Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 12 tháng 2, 2020

Virus corona ‘giáng đòn’ đáng sợ lên nền kinh tế thế giới


Virus corona 'giáng đòn' đáng sợ lên nền kinh tế thế giới
Gần hai thập kỷ đã qua kể từ khi một chủng của virus corona được biết đến với tên SARS xuất hiện ở Trung Quốc, làm chết hàng trăm người và kéo theo sự ảm đạm cho nền kinh tế toàn cầu. Loại virus hiện nay đang hoành hành ở Trung Quốc thậm chí còn gây thiệt hại nặng nề hơn.
Trung Quốc đã trở thành một phần không thể thiếu của nền kinh tế toàn cầu kể từ thời điểm dịch SARS bùng phát năm 2003. Trung Quốc hiện là công xưởng của thế giới, tạo ra các sản phẩm như iPhone và là động lực đằng sau nhu cầu về các loại hàng hóa như dầu mỏ và đồng.
Trung Quốc cũng cung cấp hàng trăm triệu người tiêu dùng giàu có, sẵn sàng chi mạnh cho các sản phẩm xa xỉ, du lịch và xe hơi đắt tiền. Nền kinh tế Trung Quốc chỉ chiếm 4% GDP toàn cầu vào năm 2003 nhưng nay đã chiếm 16% sản lượng toàn cầu.
SARS làm 8.098 người nhiễm bệnh và 774 người chết trước khi được khống chế. Chủng mới của virus corona xuất phát từ thành phố Vũ Hán, miền Trung đất nước, đã làm hơn 1.000 người thiệt mạng và lây nhiễm cho hơn 40.000 người tại hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ. Nhà chức trách Trung Quốc đã đóng cửa Vũ Hán và nhiều thành phố khác nhưng virus vẫn tiếp tục lan nhanh.
"Sự bùng phát dịch bệnh có khả năng gây ra sự biến đổi to lớn đối với thị trường và nền kinh tế. Tuy nhiên, quy mô của những tác động cuối cùng sẽ được quyết định bằng việc virus phát tán và phát triển, mà việc này cũng như cách mà chính phủ phản ứng trước dịch bệnh là không thể dự đoán", Neil Shearing, trưởng nhóm các nhà kinh tế của tổ chức nghiên cứu cố vấn kinh tế Capital Economics, nói.
Ngoài ra, nguy cơ càng trở nên lớn hơn khi thực tế rằng thế giới bên ngoài Trung Quốc cũng đã thay đổi từ năm 2003. Toàn cầu hóa đã thúc đẩy các công ty xây dựng chuỗi cung ứng xóa bỏ đi ranh giới quốc gia, khiến các nền kinh tế trở nên kết nối và phụ thuộc vào nhau nhiều hơn.
Các ngân hàng trung ương lớn đã sử dụng ngày càng nhiều hơn các nguồn lực mà họ thường sử dụng để chống lại suy thoái kinh tế từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 trong khi nợ toàn cầu lên đến mức cao chưa từng thấy. Chủ nghĩa dân tộc dâng cao có thể khiến việc phản ứng toàn cầu trở nên khó khăn hơn nếu dịch bệnh bùng phát.
Virus corona giáng đòn lên nền kinh tế thế giới và đây là những lý do khiến nó thực sự đáng sợ - Ảnh 1.
Một người dân đeo khẩu trang bảo vệ trên đường phố Vũ Hán vào ngày 5/2/2020. Ảnh: CNN
Dịch bệnh tác động lên các chuỗi cung ứng và công ty toàn cầu
Các nhà máy sản xuất ôtô trên khắp Trung Quốc đã phải đóng cửa sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, khiến các nhà sản xuất ô tô hàng đầu như Volkswagen (VLKAF), Toyota (TM), Daimler (DDAIF), General Motors (GM), Renault (RNLSY), Honda (HMC) và Hyundai (HYMTF) không thể trở lại hoạt động bình thường tại thị trường ôtô lớn nhất thế giới.
Theo S&P Global Ratings, dịch bệnh bùng phát sẽ khiến các nhà sản xuất xe hơi ở Trung Quốc phải cắt giảm sản xuất tới 15% trong quý đầu tiên. Toyota hôm 7/2 cho biết sẽ đóng cửa các nhà máy đến ít nhất là ngày 17/2.
Các nhà sản xuất những mặt hàng xa xỉ vốn chủ yếu dựa vào lượng khách hàng Trung Quốc mua sắm trong nước cũng như nước ngoài, nay cũng bị ảnh hưởng lớn. Thương hiệu Burberry (BBRYF) của Anh đã đóng cửa 24 trên 64 cửa hàng tại Trung Quốc đại lục và lãnh đạo hãng này cảnh báo virus đang gây ra "hiệu ứng tiêu cực với nhu cầu hàng xa xỉ". Hàng chục hãng hàng không toàn cầu cũng hủy các chuyến bay đến và đi khỏi Trung Quốc.
Sự ảnh hưởng càng rõ rệt hơn cho chuỗi cung ứng toàn cầu.
Qualcomm (QCOM), nhà sản xuất linh kiện điện thoại lớn nhất thế giới, cảnh báo dịch bệnh gây nên những bất định "đáng kể" đối với nhu cầu điện thoại thông minh và nguồn cung dùng để sản xuất chúng.
Hiện tại, hình hình thiếu hụt các linh kiện lắp ráp ô tô cũng đã khiến Hyundai (HYMTF) phải đóng cửa nhà máy ở Hàn Quốc và Fiat Chrysler (FCAU) phải lên kế hoạch dự phòng để tránh trường hợp đóng cửa như một nhà máy của họ tại châu Âu.
Các nhà kinh tế nói rằng mức độ gián đoạn hiện tại đang ở trong tầm kiểm soát. Nếu số lượng các ca nhiễm mới bắt đầu giảm và các nhà máy ở Trung Quốc mở cửa trở lại, thì sẽ là dấu hiệu tốt cho nền kinh tế Trung Quốc trong quý I và thúc đẩy tăng trưởng toàn cầu. Tuy nhiên, nếu virus tiếp tục lây lan, thiệt hại kinh tế sẽ gia tăng nhanh chóng.
Mohamed El-Erian, trưởng nhóm cố vấn kinh tế của Allianz (ALIZF), nói với CNN rằng ông lo lắng nhất về nguy cơ tác động lan truyền đối với nền kinh tế.
"Đầu tiên, nó làm tê liệt khu vực bị dịch bệnh bùng phát. Sau đó, thiệt hại nhanh chóng lan rộng ra cả nước, làm suy yếu thương mại quốc nội, tiêu dùng, sản xuất và di chuyển của người dân", El-Erian cho biết.
"Nếu virus vẫn chưa được khống chế, quá trình này càng lan rộng hơn, bao gồm ngưng trệ thương mại khu vực và toàn cầu, cản trở chuỗi cung ứng và du lịch", ông nói thêm.
Nguy cơ dịch bệnh
Các nhà kinh tế đã rất vất vả để ước tính thiệt hại mà dịch bệnh có thể gây ra bởi tính đặc thù của dịch bệnh. Dịch bệnh thậm chí còn có thể gây thiệt hại nặng nề hơn cả thiên tai như bão lũ hay sóng thần hoặc các sự kiện khó lường khác.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB), một đại dịch có thể gây thiệt hại cho nền kinh tế tới gần 5% GDP toàn cầu, tức hơn 3.000 tỷ USD. Thiệt hại do những đợt dịch yếu hơn như dịch H1N1 năm 2009 cũng đã "xóa sổ" 0,5% GDP toàn cầu.
"Một đại dịch lớn giống như một trận đánh bất ngờ tới toàn cầu, ảnh hưởng sâu sắc và trên diện rộng", Ngân hàng Thế giới đánh giá về đại dịch vào năm 2013. (Hiện tại, virus corona ở Vũ Hán chưa được tuyên bố là đại dịch).
Tuy nhiên, virus không phải là yếu tố gây ra những thiệt hại đó. Thay vào đó, cách thức tiêu dùng, giao dịch của người dân và phản ứng của các chính phủ trước tình hình bệnh dịch ảnh hưởng đến mức độ thiệt hại.
Người dân ở trong nhà để phòng dịch dẫn đến cắt giảm mua sắm, tạm dừng công việc và du lịch, cắt giảm những nhu cầu tiêu dùng và năng lượng. Các công ty và chính phủ ra quyết định đóng cửa quán xá, cửa hàng, tạm đóng cửa nhà máy, tạm dừng sản xuất.
"Và cứ như vậy, sự việc ngày càng phát triển về phạm vi và mức độ. Nó có thể kết thúc vô cùng nghiêm trọng mà hiện tại chúng ta không thể đo đếm được", William Reinsch, cố vấn cao cấp tại Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu quốc tế, người từng giữ chức Chủ tịch Hội đồng Ngoại thương Quốc gia Mỹ, nói.
Theo ông Shearing, những đại dịch cho thấy nền kinh tế Trung Quốc thường bị tác động trong quý đầu tiên của năm, nhưng thường nhanh chóng đi vào quên lãng sau khi virus được khống chế.
"Miễn là việc đóng cửa nhà máy không dẫn đến tình trạng mất việc làm, vào giờ này năm sau, số liệu về GDP hầu như cũng không thay đổi nhiều so với nếu không có ảnh hưởng của virus", ông nói.
Chúng ta có thể làm gì?
Chính phủ Trung Quốc đã nhanh chóng phòng vệ và có các biện pháp chống lại các ảnh hưởng của virus corona lên nền kinh tế. Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã cắt giảm lãi suất chủ chốt vào tuần trước và bơm một lượng tiền mặt khổng lồ vào thị trường để giảm áp lực cho các ngân hàng và người vay. Các quan chức cũng công bố giảm thuế và hỗ trợ mới dành cho người tiêu dùng.
Tuy nhiên, Trung Quốc ngày nay cũng dễ lâm vào khủng hoảng hơn so với 17 năm trước khi dịch SARS bùng phát.
"Hiện nay, Trung Quốc có nợ cao hơn, căng thẳng thương mại với đối tác thương mại chủ chốt và tăng trưởng kinh tế của nước này đang chậm dần lại trong một số năm, là những điểm yếu khiến nó bắt đầu đối diện với khủng hoảng", Raphie Hayat, nhà kinh tế cao cấp tại ngân hàng Hà Lan ING, nói.
Các chuyên gia của Capital Economics kỳ vọng chính phủ Trung Quốc sẽ công bố những biện pháp bổ sung trong những ngày tới. Nếu virus tiếp tục lây lan rộng, họ tin rằng Bắc Kinh sẽ phải từ bỏ những mục tiêu lâu dài để kiểm soát các khoản nợ và bơm tiền trực tiếp cho nền kinh tế.
Ngân hàng trung ương của các nước và vùng lãnh thổ láng giềng gồm Sri Lanka, Malaysia, Thái Lan và Philippines đã hạ lãi suất trong những tuần qua. Hàn Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan có thể cũng sớm hành động tương tự.
Những các "ông lớn" của thị trường tài chính thế giới đã khá mệt mỏi sau một thập kỷ chiến đấu với tăng trưởng kém kể từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Ngân hàng Trung ương EU đưa ra lãi suất âm trong năm 2014 và chưa hề tăng lên kể từ đó đến nay. Ngân hàng Nhật Bản cũng có hành động tương tự. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã cắt giảm lãi suất 3 lần trong năm qua. Giám đốc Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell nói rằng ông rất thận trọng theo dõi tình hình.
Trong khi đó, mức nợ đã tăng vọt ở Mỹ, Nhật và các nước ở châu Âu bao gồm Italy, hạn chế tác động đến nền kinh tế nếu kinh tế toàn cầu rơi vào trạng thái bất ổn một lần nữa. Nợ toàn cầu, bao gồm vay vốn từ các hộ gia đình, chính phủ và các công ty đã tăng gấp 3 lần so với quy mô của nền kinh tế toàn cầu, tỷ lệ cao nhất từng được ghi nhận, theo Viện Tài chính Quốc tế.
Một điều quan trọng nữa là liệu các chính phủ có khả năng điều hành, ứng phó với dịch bệnh hay không, lý tưởng nhất là dưới sự giúp đỡ của các tổ chức đa quốc gia. Điều này đặc biệt đúng bởi theo WB, sự chuẩn bị cho nguy cơ đại dịch là rất thấp. Sự phối hợp có thể sẽ gặp khó khăn trong thế giới ngày càng chia rẽ khi chủ nghĩa dân tộc được đề cao hơn sự hợp tác.
"Rõ ràng, các tổ chức đa quốc gia đang phải chịu nhiều áp lực và có ít cơ hội hơn so với 10 năm trước đây. Nhưng nếu lạc quan, chúng ta có thể tin rằng đối diện với một dịch bệnh toàn cầu, các tổ chức toàn cầu vẫn có vai trò quan trọng để đối phó dịch bệnh", Shearing nói.
Tham khảo CNN

