Mao Trạch Đông
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản.
Quyển sách bao gồm các chương sau đây:
- Tên cướp đỏ: 1921 – 1931: lần thăng tiến của Mao
- Con người chuyên quyền kia: Tưởng Giới Thạch
- Cuộc chạy trốn qua núi: 1934 – 1935: “Vạn lý Trường chinh”
- Địa ngục Nam Kinh: Cuộc thảm sát tại Nam Kinh
- Trận đấu tay đôi vì Trung Quốc: 1946 – 1949: nội chiến
- Khởi hành vào một kỷ nguyên mới: 1940 – 1954: cải tạo Xã hội Chủ nghĩa
- Cuộc chiến chống Mỹ: 1950 – 1953: Chiến tranh Triều Tiên
- Sự điên khùng của một bạo chúa: 1958 – 1961: “Đại nhảy vọt”
- Cuộc chiến của những đứa trẻ con: 1966 – 1976: Cách mạng Văn hóa
- Chuyến viếng thăm của kẻ thù giai cấp: Chuyến đi thăm Trung Quốc của Nixon
- Cái chết của ông Hoàng đế Đỏ: 1976 Mao qua đời
- Kế hoạch cho lần trỗi dậy: Trung Quốc mở cửa
- Cơn bão trên Thiên An Môn: Thảm sát Thiên An Môn
Tên cướp đỏ
1921 – 1931: lần thăng tiến của Mao
Tiến sỹ Ralf Berhorst
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO EPOCHE xuất bản
Vào ngày 31 tháng 7 năm 1921, 13 người đàn ông trẻ tuổi thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc ở gần Thượng Hải, trong số đó là một người thầy giáo rụt rè từ tỉnh lẻ, người cả một thời gian dài không có mục đích. Nhưng bây giờ con người 27 tuổi đấy đã tìm thấy một nhiệm vụ mà ông ấy muốn đấu tranh cho nó với tất cả sức lực: cuộc cách mạng. Mao Trạch Đông biến nó trở thành nghề nghiệp của mình – và chẳng bao lâu sau đó cũng dựa trên cả giết người, cướp của và tống tiền để thực hiện điều đấy.
Trời mưa như trút nước khi chiếc du thuyền rời bến trên “Hồ Uyên ương”, tròn 90 kilômét về phía Tây Nam của Thượng Hải. 13 người đàn ông trên thuyền không hề chú ý đến cơn mưa đang lan rộng ra vào ngày 31 tháng 7 năm 1921 đấy. Họ ngồi chen chúc quanh một cái bàn có những món cá, thức uống và cờ mạt chược. Và thảo luận.
Một bức tường bằng gỗ bảo vệ gian phòng hở ở mặt sau trước những cái nhìn tò mò. Ngay khi có thuyền khác đến gần, tất cả các câu chuyện đều câm lặng đi sau một tiếng gõ làm hiệu. Thế rồi những người đàn ông đó giả vờ trầm tư suy nghĩ chơi mạt chược, đẩy những con cờ qua lại trên cái bàn đã được đánh bóng. Họ biết: chỉ điểm của cảnh sát có thể cố nghe lén họ.
Những người đi trên du thuyền là sinh viên, giáo viên và nhà báo Mácxít. Họ đã mướn chiếc thuyền để ngụy trang cho cuộc gặp gỡ bí mật của họ như một chuyến vui chơi. Thật sự là họ muốn thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc. 13 người đàn ông đó đại diện cho chưa tới 60 người Cộng sản – trong một đất nước có hơn 450 triệu dân.
Họ liên kết lại với nhau thành những chi bộ bé nhỏ chỉ trong năm thành phố Trung Quốc, họ thiếu tiền và kinh nghiệm. Mặc dù vậy, họ vẫn quyết định thành lập chế độ chuyên chính vô sản ở Trung Quốc.
Một trong số những người đàn ông đó là một người trẻ tuổi, dáng cao với đôi mắt buồn. Ông ấy chải mái tóc đen khỏi trán. Trong những cuộc thảo luận, hiếm khi nào ông ấy cất tiếng nói, rõ ràng là sự xuất hiện thanh lịch của những người đồng chí nào đấy đã khiến cho ông e ngại, những người mặc quần áo comlê Phương Tây thay vì trang phục Trung Quốc và thêm vào đó hiểu biết lý thuyết Marx tốt hơn là ông ấy.
Con người 27 tuổi đấy là một nhà giáo dạy Sử ở tỉnh. Tên của ông ấy: Mao Trạch Đông.
Thế nhưng chính con người kín đáo đấy sẽ tạo cho ĐCS Trung Quốc trở thành một công cụ của quyền lực và khủng bố. Và nhờ vào nó mà thống trị một phần tư nhân loại.
Trong ngày đó, những người đàn ông thống nhất một chương trình hành động mang nét không tưởng: cần phải chiến thắng Chủ nghĩa Tư bản ở Trung Quốc và thành lập một xã hội không có giai cấp.
Khi chiếc thuyền trở về bờ hồ có sậy mọc bao quanh vào lúc trời chạng vạng, những người âm mưu đó không còn sợ chỉ điểm nữa. “Đảng Cộng sản muôn năm, Chủ nghĩa Cộng sản giải phóng nhân loại muôn năm”, họ gọi to trên hồ.
Vào ngày đấy, với chuyến đi chơi của một nhóm nhỏ những người cùng ý tưởng, lịch sử ĐCS bắt đầu – và cả lần thăng tiến khó tin trở thành nhà lãnh đạo Trung Quốc của một người con trai nhà nông.
MAO TRẠCH ĐÔNG, người sau này trở thành nhà cách mạng, sinh ngày 26 tháng 12 năm 1893 trong ngôi làng Thiều Sơn hẻo lánh ở tỉnh Hồ Nam giữa Trung Quốc. Đó là một thế giới còn nguyên thủy, giữa những ngọn đồi thoai thoải và những khu rừng rộng lớn trên núi, một thế giới mà trong đó có một vài trăm gia đình nông dân trồng lúa, trà và tre, đặt con trâu đi trước cái cày như trước đấy hàng trăm năm.
Không có đường bộ, không có đường sông dẫn vào trong thung lũng, nơi có lợn rừng, báo và thỉnh thoảng cũng cả hổ đi ngang qua. Làng Thiều Sơn hẻo lánh tới mức tin về cái chết của hoàng đế Quang Tự chỉ đến với người dân làng sau nhiều năm.
Cha của Mao, một cựu quân nhân của quân đội tỉnh, đã khá giả lên nhờ trồng lúa và ngũ cốc. Trong khi phần lớn các gia đình trong Thiều Sơn sống trong những ngôi nhà bằng đất sét và mái rơm thì gia đình Mao sống trong một ngôi nhà sáu phòng với mái ngói. Người con trai Trạch Đông của họ còn có cả một phòng riêng, một sự xa hoa khác thường cho con của một nhà nông.
Tuy vậy, cả trong gia đình này cũng không có nước máy – cho tới cuối đời, Mao vẫn thích kỳ cọ thân thể với một cái khăn được làm ướt bằng hơi nước, hơn là tắm rửa với xà phòng, và súc miệng bằng trà thay vì dùng một cái bàn chải đánh răng.
Bên cạnh nhà, những cánh đồng ruộng bậc thang của gia đình cao dần lên. Mao, cũng như tất cả những đứa bé khác trong làngg, phải phụ giúp làm việc ngay từ lúc còn nhỏ: thường ông phải chăn trâu bò hay chăn vịt.
Lúc tám tuổi, ông đi học trường làng; tiền học mà cha của ông ấy phải đóng nhiều bằng nửa năm lương của một người công nhân. Nhưng ông ấy vẫn trả – hẳn vì ông ấy hy vọng rằng người con trai sau này sẽ lo ghi chép sổ sách cho ông ấy.
Người thầy chỉ dạy cho Mao biết đọc và biết viết. Học trò, cũng như thần dân phái nam dưới triều nhà Thanh, luôn luôn phải thắt tóc bím, trích dẫn các tác phẩm kinh điển của Khổng Tử: những tác phẩm đã có từ nhiều thế kỷ, của chính triết gia đấy hay của các học trò ông ấy. Chúng nói về sự siêng năng, trung thực và về sự cải tiến liên tục tính chất cá nhân, cũng như về sự kính trọng cha mẹ.
