 Ôi, ai người,
                   hãy đến,
                             hãy phá vỡ
sự thống nhất của những người xa lạ
và sự biệt lập
                   của những tâm hồn gần gũi!

Như vậy nhật ký cá nhân của tôi đôi khi bất giác biến thành nhật ký của thế kỷ. Bất giác, nhưng không phải ngẫu nhiên.
Những trang sách bị xé ra hay chưa được viết ra đôi khi dính liền.

2. Không với chó nhà, chẳng với chó rừng

Maldelshtam viết: “Thế kỷ chó sói nhảy bổ vào vai tôi”. Thế kỷ này đã bóp chết không thương tiếc Maldelshtam, cùng nhiều người khác. Nhưng khi đó thế kỷ hai mươi đang là con chó săn trẻ trung, mạnh khỏe. May cho thế hệ chúng tôi, khi chúng tôi qua tuổi nhỏ trưởng thành lên thì thế kỷ chó sói đã già đi, hàm răng của nó đã bắt đầu lung lay. Nó thỉnh thoảng vẫn nhảy bổ vào chúng tôi, nhưng cú ngoạm đã không còn như xưa. Chúng tôi cũng còn may là thế kỷ hiện ra không chỉ dưới dạng sói đực đi săn, mà còn dưới dạng sói cái cho sữa. Thế hệ những năm sáu mươi (thế kỷ hai mươi – ND) – đó là những cừu non của những khu rừng rậm xã hội chủ nghĩa.
Tôi viết không phải bằng mực, mà bằng sữa của con sói cái đã cứu tôi khỏi nanh vuốt của bầy chó núi. Không phải ngẫu nhiên tôi bị đuổi khỏi trường học với hạnh kiểm xấu – với “tấm căn cước sói”. Không phải ngẫu nhiên hai giống chó thuộc loại người căm thù tôi từ trong trứng, nhưng vẫn đồng lòng với tôi và với nhau – chó nhà và chó rừng (những kẻ phù phiếm chuyên nghiệp và những người “yêu nước” chuyên nghiệp) luôn nhảy bổ vào tôi.
Tôi vui mừng là với “tấm căn cước sói” như thế tôi đã bị “đuổi” khỏi tất cả các nơi – tôi không thuộc một đảng phái nào, một băng nhóm nào, một giới thời thượng kiêu căng nào của chúng ta, nó chỉ làm ra vẻ độc lập chứ thực chất là chao đảo giữa các đảng phái và băng nhóm. Tôi không nhập hội với chó nhà, mà cũng không hùa vào với chó rừng.
“Tấm căn cước sói” – đấy là số phận của tôi.
3. Tôi là nhà thơ xô viết cuối cùng

Brodsky là nhà thơ hoàn toàn phi xô viết đầu tiên trong số người sinh vào thời xô viết. Còn tôi là nhà thơ xô viết cuối cùng. Nhưng chính quyền xô viết đã làm đủ cách để đánh bật “chất xô viết” đó ra khỏi tôi.
Tôi thuộc lớp người những năm sáu mươi (thế kỷ XX – ND) bắt đầu đấu tranh với bóng ma Stalin nhờ bóng ma Lenin. Nhưng làm sao hồi đó chúng tôi biết được, khui được các tài liệu lưu trữ về một Lenin khác, chưa từng biết đến, được bảo quản rất chặt chẽ? Làm sao chúng tôi có thể đọc được “Quần đảo GULAK” trước khi nó được viết ra? Chúng tôi không biết rằng dưới sắc lệnh về việc xây dựng Solovkov – trại tập trung đầu tiên trước thời Hitler – là chữ ký của Lenin, rằng chính ông ta đã ban ra những mệnh lệnh tàn bạo đàn áp nông dân, chúng tôi không biết thái độ không khoan nhượng của ông ta đối với giới trí thức khác chính kiến. Nhiều thư từ của ông gửi Dzerzhinsky, Stalin, những công văn khẩn, những chỉ thị, đã bị giấu kín. Đối với tôi và nhiều người khác, từ bỏ sự lý tưởng hóa Lenin là một điều đau khổ. Khi quan niệm cách mạng như là “sự báo thù cho người anh” chính Lenin cũng không nhận biết là ông ta đã bắt đầu báo thù cả một dân tộc, chứ không chỉ chế độ Nga hoàng đã tử hình người anh của mình. Bi kịch của Lenin là ở chỗ Stalin, kẻ mà đến cuối đời ông ta hết sức căm thù, lại đã thực sự trở thành người học trò trung thành của ông ta.
Nhưng tất cả những điều trên phải đến thập niên tám mươi, chứ không phải ở thập niên sáu mươi, tôi mới hiểu ra. Tôi yêu lá cờ đỏ mà đứng dưới nó chiến đấu chống lại chủ nghĩa phát xít không chỉ có Vasili Terkin, mà còn có Viktor Nekrasov, Lev Kobelev, Bulat Okudzhava. Tôi yêu không phải một nước Liên Xô trên danh pháp, mà một nước Liên Xô của cá nhân tôi, nơi tôi có rất nhiều bạn bè ở tất cả các nước cộng hòa. Tôi thích và đến bây giờ vẫn thích bài “Quốc tế ca” – không phải như một bài đảng ca, mà như một bài hát thường.
Nhưng trong điệp khúc “Những người xưa chỉ tay không – Mai đây tất cả sẽ trong tay mình” có một sự mập mờ nguy hiểm. Nếu người thực sự tay trắng mà trở nên có tất cả thì đó là điều đáng ghê sợ.
Đấy là điều đã xảy ra sau cách mạng tháng Mười, và bất hạnh thay, cũng đã xảy ra ngay cả sau những biến cố tháng 8/1991.

