Các chuyên gia đánh giá rằng chuyến thăm Đà Nẵng của tàu sân bay Hoa Kỳ USS Theodore Roosevelt hôm 5/3 cho thấy Hà Nội coi trọng hơn mối quan hệ quốc phòng với Washington, khẳng định chính sách quốc phòng mới như đã thể hiện trong sách trắng cuối 2019, và gửi đi thông điệp rõ ràng hơn cho Bắc Kinh. Cùng lúc Bộ Ngoại giao Việt Nam nhận định đây chỉ là chuyến thăm “thông thường.”
Ông Nguyễn Thế Phương, một nghiên cứu viên của Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia, đại học Khoa học và Xã hội Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, nêu nhận định với VOA:
“Chuyến thăm của tàu USS Roosevelt cho thấy mối quan hệ quốc phòng Hoa Kỳ - Việt Nam ngày càng sâu sắc hơn, đặc biệt là sau khi Việt Nam đưa Sách Trắng về Quốc phòng vào cuối năm ngoái, khi đó có thêm điểm mới là nếu có điều gì xảy ra đối với an ninh của Việt Nam thì Việt Nam gia tăng hợp tác với một quốc gia nào đó…
Chuyến thăm này cho thấy Việt Nam khẳng định gia tăng mối quan hệ với Mỹ.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương
“Chuyến thăm này cho thấy Việt Nam khẳng định gia tăng mối quan hệ với Mỹ.
“Có thông tin cho rằng năm ngoái Mỹ có yêu cầu cho tàu sân bay thăm nhưng Việt Nam do tình hình nội bộ và tình hình thực tế trên Biển Đông khi ấy đã từ chối.
“Qua đó cho thất Việt Nam cân nhắc rất kỹ chính sách cân bằng của mình giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.”
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 nêu rõ: “Tùy diễn biến tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.”
Tiến sĩ Nguyễn Nhã, một nhà nghiên cứu thâm niên về tình hình Biển Đông nêu nhận định:
“USS Theodore Roosevelt là tàu sân bay hiện đại nhất của Hoa Kỳ cũng như của thế giới và khi đến thăm Việt Nam, Hoa Kỳ có ý dành cho Việt Nam sự ưu ái đặc biệt - những gì hiện đại nhất sẽ dành cho Việt Nam - cũng thể hiện mối quan hệ chặt chẽ với Việt Nam, sẵn sàng bảo vệ Việt Nam khi cần.”
“Chuyến thăm này tiếp nối chuyến thăm lịch sử năm 2018 của tàu sân bay USS Carl Vinson (CVN 70), chuyến thăm đầu tiên của một tàu sân bay Hoa Kỳ đến Việt Nam trong hơn 40 năm. Chuyến thăm cũng diễn ra vào một thời điểm quan trọng đối với quan hệ song phương của hai nước. Chỉ 25 năm sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, quan hệ song phương của hai nước đã trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết,” Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink cho biết thông một thông cáo hôm 5/3.
Cũng hôm 5/3, truyền thông Việt Nam trích lời Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng, nói:
“Tàu sân bay và tàu tuần dương thăm cảng Tiên Sa của Đà Nẵng từ ngày 5 đến 9-3. Đây là chuyến thăm thông thường của đoàn tàu sân bay Hoa Kỳ, nằm trong khuôn khổ các hoạt động kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.”
Tiến sĩ Nguyễn Nhã phân tích những thông điệp của chuyến thăm Việt Nam của tàu hải quân Hoa Kỳ:
“Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt cùng với các tàu hiện đại đi theo đi vào Biển Đông của Việt Nam, bất chấp Trung Quốc tuyên bố về “Đường Lưỡi Bò” là ao nhà của Trung Quốc.
“Đây là thông điệp cho Trung Quốc về tự do hàng hải theo Luật quốc tế, nhất là Tòa Án Quốc tế Lahaye đã tuyên bố bác bỏ “Đường Lưỡi Bò của Trung Quốc khi Philippines kiện Trung Quốc.
“Đây còn là thông điệp cho Trung Quốc không được bắt nạt nước nhỏ như Việt Nam mà khi đó Hòa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ.
Thông điệp cho Trung Quốc không được bắt nạt nước nhỏ như Việt Nam mà khi đó Hòa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ.
Tiến sĩ Nguyễn Nhã
“Ngoài ra qua đó cho thấy hiện nay Mỹ đã thay đổi, sẵn sàng dùng quân sự để đối phó với Trung Quốc.”
Trước đó, hôm 3/3, Giáo sư Carl Thayer, nhà phân tích quốc phòng Australia, nhận định trong một thông cáo: “Chuyến thăm này là một phần trong mối quan hệ quốc phòng lớn hơn giữa Mỹ và Việt Nam nhằm phát đi những thông điệp mạnh mẽ đến Trung Quốc về sự xâm lược của Bắc Kinh tại Biển Đông. Chuyến thăm của tàu Roosevelt là một tín hiệu của Hoa Kỳ cho thấy rằng họ có ý định duy trì sức mạnh hải quân ưu việt ở Tây Thái Bình Dương và Biển Đông.”
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương nhận định rằng chuyến thăm của tàu USS Roosevelt cho thấy Hà Nội có xu hướng gần Wasgington hơn tuy phải vẫn giữ thế cân bằng với Bắc Kinh:
“Mối quan hệ quốc phòng Việt – Mỹ hiện đang ở đỉnh cao trong 25 năm qua. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng mối quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ là yếu tố giúp Việt Nam cân bằng lại trong mối quan hệ tam giác Việt Nam – Trung Quốc – Mỹ: Việt Nam có xu hướng mở rộng quan hệ với Mỹ nhưng trên thực tế là xem xét làm sao cho mối quan hệ Việt - Mỹ cân bằng với mối quan hệ Việt –Trung để tránh những khó khăn trong mối quan hệ với người láng giềng trực tiếp ở phía Bắc.”