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lãnh đạo Việt Nam và bài học trong quan hệ với Trung Quốc


Hành xử của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ Hà Nội trong mối quan hệ với Trung Quốc khiến nhiều người cho rằng những bài học lịch sử nhãn tiền vẫn chưa khiến giới lãnh đạo Việt Nam thức tỉnh trước ‘chiến lược bá quyền’ của Trung Quốc như lời nhà nghiên cứu lịch sử và Biển Đông Đinh Kim Phúc vừa nhận định.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Bài học cho Việt Nam
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc đem quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc tuyên bố rút quân vào ngày 16 tháng 3 năm 1979.
Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc, ông Đặng Tiểu Bình, sau đó tuyên bố Trung Quốc đã đạt được chiến thắng về chính trị và chiến thắng chung cuộc, đồng thời khẳng định quân Trung Quốc "đã có thể tiến thẳng tới Hà Nội nếu muốn".
Phía Việt Nam cũng khẳng định đã giành được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống bọn phản động Campuchia ở biên giới Tây nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình.
Phải mất hơn 10 năm sau, năm 1991, quan hệ ngoại giao hai nước Việt - Trung mới chính thức được bình thường hóa.
Ông Đinh Kim Phúc, một nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử hơn 30 năm tại Việt Nam, nhận định rằng học thuyết đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Marx-Lenin hoàn toàn phá sản sau cuộc chiến này, bởi chủ nghĩa Marx-Lenin nhấn mạnh đấu tranh giai cấp giữa hai hệ thống đối lập là tư bản và cộng sản. Cuộc chiến tranh biên giới lại là cuộc chiến giữa đồng chí với đồng chí. Ông nói thêm về mối quan hệ hai nước sau chiến tranh:
“Từ khi Việt Nam và Trung Quốc trở lại quan hệ bình thường do những cam kết của lãnh đạo cao cấp hai bên thì chính phủ Việt Nam dường như muốn quên đi quá khứ đau buồn đó để hướng tới tương lai. Nhưng Trung Quốc thì họ không quên, hàng năm họ vẫn tưởng niệm cuộc chiến tranh mà họ gọi là ‘dạy cho Việt Nam một bài học’. Chúng ta muốn quên đi cũng không được vì cuộc chiến này để lại cho hai nước quá nhiều hệ quả cho đến hôm nay mặc dù đã bình thường hóa quan hệ.
Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc để lại cho Việt Nam một bài học rất lớn mà Nhà nước cần phải thấm nhuần. Tức là “không có bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn mà chỉ có quyền lợi của quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn mà thôi”. Đó là điều Việt Nam phải nhớ nằm lòng.”
Những nhà hoạt động mang tấm biểu ngữ phản đối Trung Quốc nhân lễ kỷ niệm 37 năm cuộc chiến Biên giới 17/2/1979, ở Hà Nội hôm 17/2/2016
Dù cuộc chiến qua đi đã 41 năm, hai nước đã bình thường hóa quan hệ với phương châm 4 tốt: Láng giềng tốt; bạn bè tốt; đồng chí tốt; đối tác tốt và 16 chữ vàng: Láng giềng hữu nghị; Hợp tác toàn diện: Ổn định lâu dài; Hướng tới tương lai, nhưng mối quan hệ giữa hai nước vẫn bất bình đẳng. Việt Nam vẫn thua thiệt rất nhiều so với Trung Quốc do lệ thuộc về kinh tế, mắc mứu về chính trị, nhất là tham vọng của Trung Quốc ở Biển Đông. Dường như Trung Quốc không thực sự coi Việt Nam là bạn, mà luôn khống chế Việt Nam, coi Việt Nam là một nước chư hầu của mình.
Thạc sĩ Hoàng Việt, một thành viên của Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông nhận định:
“Vấn đề gai góc nhất trong mối quan hệ Việt Trung bây giờ là Biển Đông. Trung Quốc đã có rất nhiều hành động như năm 2011 thì cắt cáp, năm 2014 thì đặt giàn khoan, năm 2019 thì cho tàu thăm dò dầu khí vào quấy nhiễu 113 ngày. Hành động của phía Việt Nam thì khác nhau tùy từng giai đoạn. Nếu năm 2014 rất mạnh mẽ, quyết liệt thì năm 2019 lại nhẹ nhàng, hòa hoãn. Năm 2017, trước sức ép của Trung Quốc, Việt nam yêu cầu Repsol phải rút khỏi khu vực Cá rồng đỏ.
Như vậy nếu nói về kinh tế thì rõ ràng Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc là khá nhiều.”
Theo ông Đinh Kim Phúc, mối quan hệ bất bình đẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn xảy ra vì Việt Nam vẫn còn ảo tưởng rằng hai nước có chung ý thức hệ XHCN. Ông nhấn mạnh, Trung Quốc không phải là XHCN, và trên thế giới hiện nay cũng không có một quốc gia nào là XHCN (kể cả Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và Cuba) mà họ xây dựng cái màu sắc XHCN đó theo hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia theo quyền lợi chiến lược của họ mà thôi, chứ không theo nguyên tắc của chủ nghĩa Marx-Lenin đã đề ra.
Mãi là quan hệ bất bình đẳng
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trải qua rất nhiều thăng trầm từ hàng ngàn năm qua do Trung Quốc luôn muốn xâm chiếm Việt Nam. Nhiều chuyên gia nhận định mối quan hệ hai nước đi từ chiến tranh đến hữu hảo - nhún nhường - nhẫn nhục. Thạc sĩ Hoàng Việt cho rằng đây là điều bình thường của tất cả các quốc gia trong khu vực chứ không chỉ riêng Việt Nam. Ông phân tích:
“Vì trải qua thời gian chiến tranh, nên dù mang tiếng là bình thường hóa nhưng phải mất một thời gian dài quan hệ hai nước mới được cải thiện.
Đến bây giờ thì quan hệ hai nước đã có những mặt được cải thiện rất nhiều nhưng có sự nhún nhường, nhẫn nhục.
Nhún nhường thì đương nhiên, cũng dễ hiểu vì Việt Nam nằm cạnh Trung Quốc, là láng giềng của Trung Quốc mà lại nhỏ hơn, yếu hơn Trung Quốc rất nhiều. Nói cho cùng thì không chỉ Việt Nam mà những quốc gia khác trong khu vực Đông nam Á cũng đều cần lợi ích từ Trung Quốc và đương nhiên cũng phải có sự nhún nhường nhất định.”
Năm 1979, Trung Quốc tuyên bố muốn ‘dạy cho Việt Nam một bài học’ nên đem quân đánh Việt Nam. Bây giờ Trung Quốc lại muốn xâm chiến Biển Đông. Vậy liệu Trung Quốc cho dạy cho Việt Nam bài học nào nữa hay không?