4. Cạo râu trước tấm gương của Blok 

Người ta kể rằng khi Aleksandr Blok trở lại điền trang của mình vào lúc nổ ra cuộc cách mạng mà ông đã tiên báo một cách kinh hoàng thì ông chỉ thấy quang cảnh đổ nát và tro tàn. Chợt trong đống hoang tàn có một vật gì lấp lánh. Đó là những mảnh vỡ từ tấm gương của gia đình ông.
Blok chọn lấy mảnh gương vỡ to nhất và suốt ngày cầm nó trong tay đi quanh đống tro tàn, dường như ông hy vọng mảnh gương còn nguyên này có giấu trong đáy sâu của nó dù chỉ là một mẩu lịch sử.
Những người lính hồng quân tóc tai rũ rượi như bước ra từ bản trường ca “Mười hai người” của ông lệnh cho nhà thơ vĩ đại đứng lại và cầm mảnh gương giơ ra trước mặt họ khi họ cạo râu.
Các vị tông đồ của cách mạng với những băng đạn súng máy vắt chéo trước ngực không thích thú lắm khi thấy mảnh gương bị ám khói không soi tỏ vẻ mặt cách mạng đằng đằng sát khí của mình, họ bực bội chửi rủa, rồi lau sạch mảnh gương bằng những bàn tay có hình xăm và mép áo lót thủy thủ. Còn nhà thơ vẫn đứng yên trong vai trò Người Giữ Gương.
Văn học Nga là gì?
Đó là tấm gương bị các cuộc chiến tranh và cách mạng đập vỡ nhưng các mảnh vỡ của nó vẫn lại lớn lên, giữ được trong bề sâu tất cả những gì đã phản chiếu trong nó.
Lenin từng gọi Tolstoy là “tấm gương phản chiếu cuộc cách mạng Nga”, định nghĩa này lập tức đã giới hạn nhà văn đến phiến diện què quặt. Văn học – đó là tấm gương phản chiếu cả cách mạng lẫn phản cách mạng.
Sâu trong tấm gương này có hàng đống những chú hươu bị giới quý tộc Sa hoàng giết chết, giới này thậm chí không thể ngờ rằng chỉ ít lâu sau chính họ lại bị các nông nô của mình giết chết hàng đống như vậy. Trong tấm gương này nước Nga hiện ra khi thì với bộ mặt bạc nhược thiếu sức sống của Nikolai đệ Nhị, khi thì với cặp mắt ranh mãnh điên cuồng của Rasputin, khi thì với điệu bộ luật sư của Kerensky, khi thì trong mớ tóc giả hóa trang của Lenin, khi thì với chiếc tẩu của Stalin mà từ đó khói của những sinh mạng người bốc ra còn nhiều hơn từ ống khói của những lò hơi Osventsim, khi thì với cái mũi hình củ khoai tây nhanh trí của Khrushchev, khi thì với đôi mắt như đèn từ của Gorbachev nhưng chẳng bao lâu thì cháy, khi thì với cái cằm như được tạc từ đá Ural của Yeltsyn, nó đôi khi chẳng hiểu sao dường như thiếu sinh khí, nói theo từ chuyên môn của ngành quyền Anh.
Người Nga có câu tục ngữ: “Mặt mày xấu xí đừng đổ tại gương”. Nhưng lịch sử là một phụ nữ hiếm có, không thích soi gương. Nó cứ ra sức chùi gương làm như có thể chỉnh sửa được khuôn mặt mình.
Chính thế kỷ hai mươi đã phá giá tất cả các sách giáo khoa lịch sử của thế kỷ hai mươi.
Tất cả đều tiên đoán nhầm – cả Lenin người cho rằng chủ nghĩa cộng sản là tất yếu, cả Trotsky với luận điểm của ông về cách mạng thường trực, cả Stalin với tư tưởng thực hiện chủ nghĩa Marx kiểu Arakcheev trong một nước riêng rẽ, cả Khrushchev với lời hứa hẹn đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản, cả Solzhenitsyn người đã buồn bã báo trước việc những người cộng sản chiếm lĩnh thế giới, cả Gorbachev người cố công một cách tuyệt vọng cứu vớt hệ thống mang bản chất phản tự do bằng sự tự do hóa, cả Yeltsyn người hứa hẹn tiệt trừ tất cả mọi thứ đặc quyền. Những điều tiên tri mơn trớn lòng tự ái. Bản thân tôi đã viết hoàn toàn chân thật trong trường ca “Nhà máy thủy điện Brask” những câu thơ: “Băng qua các cuộc chiến tranh, băng qua các tội ác, loài người vẫn đi tới Lenin không lùi bước, loài người vẫn đi tới Lenin”. Nhưng bộ phận Lenin hóa của loài người đột nhiên thấy ra hướng đi theo bàn tay từ vô số các tượng đài chỉ lối là ngõ cụt và họ bắt đầu vội vã thoát ra khỏi nó.
Hãy tránh những bàn tay chỉ đường, ngay cả nếu chúng chỉ theo hướng ngược lại ngõ cụt cũ. Một ngõ cụt khác có thể vẫn đang chờ anh ở đấy với nụ cười khẩy của người anh em sinh đôi ranh mãnh. Ở đấy cũng có thể có những vũng bẩn và những vũng máu.
Một lần tôi bắt gặp tấm ảnh của Nga hoàng Aleskey thời trẻ chụp cùng ông thầy thủy thủ có bộ ria hiền từ của ngài. Bên cạnh là chiếc xe đạp có kết cấu đặc biệt để cậu bé bị bệnh ưa chảy máu (hemophilie) khỏi ngã. Nhưng bây giờ chúng ta biết điều cậu bé trong ảnh không biết. Chúng ta biết rằng ông thầy thủy thủ đã phản bội người học trò của mình khi bí mật liên kết với những người nhạo báng hoàng gia. Nhưng nhiều người trong số người xử bắn hoàng gia về sau cũng lại bị xử bắn. Tình trạng không cầm máu – bệnh hemophilie – là căn bệnh dân tộc của nước Nga. Nó khởi nguồn từ thời thống trị của quân Tarta-Mongolia, khi các vị bá tước Nga cứ đánh nhau liên miên thay vì thống nhất với nhau. Chính khi đó đã sinh ra thảm kịch dân tộc chẳng hề đáng tự hào – thói quen người Nga làm đổ máu Nga.
Chủ nghĩa xã hội chẳng bao giờ có ở chúng ta. Dưới cái tên giả chủ nghĩa xã hội chúng ta đã tạo ra một chế độ phong kiến-quân chủ che đậy. Chẳng phải Stalin là Nga hoàng, còn các vị bí thư đảng là những lãnh chúa đó sao? Chủ nghĩa xã hội phong kiến sau khi giết chết Nga hoàng Aleksey đã thay ông ta thừa kế ngai vàng, thừa kế bệnh hemophilie. Nền dân chủ của chúng ta hiện thời cũng là nền dân chủ phong kiến, nền dân chủ hemophilie. Máu vẫn tiếp tục đổ không ngừng – cả ở quanh nước Nga, cả ở bên trong – máu của các cuộc xung đột dân tộc trên những lãnh địa cũ của đế chế, máu ở Chechnya, máu của cuộc huynh đệ tương tàn giữa nghị viện và tổng thống, máu của những vụ giết người được thuê sẵn.
Nước Nga luôn là đất nước của nền văn hóa cao cả, nhưng đồng thời là đất nước của sự vô văn hóa chính trị. Chúng ta đối xử với sự tự do của mình một cách vô văn hóa. Tự do của những người không đáng được tự do là nguy hiểm cho chính họ. Gertsen từng viết: “Không thể giải phóng cho mọi người nhiều hơn họ tự giải phóng từ bên trong”.
Chẳng hề mong muốn một nhà thơ nào đó của thế kỷ XXI sẽ lại giống như Aleksande Blok lang thang quanh đống đổ nát, tay cầm một mảnh gương phản chiếu chỉ những xác chết và tro tàn.
Tôi những muốn chúng ta nhìn vào tấm gương của lịch sử và thấy ở đấy chỉ khuôn mặt mình và khuôn mặt con cái chúng ta mà khi nhìn vào không thấy xấu hổ.