Có mặt tại Đà Nẵng, Chuẩn Đô đốc hải quân Hoa Kỳ Stu Baker, chỉ huy nhóm tác chiến tàu sân bay (CSG) số 9, nói trong một thông cáo: “Chuyến thăm này là bằng chứng cho cam kết của Mỹ đối với một Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và mở, nơi các quốc gia giàu mạnh và độc lập tôn trọng chủ quyền của nhau, và tuân thủ luật lệ quốc tế.”
Thật vinh dự cho Trần Mạnh Tuấn! Hôm nay thứ 6 ngày 6/3 Trần Mạnh Tuấn là nghệ sỹ duy nhất của Việt Nam được mời thăm quan và biểu diễn cùng với các nghệ sỹ trên tàu sân bay USS Theodore Roosevelt. Nối Vòng Tay Lớn của NS Trịnh Công Sơn và những bản Jazz kinh điển sẽ được vang lên trên một trong những con tàu lớn nhất của Mỹ này vào lúc 6pm chiều nay tại cảng Tiên Sa, Đà Nẵng. Hy vọng có sóng Wifi để Livestreams!
USSTheodore Roosevelt là tàu sân bay thứ 4 thuộc lớp Nimitz của Mỹ với thủy thủ đoàn gồm 5.000 người tham gia hỗ trợ và thực hiện các hoạt động không quân trên biển. Nhóm tàu sân bay tác chiến bao gồm 6.500 thủy thủ, một tàu sân bay, một không đoàn, một tàu tuần dương và sáu tàu khu trục.
Trước đó, vào tháng 3/2018 Trần Mạnh Tuấn cũng vinh dự được mời thăm quan và biểu diễn cùng các nghệ sỹ trên tàu sân bay USS Carl Vinson (CVN 70) nhân chuyến thăm Đà Nẵng.
Người Việt hôm nay đang gắng sức để trốn chạy khỏi nước mình. Trốn chạy dù lưu vong. Trốn chạy để hy vọng. Không chỉ với kẻ đi mà còn với vô vàn người ở lại.
1. Tháng Chạp trời Hà Nội mù sương. Sớm 9h, mưa phùn lất phất, hạt bay liêu xiêu trong gió. Những chấm người vội vã di động trong cái lạnh trên mặt đất thẫm màu vì ướt. Chưa đầy một tháng nữa sẽ là Tết, cái ngày dễ khiến người ta phiền lòng vì những chúc tụng, những bữa cơm rời rạc và đầy tràn. Nó nhắn tin: “Em đặt vé máy bay rồi. Tết năm nay em ăn Tết ở nhà!“. Nó hớn hở như khoe quà. Đôi khi mọi người mơ hồ không rõ nó đã đi bao năm. “8 năm, em đi từ 2011“, nó nhớ rành rọt. Những ngày rời nhà trọ, lội trong tuyết, tất bật phụ bếp rồi nấu hàng trăm suất ăn cho tới khi kiệt sức dạy nó biết đếm thời gian. Nó vẫn đang đếm thời gian, đếm xuôi cho tới ngày về Tết, và đếm ngược cho đến ngày… ly hôn.
Về pháp lý, nó đã 2 lần vợ. Lần đầu để đi. Lần hai để kiếm tiền trả nợ cho “ván bạc” ban đầu.
Thằng nhỏ giờ đã đang mang quốc tịch khác.
Nhưng những năm tuổi xuân của nó, tuổi 20 mãi nằm trong những bối rối không nói được thành lời. Đôi khi nó tin việc cố gắng là cần thiết. Bố mẹ toan tính, vay nợ, sắp đặt cho kết hôn giả đều là vì sửa soạn cho tương lai của nó. Tương lai của nó cũng là tương lai của cả nhà. Rồi biết đâu cả đời con nó, cháu nó. Rời nước mà đi, chuyện đó nào có ai nghĩ khó. Nhưng đôi khi, những đêm 2h sáng không thể ngủ, những hồ nghi và cơn mù mịt dằn vặt nó trong thống khổ. Tỵ nạn sinh kế hay tỵ nạn ước mơ? Ước mơ để sống của nó đang bó khung trong tháng ngày xa lạ. Cuộc sống vốn đâu đơn thuần chỉ có ăn và mặc.
Ở cố hương của nó bây giờ, đi tìm xứ khác định cư đã trở thành câu chuyện thời thượng. Những ai đã đánh tiếng đi, vô tình chạm mặt người khác sẽ được đón bằng lời hỏi thăm: “Bao giờ đi?“. Đi được là mừng. Rồi người ta chép miệng nghĩ bao giờ mình mới có “cửa”. Dù đi ở đây chính là lưu vong, là rời bỏ nơi họ chôn nhau cắt rốn!
2. Năm 2018 kết thúc bằng ồn ào “quốc thể” quanh việc 152 người Việt mua tour du lịch để bỏ trốn tại Đài Loan. Năm 2019 bắt đầu bằng những tấm hình người Việt chui trong giường hộp, tủ lạnh trốn ở lại Đài Loan để tìm sinh kế. Từ gần 1 triệu người sau năm 1954 đến hàng triệu người sau năm 1975, người Việt đã hoảng hốt di tản, tỵ nạn từ Bắc vào Nam, tỵ nạn ra nước ngoài. Hàng triệu người đã lao ra biển trên những chiếc tàu đánh cá các loại để thoát khỏi đất mẹ của mình, chấp nhận cả cái chết để… lưu vong.