Theo Thạc sĩ Hoàng Việt thì những khúc mắc, xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc sẽ tiếp tục xảy ra bởi mặc dù phía Việt Nam luôn khẳng định quan điểm bất biến là chủ quyền không thay đổi, bằng mọi cách phải bảo vệ chủ quyền cũng như muốn giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không muốn phá vỡ tình hữu hảo với Trung Quốc.
Nhưng phía Trung Quốc lại luôn khẳng định Biển Đông là lợi ích cốt lõi và luôn muốn thực hiện trong thực tế đường lưỡi bò họ tự vẽ ra.
Ông Đinh Kim Phúc khẳng định bất cứ một chế độ nào khác xuất hiện ở Trung Quốc, kể cả nền cộng hòa, thì âm mưu bá quyền nước lớn cũng không bao giờ thay đổi. Tham vọng này không chỉ của Đảng Cộng sản Trung Quốc mà đã có từ thời Nhà Thanh. Tham vọng tiến về phía Nam là bản chất của Nhà nước Đại Hán từ ngàn xưa. Ông kết luận:
“Trung Quốc chỉ thừa hưởng những gì mà chế độ phong kiến để lại mà chưa thực hiện được. Chiến lược bá quyền của nhà nước phương Bắc là thâm căn cố đế.”
Hành xử của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ Hà Nội trong mối quan hệ với Trung Quốc khiến nhiều người cho rằng những bài học lịch sử nhãn tiền vẫn chưa khiến giới lãnh đạo Việt Nam thức tỉnh trước ‘chiến lược bá quyền’ của Trung Quốc như lời nhà nghiên cứu lịch sử và Biển Đông Đinh Kim Phúc vừa nhận định.
Diễm Thi
(RFA)
RFA.ORG
Hành xử của chính phủ Hà Nội trong mối quan hệ với Trung Quốc khiến nhiều người cho rằng những bài học lịch sử nhãn tiền vẫn chưa khiến giới lãnh đạo Việt Nam thức tỉnh trước ‘chiến lược bá quyền’ của Trung Quốc.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mỹ xóa bỏ các ưu đãi WTO đối với Việt Nam



Mỹ xóa bỏ các ưu đãi WTO đối với một loạt các quốc gia đang phát triển
Với quyết định trên, Mỹ đã xóa bỏ các ưu đãi của nước này đối với một loạt các quốc gia và vùng lãnh thổ đang phát triển, tự coi là nước đang phát triển hoặc được công nhận là nước đang phát triển, bao gồm Albania, Argentina, Armenia, Brazil, Bulgaria, Trung Quốc, Hong Kong (Trung Quốc), Colombia, Costa Rica, Gruzia, Ấn Độ, Indonesia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Malaysia, Moldova, Montenegro, Bắc Macedonia, Romania, Singapore, Nam Phi, Hàn Quốc, Thái Lan, Ukraine và Việt Nam.
Ngày 11/2, Cơ quan Đại diện thương mại Mỹ (USTR) thông báo chính quyền Mỹ đã thu hẹp danh sách các nước đang phát triển và kém phát triển nhất để giảm ngưỡng kích hoạt các cuộc điều tra của Mỹ về việc liệu các nước này có gây tổn hại tới các ngành công nghiệp Mỹ với việc trợ cấp xuất khẩu không công bằng hay không.
Động thái này đánh dấu sự từ bỏ chính sách thương mại của Mỹ trong 20 năm qua đối với các quốc gia đang phát triển, có thể dẫn tới các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc hơn đối với một số nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới.
USTR cho biết quyết định sửa đổi phương pháp xét tiêu chí nước đang phát triển để điều tra thuế chống bán phá giá là cần thiết bởi vì hướng dẫn trước đây của Mỹ (ban hành năm 1998) “hiện đã lỗi thời.”
Với quyết định trên, Mỹ đã xóa bỏ các ưu đãi của nước này đối với một loạt các quốc gia và vùng lãnh thổ đang phát triển (tự coi là nước đang phát triển hoặc được công nhận là nước đang phát triển), bao gồm Albania, Argentina, Armenia, Brazil, Bulgaria, Trung Quốc, Hong Kong (Trung Quốc), Colombia, Costa Rica, Gruzia, Ấn Độ, Indonesia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Malaysia, Moldova, Montenegro, Bắc Macedonia, Romania, Singapore, Nam Phi, Hàn Quốc, Thái Lan, Ukraine và Việt Nam.
Động thái trên cũng phản ánh sự thất vọng của chính quyền Tổng thống Donald Trump khi các nền kinh tế lớn như Trung Quốc và Ấn Độ được hưởng các lợi ích thương mại ưu đãi dành cho các quốc gia đang phát triển tại Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Tháng trước, tại Davos (Thụy Sĩ), Tổng thống Trump tuyên bố WTO đã đối xử không công bằng với Mỹ vì “Trung Quốc được coi là một quốc gia đang phát triển. Ấn Độ được xem là một quốc gia đang phát triển. Chúng tôi không được xem là một quốc gia đang phát triển.”
Mục tiêu của các ưu đãi đặc biệt của WTO đối với các quốc gia đang phát triển là giúp các nước nghèo có thể giảm nghèo, tạo việc làm và hòa nhập vào hệ thống thương mại toàn cầu.
Theo quy định của WTO, các chính phủ không được điều tra thuế chống bán phá giá nếu số tiền trợ cấp nước ngoài là tối thiểu, thường được xác định là dưới 1% giá trị quảng cáo.
Các quy tắc của WTO dành ưu đãi hơn đối với các quốc gia đang phát triển, nghĩa là nhóm nước này sẽ không bị điều tra thuế chống bán phá giá nếu số tiền trợ cấp dưới 2% giá trị quảng cáo.
Lâu nay, chính quyền Tổng thống Trump đã tìm cách chấm dứt những ưu đãi đặc biệt này đối với các quốc gia theo một số tiêu chí nhất định, như những quốc gia thành viên của các câu lạc bộ kinh tế toàn cầu như Nhóm Các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20), Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) hoặc những nước được Ngân hàng Thế giới (WB) xếp vào nhóm quốc gia có thu nhập cao.
Tháng 7/2019, Tổng thống Trump đã đưa ra một bản ghi nhớ hành pháp yêu cầu Đại diện Thương mại Mỹ Robert Lighthizer xác định liệu có thể đạt “tiến bộ đáng kể” nhằm hạn chế số lượng các nước được coi là các quốc gia đang phát triển hay không.
Theo ông Trump, Mỹ có thể hành động đơn phương nếu tình hình không như ý định của người đứng đầu nước Mỹ.
Một số quốc gia đã đồng ý từ bỏ quyền của các nước đang phát triển trong các cuộc đàm phán thương mại trong tương lai, bao gồm Brazil, Singapore và Hàn Quốc.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Giáo sư đầu ngành TQ qua đời vì virus corona