Với 13 tuổi, Mao rời trường; theo ý của cha, ông cần phải làm việc trong trang trại và sau này trở thành người buôn gạo.
Thế nhưng người con đã khám ra một thế giới riêng cho mình từ lâu, thế giới của sách vở. Hàng đêm, bên ánh đèn dầu, ông ấy đọc biên niên sử, những quyển tiểu thuyết kể về những băng cướp, những cuộc nổi dậy và những chuyến đi hành hương. Ông lúc nào cũng che cửa sổ lại, để cho người cha không biết đến những lần đọc sách bí mật đấy.
Mao căm ghét con người gia trưởng nóng tính đấy, người cho rằng đọc những quyển sách đó chỉ là phí thời gian mà thôi và thường xuyên đánh đập ông. Qua những lần va chạm, người con đang lớn lên nhanh chóng có được một trải nghiệm đặt dấu ấn lên ông: nếu đối xử khúm núm, người cha chỉ đánh đập ông càng nhiều hơn. Ngược lại, nếu như bướng bỉnh thì ông lại có thể nhận được nhượng bộ bởi sự ương ngạnh của mình. Khi người cha già mắng nhiếc ông là lười biếng và vô dụng trước mặt khách đến thăm, người thiếu niên đấy đã chạy đến một cái hồ và dọa sẽ tự tử. Người cha nhượng bộ và hứa sẽ không quát mắng ông nữa.
Thế nhưng người trưởng gia đình đấy ép buộc chàng trai 14 tuổi phải bước vào một cuộc hôn nhân đã được hứa hẹn trước với một người chị họ xa, lớn hơn ông bốn tuổi, [La] Nhất Tú. Nhưng Mao chưa từng bao giờ nhìn người chị họ này, người đã dọn vào ở trong gia đình (nhưng qua đời ba năm sau đó), như là người vợ của mình – và có lẽ cuộc hôn nhân cũng không bao giờ được tiến hành trọn vẹn.
Ông ấy thích học hơn. Có một quyển sách thu hút ông một cách đặc biệt: “Những lời cảnh báo về một kỷ nguyên của sự thừa thãi”. Trong quyển sách đó, nhà cải cách người Trung Quốc Trịnh Quan Ứng thúc giục người dân của mình hãy thích ứng với thế giới hiện đại với đường sắt, điện tín, thư viện và quốc hội của nó, trước khi các chính phủ ngoại quốc bóc lột toàn Trung Quốc. Những quyển sách mỏng như quyển sách này đã gợi lên nhận thức chính trị của Mao và khơi dậy trong ông lòng tự hào dân tộc.
Với 16 tuổi, ông rời ngôi làng quê hương năm 1910 và tự đăng ký đi học tại một trong những trường cải cách mới ở làng cạnh bên, loại trường mà thời gian vừa qua đã có hơn 100 trong tỉnh: một cố gắng tuyệt vọng của triều đình để thu ngắn khoảng cách tụt hậu của Trung Quốc so với Phương Tây.
Ở đấy, một thế giới mới mở ra cho Mao, ngay cả khi ông ấy bị nhiều ngươi đồng học – phần lớn là con trai của địa chủ – cười chê như người nhà quê vì trang phục nông dân của ông. Ông chỉ có một bộ quần áo duy nhất: một cái áo khoác bằng bông vải và một cái quần đã cũ.
Khác với những trường còn lại trong Trung Quốc, có trong thời khóa biểu là những môn học như khoa học tự nhiên, lịch sử thế giới, tiếng Anh và âm nhạc. Lần đầu tiên, Mao được nghe về những nhân vật như George Washington, Abraham Lincoln, Napoleon Bonaparte: những con người đã thành lập, thống nhất hay dẫn dắt quốc gia đến một tầm vóc to lớn.
Người cha chỉ miễn cưỡng trả tiền học cho người con trai sắp trưởng thành. Và hẳn đã không nghĩ rằng ông ấy sẽ vĩnh viễn xa rời cái chật hẹp của một cuộc đời nhà nông.
Vì Mao không trở về ngôi làng quê hương nữa. Ông muốn được đi xa, vào tỉnh lỵ Trường Sa cách đó 50 kilômét, một thành phố lớn với 300.000 dân. Vì nghe rằng ở đấy có trường học còn tốt hơn nữa, ông lên đường đi đến đấy năm 17 tuổi.
Một bức tường thành bằng những khối đá màu xám lâu đời hàng thế kỷ bao bọc lấy Trường Sa. Dân quân đầu quấn khăn xanh canh gác những cánh cổng khổng lồ. Ngõ hẻm giống như đường hầm dẫn qua mê cung của thành phố, đến hai ngôi đền thờ Khổng Tử khổng lồ, biệt thự của quan lại, những người sống sau các bức tường cao, và khu phố mua bán với các cửa hàng,
Trên đường đi không nhìn thấy ô tô, không nhìn thấy xe đạp, xe lôi, thay vào đấy người ta bắt gặp những người gánh nước, ăn xin và các chiếc kiệu của người giàu.
Đấy là năm 1911, đêm trước của cuộc cách mạng Trung Quốc. Lực lượng đối kháng chống lại triều nhà Thanh đang nổi dậy trong hầu hết các tỉnh của đất nước này, phe đối lập yêu cầu triệu tập một quốc hội cho quốc gia.
Mao chăm chú theo dõi các sự kiện qua nhiều tờ nhật báo chính trị, những cái mới đây đã được in ra. Qua đó, ông biết về nhà đối lập cực đoan Tôn Dật Tiên, “Liên minh Cách mạng” của ông ấy – và về một cuộc nổi dậy trong thành phố cảng Quảng Châu mà có 72 người nổi dậy đã chết trong lúc đó.
Mao, cho đến thời điểm đấy là một người trung thành với triều đình, người cho rằng nhà vua và các quan lại của vua là những người thông thái và chính trực, lúc đầu còn hy vọng rằng triều đình sẽ tiếp tục tồn tại trong một chế độ quân chủ lập hiến.
Thế nhưng chỉ sau một vài tuần ở Trường Sa, ông ấy đã suy nghĩ cực đoan hơn: ông thảo một tuyên ngôn mà trong đó ông yêu cầu hoàng đế thoái vị và Tôn Dật Tiên trở thành tổng thống Trung Quốc – và dán nó lên tường của ngôi trường ông đang theo học.
Như một dấu hiệu của sự phản đối, Mao cắt bím tóc của mình đi. Một hành động mà theo truyền thống trong vương quốc của nhà Thanh sẽ phải chịu hình phạt tử hình. Khi một vài học sinh ngần ngừ không chịu làm theo. Mao đã cầm lấy kéo và dùng bạo lực giải phóng họ khỏi cái bím tóc.
Những người Trung Quốc trẻ tuổi ở các trường khác cũng dám làm điều ghê gớm đó – rõ ràng là hiện giờ các cơ quan của hoàng đế đã thiếu uy quyền để truy xét việc làm phạm tội đấy.
Trong tháng 10 năm 1911, khi binh lính nổi dậy chống triểu đình trong thành phố Vũ Xương cách đó gần 300 kilômét về phía Bắc, Mao cùng một vài người bạn quyết định đi đến đấy để trợ giúp cho những người làm cách mạng. Nhưng ông ấy không đi ngay. Vì nghe nói rằng trời hay mưa ở Vũ Xương nên đầu tiên ông lên đường đi tìm giày không thấm nước – và vì vậy mà đã bỏ lỡ lần lật đổ.
Không có ông, cuộc cách mạng vẫn tiếp tục lan ra ngày càng rộng khắp và cuối cùng về đến Trường Sa. Mao tham gia lực lượng cách mạng, phục vụ vài tháng như một quân nhân, nhưng không bắn đến một phát súng duy nhất.