5. Chúng ta không việc gì phải xấu hổ

Chúng ta xấu hổ về gì, tất cả đã rõ.
Nhưng lẽ nào chúng ta phải xấu hổ về việc chúng ta đã tránh cho loài người nỗi sợ cuộc thế chiến ba? (Mặc dù bất cứ người mẹ nào mất con thì ở đâu cũng là mất con – trong cuộc thế chiến hay tại một khu vực nào đó ở Chechnya, Tadzhikistan).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc chúng ta không còn phải sợ cái “con quạ đen” có thể lôi bất cứ ai trong chúng ta đến Lubyanka hay vào trại tâm thần (mặc dù chúng ta sợ bị cướp bóc và đánh đập trên phố hay trong nhà của mình).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc chúng ta không chỉ có một đảng duy nhất nữa, cái đảng mà ta buộc phải yêu từ khi đi vườn trẻ (mặc dù thật khó mà yêu được một đảng nào trong khoảng nửa trăm đảng phái đã đăng ký hoạt động).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc không còn sự kiểm duyệt chính trị nữa (mặc dù có sự kiểm duyệt thương mại chuyển thành sự kiểm duyệt chính trị), về việc không phải xếp hàng mua hàng (mặc dù có sự xếp hàng của những người thất nghiệp kiếm việc làm), về việc không còn những ủy ban lưu động nhục nhã nữa (mặc dù phần đông dân ta không vui khi biết rằng anh có thể đi đến Paris nhưng kiếm cả đời cũng chẳng đủ tiền để mà đi).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc nếu anh là người theo đạo, anh có thể không phải che giấu đức tin của mình và tự do đi vào bất kỳ nhà thờ, nhà nguyện, thánh đường nào mà sẽ không bị ai theo dõi (mặc dù nhiều người trong chính các thầy tu lại không khoan dung với các tôn giáo khác nhưng đồng thời lại buôn bán thuốc lá và lòng trung thành đối với chính quyền).
Chúng ta không cần phải xấu hổ về việc bây giờ trong các cửa hàng có đủ mọi thứ hàng hóa (mặc dù đồng thời lại xấu hổ là hầu như tất cả không phải là hàng của chúng ta làm ra).
Tất cả những cái đó tất nhiên là còn lâu mới hoàn thiện và đôi khi còn rất mong manh. Nhưng đừng nên quên rằng TẤT CẢ NHỮNG CÁI ĐÓ CHỈ MỚI CÁCH ĐÂY CHƯA LÂU LÀ KHÔNG CÓ VÀ KHÔNG THỂ NÀO CÓ ĐƯỢC.
Chúng ta không được phép quay lại cả cái thời đã xa lẫn cái thời chưa xa của chúng ta.
Chúng ta cần phải suy nghĩ về những cái hiện chưa có, nhưng cần phải có.
Về những cái sẽ không phải xấu hổ.
Giữa xấu hổ và sợ hãi có hai trạng thái trung gian. Một là nỗi sợ hãi của xấu hổ, và một là nỗi xấu hổ của sợ hãi.
Một số người mong muốn kéo lại quá khứ thì thích nỗi sợ hãi của xấu hổ và chỉ tìm cách lựa chọn trong hai trạng thái đó cái nào ít ác hơn. Đó là “sự ủng hộ với tiếng thở dài buồn bã”. Nhưng cái ác nhỏ có một thuộc tính nguy hiểm là trên con đường ủng hộ như thế nó lớn lên thành cái ác lớn. Lịch sử cho thấy cùng một con người trong những thời kỳ khác nhau có thể là người thức tỉnh xã hội, còn sau đó bản thân lại trở thành lực cản của những lực lượng đã được hắn đánh thức. Các biến cố rất thường vượt lên trước những người cầm đầu các biến cố. Trong lịch sử quan trọng không chỉ là biết xuất hiện đúng lúc, mà còn biết rút lui đúng lúc, mong muốn trao quyền trượng vào những bàn tay đáng tin cậy. Trình độ dân chủ được xác định bằng chính sự chuyển giao quyền lực một cách bình an.
Trong lịch sử nước Nga chưa từng xảy ra một sự quá độ êm ả tự nhiên như thế.
Khrushchev, người không trừng trị về thể chất đối với những kẻ đối địch mình – Malenkov, Molotov, Kaganovich và “Shepilov vào hùa theo ông” như lời đồn đại, đã tạo ra một tiền lệ cứu thoát chính ông, khi ông bị hạ bệ nhưng kỳ lạ là vẫn còn được sống, ông đã đi vào nhà hát và lặng lẽ đọc cho ghi hồi ký của mình. Nhưng ông đã bị loại ra khỏi đời sống chính trị.
Gorbachev là tác giả của những sự thay đổi chính trị nghiêm trọng trong xã hội, những thay đổi không cho phép cô lập ông về mặt chính trị, mặc dù có thể Yeltsyn muốn điều đó. Gorbachev không thành công, nhưng dù sao đã tranh cử chức tổng thống Nga, ông trả lời phỏng vấn một cách thận trọng, nhưng công khai bày tỏ quan điểm đối lập, và thường xuyên công du nước ngoài. Đó là điều bình thường trong một quốc gia bình thường, nhưng ở nước Nga là điều chưa từng có!
Mà biết đâu, dần dần điều đó sẽ trở nên bình thường?
Toàn bộ lịch sử nước Nga là lịch sử của những cơn động đất chính trị. Trong những khu vực có nguy cơ động đất những người thợ xây dựng thường phải xem xét một loại cấu trúc nền móng đặc biệt. Cái chính bây giờ là phải tạo được một cơ sở hạ tầng cho phép dù quyền lực chuyển giao vào tay ai thì vẫn tránh được sự đổ vỡ. Làm được thế thì sẽ yên ổn cho cả người Nga và cả nhân loại.
Ngày 19 tháng 8 năm 1991 quá khứ đã muốn cưỡi xe tăng xộc vào hiện tại và tương lai của nước Nga.
Yeltsyn khi đó đã đóng một vai trò lịch sử.
Khi đó tôi không thể hình dung là đã bắt đầu cuộc chiến tranh ở Cherchnya và tôi đã từ chối nhận huân chương “Hữu nghị các dân tộc” từ tay của vị tổng thống đã ban hành sắc lệnh phát động cuộc chiến tranh đó.
Tôi không thể hình dung năm 1993 những chiếc xe tăng Nga đứng giữa trung tâm thủ đô Nga bắt đầu nã đạn vào nghị viện Nga.
Yeltsyn đã có một cơ hội mang tính quyết định đối với thanh danh lịch sử cuối cùng của ông – tạo ra tiền lệ của việc chuyển giao êm ả quyền lực từ tay này sang tay khác. Nếu ông thực hiện lời hứa của mình và trở thành người lãnh đạo đầu tiên của nước Nga tự nguyện trao quyền trượng vào tay của người kế tục do nhân dân lựa chọn thì có lẽ toàn bộ lịch sử nước Nga từ thời điểm đó sẽ thay đổi.
Nhưng đó sẽ là bàn tay của ai?
Của ai không quan trọng – chỉ cần đó là những bàn tay sạch.

6. Tôi không thương xót chính quyền xô viết

Tôi không thương xót chính quyền xô viết, bởi vì nó đã không hề thương xót hàng triệu người bị nó giết chết. Nó tất phải sụp đổ giống như chế độ sa hoàng là chế độ cũng không thương xót mọi người. Thiếu lòng thương xót đối với những con người của một hệ thống nhà nước rốt cuộc sẽ quay ra thành sự không thương xót của mọi người đối với hệ thống đó. Hãy để hệ thống hôm nay nhớ lấy điều đó như một lời cảnh báo, hệ thống này vẫn chưa đáng được gọi là dân chủ bởi vì đáng tiếc là nó vẫn thừa kế của chính quyền xô viết sự không thương xót mọi người. Sự không thương xót đó tự gọi mình là gì đi nữa – chủ nghĩa xã hội, hay chủ nghĩa tư bản, hay một cái gì khác, thì cũng có khác gì nhau. Thế kỷ hai mốt đã ngấp nghé ngưỡng cửa. Tôi mong muốn gì ở nó? Tôi muốn sao cho nó học được cách thương xót mọi người.