Không ai nghĩ sau ngày “đổi mới”, người Việt còn ra đi khốc liệt hơn thế. Theo số liệu của Tổ chức Di cư quốc tế (IMO) lấy từ nguồn dữ liệu của Vụ Liên hiệp quốc về vấn đề kinh tế và xã hội (UN DESA), từ năm 1990 đến năm 2017, 2.727.398 người Việt Nam đã di cư ra nước ngoài [1]. Trong 28 năm qua, mỗi năm có trên 97,4 nghìn người Việt di cư ra nước ngoài, bình quân mỗi tháng có hơn 8.000 người Việt ra đi. Mà dễ hình dung hơn, cứ mỗi giờ, 11 người Việt rời khỏi Việt Nam.
Năm 2018, số hồ sơ xin thôi quốc tịch Việt Nam nhiều hơn 82 lần so với số hồ sơ xin nhập tịch và trở lại quốc tịch Việt Nam (4.418 hồ sơ xin thôi so với 45 hồ sơ xin nhập, 9 hồ sơ xin trở lại quốc tịch), theo số liệu của Bộ Tư pháp.
Những người rời Việt Nam, họ đi đâu? Hơn 1,4 triệu người đã tới Mỹ, 238 nghìn người di cư sang Australia, hơn 190 nghìn người rời nước qua Canada. Đó chỉ là 3 nước mà người Việt chọn để đi đông nhất. Khác với những năm 1954, 1975, làn sóng di cư âm thầm mà dai dẳng sau ngày “kinh tế đổi mới” khiến người Việt có mặt ở khắp nơi trên thế giới, kể cả châu Phi, điều mà trước đó, cả hai miền Nam Bắc đều không hề có.
Sau năm 1975, họ bằng mọi giá phải thoát khỏi nước mình. Sau năm 1990, chẳng có lý do gì để họ ở lại. Theo IMO, người Việt đang di cư để lao động. Di cư du học. Di cư do hôn nhân. Di cư do nhận con nuôi. Di cư do buôn bán người. Trong nghĩa Hán Việt, di cư (移居) chỉ là dời chỗ ở. Còn người Việt đơn thuần hơn, họ gọi tên cho những cuộc ra đi của đồng bào mình là tỵ nạn.
Tỵ (避) có nghĩa là tránh, lánh xa; nạn (難) nghĩa là tai họa, khốn ách. Tỵ nạn (避難) có nghĩa là lánh họa, tránh điều không may xảy tới. Tất cả đều đang lánh họa, sợ hãi cho điều tai ương đang trờ tới.
Những làn sóng người Việt ra đi từ hơn bốn mươi năm trước “tỵ nạn chính trị”, hai mươi năm kéo dài tới nay “tỵ nạn sinh kế”, “tỵ nạn giáo dục”, “tỵ nạn môi trường”. Đó đâu đơn giản chỉ là di cư. Với rất nhiều người, họ đang trốn chạy, trốn chạy vì mưu sinh, trốn chạy để học hành, trốn chạy để cống hiến năng lực, trốn chạy để thở trong một môi trường không ô nhiễm tệ nạn, thiếu nhân quyền.
Người nghèo, kẻ bất đắc chí ra đi. Người có tiền, quan chức cũng dọn đường lưu vong để hưởng thụ. 3 tỷ USD người Việt đổ vào mua nhà ở Mỹ công bố năm 2017 chỉ là thống kê sơ bộ của Hiệp hội Quốc gia chuyên viên địa ốc Mỹ (NAR), con số thực tế còn cao hơn nhiều.
Nhưng dù là giới có tiền, người có học hay kẻ cùng đường, chọn con đường tha hương có lẽ ít nhiều vì cùng chung nhau một điểm. Không còn hy vọng vào sự thay đổi của xã hội Việt Nam, họ “tỵ nạn niềm tin”. Không ai muốn sống trong một xã hội từ chối sự thay đổi. Niềm tin bị cùn mòn khi cái ác quá lớn còn lòng thiện lương liên tục phải gắng gượng mỗi ngày. Trong môi trường nhiễm độc, bất kỳ ai cũng có thể trở thành Đặng Văn Hiến, Hoàng Công Lương. Người bần cùng phải chết. Người thanh thiện cũng không tha. Thay vì an sinh, giáo dục và y tế Việt Nam lại trở thành hiểm họa. Xã hội bất tín, giả dối trở thành thói quen để sinh tồn. Quan chức lo ngày “đứt cương”, còn dân sinh thì mỗi lúc sợi dây thuế phí càng thít chặt mặc tệ sách nhiễu, lạm thu, hối lộ đương nhiên tồn tại. Người dân bị cấm nói lên sự thật của đất nước mình…
Theo Gallup, ít nhất 50% người Syria muốn bỏ nước ra đi vì nội chiến không biết bao giờ kết thúc. Khoảng 2 triệu người Venezuela đã chạy khỏi đất nước trong năm 2018. Còn tại Việt Nam, người dân đang tha hương vì thiếu đói. Ít nhất 180.000 người Việt bị đẩy sang nước khác sau thảm họa Formosa. Kiều hối gửi về góp phần tăng GDP và ngoại tệ cho Chính phủ.
Tìm xứ khác định cư, ngay thời bình, đã trở thành mưu cầu để hạnh phúc.
Nơi không người thân, không có ký ức, vẫn rất nhiều người ra đi.
Nhưng khi những xô đẩy của cuộc sống xứ lạ qua đi, sự hoang hoải ở lại. Lao động, làm việc nơi xứ người cần gấp đôi sự kiên cường. Một nửa để thiêu đốt ngày xanh. Một nửa để nuôi lòng ở lại.