Sau lời tuyên bố thành lập nền cộng hòa và tuyên bố thoái vị của hoàng đế trẻ con Phổ Nghi trong tháng 2 năm 1912, con người 18 tuổi đấy tin rằng cuộc cách mạng đã thành công và bây giờ là thời gian để quay trở về với sách vở; thế nào đi nữa thì nhiều quân nhân cũng bị nhà nước sa thải để tiết kiệm tiền.
Bây giờ, vào mỗi buổi sáng, ông ấy đi đến thư viện thành phố của Trường Sa và nghiên cứu các tác phẩm của những nhà tư tưởng châu Âu, trong đó là các tác phẩm của Adam Smith, lý thuyết gia đầu tiên của Chủ nghĩa Tư bản, của Jean-Jacques Rousseau, người khai sáng, và của Montesquieu, người đấu tranh cho tam quyền phân lập. Ở đây, lần đầu tiên Mao cũng nhìn thấy một tấm bản đồ thế giới.
Đó là một thời gian đọc sách vô phương thỏa mãn cũng như chẳng theo kế hoạch nào: người đàn ông trẻ tuổi đọc sách “như một con trâu lẻn vào vườn rau và ngốn ngấu ăn tất cả những gì mọc ở đấy”, như ông ấy sau này nhớ lại. Ông chỉ cho phép mình nghỉ vào giờ trưa, để ăn hai chiếc bánh làm từ gạo.
Với gần 20 tuổi, ông ấy vẫn còn chưa được đào tạo, không có nghề nghiệp, không có mục đích cho cuộc sống. Vì cha ông đe dọa không gửi tiền nữa nên Mao ghi danh học sư phạm năm 1913. Thêm năm năm học nữa bắt đầu.
Đó là một thời kỳ hỗn loạn, say sưa. Vì trong khi nước Cộng hòa tan rã, ảnh hưởng của chính phủ trung ương ở Bắc Kinh tan biến dần và các warlordschiếm lĩnh quyền lực – các tư lệnh độc lập, những người phần lớn đã từng là chỉ huy quân đội trước đây – thì những tư tưởng mới bắt đầu đến với đất nước này.
Cùng với bạn đồng học, Mao đã thảo luận nhiều về Chủ nghĩa Vô chính phủ, Chủ nghĩa Dân tộc, cách mạng.
Và về con đường tương lai của Trung Quốc. Lần đầu tiên, ông nghe được từ “Chủ nghĩa Cộng sản”, thế nhưng nó không để lại một ấn tượng gì đặc biệt. Còn phải qua nhiều năm nữa, cho tới khi ông quan tâm thật sự đến nó.
Nhiều điều là mới đối với ông, nhiều điều hỗn độn. Ông có, ông sẽ nói như thế sau này về thời gian đấy, “một hỗn hợp kỳ lạ” trong đầu: ông tuy tin rằng Trung Quốc phải học tập ở Phương Tây, nhưng cũng muốn rằng nó đừng khước từ truyền thống của nó trong lúc đó. Ông là một người có tư tưởng tự do cởi mở với cả thế giới – nhưng đồng thời ông lại hâm mộ những nhà cai trị đặc biệt tàn bạo trong lịch sử Trung Quốc.
Cuối cùng, một trong những người thầy đã để ý đến người con trai nhà nông đấy, người phác thảo những lời bình luận về tác phẩm của một triết gia đạo đức người Đức cũng như những bài thơ đa cảm. Ông ấy cho rằng con người ham học từ tỉnh lẻ đấy là một người có tài: “Gia đình nông dân thường là nơi xuất phát của những tài năng khác thường nên tôi khuyến khích anh ấy”, ông ấy viết. Và: “Tìm được một người thông minh và chân thật như anh ấy không phải dễ”.
Mao tiếp nhận từ người nâng đỡ mình thói quen huấn luyện không chỉ tinh thần mà cả thể xác nữa, thích nhất là trần truồng hay chỉ mặc ít quần áo trong lúc đó – một niềm say mê cho tới cuối đời.
Mỗi buổi sáng, ông ấy đi đến một cái giếng và dội nước lạnh như băng lên người. Trong những kỳ nghỉ, ông đi dạo thật lâu với bạn bè, tắm nắng hay chạy bộ trong mưa, ngủ ngoài trời lúc có sương giá, bơi qua những con sông lạnh như băng trong tháng 11.
Khi cuối cùng rồi Mao cũng nhận được bằng sư phạm với 24 tuổi, ông ấy vẫn chưa có kế hoạch nào cho tương lai cả. Ông không tìm được việc làm trong Trường Sa. Vì thế nên ông đi theo người thầy, người năm 1918 được triệu về Bắc Kinh để nhận chức vụ giáo sư và đã tạo cho ông một việc làm như người phụ việc trong thư viện ở trường đại học.
Qua đó, Mao đã đến tới trung tâm của lần khởi đầu ở Trung Quốc.
Nằm cách không xa các giảng đường là Quốc Hội mới, cơ quan các bộ cũng như “Tử Cấm Thành” mà hoàng đế trẻ con Phổ Nghi đã thoái vị vẫn còn sống ở sau những bức tường của nó, có hàng trăm thái giám ở xung quanh. Trong năm cách mạng 1912, lãnh tụ quân đội bảo thủ Viên Thế Khải đã trở thành tổng thống Trung Quốc. Năm 1913, khi đảng dân tộc của Tôn Dật Tiên, Quốc Dân Đảng, thắng lớn trong các cuộc bầu cử tự do đầu tiên, Viên cấm tổ chức đó hoạt động, đẩy Tôn đi lưu vong và giải tán Quốc Hội. Năm 1916, Viên qua đời, người trước đó còn tuyên bố mình là hoàng đế của một triều đại mới. Tổng thống mới của Trung Quốc tập họp lại Quốc Hội đã được bầu.
Tháng 6 năm 1917, một tướng lĩnh trung thành với hoàng đế làm đảo chính và lại đưa Phổ Nghi lên. Thế nhưng hai tuần sau đấy, các tướng lĩnh khác hành quân về Bắc Kinh và chấm dứt chế độ quân chủ vĩnh viễn. Nền cộng hòa được cứu thoát.
Nhưng kể từ lúc đấy, Trung Quốc chỉ có một chính phủ trung ương yếu ớt và tham nhũng, các tư lệnh quân đội tiếm quyền ở nhiều vùng trong nước.
Ở cuối “Tử Cấm Thành” về phía Nam, ở “Thiên An Môn”, có một công viên mà sinh viên thảo luận ở đấy về tình trạng của đất nước.
Bắc Kinh là thành phố triệu dân. Ô tô chạy trên những đại lộ có từ nhiều thế kỷ, 20.000 xe kéo làm nghẽn đường phố, và có cả những đoàn lạc đà đi buôn cũng đi xuyên qua thành phố.
Mao phấn khởi. “Bắc Kinh là một cái nồi nung chảy hòa hợp tất cả mà ở trong đó người ta chắc chắn sẽ bị biến đổi”, ông ấy viết sau khi đến. Ông thường hay đi lang thang qua các khu vườn của hoàng đế, những cái vừa được mở cửa cho người dân, và xúc động vì vẻ đẹp của chúng: “Trong các khu vườn, tôi nhìn mùa Xuân miền Bắc mới bắt đầu, nhìn thấy hoa mận trắng, trong khi băng trên hồ Bắc vẫn còn rắn. Tôi nhìn thấy những cánh đồng bị phủ đầy tinh thể băng như hàng chục nghìn cây mận đang nở hoa.”
Ông sống trong một khu phố tồi tàn ở phía Tây của Cấm Thành. Ông chia sẻ một căn hộ – và giường ngủ – cùng với bảy sinh viên khác. Họ ngủ trên một cái bục bằng gạch có phủ nỉ, có thể sưởi ấm được. Vì thiếu tiền để mua than nên những người đàn ông trẻ tuổi nằm sát vào nhau: “Thường tôi phải báo trước với người ngủ ở hai bên mỗi khi tôi muốn trở mình”, Mao nhớ lại sau này.