7. Giã từ thế kỷ hai mươi

Tôi chia tay thế kỷ hai mươi, như chính mình chia tay với mình.
Người ta có thể hân hoan nhẹ nhõm nói về một số người: “Ôi, đó là người của thế kỷ hai mốt…”. Về tôi thì không thể nói như thế được. Tôi chỉ là người của thế kỷ hai mươi.
Một nhà thơ “đầy xung khắc trong mình”, ở đó những ảo tưởng lãng mạn cách mạng bện kết với sự bác bỏ những ảo tưởng đó, một nhà thơ như thế chỉ có thể xuất hiện vào nửa sau thế kỷ hai mươi và chỉ ở nước Nga – không phải nước Nga trước cách mạng, mà chỉ ở nước Nga xô viết với hệ thống một đảng, kiểm duyệt, khó đi lại. Tôi cám ơn thế kỷ hai mươi, bởi vì tôi không có thế kỷ nào khác.
Tôi mang trong mình những căn bệnh của thế kỷ này, những hy vọng, lầm lạc, sợ hãi của nó, sự hạn chế, sự điên cuồng của nó, những cơn hoài nghi, cơn hoang tưởng tự đại, và lạy Chúa, cả niềm tin ngây thơ nhưng không sao chữa nổi là tình bác ái của mọi người dẫu sao vẫn có thể có được.
Cả hai chúng tôi – thế kỷ hai mươi và tôi – không hợp với dấu cộng, và tôi hy vọng là cũng không hợp với dấu trừ. Nhưng thế kỷ hai mươi đã xé rách tôi. Nói theo Tsvetaeva, “chúng tôi lớn lên cùng nhau”.