3. Người Việt Nam chúng ta sinh sống trên một vùng lãnh thổ mở rộng qua nhiều biến cố lịch sử, thời gian khác nhau, tiếp nối mà thành hình dựa trên các giá trị văn minh của nhiều nền văn hóa. Nơi giữa mỗi miền, trải qua các thế hệ, phong tục, tập quán khác nhau, phương ngôn khẩu ngữ khác nhau, thói quen dưỡng dục cũng khác. Vậy điều gì đã liên kết chúng ta lại thành một thể? Không phải là ở các sản vật văn minh mà là cái gốc văn hóa và truyền thống.
Sự gắn kết văn hóa của một dân tộc khởi nguồn từ sự gắn bó sâu sắc với đất đai và thiên nhiên. Trong cái toàn thể của tự nhiên, con người dần hình thành các phương thức hành vi để phù hợp với cộng đồng, thích ứng với môi trường tự nhiên để tồn tại. Triết lý tinh thần được tạo ra từ đó. Đó đơn giản là đạo lý – giá trị chung mang tính phổ quát – hướng con người tới cách tư duy và hành vi đúng đắn. Vì sự khác biệt địa khu, lịch sử, mà tâm thức của mỗi dân tộc mỗi khác. Nhưng mỗi dân tộc mang một nội hàm văn hóa riêng, ăn sâu vào ký ức của cộng đồng. Nên dù sinh sống trên lãnh thổ này hay vùng đất khác, tâm thức của mỗi người dân mỗi dân tộc vẫn mang theo dấu ấn văn hóa của dân tộc đó. Khi lịch sử bị đoạn đứt, phong tục tập quán, ngôn ngữ bị tách rời, tự nhiên và các di sản văn minh bị hủy hoại một cách hệ thống, những người thuộc về dân tộc ấy dần trở nên cô độc, đánh mất bản tính tự ngã khi văn hóa không còn.
Nỗi niềm thương quê nhớ xứ từng là điều day dứt khôn nguôi đối với thế hệ đánh cược cả mạng sống để rời nước sau năm 1975. Bốn mươi năm, hai mươi năm sau, tâm thức đó thế nào trong nghĩ suy của mỗi con người Việt còn ở lại và đã di cư sang xứ người?
Sự rạn nứt văn hóa không chỉ bắt đầu bằng những suy đồi về văn hóa trong xã hội Việt trong vùng lãnh thổ Việt. Sự rạn nứt văn hóa khơi nguồn khi những giá trị văn hóa truyền thống bị phá bỏ, di sản bị coi là lạc hậu, giá trị quan thay đổi khi sức mạnh hay sự giàu có được tôn vinh làm thước đo phẩm giá. Trong cơn đứt gãy ấy, dòng di cư thời hiện đại của người Việt không chỉ đơn thuần là một cuộc chuyển dịch mang tính địa khu. Tự bản thân nó đã mang tâm thức lưu vong khi người Việt phủ định văn hóa Việt, các giá trị nhân sinh hình thành trong nền văn hóa đó. Sự luyến tiếc, nhớ thương, những thói quen sinh hoạt, tập quán Việt vẫn được người Việt tại hải ngoại giữ gìn tựa như chỉ dẫn rằng có một nền văn hóa giàu nhân sinh đã tồn tại, có các giá trị văn hóa tinh thần không thể bị thay thế của người Việt.
Năm 1944, luật sư Raphael Lemkin đưa ra thuật ngữ “Cultural Genocide” – Diệt chủng văn hóa, như một phần của tội diệt chủng. Dù chưa được chính thức thừa nhận trong công ước về quyền con người của Liên Hợp Quốc, thuật ngữ này vẫn được lưu ý trong các nghiên cứu về tính tồn vong của một nhóm cộng đồng. Từ góc nhìn về nạn diệt chủng người bản địa ở Canada, nhà xã hội học Andrew Woolford và giáo sư Adam Muller (cùng tại Đại học Manitoba, Canada) cùng đi đến lập luận: “Nếu như diệt chủng là việc phá huỷ nhắm vào sự tồn tại của một nhóm nào đó – tức là nhắm vào điều tạo nên nhóm đó – thì tất cả những hành động được thiết kế để làm cho nhóm đó bị huỷ diệt – về tài sản, văn hóa, chính trị, kinh tế hoặc bất cứ điều gì – đều được tính là diệt chủng” [2].
Trong xã hội Việt hôm nay, mỗi ngày trôi qua, lại có thêm những cá nhân phải chịu đau đớn bởi bất công xã hội, áp bức và cướp bóc, phủ định tín ngưỡng. Trong cái nhìn về toàn thể, sự tổn thương đối với các giá trị văn hóa đang thực sự gieo rắc nỗi đau lên toàn bộ cộng đồng. Những cuộc tấn công vào di sản văn hóa đã và đang làm lung lay nền tảng tinh thần cơ bản của mỗi người: Niềm tin. Niềm tin vào sự thay đổi của xã hội. Niềm tin vào giá trị cốt lõi về tình người. Niềm tin rằng lẽ phải và sự thật là điểm tựa cho công lý. Niềm tin người chính trực được tôn vinh, người thiện lương được đền đáp. Niềm tin xã hội có người giàu, người nghèo, nhưng người nghèo không phải bỏ xứ đi, người giàu không tìm đủ mọi cách “đào xới” nước mình… Khi văn hóa sa đọa, những niềm tin ấy bị rớt xuống đến đáy. Đó là lý do người Việt ra đi, âm thầm và mạnh mẽ như sự đổ vỡ trong nền tảng xã hội.