Trong thời gian ở Bắc Kinh, ông thường xuyên đọc tờ “Tân Thanh Niên”, tạp chí hiện đại nhất của đất nước. Học giả của trường đại học viết ở trong đấy về Thuyết Tương đối, Chủ nghĩa Hòa bình, giải phóng phụ nữ và cuộc Cách mạng Thánh Mười. Mao cũng công bố một trong những bài viết đầu tiên của mình ở đấy: “Luyện tập thân thể”.
“Quốc gia của chúng ta thiếu sức mạnh”, ông viết. “Nếu thân thể của chúng ta không khỏe mạnh, chúng ta sẽ run rẩy trước những người lính của đối phương. Vậy thì làm sao chúng ta có thể đạt được những mục đích của chúng ta?”
Thế nhưng dù ông có cố gắng kết bạn với các tác giả của tờ “Tân Thanh Niên” cho đến đâu đi chăng nữa – giới trí thức không hề để ý đến con người phụ việc trong thư viện đấy; một sự xúc phạm mà hàng chục năm sau này ông vẫn còn nhớ đến: “Đối với phần lớn bọn họ, tôi không phải là một con người.”
Ông không hạnh phúc ở Bắc Kinh. Cũng vì ông đã yêu cô con gái xinh đẹp của người đỡ đầu mình.
Dương Khai Tuệ trẻ hơn ông tám tuổi, một người phụ nữ đẹp được giáo dục theo lối Phương Tây, nhạy cảm và hùng biện, người được nhiều học trò của cha cô hâm mộ. Khai Tuệ khước từ các tập tục cưới hỏi cổ xưa, nhưng có những yêu cầu cao về tình yêu: “Thà chẳng có gì khi không toàn hảo”, là châm ngôn của cô. Cô làm ngơ trước sự theo đuổi của Mao, có lẽ là cô ấy nghi ngờ sự thật tình của ông ấy.
Mùa Xuân năm 1919, Mao thất vọng quay về Trường Sa. Ở đấy, ông tìm được việc làm là thầy giáo dạy Sử – và vì thế mà thêm một lần nữa lại bỏ lỡ mất một sự kiện lịch sử.
VÌ VÀO CHIỀU ngày 4 tháng 5 năm 1919, 3000 sinh viên ở Bắc Kinh đã đổ về “quảng trường Thiên An Môn” trước Cấm Thành. Đó hẳn là cuộc biểu tình lớn đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Ngay trước đó, người trong thành phố vừa mới biết được về một quyết định của Hội nghị Hòa bình Versailles: các thế lực chiến thắng của Đệ nhất Thế chiến đã thỏa thuận không giao phần nguyên là tô giới của Đức trên bán đảo Sơn Đông ở cạnh Hoàng Hải trở về cho Trung Quốc. Triều đại hoàng đế cuối cùng đã phải cho Đức thuê dãy đất đó năm 1898.
Những người sinh viên tức giận: đó là phần thưởng cho việc Trung Quốc tuyên chiến với Đế chế Đức năm 1917 hay sao? Tuy Bắc Kinh không gửi người lính nào sang các chiến trường châu Âu, nhưng thay vào đấy là gần 100.000 người làm công nhật, những người đã đi lấy xác chết, đào hầm hố, tháo đạn dược, xây trại lính và bệnh viện. Ngược lại, Trung Quốc đã nhận được từ đối thủ của Đức trong chiến tranh, nước Nhật, khoản tiền cho vay tổng cộng là 145 triệu Yen.
Bây giờ, khi chiến tranh đã chấm dứt, người Nhật đòi vùng đất mang tầm quan trọng về chiến lược đó về cho họ: như một phần thưởng cho sự giúp đỡ trong chiến tranh của họ, họ muốn đóng quân lính riêng của họ ở Sơn Đông và giữ lấy toàn bộ thu nhập của một tuyến đường sắt sẽ được xây xuyên qua bán đảo.
Mãi đến Versailles, thành viên của phái đoàn Trung Quốc mới biết rằng người Anh, người Pháp và người Ý ủng hộ người Nhật.
Còn gây sốc hơn nữa là phát giác, rằng ngay trước khi đình chiến, một chính phủ Trung Quốc trước đây đã nhận hối lộ để bí mật bảo đảm rằng lời yêu cầu đấy sẽ được chấp thuận. Vì hiệp định đấy có hiệu lực về mặt pháp lý nên cuối cùng rồi Hoa Kỳ cũng đồng ý. Các thành viên của phái đoàn Trung Quốc bất lực và vắng mặt trong lúc ký kết để phản đối.
Căm phẫn vì sự phản bội của phe Đồng minh và tức giận chính phủ của chính mình, nhiều người xuống đường cả trong các thành phố khác. Sinh viên, công nhân và thương gia kêu gọi tẩy chay hàng hóa Nhật.
Ở Bắc Kinh, số đông đã thông qua một bản tuyên ngôn do một lãnh tụ sinh viên xướng lên: “Ngày hôm nay, chúng tôi thề với tất cả đồng bào của chúng tôi hai lời thề trang nghiêm: Lãnh thổ Trung Quốc có thể bị xâm chiến, nhưng không thể bị từ bỏ. Thứ nhì: Dân nhân Trung Quốc có thể bị thảm sát, nhưng không bao giờ đầu hàng.”
Rồi những người biểu tình kéo đến nhà của một trong số các bộ trưởng tham nhũng và bị căm ghét, xông vào nhà và phóng hỏa nó. Chính trị gia này bỏ trốn – nhưng trong lúc ấu đả với cảnh sát đã có một sinh viên bị thiệt mạng.
NGÀY THÁNG CỦA NHỮNG CUỘC PHẢN ĐỐI, ngày 4 tháng 5 năm 1919, đã trở thành tên và biểu tượng của một phong trào nhanh chóng lan ra khắp nước. Bây giờ, đối với nhiều nhà trí thức Trung Quốc, các giá trị Phương Tây lại mang vẻ đáng ngờ, họ kêu gọi hãy quay trở lại với quốc gia của họ.
Cả Mao cũng chia sẻ sự căm phẫn của những người phản đối. Và lần này thì ông ấy không rút lui vào trong thế giới của những quyển sách.
Ông thành lập một tờ tuần báo, để cung cấp thông tin cho người dân trong tỉnh quê hương của ông ấy về những sự kiện ở Bắc Kinh cách đó hơn 1300 kilômét và truyền cho họ sự phấn khởi về cuộc biến đổi chính trị – “phần đóng góp để giải phóng nhân loại” của ông ấy, như ông gọi nó về sau này.
Mao tin rằng chỉ một liên minh từ nông dân, công nhân, sinh viên và giáo viên mới có thể ép buộc được một sự cải mới dân chủ. Ông từ chối dùng bạo lực để lật đổ, như người Bolshevik ở Nga đã tiến hành. Ông vẫn còn là một người có tư tưởng tự do và vô chính phủ, nhưng không phải là một người cộng sản.
2000 bản của số phát hành đầu tiên được bán sạch trong một ngày. Tại số sau đó, Mao cho in 5000 bản.
Chỉ sau bốn số, thống đốc quân đội, người cầm quyền ở Hồ Nam, đã cấm tờ báo.
Mao không tuân theo. Ông ấy có nhớ lại những lần xung đột với cha ông ấy không? Ngay lập tức, ông bắt đầu làm biên tập viên cho một tạp chí phê phán khác. Nhưng tờ tạp chí này cũng bị cấm chỉ sau một số dưới sự lãnh đạo của ông ấy. Từ đấy, Mao công bố các bài viết của mình trên tờ nhật báo lớn nhất của Trường Sa.
Khi một người phụ nữ trẻ tuổi tự tử trong chiếc kiệu đón dâu của mình, Mao đã viết một loạt bài chống lại hôn nhân cưỡng ép. Người con trai nông dân đấy, người mà ngày xưa cũng đã bị ép buộc cưới vợ, bây giờ yêu cầu rằng phụ nữ Trung Quốc phải được phép tự chọn lấy người bạn đời của mình.