 Một vai thiên tài trong một vở kịch vụng về
 1. Chủ nghĩa cộng sản – kẻ sát nhân của chủ nghĩa cộng sản
  Vì sao những nghệ sĩ vĩ đại thế kỷ hai mươi như Vladimir Mayakovsky, Pablo Picasso, Gram Green, George Orwell, Pablo Neruda, Abe Kobo, Pier Paolo Pasolini, Paul Éluard, và cuối cùng, Nazim Hikmet, là những người cộng sản thành tín trong suốt cả cuộc đời mình, hoặc là một phần đời?
          Cách trả lời dễ nhất là khoát tay chối bỏ hiện tượng đó, hoặc nhún vai cao đạo và làm nhẹ thân mình bằng cách buông ra một câu khinh miệt: “Do tuyên truyền ấy mà…”
Sự đời phức tạp hơn nhiều.
Chính lối tuyên truyền cộng sản chính thống lại khá là thô thiển, khó mà chinh phục được chừng ấy trái tim những người nổi tiếng. Thực ra không thể nào mà yêu được những châm ngôn kiểu như “Chủ nghĩa cộng sản là chính quyền xô viết cộng với điện khí hóa” (Lenin), “Học thuyết Lenin là vô địch vì nó đúng” (Stalin), “Kinh tế cần phải trở thành là kinh tế” (Brezhnev).
Nhà tuyên truyền chính của chủ nghĩa cộng sản chính là chủ nghĩa tư bản – với sự bóc lột thực sự của nó, chứ không phải do những người cộng sản bịa ra, với những cuộc khủng hoảng, nạn thất nghiệp, các chính trị gia mua bán, các cuộc chiến tranh. Bóng ma chủ nghĩa cộng sản từ trong bản tuyên ngôn không kém phần bay bổng của Marx-Engels đã tự tin hứa hẹn giải thoát hết những tình trạng đó, còn hai tác giả tuyên ngôn thì hẳn không ngờ là sẽ lại có sự bóc lột cộng sản và thậm chí là chủ nghĩa đế quốc cộng sản, còn “quần đảo Gulak” thì ngay cả trong giấc mơ hãi hùng nhất họ cũng không thể nào mơ thấy. Buộc tội Marx – Engels về tất cả những gì xảy ra sau họ là quá nghiệt ngã. Nhưng trong tư tưởng đẹp đẽ và đáng tiếc là thiếu thận trọng của họ có chứa một viên độc dược của thuyết hoàn mĩ (perfectism) khiến về sau sẽ diễn ra sự cưỡng bức “hoàn thiện con người” nên phải cần lập ra các cơ quan bạo lực khủng khiếp (CK, rồi về sau là KGB). Bóng ma từng có thời được cảm tình khi thay xương đổi thịt thành cấu trúc nhà nước thì trở nên đáng sợ, giống như kẻ khổng lồ chỉ có một mắt là hệ tư tưởng duy nhất được phép. Không phải ngẫu nhiên mà chính nhà văn Nga Zamyatin, người ở nước đầu tiên biến chủ nghĩa cộng sản từ bóng ma thành hiện thực mà giai cấp vô sản và giới trí thức cánh tả toàn thế giới bao lâu chờ đợi, đã viết bài văn đả kích (pamphlet) đầu tiên bóc trần chủ nghĩa cộng sản trại lính, trong khi George Orwell – người tương lai sẽ kế tục truyền thống của Zamyatin, vẫn còn là một chàng trai tràn đầy ảo tưởng cộng sản. Lữ đoàn quốc tế ở Tây Ban Nha gồm chủ yếu các nhà lý tưởng đã tan rã cùng với ảo tưởng của họ khi nó bắt đầu bị chỉ huy bởi tổ quỷ bè phái hiện hình qua những kẻ cuồng tín kiểu Marty hay bởi những điệp viên trơ tráo của Stalin như Hemingway đã mô tả.
Cuộc thế chiến hai sinh ra làn sóng thứ hai những ảo tưởng thân cộng. Augusto Pankaldy, phóng viên báo “Unita” (cơ quan của đảng cộng sản Italia) kể với tôi rằng anh gia nhập đảng cộng sản là sau khi đọc xong cuốn sách của Arthur Kestler viết về năm ba mươi bảy và tin chắc đó là sự vu khống Liên Xô do bọn phát xít đặt hàng. Nhưng làn sóng này đã giảm xuống sau thắng lợi năm 1945 khi đi cùng niềm vui chung đã xuất hiện những sự sợ hãi lẫn nhau giữa các đồng minh cũ.
Thời kỳ chiến tranh lạnh sinh ra chứng hoang tưởng ở cả hai bên của cái gọi là chiến tuyến tư tưởng. Bắt đầu nổ ra chiến dịch “săn phù thủy” nhục nhã ở cả Liên Xô và Mỹ, chỉ có điểm khác cơ bản là “chủ nghĩa McCarthy” có vẻ nhún nhường hơn so với quy mô và sự khắc nghiệt của “bóng ma chủ nghĩa cộng sản”. Ngày càng có nhiều người ở thế giới phương Tây mới đây còn thấy bóng ma này như chiếc phao cứu sinh thì nay vỡ mộng và sợ hãi.
Nhưng còn có thế giới thứ ba, nơi chế độ độc tài vô pháp luật và nạn đói hết sức ghê rợn, còn bóng ma cộng sản thì xa xôi tới mức nó trở thành hy vọng duy nhất của tất cả những người khốn cùng trên trái đất.
Một nước như vậy là Thổ Nhĩ Kỳ, nơi nhà thơ Nazim Hikmet đã phải ngồi tù 17 năm. Những người cộng sản lý tưởng như ông ngày càng ít, họ giống như loài mamút may mắn còn sống sót.
Tôi xin vượt lên trước mà nói rằng vụ bê bối với Pasternak, vụ đàn áp cuộc nổi dậy ở Hungary, đòn tâm lý đối với những người ly khai, sự can thiệp vào Tiệp Khắc, cuộc chiến tranh ở Afghanistan, tất cả đã phá hủy trọn vẹn chủ nghĩa lý tưởng này. Nhưng chủ nghĩa lý tưởng đó là một phần không thể tách rời của lịch sử, nó có những hiệp sĩ cao thượng của mình, đối với họ tư tưởng cộng sản dù sao cũng vẫn là một biểu trưng lãng mạn, giống như nàng Dulciney đối với Don Kihote. Kết cục của thiên lãng mạn này là bi thảm – hoặc bị một phát đạn vào gáy, hoặc bị tống vào trại tập trung, hoặc vỡ mộng hoàn toàn và tự sát – về thể xác hay tinh thần, hoặc sống lay lắt nhục nhã bằng cách phản bội lại bạn bè, hoặc khư khư ôm lấy ảo tưởng thời quá khứ trong khi mù quáng chạy theo hiện tại để thoát hiểm.
Năm 1980 một người bạn cũ gọi điện cho tôi – đó diễn viên điện ảnh Mỹ Warren Beatty và còn nổi tiếng hơn ở tài quyến rũ các nữ diễn viên, anh ta bảo đang ở Anh quay một bộ phim theo cuốn sách “Mười ngày rung chuyển thế giới” của John Reed và đề nghị tôi vào vai Trotsky.
- Anh đã khi nào thấy một tấm ảnh của Trotsky chưa? – tôi hỏi.
Ở đầu dây bên kia nghe có tiếng lúng búng ngắc ngư và tôi đoán thầm một cách bất lịch sự rằng chắc anh chàng tình nhân vĩ đại của các nữ minh tinh vĩ đại đơn giản là chưa có thời gian để ý đến những chuyện nhỏ nhặt như vậy.
- Vấn đề không phải là ở Trotsky… Tôi muốn anh tham gia đóng trong phim này… Anh chọn cho mình vai nào cũng được.
- Thôi được… Gửi kịch bản đến đi, – tôi nhượng bộ.