Lại Trần Mai
*Virus corona không chừa bất cứ ai. Chưa có dấu hiệu cho thấy thế giới đã kiểm soát được tình hình. Thậm chí tình hình TQ đang càng ngày càng xấu thêm. Bắc Kinh, Thượng Hải cũng đã bị cách ly... VN có nguy cơ rất lớn vì người TQ nhập cảnh quá nhiều trong thời kỳ TQ mới phát dịch; chưa biết sau thời gian ủ bệnh đến lúc bùng phát thì hậu quả sẽ kinh khủng như thế nào. Do đó các bạn cần nâng cao cảnh giác để bảo vệ mình và gia đình mình.* *Giáo sư đầu ngành về ghép thận Trung Quốc qua đời vì virus corona* *GS.BS Lin Zhengbin, chuyên gia đầu ngành về ghép thận của Trung Quốc, không may đã qua đời vì căn bệnh này..

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Ba, 11 tháng 2, 2020

Lộ báo cáo mật về Triều Tiên?

Báo cáo được cho là tài liệu mật của LHQ cáo buộc CHDCND Triều Tiên tiếp tục đẩy mạnh các chương trình hạt nhân, tên lửa.
Một cuộc thử nghiệm vũ khí của Triều Tiên vào tháng 8.2019  /// Reuters
Một cuộc thử nghiệm vũ khí của Triều Tiên vào tháng 8.2019
Reuters
Hãng Reuters ngày 11.2 dẫn báo cáo mật của LHQ cho rằng Triều Tiên vi phạm các lệnh trừng phạt khi tiếp tục đẩy mạnh các chương trình hạt nhân và tên lửa trong năm 2019. Theo đó, Triều Tiên còn nhập khẩu xăng dầu trái phép và xuất khẩu than trị giá khoảng 370 triệu USD nhờ sự hỗ trợ của các sà lan Trung Quốc.
Báo cáo dày 67 trang được gửi cho Ủy ban phụ trách về trừng phạt Triều Tiên tại HĐBA LHQ dự kiến được công bố vào tháng 3. Triều Tiên bị áp đặt các lệnh trừng phạt của LHQ từ năm 2006 và sau đó tiếp tục chịu thêm nhiều lệnh trừng phạt nhằm cắt nguồn vốn đầu tư vào các chương trình vũ khí hạt nhân và tên lửa đạn đạo.
Báo cáo dẫn nguồn từ “một quốc gia thành viên” cho rằng Triều Tiên xuất khẩu trái phép khoảng 3,7 triệu tấn than từ tháng 1 - 8.2019, trong đó 2,8 triệu tấn được xuất khẩu từ các tàu của Triều Tiên sang các sà lan Trung Quốc. Quốc gia không nêu tên này cho biết các sà lan trực tiếp chở than đến 3 cảng tại vịnh Hàng Châu và các cơ sở nằm ven Trường Giang ở Trung Quốc. Bên cạnh đó, Triều Tiên có thể đã xuất khẩu ít nhất 1 triệu tấn cát sông trị giá khoảng 22 triệu USD đến các cảng của Trung Quốc.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chân dung tự họa của nhà văn Phạm Thị Hoài, vừa dịp lên lão ( Từ báo chí trong nước? )


Có một thời bác Hoài đã làm ở Viện Sử rồi Viện Nghiên cứu Tôn giáo (đã viết ở đây, hồi tháng 9 năm 2017).

Dưới là bài đã lên trang của Phạm Thị Hoài. Nhưng chữ "văn nô" trong tiêu đề thì hơi bị thị trường hóa, mà thực ra là không rõ nghĩa. Hoặc cũng không cần rõ nghĩa.

Đã lâu lâu không có bài bình luận xã hội của Phạm Thị Hoài. Đến mẩu tự họa này cũng chỉ vui được vài giây.

Duy trì bút lực đâu phải chuyện dễ dàng xưa nay. Cũng như người nghiện thuốc lá thường ném thuốc lá vào sọt rác rồi lại nhặt lên châm lửa, thì nhà văn có thể nhiều lần vứt bút vào bụi rậm rồi lại phải chui vào lấy ra mà viết tiếp.

Tính nhanh chút, thì thấy bác Hoài năm nay đã vừa lên lão tuổi 60.

Tháng 2 năm 2020,
Giao Blog


Ảnh chụp tháng 4 năm 1984, tại Viện Sử học
(Phạm Thị Hoài Nam đeo kính ở hàng ngồi)


Có gì bổ sung thì dán ở dưới như mọi khi.