Lần đầu tiên, Mao cũng chứng tỏ tài khéo léo của một nhà hoạt động chính trị: trong tháng 12 năm 1919, ông tổ chức một cuộc đình công chống nhà cầm quyền Trường Sa (tuy vậy, không phải những cuộc chống đối của ông ấy mà là sự kình địch với các tư lệnh khác cuối cùng đã khiến cho vị tướng lĩnh đó phải bỏ chạy). Một thống đốc mới nắm lấy quyền lực, người cùng với nhiều doanh nhân khá giả đấu tranh cho một tỉnh Hồ Nam độc lập. Vì Trung Quốc chìm trong hỗn loạn nên trong nhiều vùng đất ngày càng có nhiều nạn nhân của những nhà cai trị quân đội. Kể từ năm 1913, chỉ riêng trong Hồ Nam đã có hàng chục nghìn người chết qua các cuộc chiến của các viên tư lệnh.
Mao cũng ủng hộ phong trào độc lập. Nhiều khả năng hoàn toàn mới mở ra cho ông trong Trường Sa: ông trở thành hiệu trưởng của một trường học, thành lập “Cộng đồng sách văn hóa”, cái tạo khả năng cho con người tiếp cận với sách, luận thuyết và báo chí. Bây giờ, ông ấy có một cuộc sống gần như trung lưu. Thời gian này, Dương Khai Tuệ cũng đã ưng thuận ông. Sau khi thành hôn, họ sống trong một ngôi nhà ở ngoại ô thành phố, chẳng bao lâu nữa, đứa con trai đầu của ba người con trai sẽ được sinh ra đời.
Trong thời gian này, lần đầu tiên Mao quan tâm thật sự đến Chủ nghĩa Cộng sản. Cũng như nhiều trí thức khác, những người thuộc “Phong trào 4 tháng 5”, tính khiêm tốn vẻ ngoài của nước Cộng hòa Xô viết trẻ tuổi đã gây ấn tượng cho ông: chính phủ cách mạng dưới quyền của Lenin tuyên bố từ bỏ các vùng đất là tô địa cũ của Nga hoàng trong Trung Quốc.
Mao suy nghĩ liệu có nên học tiếng Nga, cân nhắc xem có di cư sang nước Nga Xô viết, nghiên cứu “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” của Karl Marx và Friedrich Engels vừa mới được dịch sang tiếng Trung – và gặp Trần Độc Tú ở Thượng Hải, một trong những người phát hành tờ “Thanh Niên Mới”, trí thức Mácxít quan trọng nhất của Trung Quốc.
Trần có thời là trưởng khoa ở Đại học Bắc Kinh. Ông là một nhà đạo đức và cải cách dễ nổi giận. Sau những lần phản đối của ngày 4 tháng 5, ông bị bắt giam ba tháng vì đã yêu cầu toàn bộ các bộ trưởng theo Nhật phài từ chức cũng như yêu cầu tự do ngôn luận và quyền được tụ tập. Sau khi được trả tự do, Trần về Thượng Hải, nơi ông ấy thành lập một nhóm đầu tiên của những người xã hội trong tháng 8 năm 1920. Bây giờ ông muốn thành lập một Đảng Cộng sản.
Ngược lại, Mao do dự và hoài nghi. Ông cho rằng một cuộc Cách mạng theo gương mẫu Nga vẫn còn là việc không thể được trong Trung Quốc; Lenin – Mao tin một cách sai lầm như thế – đã có thể dựa trên hàng triệu đảng viên. Con đường của những cải cách dân chủ vẫn còn có triển vọng nhiều hơn cho trung Quốc.
Nhưng rồi tinh thần khởi dậy chấm dứt trong Hồ Nam: viên thống đốc không ủng hộ phong trào độc lập nữa, vì các nhà hoạt động, trong đó có Mao, yêu cầu “dân chủ và Chủ nghĩa Xã hội”.
Chẳng bao lâu sau đấy, viên thống đốc bị một địch thủ lật đổ. Kể từ lúc đấy, nắm quyền lực trong Hồ Nam lại là một tư lệnh độc tài, đàn áp giới đối lập và làm tiêu tan tất cả mọi hy vọng biến đổi.
Trong tháng 12 năm 1920, Mao viết trong một bức thư gửi cho một người bạn: “Trên nguyên tắc, tôi ủng hộ ý tưởng dùng phương cách hòa bình để đạt đến hạnh phúc cho tất cả, nhưng tôi e rằng điều đấy không thể thực hiện được trong thực tế.”
Lịch sử đã chứng minh rằng không bao giờ mà một kẻ chuyên quyền lại tự nguyện rút lui, ông ấy khẳng định. Mao cho rằng đã đến lúc phải đi một con đường mới. Ông viết cho bạn ông, ông “rất tán thành việc sử dụng mô hình Nga để cải cách Trung Quốc”.
Trong tháng 1 năm 1921, khi các thành viên hợp tác xã sách của ông biểu quyết về đường hướng chính trị, Mao đã giơ tay mình lên cho Chủ nghĩa Bolshevik.
Với 27 tuổi, một nhà có tư tưởng tự do đã trở thành một người Cộng sản – nhưng là một tín đồ phi chính thống, người không hiểu nhiều về lý thuyết của Marx.
Đầu năm 1921, Trần Độc Tú gửi cho ông bản thảo chương trình cho một đảng cộng sản Trung Quốc. Cả Moscow cũng thúc giục thành lập một ĐCS.
“Quốc tế Cộng sản”, thành lập năm 1919 và do những người Bolshevik chiếm thế áp đảo, có trách nhiệm giúp các nhà cách mạng ở khắp nơi trên thế giới thành lập tổ chức và qua đó lan truyền đi ngọn lửa của sự nổi dậy càng xa càng tốt – cũng là để tạo đồng minh cho Liên bang Xô viết đang bị cô lập. Sứ giả của Quốc tế Cộng sản đã đến gặp Trần ở Thượng Hải và thúc giục ông ấy phải nhanh lên.
Mao và các nhà hoạt động khác của hợp tác xã sách đã tạo ấn tượng cho Trần nhiều đến mức ông ấy đã đưa Trường Sa vào trong danh sách của các thành phố mà trong đó các chi bộ Đảng cần phải được thành lập. Mao đã tự chứng tỏ mình có can đảm, nhiều năng lực và khéo ăn nói. Rõ ràng là người con trai nhà nông đấy đã khiến cho giới trí thức ở Bắc Kinh và Thượng Hải phải thích thú.
Phái viên của Quốc tế Cộng sản Hendricus Sneevliet. Ảnh: GEO EPOCHE |
Tháng 6 năm 1921, một phái viên của Quốc tế Cộng sản đến Thượng Hải, người Cộng sản Hà Lan Hendricus Sneevliet: một người có tác phong độc đoán và nhiều danh tính (trong chuyến đi bí mật của ông ấy, ông tự gọi mình là là “Maring” hay “Andresen”).
Sneevliet đã nhận 4000 bảng Anh từ Moscow mà lúc đến ông đã tiêu 2000 cho vợ mình và mất 600 vì một ngân hàng phá sản. Số tiền 1400 bảng Anh còn lại là vốn liếng khởi đầu để đốt lên ngọn lửa cách mạng trong Trung Quốc.
Các nhóm ở Thượng Hải và Bắc Kinh đã chuẩn bị kế hoạch cho hội nghị thành lập đảng cộng sản. Sneevliet, có một nhân viên của cơ quan tình báo quân đội Xô viết đi cùng, phối hợp các hoạt động; giấy mời được gửi đi – một trong những tờ đó là cho Mao ở Trường Sa.
Vào ngày 23 tháng 7 năm 1921, 13 đại biểu và cả hai phái viên kia gặp nhau lần đầu. Sneevliet chọn lớp học của một trường nữ làm nơi gặp gỡ bí mật, trường mà đã đóng cửa vì nghỉ hè. Người Hà Lan nắm quyền chỉ huy – khiến cho những người Trung Quốc rất tức giận, những người mà bây giờ biết rằng mình phải báo cáo thường xuyên cho người của Moscow này.
Trung thành với các chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Sneevliet thúc giục những người Trung Quốc đầu tiên hãy liên minh với giới trung lưu để tạo nên một cuộc cách mạng quốc gia. Nhưng đồng thời, những người đồng chí này cần phải xây dựng những nhóm công nhân để sau này có thể đánh bại được giai cấp tư sản.