- Kịch bản nào?! Warren ngạc nhiên thành thật. – Tự tôi là ông chủ, tự tôi làm kịch bản… Cuộc sống mỗi ngày lại mách cho một điều mới…
Warren không thuyết phục được tôi nhận vai. Theo giới thiệu của tôi, nhà văn Ba Lan Egi Kosinsky đã vào vai Trotsky. Khác với tôi, anh ấy dù sao cũng có nét giống nhà lý thuyết cách mạng thường trực. Khi tôi có dịp xem bộ phim chắc chắn là ngây thơ, dù rất tài năng ấy, tôi đã bị chấn động theo mạch tư liệu của nó – mấy cuộc phỏng vấn với những ông già Mỹ duy nhất – những người cộng sản lý tưởng may mắn còn sót lại trong lịch sử. Trông họ vô cùng đáng thương, bởi vì đó là những người trong trắng nhất, suốt đời trung thành với những ảo tưởng của riêng mình.
Vào thời “chiến tranh lạnh” giữa những người cộng sản có những kẻ gián điệp. Còn chẳng lẽ không có gián điệp giữa những người chống cộng? Hay  có thể làm do thám tất cả mọi người khác, còn với người Nga thì không thể? Có những người bị mua bằng tiền. Nhưng có những người bị lôi cuốn bởi tư tưởng. Không có gì đê tiện hơn là mua chuộc bằng sự lãng mạn. Chủ nghĩa cộng sản là sự quyến rũ hấp dẫn nhất về lẽ công bằng xã hội.
Bi kịch của những người cộng sản lý tưởng là ở chỗ khi tư tưởng của họ được hiện thực hóa dưới dạng Stalin thì nó hóa thành bức biếm họa đẫm máu của mơ ước. Mơ ước bị bọn vô liêm sỉ cưỡng bức. Chủ nghĩa cộng sản trở thành kẻ sát nhân của chủ nghĩa cộng sản.
Warren Beatty đã quay bộ phim “Reds” của mình không cần kịch bản. Thực chất chính lịch sử mới là người đạo diễn ngẫu hứng của bộ phim đó. Trong lịch sử, cũng như trong vở kịch tồi, đôi khi đóng được một cách thiên tài cái vai của mình.
Nazim Hikmet đã đóng cái vai thiên tài ấy trong chủ nghĩa cộng sản do lịch sử đạo diễn vụng về và vì thế nên tất yếu không thể có được kết cục vui vẻ.
  2. Chuyến đi của nhà lý tưởng tới thói vô liêm sỉ
 Khi chàng trai Thổ Nhĩ Kỳ mười chín tuổi tóc hung và cặp mắt xanh da trời kiểu Nga lần đầu đến nước Nga năm 1921, anh đã đến với chủ nghĩa lý tưởng – đúng ra là một chủ nghĩa lý tưởng đã bị vấy máu cuộc nội chiến. Nhưng khi đó Sagal hãy còn vẽ trang trí cho các vở kịch tuyên truyền, Malevich, Rodchenko, Larionov, Goncharov, Filonov, Falk, Lentulov còn bày tranh triển lãm. Mayakovsky còn gầm thét tại các cuộc trình diễn, con người hùng vĩ giống như tháp Eiffell đọc thơ ấy còn sản xuất các “cửa sổ ROSTA” vẽ hình những tên tư sản bụng phệ bị lưỡi lê tàn bạo của cách mạng đâm xuyên giống như thịt bị xiên que. Eisenstein trong phim “Chiến hạm Potemkin” còn để chiếc xe nôi lăn xuống những bậc thang ở cảng Odessa, chiếc xe nôi ấy đến nay vẫn còn lăn qua các bậc thang trong nhiều bộ phim khác. Meyerhold còn dàn dựng các vở kịch bùng nổ của mình mà không hay rằng chỉ ít lâu sau người ta đã dùng roi cao su quật tới tấp vào cơ thể ông, nhà đạo diễn vĩ đại của cách mạng, trong các hầm tối ngập ngụa máu ở Lubyanka, bởi vì ở đất nước này chỉ có một đạo diễn của cách mạng mà thôi – đó là Stalin. Nhưng thời khủng bố xô viết hãy còn ở phía trước.
Hồi trẻ, Nazim Hikmet đã ở trong cao trào phục hưng nghệ thuật sau cách mạng, một cuộc phục hưng như lên cơn co giật, vội vã nở rộ vì linh cảm thấy sự bùng nổ này hết sức ngắn ngủi. Cuộc cách mạng đói khát nhưng đồng thời hào phóng tài năng đã tung lên màn ảnh, sân khấu, các bức tường trại tập trung, các trang báo chí biết bao những tên tuổi mới – người này tài hơn người kia. Đó là cuộc Phục Hưng Trước Thời Trại Tập Trung.
Năng lượng của cuộc phục hưng này lớn tới mức đã đưa lại cho toàn bộ nghệ thuật thế giới một xung động hết sức mạnh mẽ trong nhiều năm, quy định hướng phát triển của nó. Trong lĩnh vực vũ trụ cũng vậy. Người Nga bay lên vũ trụ đầu tiên, thế nhưng lại không phải là người đầu tiên đặt chân lên mặt trăng.
Sau hai mươi ba năm vắng bóng, khi Nazim qua đường Rumany trở lại Nga thì ông đã là nhà lý tưởng đến với thói vô liêm sỉ. Cả một chiến dịch chính trị bảo vệ ông, chủ yếu do các nhà văn cánh tả Pháp và các nhà văn xô viết tổ chức, đã kéo ông ra khỏi song sắt nhà tù. Tôi khi ấy là nhà thơ mười chín tuổi đã in những vần thơ kêu như chuông ca ngợi Nazim. Và giờ đây con người huyền thoại ấy cuối cùng đã đến với chúng tôi, tại Moskva! Nhưng ông, nhà thơ khi ngồi tù đã thành thực viết bài tụng ca Stalin – người chiến thắng Hitler, chưa đoán ra (hay sợ đoán ra) là trong Stalin đang sống một con người khác – tên đao phủ không chỉ của cái gọi là “những kẻ thù của cách mạng”, mà còn là tên đao phủ của chính cách mạng. Đất nước mơ ước của Nazim Hikmet thực ra không còn tồn tại nữa. Ông đã đến với một đất nước hoàn toàn khác.
Đấy là năm 1951 – năm bắt đầu cơn hoang tưởng trước khi chết của Stalin mà kết cục là bắt giam cả các bác sĩ riêng của ông ta.
Tâm trạng hân hoan trở lại của Nazim bị đặt trên cơn hoang tưởng này. Khi ở Rumany người ta hỏi Nazim là ông muốn gặp ai ở Nga, ông thốt lên vui sướng: “Kolya Ekk!”.
Đạo diễn điện ảnh Nikolai Ekk là bạn thời trẻ của ông. Năm 1931 Ekk đã quay bộ phim nổi tiếng “Giấy chứng nhận vào đời” kể về bọn trẻ bụi đời được chính quyền xô viết cho đi “cải tạo”, theo như cách gọi hồi ấy. Năm 1932 tại liên hoan phim quốc tế đầu tiên ở Venise Nikolai Ekk đã được khán giả bầu chọn là đạo diễn xuất sắc nhất. Nhưng thời thế thay đổi. Chính quyền xô viết can thiệp không chỉ vào hệ tư tưởng, mà cả vào phong cách nghệ thuật, thậm chí những thực nghiệm hình thức cũng bị coi là sự đi chệch khỏi “chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa” được tạo ra.