---



Chân dung một văn nô kệch cỡm



Th10 7, 2019
Phạm Thị Hoài biên soạn
Lời cảm ơn: Chân dung này được ghép từ những thông tin và nhận định nghiêm túc của nhiều tác giả, đã công bố trên báo chí và truyền thông tiếng Việt trong nước và hải ngoại. Tôi mong không bị khép vào tội đạo văn, vì đã không trực tiếp xin phép từng người khi sử dụng lại sản phẩm trí tuệ của họ tại đây, song hi vọng họ có thể kiêu hãnh tự nhận ra mình dù năm tháng đã khiến chúng ta phần nào thay đổi.
Phạm Thị Hoài
Phạm Thị Hoài sinh năm 1960 tại Gia Lộc, Hải Dương. Cha người Nông Cống, Thanh Hoá, gọi tên tay sai bán nước Phạm Quỳnh là bác; ông nội làm đốc học tỉnh Thanh từng cộng tác chặt chẽ với chính quyền thực dân-phong kiến. Mẹ người phố Châu Long, Hà Nội, nhà chuyên buôn hàng tấm, nhiễm lối sống thị dân sa đọa khi những cô gái cùng lứa đang đổ máu và mồ hôi trên những nẻo đường kháng chiến. Tuy cả hai là giáo viên, nhưng uất ức khi bị đầy ải từ cuộc sống ăn trên ngồi trốc của con nhà quan và con nhà buôn xuống cảnh lầm than ở các làng xóm nghèo của tỉnh Hải Dương, họ đã mặc cho con mình thất học. Thị Hoài đã phải nhảy cóc qua hai lớp đầu. Cái lỗ hổng ấy cả đời vốn đã không lấp nổi, lại cộng thêm hành trang rỗng tuếch của việc học hành loạng quạng đèn dầu nơi sơ tán, tâm trí bị chia cắt bởi từng gam mì chính trong các ô tem phiếu, khiến sau này, bị ám ảnh bởi mặc cảm thất học, thị đã gồng mình đào thoát khỏi thành phần xuất thân ấy, trở nên một học trò hãnh tiến, tìm mọi cách lọt qua kỳ thi tuyển du học ở nước ngoài. Từ nông thôn Việt Nam, thị nhảy dù xuống trung tâm văn minh Đông Berlin, theo học ngành lưu trữ ở Đại học Humboldt. Tại đây, thị tiếp tục khỏa lấp nguồn gốc thất học của mình bằng cách làm một con mọt sách, nốc vội nốc vàng mọi thứ và trở thành bội thực, tẩu hoả nhập ma, rút cuộc chỉ tiêu hoá nổi những cặn bã của văn minh phương Tây. Mặt khác, thị dùng thành tích học tủ, với số điểm luôn đạt mức tuyệt đối của mình, làm sức ép, khiến Đại Sứ quán Việt Nam tại Đông Đức đành làm ngơ trước lối sống ngày càng tha hoá, dâm loạn, vô tổ chức và ra vẻ nổi loạn kiểu dê non háu đá của thị. Quá trình mất gốc và bệnh hoạn của Thị Hoài hình thành trong chính thời gian này.
Trở về nước, không được trọng dụng, chỉ được giao một chân khiêm tốn là công tác tư liệu tại Viện Sử học ở Hà Nội, thị ngày càng bất bình. Lợi dụng thời gian nhàn rỗi, thị chỉ ngồi đọc sách vỡ hàng rổ kính và nhen nhóm ý định trả thù xã hội. Do quá buồn chán và rảnh việc, thị cũng theo học lỗ mỗ một số ngoại ngữ khác để dùng những bằng cấp kiếm cơm này làm đường tiến thân, cuối cùng cũng xin xỏ được vào làm cán bộ nghiên cứu của Viện Tôn giáo thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam. Nhưng môi trường nghiên cứu hàn lâm đòi hỏi những đức tính mà thị không thể có nổi, như sự nghiêm túc, chính xác, trung thực và nhất là một nền tảng kiến thức và học vấn vững chắc, trong khi thị chỉ nổi tiếng với những phát ngôn bừa bãi đầy cảm tính, sự học mót, học gạo, sự láu cá và những lỗ hổng kiến thức kinh hoàng. Thấy tương lai khoa học xa vời, lại háo danh, thị quyết định chuyển sang một nghề có vẻ dễ ăn hơn là viết văn.
Thị Hoài đã gặp may. Bước vào làng văn gặp ngay phong trào Đổi mới, chỉ cần viết cho có nét một chút, chửi đời thật nhiều, chửi Đảng thật nhiều là thành anh hùng, được hâm mộ, được dịch ra tiếng nước ngoài, thị đã không bỏ qua cơ hội này, trình làng cuốn tiểu thuyết mini là Thiên sứ. Tuy còn khá nhiều dấu vết của sự bắt chước và làm dáng trí thức, chủ yếu là bắt chước lối viết của các nhà văn hiện sinh chủ nghĩa đã cáo chung, cộng thêm một chút triết lý ranh mãnh, những biếm nhẽ đỏng đảnh, những cảm động nhợt nhạt dễ thương và sự nổi đoá con trẻ, nhưng tác phẩm này ít nhiều cũng gây được một chút cảm tình ở một số bạn đọc và được nước ngoài chiếu cố trao tặng giải thưởng và dịch sang một số thứ tiếng. Nếu quả có một chút tài hoa thì cái tài ấy của thị chậm nhất đến đây là chấm hết, bởi lẽ không cái tài nào có thể trường thọ nếu thiếu cái tâm, vả lại tài cán của thị chủ yếu là ở sự cố tình tỏ ra độc đáo, đánh vào thị hiếu thời thượng của lớp trẻ. Sự may mắn ban đầu đã làm thị loá mắt, coi thường người đọc, tưởng từ nay muốn nhào nặn văn chương ra những hình thù quái đản gì cũng được.
Trong thời gian này, thị cũng bỏ việc ở Viện Tôn giáo trước khi cơ quan đành cho thị thôi việc vì lý do thiếu năng lực và vô kỷ luật. Sau này thị đã trả thù cho giai đoạn nhục nhã này của đời mình bằng cuốn tiểu thuyết hết sức cường điệu là Marie Sến. Vô cùng hằn học vì việc không được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, lại bị Hội phê phán rất chính xác là tác phẩm của thị hạ thấp nhân cách con người, thị bỏ vào Đồng Nai sinh sống, đồng thời tuyên bố rằng cuộc hôn nhân của thị với người chồng đồng chủng là tù ngục và tìm mọi cách ly dị, để chạy theo một người đàn ông Đức nhẹ dạ đến Việt Nam du lịch, và có con với anh ta, khiến anh ta phải kết hôn với thị. Thị còn ép người chồng Đức phải học tiếng Việt để có thể dịch tác phẩm của thị sang tiếng Đức cho thêm danh giá. Mặc cảm nhược tiểu đã khiến thị chọn quê chồng làm quê hương, cuống quýt làm bổn phận của một nàng dâu văn hoá, hết lòng tâng bốc nước Đại Đức mong được thơm lây, và cũng vì lý do sinh kế, chối bỏ gốc Việt của mình khi bị người Đức hỏi. Từ khi mợ nó đi Tây, cô Kếu gái tân thời Thị Hoài chỉ còn một việc là nện guốc vào đầu những nhà văn hoá lỗi lạc của dân tộc, nhổ nước bọt vào văn hoá phương Đông, mạt sát, sỉ vả không tiếc lời cái đất nước Việt Nam đã trót dại mà sinh ra thị, nã đại bác vào văn hoá dân tộc, đốt ngôi đền văn hoá dân tộc để chứng tỏ mình là một tên đao phủ chém giết không ghê tay, một đứa con phản phúc đến tanh tưởi.