Các đại biểu thảo luận một tuần dưới sự giám sát của ông ấy về đường lối và tổ chức đảng của họ. Vào ngày kế cuối, bất thình lình có một người lạ phá rối cuộc họp và giả vờ rằng mình đã vào nhầm cửa. Sneevliet nghi ngờ và giải tán cuộc gặp gỡ ngay lập tức. Chẳng bao lâu sau đó, một nhóm cảnh sát đi xe đến và lục soát tòa nhà – nhưng không có kết quả.
Nhóm người Trung Quốc quyết định gặp nhau trong ngày hôm sau đó ở ngoài thành phố và không có hai người nước ngoài: vì lo sợ rằng sự hiện diện của họ có thể khiến cho cơ quan nhà nước nghi ngờ. Vì thế mà họ đã đi đến Hồ Uyên ương và mướn một chiếc du thuyền.
Đầu tiên, Đảng Cộng sản chỉ nên hoạt động trong bí mật, giữ kín danh sách thành viên của mình. Một ủy ban trung ương ở Thượng Hải sẽ giám sát tài chính và công việc của Đảng; các đại biểu đã chọn Trần Độc Tú làm người đứng đầu tổ chức – mặc dù ông ấy không xuất hiện tại hội nghị – ông ấy làm việc cho thống đốc của Quảng Châu và có lẽ đã không thể bỏ rơi chức vụ của mình được.
Mao Trạch Đông trở về Trường Sa với nhiệm vụ thành lập một tổ chức Đảng ở đó. Ông hào hứng đặt mình dưới quyền lực của ĐCS. Sau những năm tìm kiếm, cuối cùng ông cũng đã tìm thấy sứ mệnh của mình. Ông xin thôi chức vụ hiệu trưởng và thành lập một “Đại học tự học”, một cơ sở ngụy trang để kết nạp thành viên mới (ông ấy còn xin được tài trợ từ chính quyền của tỉnh cho viện đào tạo này).
Sau khi thành lập ĐCS vào ngày 31 tháng 7 năm 1921 Mao trở về tỉnh. Ảnh: GEO EPOCHE |
Lúc đầu, việc kết nạp diễn tiến chậm chạp. Mao phải thuyết phục vợ ông là Dương Khai Tuệ, cả hai người em trai cũng như những người họ hàng khác từ làng quê của ông gia nhập Đảng. Thế nhưng trong vòng một năm, ông đã có thể trình ra 30 thành viên mới theo như yêu cầu của Trung ương Đảng.
Cũng đến từ Thượng Hải là chỉ thị, rằng Mao phải gây ảnh hưởng đến các công đoàn ở địa phương. Nền công nghiệp Trung Quốc đã tăng trưởng nhanh trong các thập niên vừa qua. Công nhân trong các mỏ than, trong nhà máy thép và nhà máy nấu chì cũng như thợ xếp chữ, thợ in, công nhân xây dựng, công nhân điều khiển máy và công nhân đường sắt đã tập hợp lại trong các hội liên hiệp của họ từ lâu rồi.
Tháng 9 năm 1921, Mao đi sang An Nguyên ở bên cạnh, một vùng than đá rộng lớn mà ở đấy công nhân mỏ phải làm việc theo ca cho tới 15 tiếng đồng hồ. Ông thành lập những trường học ban đêm ở đó, và trong mùa Thu 1922, khi những người thợ mỏ ở An Nguyên đình công, Mao chỉ huy cuộc đình công từ trong hậu trường.
Với thành công: chủ mỏ phải tăng lương, áp dụng ngày làm việc tám giờ và tài trợ cho các trường học ban đêm. Một chiến thắng cho Mao, vì nhiều thợ mỏ đã gia nhập Đảng.
Vào đầu năm kế tiếp theo sau đó, công nhân tuyến đường sắt Vũ Hán – Bắc Kinh đình công và thể theo sự thúc giục của Đảng Cộng Sản đã thành lập một công đoàn. Thế nhưng lần này thì một tư lệnh đã dùng bạo lực để đập tan các cuộc phản kháng, có 35 công nhân chết.
Thất bại này khiến cho Moscow càng tin rằng cánh tả của Trung Quốc còn quá yếu để có thể dẫn đầu một phong trào cách mạng ở trong nước chống lại các tư lệnh vẫn còn thống trị ở trong nhiều vùng.
Ngay trong mùa Hè 1922, Bộ Chính trị, nhóm chỉ huy cốt lõi của ĐCS Xô viết, qua phái viên Sneevliet đã thúc đẩy tiến đến một mặt trận thống nhất giữa Đảng Dân tộc Chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên, Quốc Dân Đảng, và những người Cộng sản.
Đảng viên ĐCS cần phải đồng loạt gia nhập đảng của Tôn Dật Tiên. Trần Độc Tú phản đối, cả Mao cũng chống lại liên minh không cân xứng đấy.
Thế nhưng ĐCS Trung Quốc với cho tới lúc đấy là 195 đảng viên vẫn còn chưa đủ mạnh để tồn tại đơn độc (Quốc Dân Đảng có 50.000 người). Và nó phụ thuộc tài chính vào Quốc tế Cộng sản.
Học sinh của “Trường nữ sinh yêu nước” đang tuyên truyền cho những người Cộng sản. Ảnh: GEO EPOCHE |
Vì thế mà những người đồng chí đấy chịu khuất phục và gia nhập Quốc Dân Đảng như một “khối nội bộ”, ĐCS vẫn tiếp tục tồn tại; cả Mao cũng là đảng viên của Quốc Dân Đảng năm 1923.
Thêm vào đó, ông được bầu vào Ủy ban Trung ương, ủy ban lãnh đạo bao gồm chín người, cũng như được bổ nhiệm làm thư ký của ban thường vụ còn quan trọng hơn nữa, bao gồm năm cán bộ điều khiển công việc hàng ngày của Đảng.
Ý nghĩa của một mặt trận thống nhất tuy bị tranh cãi trong số những người cộng sản – thế nào đi nữa thì nó cũng có lợi cho Quốc Dân Đảng. Vì bây giờ Moscow trợ giúp đối tác liên minh mới của ĐCS với tiền bạc và vũ khí, những cái Tôn Dật Tiên đang hết sức cần cho lực lượng quân sự của ông ấy.
Đầu năm 1923, Quốc Dân Đảng thành công trong việc xây dựng một cơ sở lớn ở gần thành phố Quảng Đông trong miền nam Trung Quốc. Với tiền từ Moscow cũng như sự giúp đỡ của cố vấn Xô viết, Tôn Dật Tiên thành lập một học viện quân sự trên một hòn đảo ở giữa sông cách Quảng Đông tròn 15 kilômét: một lò đào tạo sỹ quan cho lực lượng quân đội tương lai của “Quân đội Cách mạng Quốc gia”. Liên bang Xô viết cung cấp súng máy, đại bác và máy bay.
VÀO THỜI GIAN này, bất thình lình Mao chạy trốn khỏi trường chính trị. Trong tháng 12 năm 1924, ông đầu tiên về Trường Sa và sau đó về lại làng Thiều Sơn quê của ông ấy. Gần một năm trời, ông không tham gia cuộc họp nào của ĐCS hay của QDĐ, dần dần mất tất cả các chức vụ trong Đảng. Ông báo cho giới lãnh đạo biết rằng ông đã làm việc quá nhiều, bị trầm cảm, mất ngủ, đau đầu, chóng mặt và cao huyết áp. Có thể là ông ấy hoài nghi về liên minh với Quốc Dân Đảng trong thời gian này.
Thế nhưng mười tháng sau đó, trong tháng 19 năm 1925, ông trở về với chính trị và được bổ nhiệm làm thư ký ban tuyên truyền của QDĐ ở Quảng Đông; rõ ràng là ông ấy đã chấp nhận mặt trận thống nhất giữa những người Cộng sản và những người Dân tộc Chủ nghĩa.