Công cuộc thực nghiệm mạnh mẽ của những năm hai mươi và đầu những năm ba mươi đã bị thay bằng một kiểu Hollywood cộng sản mang tính chất tỉnh lẻ. Nikolai Ekk không cần thiết cho ai nữa trở nên thất nghiệp và nát rượu. Người ta tìm thấy ông ở một rãnh mương, lôi ông lên và chật vật lắm mới tẩy rửa được hết mùi chó bám vào người ông, sau đó mặc quần áo cho ông, gắn lên ve áo chiếc huy chương mà may ông chưa đánh mất hay chưa đem đi đổi rượu, rồi ấn vào đôi tay vừa rửa ráy vội vã một bó hồng, cuối cùng đẩy ông lên một chiếc xe hơi dài màu đen chở đến gặp chiến sĩ hòa bình nổi tiếng người Thổ Nhĩ Kỳ.
Sau khi ôm hôn người bạn cũ, Nazim hỏi một câu khiến các nhân viên của KGB và Hội nhà văn đi cùng điếng người.
- Bây giờ anh làm gì hả Kolya?
Có ai đó ở cơ quan lãnh đạo văn hóa đứng sau lưng Nazim hốt hoảng dùng tay dùng mắt ra hiệu cho Ekk: đừng im lặng, hãy nói một điều gì đó, nói đi, việc của anh là…
Ekk hiểu rằng đây là cơ hội cuối cùng của mình, và ông rùng mình giống như con chiến mã bị người ta tìm cách biến thành con ngựa gầy kéo xe đổ rác.
- Nazim ạ, gần đây tôi ham mê xiếc… Tôi dàn dựng những cảnh thần tiên dưới nước! – ông hân hoan phục hiện lại cái tư tưởng nửa tỉnh nửa say của mình mà từ lâu đã bị “cắt cổ” ở một cabin nào đó, rồi túm lấy ngực của một viên chức văn hóa đứng sát bên cạnh khẽ rít lên:
- Lần này thì anh không bỏ chạy khỏi thỏa thuận được đâu…
Nhưng mặc dù được sự bảo trợ của Nazim, rốt cuộc họ vẫn “bỏ chạy” được, bởi vì Ekk đưa ra cho họ một dự án khoa học viễn tưởng làm trên đại lộ Hoa, chuyển chợ trung tâm đi chỗ khác, thay vào đó là dựng những quả núi có nước đổ xuống như thác Niagara.
Trong những ngày đầu tiên Nazim đến Moskva, Stalin đã có ý định tiếp ông.
Trong khi chờ đợi cuộc gặp đó, Nazim vốn là người yêu sân khấu, bao lâu nay buồn nhớ quang cảnh nhà hát Moskva mà ông từng say đắm, nên ông bổ đi xem các vở diễn của những người kế tục Meyerhold, người ông rất yêu thích.
Nhưng “những người kế tục” đó là ai?
Hồi ấy thống lĩnh sân khấu là hai Anatoly – Surov và Sofronov, tác giả của các vở kịch diễn ở hàng chục nhà hát, cả hai đều được giải thưởng Stalin. Surov, như sau này mới biết, nói chung không tự mình viết kịch, mà để đạt mục đích đó ông ta đã thuê những người “da đen”, tức là người Do Thái, bị ông ta khai trừ khỏi Hội Nhà văn. Sofronov, tác giả phần lời của một số bài hát mặt trận không đến nỗi dở lắm, thì tự mình viết kịch, nhưng chỉ trong khoảng thời gian rảnh rỗi của việc vạch trần “những kẻ theo chủ nghĩa thế giới”, mà thực tế thì khoảng thời gian để ông ta làm ra các “kiệt tác” của mình như vậy là không có. Thời ấy “thuyết phi xung đột” đang thống trị, theo đó trong cuộc sống hạnh phúc của người xô viết không thể nào có xung đột của cái tốt và cái xấu, mà chỉ có xung đột của cái tốt với cái tốt hơn. Chính nền kịch nghệ bị hoạn như vậy là cái Nazim đã xem tại Moskva năm 1951.
Bữa tiệc của cái gọi là “giới trí thức sáng tạo” chào mừng Nazim diễn ra tại Nhà nghệ thuật trung ương, sau buổi diễn. Chủ tiệc là một đạo diễn tài năng, nhưng cung cách rõ là của một quý tộc già tỉnh lẻ vừa trở thành đầu bếp. Ông ta đọc một bài diễn văn chào mừng gồm những câu dài dòng lê thê như chính con người mình, trong khi dù đã được chính quyền xô viết tắm rửa và thắng bộ cho, nhưng Kolya Ekk vẫn chưa hết mùi hôi chó đã vồ lấy ly này đến ly khác rượu cô nhắc Armenia trên bàn tiệc, như sợ bị đuổi ra, không được phần.
Nazim kiên nhẫn lắng nghe hết bài diễn văn chào mừng dành cho mình, nhưng khi đáp từ khuôn mặt ông sắt lại, đôi mắt xanh da trời như phát ra ánh kim.
- Thưa những người anh em… – ông nói bằng âm sắc thanh quản kiểu Nga. – Khi trong cảnh đơn độc, tôi sống được có lẽ là vì tôi mơ đến các nhà hát ở Moskva. Tôi mơ thấy Meyerhold, Mayakovsky… Họ quả đã biến cuộc cách mạng đường phố thành cuộc cách mạng sân khấu. Còn hôm nay tôi thấy gì ở các nhà hát Moskva? Tôi thấy một thứ nghệ thuật tiểu tư sản nhạt nhẽo mà chẳng hiểu sao lại được mệnh danh là chủ nghĩa hiện thực, lại còn là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra tôi còn thấy rất nhiều sự xu nịnh cả trên sân khấu, cả xung quanh nó… Chẳng lẽ thói xu nịnh cũng là cách mạng sao? Sắp tới tôi sẽ gặp đồng chí Stalin, người mà tôi rất kính trọng. Nhưng tôi sẽ nói thẳng với ông ấy, như một người cộng sản nói với một người cộng sản, rằng ông ấy cần phải ra lệnh tháo bỏ vô số các bức chân dung và các bức tượng của mình đi – để thế thì tầm thường quá…
Một bầu không khí chết lặng bao phủ căn phòng, chỉ còn nghe tiếng uống rượu liên tục của Kolya Ekk mà thôi.
Một số vị khách khẽ nhón chân chuồn khỏi phòng để, lạy Chúa, khỏi phải làm nhân chứng cho câu nói bạo gan chưa từng nghe thấy thời đó.
Kolya Ekk lẩm bẩm vừa khẽ để những người ngồi cạnh đủ nghe thấy:
- Nazim mà bị tù ta chứ không phải tù Thổ thì ông ấy đã biết giữ mồm giữ miệng…
Vị chủ tiệc cố gắng phá vỡ ấn tượng nặng nề bằng cách run run giơ cốc sâm-panh lên:
- Thưa Nazim thân mến! Tôi tin chắc đồng chí Stalin cũng không thích một số bức chân dung của Người. Nhưng lấy đâu ra nhiều Rembrendt và Repin để vẽ hình Người! Chẳng lẽ đồng chí Stalin lại có thể cấm tình yêu của nhân dân đối với đồng chí Stalin! Xin nâng cốc cho đồng chí Stalin! Xin nâng cốc cho người cộng sản số một!
- Thế ra không phải chỉ ở trong tù mà ngoài đời người ta cũng đánh số cho những người cộng sản à? – Nazim hỏi.
Nghe qua câu này thì chắc Kolya Ekk hay ai đó trong số những người bạn cũ đã nói cho ông biết rất nhiều những người thầy của ông đã biến đi đâu.
Câu đó được nói ra không to tát gì. Nhưng những ai cần nghe thấy thì đã nghe thấy.
Hôm sau Nazim được thông báo là cuộc gặp dự định bị hoãn vì đồng chí Stalin bận quá nhiều việc.