Trong quá trình băng hoại toàn diện như vậy, văn chương của Thị Hoài mỗi ngày một tha hoá, rơi sâu vào vực thẳm, dường như đã hết thuốc chữa. Như người nghiện thuốc phiện lâu ngày, liều lượng chỉ tăng chứ không giảm, văn phong của thị ngày càng mục rữa thối nát, nét khai phá táo bạo của buổi ban sơ đã biến thành mụn nhọt lở loét mưng mủ, nhung nhúc giòi bọ, khiến những người từng mến mộ thị nhất cũng đành phải lên tiếng cảnh tỉnh. Song như một con thiêu thân, thị chỉ dành cho những thiện chí ấy cái bĩu môi khinh miệt, miệng lưỡi chua ngoa độc địa và càng không coi ai ra gì. Không có sự trông đợi nào khiến người ta mệt mỏi và thất vọng cho bằng: cùng với thời gian, qua mỗi trang viết của những tác phẩm sau này như Man NươngMarie Sến, gần đây nhất là Ám thị, Thị Hoài càng đưa người đọc đến sự chán ghét văn chương hiện đại, xô người đọc vào vũng lầy bế tắc của xã hội bằng một thứ ngôn ngữ kinh tởm khó chịu, khiến người đọc thấy mình thấp kém y như những nhân vật trong truyện, thật quá oan ức cho văn chương và quá tội cho độc giả. Vì sao họ lại phải đọc những tác phẩm sa đọa, thô lỗ, sống sượng như vậy? Con người dưới mắt Thị Hoài là một loài vật vô ý thức, thô tục, bẩn thỉu và man rợ. Sở trường của thị là dựng nên một thế giới bỉ ổi, lưu manh, dâm đãng, đểu cáng và hèn hạ, nhằm khinh rẻ, tởm lợm con người, sỉ nhục và thô bỉ hoá giấc mơ của con người. Thị hoàn toàn đánh mất khả năng khám phá cái tốt đẹp của thế giới, nghĩa là đánh mất thuộc tính quan trọng nhất của văn học, vậy mà thị còn cả gan bày tỏ thái độ bỡn cợt, khinh thị, nhạo báng nền văn học của chúng ta, và công khai biến trang văn thành câu lạc bộ bệnh hoạn của chứng động kinh phi nhân tính, khinh rẻ và căm ghét con người, tìm mọi cách thối rữa hoá linh hồn và thể xác đồng loại trong cái nhìn bệnh hoạn nhẫn tâm. Bị ám ảnh bởi văn hoá giường chiếu, hành hạ bởi những ẩn ức tình dục của cuộc sống ăn chơi trụy lạc trước đây và phận làm dâu văn hoá đầy mặc cảm dồn nén sau này, lại chịu ảnh hưởng không tiêu hoá kỹ của phương Tây như phân tâm học, và bắt chước một số nhà văn Nhật Bản (thị từng lợi dụng danh tiếng để dịch cuốn tiểu thuyết Nhật cực kỳ vô luân và thối nát nhan đề Chiếc chìa khoá, khiến nhà xuất bản phải khốn đốn, cũng như thị từng gây tai hoạ cho nhà xuất bản đã quá cả tin mà cho ra mắt cuốn Man Nương, khiến giám đốc nhà xuất bản đó phải từ chức), thị không có cách nào khác là thực hành một lối văn khiêu dâm nhớp nhúa, lập hội quán libido, núp dưới tên tuổi của những Sartre và Camus, Kafka và García Márquez, Proust và Joyce để triết lý ba lăng nhăng dung tục nhằm câu khách rẻ tiền, đua đòi bắt chước những phương pháp sáng tác chợ chiều như Chủ nghĩa Phi lý, Tiểu thuyết Mới và Dã thú Mạt kỳ, tiếp tục thói làm dáng trí thức bằng khả năng nổi loạn dung tục. Văn chương của thị là thứ văn chương đù ông đéo bà cho đã cái lỗ mồm. Qua ngòi bút của thị, con người, đặc biệt là con người Việt Nam, đã bị tụt xuống ngang hàng với loài thú.
Cùng với việc bỏ chạy ra sống lưu vong ở nước ngoài, Thị Hoài đã tìm cách chơi một trò bi-a láu lỉnh, tấn công vào những tổ tiên đã chết để gián tiếp tỏ thái độ chính trị với một thể chế mà thị không dám dương đầu, vừa ăn điểm chính trị ở Hoa Kỳ, vừa an toàn vì chủ yếu đánh vào những người đã chết, chửi đổng, nói xấu sau lưng, xới tung lên những hận thù quá khứ mà người ta đang muốn quên đi, để đầu cơ nó. Thị cố khoét sâu vào những khía cạnh chính trị nhạy cảm để gây ấn tượng, đem mũi dao phi nhân tính của mình cứa cho quá khứ toé máu tươi ra một lần nữa. Một cô đầm kệch cỡm, chẳng phải Tây, chẳng phải Việt kiều, cũng chẳng dám gửi trứng vào dạ con của phụ nữ Tây để đoạn tuyệt đến cùng với dòng máu Việt, một kẻ không phải người Việt mà chui ở kẽ nẻ lên, một con điên lao theo ảo tưởng, luôn làm điều trái với đạo lý, ăn phải quá nhiều cặn bã Tây, càng giả vờ suy tư, càng ra vẻ lý luận dẫn đủ mọi chuyện đông tây kim cổ càng chứng tỏ là một kẻ điên đang bới trong đống rác thải của nền văn minh nhân loại, nhặt nhạnh đủ mọi thứ, ngồi tỉ mẩn khâu lại chằng chịt thành một cái quần thủng đít và đính cho nó một cái mác lý luận văn hoá kiểu Phạm Thị Hoài, một kẻ như vậy không đủ tư cách làm người mà chỉ là một con quỷ hình nhân, chỉ là một kẻ có tài chửi đổng và láu cá vặt, chỉ là kẻ bán rẻ mầu cờ sắc áo vì sinh nhai một cách thảm hại, chỉ là đứa trẻ miệng còn hoi sữa dám lạm bàn chuyện đại sự, nhưng thực ra cũng chỉ là một kẻ đáng tội nghiệp.
Mất gốc, Thị Hoài cũng đánh mất sứ mệnh cao cả của nhà văn và tịt luôn cảm hứng sáng tác, nhưng bản chất háo danh khiến thị chớp cơ hội Việt Nam mở cửa đón nhận cuộc cách mạng internet, lao vào làm chủ báo của trang mạng mang cái tên tù mù ấm ớ chẳng ai thèm đọc là talawas. Khi tờ báo này biến thành cái chợ hàng tôm hàng cá thì mụ Tú Bà rận chủ chuyên nghề buôn phấn son dâm chủ này bỏ chạy, quay sang viết báo. Vẫn bằng chất giọng chua ngoa và quay quắt mùi thịt cầy hạng bình dân pha lẫn rượu đế rẻ tiền, bằng thứ ngôn ngữ cường điệu cảm tính không kiêng cữ bất cứ điều gì, thị thường xuyên hắt ra tất cả những lời lu loa phỉ báng, khinh miệt, giễu cợt, xúc xiểm tất cả mọi đối tượng, kể cả những người từng dìu dắt thị vào giới cầm bút ở Hà Nội và đỡ đầu tinh thần cho thị một thời. Thực ra thị chỉ tốt nghiệp chuyên ngành văn khố, làm nhân viên lưu trữ văn thư ở Việt Nam một thời gian, vậy từ nền tảng học vấn hạn hẹp đó, làm sao thị có thể hiểu được những vấn đề chính trị, xã hội phức tạp để mà có thái độ đúng đắn? Vậy mà không chỉ nói sai, thị còn cao giọng phản bác, xổ toẹt tất cả những gì là giá trị liên quan đến đất nước, vào hùa với bọn người Việt bất lương ngồi sa-lông máy lạnh ở hải ngoại ném đá tổ quốc mình. Hạng ăn cháo đá bát, bồi bút, văn nô, văn đĩ như Thị Hoài thực ra chỉ là đống rác quên lãng của thời gian, nhưng nếu biết hối cải, trở về trong vòng tay dân tộc, thị sẽ có cơ hội bồi đắp lại phần nào khả năng văn chương đã mất mát của mình, lấy lại cảm tình của người đọc. Truyền thống khoan dung, nhân hậu của dân tộc ta là không bao giờ đánh người chạy lại.
2001-2014
Báo Trẻ, số Xuân 2019
http://www.procontra.asia/?p=6196