Trong thời gian này, ông quan tâm ngày càng nhiều đến nông dân Trung Quốc: trong các chuyến đi qua nông thôn, niềm tin của ông ấy ngày càng tăng lên, rằng những người nghèo trong số họ (theo định nghĩa của Mao là tròn 70% của dân cư nông thôn) có thể là động lực cho cuộc cách mạng. Ông ghi lại những quan sát của mình trong các bản báo cáo và qua đó thách thức cấp trên của ông. Vì nông dân cho tới lúc đấy hầu như không đóng một vai trò nào trong suy nghĩ của giới lãnh đạo ĐCS ở Thượng Hải cả.
Năm 1926, Quân đội Cách mạng Dân tộc đã đủ mạnh để tấn công địch thủ – cũng nhờ sự giúp đỡ của Xô viết. Đứng đầu quân đội là Tưởng Giới Thạch, một quân nhân chuyên nghiệp có quan hệ với giới tội phạm ở Thượng Hải. Tưởng là người chỉ huy học viện quân sự và là người kế nhiệm Tôn Dật Tiên khi người này qua đời năm 1925 vì ung thư gan.
Tưởng 38 tuổi nguyên thuộc cánh tả của Quốc Dân Đảng, nhưng thời gian sau này đã trở thành một địch thủ không khoan nhượng của những người Cộng sản. Nhiều sỹ quan trung thành với ông cũng hoàn toàn không có thiện cảm với tư tưởng Marx. Nhưng Quân đội Cách mạng Dân tộc vẫn còn phải dựa vào sự giúp đỡ của Liên bang Xô viết.
Vào ngày 9 tháng 7, Tưởng cùng 75.000 người lính xuất phát từ Quảng Đông đi lên phía Bắc. Ông muốn đẩy lùi các tư lệnh trong nhiều tỉnh, lật đổ quyền lực trung ương yếu ớt ở Bắc Kinh (từ 1911 chính phủ đã thay đổi 40 lần) và tái thống nhất Trung Quốc. Để hỗ trợ cho “Chiến dịch phương Bắc” này, Mao cần phải huy động các chiến binh nông dân ở nông thôn.
Ngay trong tháng 7, quân lính của Tưởng Giới Thạch đã chiếm Trường Sa, trong mùa Thu, tỉnh Hồ Nam quê của Mao được giải phóng. Đến cuối năm, Quân đội Cách mạng kiểm soát được bảy tỉnh với 170 triệu dân.
Trong tháng 1 năm 1927, Mao du hành qua vùng mới chiếm đóng. Trong một bản báo cáo gửi cho lãnh đạo ĐCS, ông hân hoan mô tả việc nông dân khắp nơi đã nổi dậy chống lại những người chủ đất của họ như thế nào và trả thù cho sự đàn áp và bóc lột như thế nào. Họ đặt những cái mũ nhọn lên đầu những người bị hành hạ để hạ nhục, trói họ xua qua làng, hỏi cung hay còn đánh chết họ như thế nào. Bất cứ người nào có một mảnh đất đều có thể trở thành nạn nhân của những hành động thái quá đó.
Ông cũng đi qua vùng đất là quê hương của cha ôg, người đã qua đời trong thời gian vừa qua – là người có trang trại, ông ấy hẳn sẽ phải gánh chịu sự tức giận của những người bị đàn áp.
Nhưng bạo lực không làm cho Mao cảm thấy khó chịu, ông chào mừng nó như một hành động giải phóng.
Và ông xem thường các vụ hãm hiếp những người con gái hay người vợ, các vụ hành quyết công khai. “Khi một hay hai người bị đánh chết thì đấy không phải là việc lớn”, ông nhận xét vắn tắt trong bản báo cáo của mình.
Và công việc làm là lời bào chữa cho sự khủng bố đó đấy chứ? Bây giờ, cuối cùng Mao cũng tin rằng vận mệnh đất nước Trung Quốc nằm trong tay của người nghèo ở nông thôn chứ không phải ở trong tay của giới công nhân thành thị:
“Chỉ ít lâu nữa thôi, sẽ có hàng trăm triệu người nông dân nổi dậy trong khắp các tỉnh. Họ sẽ cuồng nhiệt và không thể kìm chế được giống như một cơn bão. Người ta có nên đứng đầu họ để lãnh đạo họ không? Người ta phải lê bước đi theo sau họ để phê bình họ? Hay người ta cần phải đứng ra ngăn cản họ, để đấu tranh chống lại họ? Mỗi một người Trung Quốc đều có quyền tự do lựa chọn một trong ba con đường này, nhưng diễn tiến của các sự kiện sẽ bắt buộc bạn phải nhanh chóng lựa chọn.”
Mao đã quyết định cho mình: ông muốn tịch thu toàn bộ đất đai thuộc tư hữu và chia mới lại. Thế nhưng giới lãnh đạo của ĐCS ở Thượng Hải không chấp thuận chính sách cực đoan này – họ vẫn không muốn dựa trên nông dân và muốn trước hết là kích động giới công nhân trong các thành phố.
Cả nhiều phần của Quốc Dân Đảng cũng bộc lộ sự bực tức về những hành động bạo lực thái quá của các chiến binh nông dân được Mao khen ngợi. Vì thuộc trong giới những người ủng hộ đảng dân tộc chủ nghĩa đấy là nhiều địa chủ, doanh nhân, nhà tư bản công nghiệp và chủ ngân hàng. Thêm vào đó, Tưởng Giới Thạch lo ngại rằng đảng của ông ấy có thể bị thâm nhiễm bởi ĐCS nhỏ hơn.
Sau khi thâu tóm Thượng Hải bằng quân đội của mình, viên tướng đấy đánh cú đầu tiên vào đồng minh không ưa thích: theo lệnh của ông, trong tháng 4 năm 1927 thành viên của một hội kín mang tính mafia cũng như quân lính của Quân đội Cách mạng đã giết chết hơn 400 công nhân và người công đoàn bị nghi ngờ có thiện cảm với Cộng sản. Trên khắp nước, trong những tháng tiếp theo sau đó, khoảng chừng 34.000 người Cộng sản thật sự hay bị cho là Cộng sản đã là nạn nhân của sự khủng bố từ Quốc Dân Đảng và các lực lượng quân đội đồng minh.
Mặt trận thống nhất tan vỡ. Moscow đổ lỗi cho Trần Độc Tú và tước quyền lực của người Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản. Theo chỉ thị của Josef Stalin, từ khi Lenin qua đời là người có nhiều quyền lực nhất trong Điện Kreml – bây giờ ĐCS cần phải tuyển mộ một lực lượng quân sự riêng.
Cả Mao cũng nhận ra rằng không có một quân đội mạnh thì những người Cộng sản sẽ không có khả năng chống cự: “Mỗi một người Cộng sản đều phải hiểu rõ sự thật này: quyền lực chính trị đến từ những nòng súng”, ông ấy viết.
Mao, người không có kinh nghiệm về quân sự, thời gian vừa qua đã được bầu làm ủy viên dự khuyết của Bộ Chính trị ĐCS, cần phải tổ chức một cuộc nổi dậy chống lại quân đội Quốc Dân Đảng trong tỉnh là quê hương của mình.
Với ba trung đoàn Cộng sản được trang bị không tốt, ông liều tấn công vào Trường Sa. Cuộc tấn công trở thành một thảm bại. Hơn phân nửa của 3000 chiến binh đã hy sinh hay đào ngũ.
MAO CHỈ CÒN cách chạy trốn cùng với lực lượng của mình. Cuối tháng 9 năm 1927, ông dẫn số người của mình, trong đó có nhiều người chỉ được trang bị bằng giáo hay gậy gộc, đi về miền Nam. Đích đến của ông ấy là vùng đất của quân cướp: vùng núi Tỉnh Cương Sơn, do các băng đảng có vũ khí thống trị, nằm cạnh ranh giới của hai tỉnh và là nơi mà quân đội thù địch khó tiếp cận.
Ông dùng súng để hối lộ hai đầu đảng và sau đó được phép rút lui vào trong vùng đất của giới giang hồ.
Chỉ có đường mòn dẫn lên dãy núi này. Các ngọn núi cao lên cho đến gần 1000 mét, rừng thông và tre mọc trên các sườn núi đá lởm chởm, lúc nào cũng có những làn sương mù dầy đặc phủ kín. Thác nước chảy xuống vực sâu. Giữa các ngọn núi là những vùng cao nguyên nhỏ mà người dân sống ở đấy trong những ngôi nhà nghèo nàn bằng gỗ hay bằng bằng đá.