 3. Người tài xế quỳ gối

Chuông điện thoại reo buổi sáng. Cái giọng thanh quản quen thuộc với âm sắc quyến rũ có một vang lên:
- Chào người anh em!  Cậu có cần tiền không? Tiếc thật… Tớ vừa được một món nhuận bút quá lớn đối với tớ… Người anh em nghe này, cậu có biết người tử tế nào cần tiền không?
Bây giờ một cú điện thoại như vậy khó ai mà hình dung được.
Nazim yêu mến và ủng hộ những họa sĩ trẻ chưa được chính thức thừa nhận và ông là một trong những người đầu tiên mua tranh của Oleg Tselkov hồi ấy chưa nổi danh, người mà ông đặt trang trí cho vở “Thanh gươm Damocles” của ông ở Nhà hát trào phúng. Mới đây Oleg nhớ lại một lần vào khoảng năm 1955, khi hai người ngồi trên bờ kênh Moskva-Volga ở Tushin, Nazim đã đánh mắt giễu cợt chỉ cho ông thấy hai bóng người đi qua đi lại ở xa xa.
- Họ là ai vậy? – Tselkov ngơ ngác hỏi.
- Những kẻ theo dõi, người anh em ạ… – Nazim nhún vai.
- Theo dõi anh – người được giải thưởng Hòa Bình? Vì sao? – Tselkov sửng sốt.
- Một người theo dõi để không ai quấy rầy tớ… Còn người thứ hai theo dõi để tớ không quấy rầy ai… Thế đấy, anh bạn ạ…
Năm 1956 Nazim mời họa sĩ Yuri Vasiliev và tôi đến chơi vài ngày ở Peredelkino. Đó là phong cách mến khách của ông – cắt hết mọi cuộc điện thoại và dành hết thời gian chỉ cho một, hai người khách. Suốt ngày chúng tôi ngồi trên những cái gối Thổ Nhĩ Kỳ và câu chuyện của chúng tôi diễn ra thong thả, như làn khói mỏng bốc lên trên chiếc ấm pha trà kiểu Thổ trong những chiếc cốc cong trong suốt có tay cầm bịt bạc, còn Yuri Vasiliev thì nhẩn nha vẽ vời lên mặt trong cánh cửa, mà ở phía ngoài cửa là lịch sử đang lao đi nhanh chóng, không thể nào đoán trước được trong sự vội vã nghiệt ngã của nó.
Nhưng lịch sử từ bên ngoài đã tự ra mở cánh cửa này, nó quá yếu không che chắn được lịch sử. Lịch sử ập đến chúng tôi trong diện mạo một người đàn ông đứng tuổi, vẻ nát rượu, có cặp mắt thất thần cũng xanh da trời như mắt Nazim. Con người này chẳng ngó gì đến chúng tôi mà chỉ chăm chăm nhìn Nazim, sau đó không chịu nổi hạ mắt xuống, gỡ khỏi đầu chiếc mũ vành đen ẩm ướt bọc lông sư tử biển với viền tím cho biết nó là lông giả và đột nhiên quỳ xuống.
- Lạy Chúa xin tha tội cho tôi, ngài Nazim… Xin hãy gột rửa tội lỗi khỏi linh hồn tôi… Tôi phải kể hết mọi chuyện cho ngài biết…
Chiếc mũ của anh ta nằm khóc trên sàn những giọt nước mắt tím.
Nazim nâng anh ta dậy:
- Đứng lên, người anh em… Không cần phải nói gì cả đâu…
- Không, tôi phải kể… phải kể… Bao nhiêu năm tôi mang nó theo mình, không thể chịu được nữa…
Người mới bước vào cất giọng nghẹn ngào kể lại câu chuyện đã làm anh đau khổ bao lâu nay.
Năm 1951 Nazim được cấp một chiếc ô tô của nhà nước có tài xế. Người đàn ông này chính là người tài xế đó. Họ thân thiết với nhau và thậm chí Nazim đã có lần đến chơi nhà anh ta.
Năm 1952 người tài xế được gọi tới Lubyanka. Anh ta hoảng sợ khi thấy trước mặt mình là Berya.
- Anh biết anh đang lái xe cho ai không? – Berya hỏi.
- Người được giải thưởng Hòa Bình… nhà thơ vĩ đại… nhà cộng sản Thổ Nhĩ Kỳ… người bạn của Liên Xô… – anh tài xế trả lời vẻ băn khoăn.
- Anh đang lái xe không phải cho người bạn của Liên Xô, mà cho một kẻ thù… – Berya nói lí nhí. – Một kẻ thù xảo quyệt, giả bộ nhà cách mạng. Hắn muốn giết đồng chí Stalin. Nhưng chúng ta không thể bắt giam hắn: hắn quá nổi tiếng, lại là người Thổ… Anh cần phải giúp chúng tôi trừ khử hắn… Một lái xe chuyên nghiệp gây ra một vụ tai nạn y như thật thì có khó gì! Nhẹ nhàng hơn một điệp viên.
- Tôi không tin… – người tài xế nói. – Ông ấy như cha đẻ của tôi…
- Tất cả chúng ta chỉ có một người cha, – Berya nói một cách rầu rĩ.
Hôm sau người tài xế lại bị gọi đến Lubyanka để bắt ép phải nhận việc đó. Anh ta bị đánh đập nhưng không đồng ý. Khi đó người ta dẫn vào phòng làm việc vợ anh, và lúc sau là mấy tên tù phạm có đóng dấu tù.
- Mấy thằng trai trẻ này mấy năm rồi chưa biết đến cơ thể đàn bà – viên thanh tra nói và đưa mắt về phía mấy tên tù, rồi sang phía vợ người tài xế. Anh ta hiểu ra mọi sự và đành chấp nhận.
Mấy lần người ta đã báo cho anh là việc phải thi hành vào ngày mai, nhưng đến phút chót chẳng hiểu sao lại hoãn. Sau đó thì Stalin chết, Berya bị xử bắn… Rồi Nazim có xe riêng của mình, trả lại xe cho nhà nước. Người tài xế chuyển qua lái taxi – một cách để anh tránh xa cái nhà nước suýt nữa đã biến anh thành kẻ giết người. Nhưng tội lỗi trước Nazim cứ giày vò anh, thiêu đốt anh, không cho anh được thanh thản. Vì thế anh quyết định đến gặp ông để sám hối.
Trong suốt thời gian nghe câu chuyện khiến tôi lạnh cả sống lưng đó, tôi không nhìn người tài xế mà nhìn Nazim.
Ông vẫn có được sự tự chủ của người hoạt động bí mật thực thụ. Vẻ mặt ông không hề động đậy.
Hay có thể ông đã đoán biết việc này từ trước?
- Xin hãy gột rửa tội lỗi khỏi linh hồn tôi, ngài Nazim… – người tài xế lại cầu khẩn.
- Tội lỗi không phải ở anh, người anh em ạ, – Nazim đáp. – Tốt hơn hết chúng ta hãy cạn ly vodka nào. Thực ra các bác sĩ đã cấm tôi uống, nhưng với người tốt thì có thể uống chút ít được… Mà cậu là người trung thực, người anh em ạ. Vợ con cậu thế nào? Tôi nhớ rõ vợ cậu. Cô ấy đã làm món mứt anh đào rất ngon, khi tôi đến chơi nhà cậu… Mà này, cậu có biết “vishnya” (anh đào) là một từ Thổ Nhĩ Kỳ không?Không ai trong chúng tôi biết điều đó.
4. Tấm hộ chiếu toàn thế giớiHình như một số quan chức cấp cao Liên hợp quốc có những tấm hộ chiếu như thế. Tôi chưa được thấy một tấm hộ chiếu nào loại đó.
Nhưng Nazim thuộc số những người xứng đáng được có một tấm hộ chiếu như thế suốt đời, chứ không phải theo công vụ.
Chính quyền nước ông có lúc đã làm đủ mọi cách để quên ông đi.
Nhưng ý đồ của họ không thành.
Khi tôi lần đầu đến Thổ Nhĩ Kỳ năm 1986, không một cuốn sách nào của ông được bầy trên các giá trưng bày tại hội chợ sách Ankara và không một học sinh cũng như giáo viên Thổ Nhĩ Kỳ nào tôi hỏi đã nghe biết tên ông. Nhưng nhà thơ trẻ Thổ Nhĩ Kỳ Izdemir Inze đã tặng tôi một bức ảnh chân dung ông trông như một tượng thánh nhỏ mà bây giờ tôi đang treo ở nhà. Tôi đã treo ngay trên bàn viết của mình ở Peredelkino bức chân dung đó buộc vào một cái cọc nhỏ có khắc chữ B-13 bằng sợi dây thép gai lấy từ trại tập trung Kolym. Đó là kết cục cho ảo tưởng của những con người lý tưởng thuộc một dòng giống trong đó có Nazim. Song sắt nhà tù Thổ Nhĩ Kỳ đã cứu ông khỏi song sắt nhà tù xô viết, và nếu như đầu những năm ba mươi ông không quay về quê nhà thì vị tất ông đã sống qua được năm ba mươi bảy. Vượt qua giới hạn năm đó ông cũng thành người không được chấp nhận, giống như Meyerhold, Mayakovsky.
Ông là sự gợi nhắc về những ảo tưởng cách mạng không thành hiện thực, là một điển hình sống động, hết sức hấp dẫn của tinh thần lãng mạn những năm hai mươi và là nhân chứng bi thảm về sau của thời Đại Phản Bội Hy Vọng.
Ông sống ở Liên Xô không phải như một người nước ngoài – khác với nhiều công dân hèn nhát của nước tôi, ông đã dám lên tiếng về mọi chuyện, dám phê phán chính quyền và bảo vệ những người có tài và những người bị truy đuổi. Điều đó khiến cấp lãnh đạo ngán đến tận cổ. Vở kịch “Có phải Ivan Ivanovits đấy không?” của ông châm biếm thói quan liêu xô viết rốt cuộc đã bị cấm. Người ta gầm gừ với ông rằng là người nước ngoài ông không có quyền can thiệp vào chuyện nội bộ của chúng tôi. Nhưng ông cho rằng trong loài người không có chuyện “nội bộ” và ông đúng. Ông buộc phải lánh sang Ba Lan và khi quay lại ông đã tìm cách có được tấm hộ chiếu xô viết. Tôi nhớ trong buổi dạ tiệc mừng ông được quyền công dân xô viết, sau những lời chúc tụng, ông đã giơ cao trên đầu tấm hộ chiếu xô viết và vui vẻ, tự hào nói rằng bây giờ thì không một Ivan Ivanovits nào có thể trách cứ ông là người nước ngoài và không được quyền “can thiệp” nữa.
Trái tim ông bị mòn mỏi qua các nhà tù rốt cuộc đã không chịu đựng nổi và đã phản lại ông.
Một hôm như thường lệ, sáng sớm ông đi mua các tờ báo buổi sáng ở Moskva và trên đường về nhà thì bị chết, khi đang ôm đống báo áp vào tim, dường như toàn bộ hành tinh của chúng ta với những nỗi đau khổ và hy vọng của nó đã bị lừa dối hay đang có hy vọng được thực hiện.
Những con người như Nazim không phải là người nước ngoài dù họ ở bất cứ nước nào. Trái tim họ trở thành tấm hộ chiếu toàn thế giới.
Vai trò mà Nazim đóng trong lịch sử đã được định trước cho ông. Chỉ có điều ông đã có thể đóng một cách thiên tài cái vai định trước đó.




Phần nhận xét hiển thị trên trang