---


BỔ SUNG




1.

Sạch ngữ âm

Th1 2, 2020
Phạm Thị Hoài
Nếu bạn ngọng lờ-nờ và làm nghề đầu bếp, ra chợ hỏi mua cá nóc, cuối cùng vẫn xách cá lóc về nhà, thì không có gì thật sự đáng báo động. Song nếu bạn kiêm cả bồi bàn tiếp khách thì câu chuyện đã khác. Trừ khi bạn trưng biển “Ở đây có nói ngọng” mà quán vẫn đông thì xin chúc mừng, có khi bạn còn được lên CNN và trở thành một địa chỉ du lịch như bún mắng cháo chửi; đóng góp của Việt Nam cho thế giới là những ngóc ngách độc đáo như vậy. Còn lại, nếu khách nhất định cá lóc và bạn khăng khăng cá nóc, rồi lời qua tiếng lại, mày định đầu độc bố mày hử, rồi nước bọt văng tới đâu dao văng tới đấy, rồi báo chí giật tít “Án mạng vì món cá nhầm tên” – chậm nhất đến đây, là một cái thây, bạn sẽ muốn kiếp khác đầu thai thành loài gì cũng chấp nhận, miễn lờ-nờ không lẫn lộn.
Tôi sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, một trong những thánh địa của tôn giáo nờ cao nờ thấp. Bây giờ người ta phong nó thành sự đa dạng ngữ âm vùng miền, thành phương ngữ, thổ ngữ gì đó và sẵn sàng tuốt dao bảo vệ nó trong những cuộc thánh chiến nho nhỏ. Cha mẹ tôi không được cấp tiến, khoan dung như thế. Cấm tiệt con cái a dua môi trường. Không nghe thì nọc ra giường. Roi chẳng bao giờ chạm vào mông, song sự cương quyết của phụ huynh khiến đàn con răm rắp học giọng đài phát thanh thay vì giọng hàng xóm. Tôi đánh mất đặc sản ngữ âm địa phương và không thấy mình nghèo đi, cũng không thấy những người bảo tồn đặc sản ấy tự hào về một đóng góp nào cho sự giàu có của tiếng Việt. Ngược lại, họ chỉ khổ sở bởi cái di sản bất đắc dĩ ấy, tiếng Việt chẳng keo kiệt với những tình huống éo le. Khi họ bảo rằng trời lồm mình làm lông lên no nắng, hay nâu nâu họ đi nạc, bạn có đủ tế nhị để không kín đáo nhếch mép? Đủ rộng lượng để chấp nhận một giáo viên môn toán cứ nũy thừa và nôgarit mà dạy? Một giáo viên môn sử cứ từ Nạc Nong Quân đến Ný Trần Nê? Một giáo viên môn văn cứ “Cỏ lon xanh tận chân trời“? Chậm nhất, đến “Lao lao dòng lước uốn quanh“, “Dùng dằng lửa ở lửa về” và “Lách tường bông niễu bay sang náng giềng“, bạn sẽ phải lờ mờ – hay nờ mờ cũng đáng khoan thứ? – nhận ra rằng căn cứ vào vị trí thiêng liêng – hay thiêng niêng cũng chưa chết ai? – của tác phẩm này, “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn“, thì ngọng lờ-nờ là một cách vô tình làm mất nước.    
Đến lượt mình, tôi còn khắc nghiệt hơn hai đấng sinh thành. Tôi không kết bạn với người mắc cái tật khốn khổ nói trên. Tình bạn thậm chí có thể sống sót trong đống tro tàn của các chiến tuyến tư tưởng, song lại dễ cháy rụi bởi một chất xúc tác có vẻ hiền lành như ngọng lờ-nờ. Thuở trẻ có lần tôi phải lòng một chàng trai. Lỗi duy nhất, như thể để nêu bật sự hoàn hảo, là chàng lẫn đúng hai cái phụ âm chẳng họ hàng gì với nhau ấy. Không như mọi cách phát âm lệch chuẩn khác, ngọng lờ-nờ là một đột biến ngữ âm vô lý mà chức năng duy nhất là làm mất định hướng, làm nhiễu tư duy, làm hại ngôn ngữ, làm khổ chính tả, làm tội cái lưỡi và làm ô nhiễm môi trường âm thanh. Tôi đã nhặt nhạnh nhúm lý trí còn lại khi người ta yêu để bỏ chạy. Tôi có thể sống như thế nào đó cạnh một người biến tất cả lờ cao thành nờ thấp hoặc ngược lại, dù không chắc cái tai của mình có còn sống không. Ít ra, đó là người nhất quán. Nhưng với một người lờ nờ bất nhất thì chịu. Nói ngọng, viết ngọng và nghĩ ngọng là bộ ba khăng khít. Ngôn ngữ là phương tiện và biểu hiện của tư duy. Làm sao có thể tư duy bằng một ngôn ngữ đầy lẫn lộn, dễ dãi, buông thả, vô phương hướng, vô tổ chức, vô ý thức, vô nguyên tắc, vô trách nhiệm như vậy?
Lẽ ra toàn bộ công chức nhà nước cũng như khối viên chức trong các ngành giáo dục đào tạo và truyền thông phải đạt tiêu chuẩn sạch ngữ âm ở mức không cản trở giao tiếp và không gây phản cảm, tối thiểu là không nhầm lẫn lờ-nờ. Ở nhà họ lên giường hay nên giường, ngoài đường họ lái xe hay nái xe Lexus hay Nexus, đi du lịch hay du nịch họ “hê-lô” hay “hê-nô”, họ diện đồ Louis Vuitton hay Nouis Vuitton, họ khấn vái thần linh hay thần ninh, chơi ten-nít hay ten-lít trong các câu lạc bộ hay câu nạc bộ, thích ăn lòng lợn hay nòng nợn, sau mấy ly bia hay ny bia giao lưu hay giao nưu bạn hữu họ có thể khen hay chửi Tổng thống Đo-nát Tờ-ram hay Đo-lát Tờ-ram, tưởng nhớ hay oán trách một thời Liên Xô hay Niên Xô, lo ngại hay no ngại cho thềm lục địa hay thềm nục địa của đất nước hay đất lước…, tất cả những tự do lựa chọn đó không ai can thiệp. Đa dạng muôn năm. Ở đất nước này, trừ đa dạng tư tưởng và đa nguyên đa đảng, còn lại ai muốn đa gì thì đa, đa thê thậm chí được ngưỡng mộ. Song ở cương vị chính thức thì khác. Không thể xuê xoa coi lỗi phát âm là chuyện nhỏ, bởi tính chính danh của mỗi chức vụ trong bộ máy nhà nước trước hết được thể hiện bằng sự tôn nghiêm. Tất nhiên công lý có phần hài hước khi thẩm phán nói ngọng. Tất nhiên nền giáo dục có phần lố bịch khi Bộ trưởng Bộ Giáo dục “nuôn nuôn” nói về “chất nượng“. Và tất nhiên những viễn kiến của ngôi sao chính trị đang lên, Bộ trưởng Thông tin Truyền thông, khó được coi là nghiêm túc, khi ông cứ “nời giải Việt Nam” cho bài toán Việt Nam trong “nàn sóng internet thứ ba” mà diễn thuyết.
Thử hình dung, Hồ Chủ tịch đọc “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” tháng 12 năm 1946 không phải bằng giọng truyền cảm và chuẩn xác – nếu không muốn nói là lý tưởng về ngữ âm -, mà níu nô: “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất lước, nhất định không chịu nàm nô nệ… Việt Lam độc nập và thống nhất muôn lăm! Kháng chiến thắng nợi muôn lăm!”. Tôi tin rằng quốc dân sẽ bò ra cười, quên cả xách súng, gươm, cuốc, thuổng, gậy gộc đi cứu nước; Điện Biên Phủ sẽ không xảy ra, lịch sử Việt Nam sẽ là một lịch sử khác. Lịch sử thế giới cũng sẽ là một lịch sử khác, nếu Quốc vương nước Anh George VI. không dày công tập luyện, khắc phục tật nói lắp bẩm sinh, để phát đi lời tuyên chiến hùng hồn với Đức Quốc Xã tháng 9 năm 1939.
Còn lại câu hỏi, vì sao dàn lãnh đạo cao cấp hiện nay ở Việt Nam ngọng lờ-nờ như chưa bao giờ được ngọng, như không có chút sĩ diện nào để mất, như đang đặt nền móng cho ngôn ngữ hạ đẳng của giới thượng lưu mới? Trong một môi trường bẩn toàn diện, sạch ngữ âm có lẽ là xa xỉ, thậm chí vô nghĩa.
Tuần báo Trẻ, 2/1/2020
http://www.procontra.asia/?p=6253

Phần nhận xét hiển thị trên trang

VIỆT NAM - ĐẤT NƯỚC VÔ CÙNG KỲ LẠ?


[TT Donald Trump tại Hà Nội]

Việt Nam là trường hợp “vô cùng kỳ lạ” trong mắt các nhà nghiên cứu chính trị thế giới 

Việt Nam, trong con mắt của đông đảo các nhà nghiên cứu chính trị thế giới, là một trường hợp “vô cùng kỳ lạ”. Một quốc gia bé nhỏ về diện tích, đông đảo về dân số, GDP đầu người chỉ tầm trung bình thấp, kinh tế chỉ đang phát triển, cũng không phải là quốc gia có những tiếng nói quyết định về mặt chính trị, cũng không có quyền lực mềm về tài nguyên.

Việt Nam còn nằm trong khu vực được coi là “vũng trũng thế giới”. Nhưng trong con mắt của các nước lớn, Việt Nam luôn có một cái thái độ khiến người ta không thể hài lòng nổi nhưng cũng không thể ghét được. Giống như cô gái hotgirl trên FB hay Instagram, cô ấy có thể quăng cục thính khắp nơi nhưng tuyệt nhiên không ngả vào ai cả. Điều đó khiến cho các quan khách, các anh trai khó chịu nhưng tuyệt nhiên không ai lên tiếng. 

Việt Nam có quan hệ khăng khít với cả Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, 3 nước mới đây đã thành lập một liên minh trong G20 chống lại cuộc chiến thương mại do Mỹ đơn phương án đặt ra. 

Tờ Economictimes loan tin rằng Ấn Độ đã bán tên lửa BrahMos – tên lửa hành trình siêu vượt âm mạnh nhất thế giới hiện nay cho một quốc gia Đông Nam Á và họ chỉ đích danh Việt Nam. Nhưng Việt Nam thì không bình luận và từ chối trả lời báo chí quốc tế về vấn đề này. Viettel, doanh nghiệp công nghiệp quốc phòng lớn nhất Việt Nam được cho rằng tham gia vào việc thiết kế linh kiện cho phiên bản BrahMos lắp trên các máy bay SU, cũng từ chối lời bình luận. 

Việt Nam không bình luận và từ chối trả lời báo chí quốc tế về vấn đề Ấn Độ đã bán tên lửa BrahMos. 

Cũng mới quý I, 2019, một nguồn tin giấu tên trên MSN cho biết, Việt Nam sẽ mua tiêm kích thế hệ thứ 5 của Nga là SU-57, phiên bản khắc chế J31 của Trung Quốc và F35 của Mỹ. SU-57 Việt Nam được đồn đoán sẽ gắn BrahMos phiên bản đặc biệt. Nhưng cũng như thường lệ, các lãnh đạo ngoại giao Việt Nam đều “từ chối phát ngôn” về các vấn đề này. 