Hơn bốn mươi năm qua, Việt Nam hiện hữu trước thế giới với tư cách của một quốc gia đã thôi tiếng súng. Có những biến động nằm trong dòng chảy phát triển, có những biến động mà hệ quả để lại là sự đổ vỡ của tự nhiên, của văn hóa, và di sản. Dù ở lại hay ra đi, nhiều người Việt vẫn tiếp tục trăn trở về sự đổi thay của đất nước. Ai cũng hiểu niềm tin là điều cần níu giữ. Không phải chỉ riêng niềm tin vào sự khởi sắc của văn minh xã hội, mà là niềm tin về những giá trị văn hóa hài hòa – cái gốc của nền tảng đạo đức xã hội. Từ bỏ các luân lý phản giá trị, khôi phục văn hóa, tìm về với các giá trị phổ quát của nhân loại, đó mới là lối đi để người Việt Nam rũ bỏ những bế tắc hiện nay, tìm về cội nguồn của chính mình.
Hạn mặn tại ĐBSCL đang bước vào đợt cao điểm. Tình trạng khô hạn gay gắt đã đẩy hàng trăm ngàn hộ dân vào cảnh thiếu nước sinh hoạt, phải đi mua với giá 300.000đ/m3…
Những ngày này, nước mặn đã vào sâu sông Vàm Cỏ gần 100km và vào sông Cửu Long tới 74km. Kéo theo đó là tình trạng nắng nóng, khô hạn kéo dài. Tại huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, tình trạng thiếu nước ngọt diễn ra nghiêm trọng chưa từng có. Người dân phải thuê xe đi rất xa để lấy nước ngọt, khiến cho giá nước tăng vọt lên tới 300.000 đồng/m3.
Trong khi đó, huyện Cai Lậy lại là địa phương trồng sầu riêng thuộc loại lớn nhất ĐBSCL, nông dân cần nước ngọt liên tục để tưới cho cây.
Hặn mặn, gay gắt, người dân ĐBSCL phải mua nước ngọt với giá 300.000đ/khối
Ông Nguyễn Văn Năm (huyện Cai Lậy) cho biết, do vườn sầu riêng sắp kiệt quệ, nên ông đành bấm bụng mua 10 khối nước hết 3 triệu đồng, vừa để tưới, vừa để dành sinh hoạt. Cuộc sống người dân vốn đã khó nay lại càng thêm khó.
Tại tỉnh Bến Tre, hạn hán và xâm nhập mặn cũng đã dẫn đến tình trạng thiếu nước ngọt nghiêm trọng. Do nước khan hiếm, người dân phải chấp nhận mua nước ngọt với giá lên đến 300.000 đồng/m3 để phục vụ cho tưới tiêu, sinh hoạt. Một số hộ nghèo, không có tiền mua nước, đành phải chấp nhận dùng nước mặn để sinh hoạt.
Hiện, giá nước ngọt đã tăng gấp 10 lần so với trước đây. Nhiều địa phương ở ĐBSCL đã sử dụng mọi giải pháp để hỗ trợ nước ngọt cho bà con sử dụng. Tỉnh Tiền Giang đã cho mở hàng trăm vòi nước công cộng phục vụ miễn phí dân nghèo. Các điểm này hoạt động 24/24h để người dân dễ dàng mang dụng cụ đến lấy nước.
Được biết, mùa khô năm nay, toàn vùng ĐBSCL có 158.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt, tập trung nhiều nhất là các tỉnh Kiên Giang với 20.400 hộ, Sóc Trăng 24.400 hộ, Bến Tre 12.700 hộ…
Shixin Chen, Phó chủ tịch ADB - 03/03/2020 - Chi phí lao động để sản xuất một áo sơ mi vải bông tại Mỹ trước đây là khoảng 7 USD so với chỉ 0,5 USD ở Ấn Độ, sẽ giảm xuống còn khoảng 0,4 USD tại Mỹ và châu Âu nếu sử dụng robot. Điều này sẽ khuyến khích việc đưa hoạt động sản xuất ở nước ngoài về lại chính quốc khi các nền kinh tế phát triển thay thế lao động của con người bằng máy móc trong những nhiệm vụ đơn giản thường nhật. Ví dụ, Việt Nam có thể mất tới 26% số việc làm do quá trình đưa hoạt động sản xuất về lại chính quốc này.
Tác giả Shixin Chen, Phó chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ảnh ADB
Mô hình “đàn ngỗng bay” không còn hiệu quả
Các công nghệ thông minh như trí tuệ nhân tạo hứa hẹn phá vỡ “mô hình tăng trưởng châu Á” tồn tại từ lâu, vốn là động lực cho cách mạng công nghiệp ở châu Á đang phát triển. Khu vực này phải chuẩn bị lực lượng lao động của mình từ bây giờ cho công cuộc tự động hóa và những công nghệ khác mà có thể thay thế việc làm của con người, đặc biệt là những nhiệm vụ giản đơn thường nhật trong chuỗi sản xuất toàn cầu, cũng như đầu tư cho những công nghệ cập nhật hàng đầu trong kỷ nguyên mới.
Cần nhanh chóng sửa đổi chính sách cho phù hợp nếu các quốc gia muốn tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp mới này - được biết đến rộng rãi là cách mạng “Công nghiệp 4.0”. Chính phủ cần ưu tiên những chương trình phát triển kỹ năng và tập trung vào kỹ năng mềm, năng lực thành thạo máy tính và đào tạo thực hành tại tất cả các cấp của hệ thống giáo dục để chuẩn bị nguồn nhân lực cho cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0.
Cho tới nay, châu Á đang phát triển đã được hưởng lợi rất lớn từ mô hình “đàn ngỗng bay” trong phát triển công nghiệp nối tiếp.