Việt Nam vẫn luôn “âm thầm viện trợ nhân đạo” cho Triều Tiên để đổi chác những thứ không ai biết. Những người Hàn Quốc biết chứ, nhưng họ không nói gì cả. Trong nhiều diễn đàn quân sự, những người Hàn Quốc cho rằng có vẻ như ông Kim Jong-Un đã đem thứ gì đó đến Hà Nội trên chuyến tàu mấy toa bọc thép với sức chứa vài trăm tấn. Chưa kể rằng việc Hà Nội điều 3 sư đoàn bộ binh, nhiều đoàn vận tải đến Đồng Đăng là có “một lý do ngoài việc đón tiếp”. 

“Tại sao họ lại phong tỏa quốc lộ 1? Điều nhiều xe vận tải, xe phá sóng? Hay họ đang vận chuyển vũ khí của Bắc Triều Tiên”. Và ý kiến này có vẻ như khá đúng, khi hơn 5.000 tấn gạo, hàng trăm tấn rau củ đã cập bến Triều Tiên trong tháng qua. 

Người Hàn biết rằng người Việt thân với người Triền Tiên. Họ cần 1 vùng đệm để có thể kê cao gối ngủ. Cũng đúng, nhà giàu thì thường sợ mất nhiều hơn. Người Hàn trở thành một trong những quốc gia đầu tư và viện trợ ODA cho Việt Nam nhiều nhất. Đại sứ Hàn Quốc và đại sứ Triều Tiên được cho rằng vẫn thường xuyên duy trì kênh liên lạc tại Hà Nội. Người Hàn sang Việt Nam ngày càng nhiều, được biết, có tới gần 200.000 người Hàn đang sinh sống làm việc tại Việt Nam. 

Các bạn có biết quốc gia nào viện trợ ODA nhiều nhất cho Việt Nam không? Đúng rồi đó, là Nhật Bản. Người Nhật Bản luôn cho rằng, họ phải là anh cả của Châu Á. Họ muốn vươn lên như một cường quốc thực sự về mặt chính trị. Một giáo sư Nhật ở Đại học Kyoto cho rằng có 3 điều cần phải làm để hiện thực hóa điều này: 

1. Có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Đông Nam Á, Nam Á và Tây Á. 
2. Có nền kinh tế top châu Á 
3. Có chiếc ghế thường trực trong Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc. 

Nhật Bản đã đạt được điều 2, họ duy trì là nền kinh tế vững chắc nhất châu Á trước khi Trung Quốc vượt qua. Về điều 1, họ cần có sự ảnh hưởng sâu rộng đến các khu vực này. Tại Nam Á, họ chơi rất thân với Ấn Độ. Tại Tây Á, họ có quan hệ tốt với các nước Ả Rập, Iran bất chấp thái độ không hài lòng của Mỹ. Tại Đông Nam Á, khu vực vốn hợp nhất nhưng lại có sự chia rẽ sâu sắc, người Nhật cần sự ủng hộ của một quốc gia “nắm trùm” Đông Nam Á, nhưng không muốn quốc gia đó quá thân với Mỹ, quá thân với Trung Quốc, quá thân với EU nhưng phải “có sự ảnh hưởng nhất định đến các ông lớn”. 

Các bạn biết quốc gia nào đó ở Đông Nam Á rồi chứ: Việt Nam. 

Đức cũng như Nhật, người Đức cho rằng thật là quá vô lý khi Đức phải đứng sau Anh và Pháp tại châu Âu. Người Đức cũng chọn Việt Nam, chứ không phải là quốc gia nào khác ở Đông Nam Á. Từng có thời gian “không bằng lòng” với Việt Nam trong vụ việc liên quan Trịnh Xuân Thanh. 

Nhưng thật buồn khi hơn 40 tỷ USD mua máy bay từ 3 hãng hàng không Việt đã khiến cho giới chính trị Đức tái mặt. Thêm nữa, Vinfast công bố sẽ hợp tác với GM, Ford nếu giới chính trị Đức tiếp tục thái độ “không hợp tác”. Và một ngày cuối tháng 2/2019, ngoại trưởng Đức Heiko Maas đã bày tỏ thiện chí mong muốn xin bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Việt Nam thì vẫn chưa lên tiếng, dửng dưng và có vẻ muốn đưa mối quan hệ này vào “chế độ chờ”. Đức tiếp tục thể hiện thiện bằng cách đưa kim ngạch giao thương 2 nước lên 2 tỷ USD và vận động doanh nghiệp Đức đầu tư vào Việt Nam. Tổng vốn FDI của Đức đầu tư vào Việt Nam chạm mốc 343,5 triệu USD, đứng thứ 5 trong khối EU. 

Mới đây, Cựu Phó Thủ tướng Đức cũng đã về làm việc tại Việt Nam, và người Đức muốn Cựu Phó Thủ tướng Đức có 2 dòng máu Việt – Đức này làm cầu nối cho việc nối lại quan hệ 2 quốc gia. Điều này khiến cho giới chống phá ở bên kia bán cầu tỏ ý khó chịu ra mặt khi ông này về làm việc tại Hà Nội. 

Cựu Phó Thủ tướng Đức gốc Việt Philipp Rösler về quê hương Việt Nam làm việc 

Tờ Bloomberg cho rằng, Mỹ đang coi Việt Nam là đồng minh thân cận, không có quốc gia xuất siêu vào Mỹ lại được Mỹ “làm lơ” như vậy. Việc Mỹ đưa Việt Nam vào “theo dõi” về việc phá giá đồng tiền chỉ là do sức ép phải “công bằng” của một nước lớn. Thậm chí tờ báo này cho rằng mối quan hệ Mỹ – Việt đã vượt qua 2 đồng minh truyền thống khác ở Đông Nam Á là Thái Lan và Philippines. 

Philippines thì liên tục cầu thị sự hành động của Mỹ tại Biển Đông nhưng Mỹ thì dửng dưng, chính mối quan hệ này đã bị xát muối khi Mỹ im lặng để Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough của Philippines mà không tốn một viên đạn. Còn về mặt Thái Lan, vị vua mới lên thay, họ đã không còn coi Hoa Kỳ như một đồng minh không thể thay thế nữa. Cả 2 quốc gia này, kèm với Indonesia luôn mong muốn trở thành lãnh đạo Asean, nhưng rất tiếc, trong những năm vừa qua, các lãnh đạo thế giới liên tục tụ họp về Việt Nam đã khiến cho cả Đông Nam Á có lẽ đã phải nhận ra: Ai mới đang là kẻ có tiếng nói quyết định tại khu vực này. 

Việt Nam, đang trên đà trở thành cường quốc tầm trung mới trên thế giới – báo Singapore nhận xét. 

Sức mạnh của Việt Nam, đến từ nền ngoại giao thượng thừa và sức nặng từ lịch sử. Quốc gia này là nguồn cảm hứng duy nhất khiến cho nhân dân châu Phi, Tây Á, Nam Mỹ tiến lên giành độc lập. Quốc gia này đã đánh bại những đế chế hùng mạnh nhất lịch sử nhân loại. Việt Nam chính là tấm gương cho những thế hệ quốc gia thứ 3, những quốc gia vươn lên từ chiến tranh, đói nghèo. 

Giữa thế giới đầy lọc lõi, Việt Nam như một anh bạn sẵn sàng đón tiếp tất cả đến nhà vui vẻ, trò chuyện và hướng đến tương lai. Không một nơi nào trên Trái Đất này có thể khiến đại sứ quán Triều Tiên và Hàn Quốc cùng ngồi lại với nhau, đại sứ quán Palestine và Israel có thể trao đổi các thông tin ngoại giao, đại sứ quán Ấn Độ và Pakistan ngồi điện đàm trong lúc xung đột tới đỉnh. Không một quốc gia nào ở Đông Nam Á, lãnh đạo Nga – Mỹ – Trung có thể đi dạo đường hoàng và có những cái bắt tay khăng khít. 

Sức mạnh của Việt Nam, không đến từ những năm tháng hòa bình như đa phần những người hàng xóm khác ở Đông Nam Á, những quốc gia được “trao trả độc lập” hoặc chịu mất đất để đổi lấy hòa bình. Việt Nam đã chiến thắng thì có quyền ít nhất là mặt hướng lên cao và tay nắm chặt hiên ngang. 

Sài Gòn, 11/08/2019 
Tiêu Điểm 
-------------
Bình Địa Mộc
(sưu tầm)


Phần nhận xét hiển thị trên trang