Ban đầu, Nhật Bản là “con ngỗng đầu đàn” trong việc nâng cấp từ các ngành công nghiệp đòi hỏi nhiều lao động sang các ngành công nghệ cao. Sau khi Nhật Bản chuyển đổi sang các ngành công nghiệp tiên tiến, những hoạt động sản xuất đòi hỏi nhiều lao động đã được phân bổ sang các nước đang phát triển (ví dụ như Ấn Độ, Bangladesh và Việt Nam). Việc chuyển hoạt động ra nước ngoài này đã tạo ra việc làm ở những quốc gia đang phát triển.
Tuy nhiên, cách tiếp cận “chuyển tiếp trong đàn” giờ đây có thể không còn hiệu quả. Tự động hóa sẽ làm giảm chi phí sản xuất, khiến việc chuyển hoạt động ra nước ngoài truyền thống không còn cần thiết trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Ví dụ, một nghiên cứu gần đây của Ngân hàng Phát triển châu Á cho thấy, chi phí lao động để sản xuất một áo sơ mi vải bông tại Mỹ, trước đây là khoảng 7 USD so với chỉ 0,5 USD ở Ấn Độ hoặc 0,22 USD tại Bangladesh, sẽ giảm xuống còn khoảng 0,4 USD tại Mỹ và châu Âu nếu sử dụng robot.
Điều này sẽ khuyến khích việc đưa hoạt động sản xuất ở nước ngoài về lại chính quốc khi các nền kinh tế phát triển thay thế lao động của con người bằng máy móc trong những nhiệm vụ đơn giản thường nhật. Ví dụ, Việt Nam có thể mất tới 26% số việc làm do quá trình đưa hoạt động sản xuất về lại chính quốc này.
Ngay cả trong khu vực châu Á đang phát triển, máy móc tự động đã bắt đầu thay thế lao động của con người. Ví dụ, một báo cáo gần đây của chính phủ cho thấy rằng tổng số lao động trong ngành dệt may của Bangladesh đã giảm từ 4,4 triệu trong năm 2013 xuống còn 3,6 triệu trong năm 2017, với nguyên nhân chính được cho là do tự động hóa.
Tại công ty Esquire Knit Composite ở vùng ngoại ô phía bắc của Dhaka, Bangladesh, những máy móc tự động hóa hoàn toàn từ Ý đang được sử dụng cho công đoạn cắt, còn máy móc bán tự động từ Nhật Bản được sử dụng cho công đoạn may và hoàn thiện. Chỉ công đoạn là và gập được thực hiện bằng tay, chiếm 30% tổng lao động trong nhà máy. Ngay cả điều này cũng sẽ sớm thay đổi, khi các máy là và gập tự động gần đây đã xuất hiện trong một số nhà máy.
Ít nhất một nửa số lao động châu Á cần trang bị kỹ năng mới
Để chuẩn bị tương lai chắc chắn cho lực lượng lao động, cần thiết phải hiện đại hóa hệ thống phát triển kỹ năng của khu vực. Trên khía cạnh này, 4 lĩnh vực sau cần được nhanh chóng đáp ứng:
Thứ nhất, các nhà quản lý cần xây dựng một lực lượng lao động có thể thích ứng với các nhu cầu thay đổi của công nghệ trong thời đại cách mạng Công nghiệp 4.0. Các kỹ năng nền tảng, kỹ năng nghề nghiệp, cũng như năng lực học tập không ngừng, là những yêu cầu then chốt cho thế hệ người lao động mới.
Ít nhất một nửa số lao động hiện thời ở châu Á cần trang bị những kỹ năng mới thiết yếu hoặc cải thiện kỹ năng, theo nhận định của Diễn đàn Kinh tế thế giới. Và khoảng một nửa trong số các hoạt động đào tạo này phải dựa vào những đơn vị đào tạo nhà nước và tư nhân ở bên ngoài.
Thứ hai, chúng ta cần tăng cường năng lực kỹ thuật số. Philippines đã đưa ra khung chương trình giáo dục kỹ năng thành thạo máy tính quốc gia cho học sinh ở bậc tiểu học và trung học, với mục đích tạo ra các công dân kỹ thuật số của thế kỷ 21, những người có thể sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) và các công cụ kỹ thuật số một cách tự tin, có trách nhiệm và có đạo đức.
Thứ ba, khu vực này cần phải xa rời cách thức học thuộc lòng, thay vào đó chú trọng vào tính sáng tạo, tư duy phản biện và giải quyết vấn đề, cũng như những kỹ năng mềm như giao tiếp.
Cuối cùng, khu vực cần đáp ứng những cơ hội mới xuất hiện bằng cách phát triển các kỹ năng liên quan tới ngành nghề. Những xu thế hàng đầu trong thị trường việc làm, bao gồm các kỹ năng mới như kỹ sư học máy, chuyên gia phân tích phát triển ứng dụng, lập trình viên xử lý dữ liệu (back-end), và các nhà khoa học dữ liệu.
Mặc dù chỉ có rất ít cơ sở đào tạo tại châu Á đang phát triển đã sẵn sàng để chuẩn bị người lao động trong những lĩnh vực mới này, song một số đơn vị đã bắt đầu tìm hiểu các chương trình để thực hiện việc đào tạo này.
Ví dụ, Sri Lanca đang thành lập các khoa mới về công nghệ tại 11 trường đại học công lập. Các trung tâm sáng tạo và hợp tác với doanh nghiệp đã được thành lập tại những trường đại học này để tạo ra một thế hệ các chuyên gia mới - những người được trang bị năng lực để sử dụng các công nghệ của cách mạng Công nghiệp 4.0.
Trong khi đó, tại Bangladesh, 640 trung tâm đào tạo công nghệ thông tin - truyền thông (ICT) tại các trường trung học trên khắp cả nước đã bắt đầu đi vào hoạt động trong năm 2019 như một bước thí điểm cho việc giáo dục kỹ năng thành thạo máy tính.
Cộng hòa Kyrgyzstan và Armenia đang lên kế hoạch rõ ràng để tăng cường giáo dục khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học, còn gọi là STEM. Những sáng kiến này cần được ưu tiên và mở rộng. Các quốc gia có thể học hỏi từ kinh nghiệm này để xây dựng những hệ thống phát triển kỹ năng hiệu quả, dựa trên bối cảnh và các cấu trúc thể chế riêng của họ.
Khi cuộc cách mạng công nghiệp mới này diễn ra, các hệ thống phát triển kỹ năng ở châu Á đang phát triển cần sự chuyển đổi mạnh mẽ. Thất bại trong hành động ngay hôm nay sẽ mang lại những hậu quả nghiêm trọng. Bởi khả năng tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng của khu vực châu Á đang phát triển phụ thuộc vào điều đó.
Chi phí lao động để sản xuất một áo sơ mi vải bông tại Mỹ trước đây là khoảng 7 USD so với chỉ 0,5 USD ở Ấn Độ, sẽ giảm xuống còn khoảng 0,4 USD tại Mỹ và châu Âu nếu sử dụng robot.
Hành khách đến từ các quốc gia có dịch thực hiện khai báo y tế tại cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất - Ảnh: PV
Số bệnh nhân nghi nhiễm COVID-19 tại Việt Nam trong ngày hôm nay (4.3) đã bất ngờ tăng lên chóng mặt với 79 trường hợp, nâng tổng số người nghi nhiễm COVID-19 hiện nay lên 92 người.
Thông tin từ Bộ Y tế cho biết, tính đến 16 giờ 30 ngày hôm nay (4.3), cả nước đang cách ly theo dõi 16.191 người tiếp xúc gần và đi về từ vùng dịch bệnh COVID-19, trong đó cách ly tập trung là 6.954 người và cách ly tại nhà là 9.237 người.
Đặc biệt, trong ngày hôm nay, Việt Nam phát hiện thêm 79 người nghi nhiễm COVID-19 do có những có triệu chứng của bệnh COVID-19. Như vậy, tính đến thời điểm này, Việt Nam đang có 92 trường hợp nghi nhiễm COVID-19. Đây là ngày có số người phát hiện nghi nhiễm cao nhất trong nhiều ngày qua.
Bộ Y tế cho biết, sau khi gỡ bỏ lệnh cách ly xã Sơn Lôi (huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) vào rạng sáng 4.3 thì đến thời điểm này Việt Nam không còn ổ dịch COVID-19. Tất cả các ổ dịch đã không phát hiện thêm trường hợp mắc mới COVID-19 sau 21 ngày kể từ ngày khởi phát.
Tuy nhiên, để phòng, chống dịch bệnh COVID-19 đang bùng phát ở nhiều quốc gia khác trên thế giới, Bộ Y tế cho biết đang chỉ đạo, đôn đốc các địa phương, đơn vị thực hiện khai báo y tế và cách ly y tế người nhập cảnh Việt Nam đến từ và đi qua Trung Quốc, Hàn Quốc, Iran, Ý và các vùng có dịch; đồng thời phối hợp với Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Trung tâm Kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ (CDC) tại Việt Nam, xây dựng hệ thống giám sát trọng điểm COVID-19 ở một số tỉnh, thành phố trọng điểm trên cả nước.
Trong khi đó, theo tin từ Trung tâm kiểm soát bệnh tật TP.HCM tính đến ngày 4.3 toàn thành phố đang cách ly theo dõi dịch bệnh COVID-19 đối với 895 người. Ngoài ra còn có 5 người có dấu hiệu ho, sốt, khó thở được đưa vào diện nghi nhiễm COVID-19 đã tiến hành phết hầu họng làm xét nghiệm sinh học phân tử (PCR) và đang chờ kết quả.
Hiện tại ở các khu cách ly tập trung của TP.HCM đang cách ly theo dõi 286 người, trong đó có 223 người tại Bệnh viện dã chiến ở huyện Củ Chi; 43 người ở khu cách ly huyện Nhà Bè và 20 người ở khu cách ly quận 7. Đối với 24 khu cách ly tập trung tại 24 quận huyện đến thời điểm này đang cách ly 195 người để theo dõi dịch bệnh COVID-19. Riêng các trường hợp cách ly tại nhà, nơi lưu trú đang là 415 người.
Trung tâm kiểm soát bệnh tật TP.HCM cho biết, sẽ tiếp tục áp dụng việc khai báo y tế tại các cửa khẩu cho tất cả hành khách nhập cảnh từ quốc gia có dịch như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Ý, Iran theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Thực hiện việc kiểm dịch y tế chặt chẽ tại sân bay nhằm phát hiện kịp thời người nghi ngờ mắc bệnh, người đến từ những vùng có dịch và tổ chức theo dõi, cách ly phù hợp.
Đặc biệt, đẩy nhanh tiến độ triển khai các khu cách ly tập trung của thành phố để sẵn sàng khả năng tiếp nhận, tổ chức cách ly cho người đến từ vùng dịch; tăng cường tổ chức kiểm tra, giám sát công tác cách ly tại cơ sở cách ly tập trung và việc cách ly tại nhà.
Hình ảnh tiêm kích F/A-18E Super Hornet bay trên tàu sân bay USS Theodore Roosevelt
Ảnh: hải quân Mỹ
Thông qua Twitter, hải quân Mỹ ngày 3.3 công bố một loạt hình ảnh ấn tượng nhất trong ngày ghi lại hoạt động của các hạm đội khắp toàn cầu. Đáng chú ý là hình ảnh một tiêm kích F/A-18E Super Hornet, trực thuộc phi đoàn tấn công số 31, đang bay trên hàng không mẫu hạm USS Theodore Roosevelt (CVN 71).
Theo trang Navy.mil của hải quân Mỹ, nhóm tác chiến tàu sân bay (CSG) Theodore Roosevelt đang thực hiện sứ mệnh tại khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Còn trang tin của Viện Hải quân Mỹ - USNI News ngày 2.3 đề cập rõ hơn khi cho biết tàu sân bay USS Theodore Roosevelt đang ở Biển Đông, với sự tháp tùng của Biên đội tàu khu trục số 23.
Đội hình hùng hậu
Dựa trên hình ảnh từ hải quân Mỹ, USS Theodore Roosevelt đang di chuyển trong đội hình hộ tống nhiều hơn thường lệ, với ít nhất một tuần dương hạm và 5 tàu khu trục. Tất cả tàu hộ tống đều được trang bị tên lửa dẫn đường, với mỗi tàu mang theo gần 100 tên lửa. Theo phân tích của trang Popular Mechanics, một nhóm tác chiến tàu sân bay Mỹ thường bao gồm một hàng không mẫu hạm, một tàu tuần dương và 2 - 3 tàu khu trục. Trong đó, tuần dương hạm đóng vai trò chính trong việc hình thành lá chắn bảo vệ tàu sân bay, đặc biệt xử lý các mối đe dọa trên không. Di chuyển gần đó trong lòng biển là một tàu ngầm tấn công hạt nhân để bảo vệ CSG trước những mối đe dọa dưới nước.
Tàu sân bay USS Theodore Roosevelt (CVN-71) thuộc lớp Nimitz có độ choán nước toàn tải hơn 117.000 tấn chạy bằng năng lượng hạt nhân. Tàu dài khoảng 332 m, có thể mang theo tổng cộng 90 máy bay bao gồm nhiều loại khác nhau. Tàu sân bay này sở hữu hệ thống đẩy máy bay và từng hiện diện ở nhiều điểm nóng trên thế giới trong hàng chục năm qua. Đặc biệt, USS Theodore Roosevelt cũng được Mỹ dùng để thử nghiệm “siêu máy bay” X-47B là dòng máy bay không người lái vũ trang tối tân chuyên dụng cho tàu sân bay.
Vì thế, số lượng đông đảo hơn hẳn của các chiến hạm xung quanh USS Theodore Roosevelt thu hút sự chú ý của giới quan sát và các nhà phân tích cục diện tại khu vực.
Trước đội hình hoành tráng trên, trang Popular Mechanics gọi USS Theodore Roosevelt là một trong những hàng không mẫu hạm Mỹ được bảo vệ chặt chẽ nhất, nếu không muốn nói là trước nay chưa từng có trong lịch sử hải quân Mỹ. Phát biểu tại lễ ra quân của CSG Theodore Roosevelt vào ngày 17.1 tại cảng nhà San Diego (bang California, Mỹ), giới chức căn cứ không - hải North Island nhấn mạnh: “Nhóm tác chiến tàu sân bay (Theodore Roosevelt) sẽ bảo vệ an ninh hàng hải, duy trì sự di chuyển tự do trên biển theo luật quốc tế, và phối hợp với các đối tác đồng minh để thúc đẩy sự ổn định và thịnh vượng của khu vực”.
Căng thẳng dâng cao
Sứ mệnh tại Biển Đông của CSG Theodore Roosevelt diễn ra trong bối cảnh căng thẳng quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc tiếp tục gia tăng. Tình trạng này bắt đầu khi tàu sân bay Sơn Đông của Trung Quốc đi qua eo biển Đài Loan vào ngày 26.12.2019, hành động công khai phản ứng Mỹ liên tục tổ chức diễn tập hải quân tại khu vực. Kết quả là kể từ Tết Nguyên đán, không quân và hải quân Trung Quốc đã nâng mức sẵn sàng tác chiến tại vùng biển Hoa Đông và Biển Đông. Các phi công của chiến khu Đông và Nam bộ của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) được yêu cầu hủy bỏ kế hoạch nghỉ tết và liên tục bay tuần tra tại hai vùng biển trên, theo báo PLA Daily.
Hồi tuần trước, một nhóm tàu gồm 6 chiếc của hạm đội Nam Hải đã quay về cảng nhà Tam Á, tỉnh Hải Nam sau khi hoàn tất hoạt động diễn tập bắn đạn thật suốt 41 ngày ở Tây Thái Bình Dương. Đây là cuộc diễn tập quy mô lớn nhất và diễn ra dài nhất trong 2 năm trở lại đây. Khi quay về, khu trục hạm lớp Type 052D dẫn đầu đội tàu đã chiếu laser vào máy bay tuần tra quân sự Mỹ. Hải quân Mỹ đã gọi đây là hành động “không an toàn và không chuyên nghiệp”.
Báo chí Trung Quốc cũng đề cập đến sứ mệnh hiện tại của nhóm tác chiến tàu sân bay Theodore Roosevelt tại Biển Đông, theo sau chiến dịch tương tự của nhóm tác chiến do tàu sân bay USS Abraham Lincoln dẫn đầu vào tháng 12.2019. Bắc Kinh cho rằng hải quân Mỹ sẽ sớm điều thêm nhóm tác chiến tàu sân bay thứ ba đến khu vực, theo nguồn thạo tin.