Phần lớn thời gian, Mao cùng với người của ông ấy đóng quân trong một thành phố nhỏ ở chân của dãy núi. Chỉ khi áp lực của quân đội Quốc Dân Đảng – bao vây vùng Tỉnh Cương Sơn – quá lớn, ông ấy mới lui lên trên cao.
Trong trường hợp khẩn cấp, từ đấy có những con đường đào thoát sang các tỉnh kế cận: đường mòn có bụi rậm che phủ, dầy đến mức người đuổi theo hầu như không thể nào nhìn thấy được.
Mao, người vẫn còn ăn mặc như một thầy giáo, bây giờ là một lãnh tụ du kích chỉ huy một lực lượng vũ trang bao gồm những người lính rách rưới, công nhân và nông dân, những kẻ lang thang và quân cướp giật. Những đơn vị mà chẳng bao lâu sau đó “Hồng Quân” sẽ thành hình từ đấy.
Thiếu quân phục và y phục ấm cho mùa Đông, thuốc cho thương binh, thiếu tiền, vũ khí và đạn dược. Nhiều chiến binh kiệt quệ, mắc bệnh tiêu chảy hay sốt rét.
Người lãnh tụ của họ không hề ngại ngùng khi biến những nhà cách mạng của ông ấy thành kẻ cướp. Và lực lượng của ông ấy chẳng bao lâu sau đó cũng đã đủ mạnh để ông cố tìm cách đặt hai tướng cướp đấy dưới quyền chỉ huy của ông. Một trong hai kẻ tội phạm đấy trước sau gì thì cũng là đảng viên ĐCS, người kia có thiện cảm với những người Cộng sản, nhưng vẫn còn dè dặt.
Nhưng sau khi chiến thắng được dân quân của một địa chủ, tướng cướp còn ngần ngừ kia cũng đặt các chiến binh của mình dưới mệnh lệnh của Mao. Thêm vào đó, chỉ huy du kích quân cũng đề nghị giảng dạy quân sự cho những kẻ sống ngoài vòng pháp luật.
Mao thường cho người của mình tỏa ra các tỉnh lân cận để cướp bóc. Họ tấn công hay giết chết các địa chủ, tịch thu tài sản của họ. Họ tống tiền các thương gia bằng cách đe dọa phóng hỏa đốt các cửa hàng của họ.
Mao đã bước qua một ngưỡng cửa nữa. Ông không chỉ bào chữa cho sự khủng bố mà còn ra lệnh thực hiện nó nữa.
Liên lạc với giới lãnh đạo Đảng trong lúc này đã bị cắt đứt. Thế nào đi nữa thì giới đứng đầu của ĐCS cũng kinh hoàng về “tính cách tương tự như kẻ cướp” của quân lính ông. Trong tháng 11 năm 1927, Mao bị khai trừ ra khỏi Bộ Chính Trị, cái mà ông vừa được bầu vào ba tháng trước đấy, nhưng vẫn còn là thành viên của Trung ương Đảng.
Nhà cách mạng giống như đã từ bỏ cuộc đời trước đây của mình. Chẳng bao lâu sao đó cũng không còn có liên lạc cả với Dương Khai Tuệ nữa, người trong thời gian đó đã sinh cho ông đứa con trai thứ ba. Từ trên núi, Mao chỉ viết cho vợ mình một lá thư duy nhất mà trong đó ông than phiền về một vết thương ở chân.
Ông đã tìm thấy một người bạn đồng hành mới từ lâu: người nữ Cộng sản 19 tuổi Hạ Tử Trân, xuất thân từ một gia đình học giả và đã bí mật gia nhập ĐCS ngay từ lúc 16 tuổi.
Những người Cộng sản đã tạm thời đã thất bại trong cuộc đấu tranh giành các thành phố. Theo một chỉ thị của Stalin, các Hồng Quân cần phải chiếm giữ những vủng đất nhỏ ở nông thôn, những cái mà họ gọi là “Xô viết”, theo các hội đồng công nhân và quân nhân dẫn đầu cuộc cách mạng trong nước Nga. Tháng 4 năm 1928, một tướng Cộng sản với hàng nghìn chiến binh đến được với Mao. Bây giờ họ cùng nhau chỉ huy bốn trung đoàn với 8000 quân lính và kiểm soát nửa triệu dân.
Tháng 12 năm 1928, Mao cảm thấy đủ mạnh để bắt đầu một cuộc cải cách ruộng đất trong vùng do ông chiếm đóng. Ông phân chia đất về cho nông dân nghèo và quân nhân và cho giết chết địa chủ. Thế nhưng khi gặp phải sự đối kháng của những người nông dân giàu và những người cầm quyền ở địa phương, ông tạm thời bãi bỏ các kế hoạch chia đất quá cực đoan của mình.
Trong lúc đấy, Tưởng Giới Thạch cùng với đồng minh của ông ấy đã chiếm được Bắc Kinh; tháng 10 năm 1928, ông tuyên bố thành lập chính phủ riêng ở Nam Kinh – một thành phố lớn cách Bắc Kinh 900 kilômét về phía Nam được ông ấy tuyên bố là thủ đô mới của Trung Quốc. Ngay sau đấy, ông cho 25.000 quân lính hành quân về Tỉnh Cương Sơn; giữa tháng 1 Mao phải rút chạy khỏi dãy núi. Với gần 3000 chiến binh, ông ấy trốn thoát về phía Đông vào vùng ranh giới giữa hai tỉnh Phúc Kiến và Giang Tây, nơi ông chiếm lấy một thành phố và lấy đó làm cơ sở hoạt động mới cho mình.
Trong thời gian này, thanh thế của ông trong giới lãnh đạo ĐCS đã được cải thiện nhiều vì các thành công về quân sự của ông ấy. Giới lãnh đạo ĐCS hy vọng họ có thể sử dụng được đội quân của Mao để tấn công các thành phố lớn hơn. Ngoài những việc khác, Mao phải tấn công Trường Sa, thành phố mà Khai Tuệ vợ ông vẫn còn sống ở đấy với ba người con.
Cuộc bao vây Trường Sa – mà trong thời gian đó Mao không có liên lạc với Khai Tuệ – thất bại sau chỉ vài tuần; người Cộng sản rút lui. Khi một tướng của Quốc Dân Đảng biết được rằng vợ của người lãnh đạo du kích quân nổi tiếng sống trong Trường Sa, ông ấy cho người bắt Dương Khai Tuệ vào ngày 24 tháng 10 năm 1930. Bà có thể được tự do nếu như chịu công khai từ bỏ Mao.
Vẫn còn yêu chồng, Khai Tuệ từ chối.
Ba tuần sau đấy, bà bị trói dẫn đi trên đường phố của Trường Sa và bị bắn chết. Tướng Quốc Dân Đảng cho chặt đầu xác chết và bêu đầu của Khai Tuệ ở một cổng thành như một chiến công. Các người con được bạn bè bí mật mang về Thượng Hải đưa vào trong một trại trẻ mồ côi.
Khi Mao, người lại rút lui về tỉnh Giang Tây, hay tin về cuộc hành quyết, ông đã tỏ lòng thương tiếc. “Tôi có chết đến một trăm lần thì cũng không thể nào bù đắp được” cho cái chết của Khai Tuệ, ông ấy viết trong một bức thư.
Vào thời gian này, Mao cuối cùng cũng đã bước qua ranh giới của bạo lực không khoan nhượng. Với tư cách là người chỉ huy quân sự, trong mùa Xuân năm 1930 ông ra lệnh bắt đầu chia lại ruộng đất ở Giang Tây. Thế nhưng lãnh đạo Đảng ở địa phương chống lại kế hoạch của ông ấy.
Điều đấy là đủ để khiến cho họ trở thành những kẻ thù trong mắt ông. Ông quả quyết rằng Đảng Cộng sản ở Giang Tây đã bị địa chủ, nông dân giàu có và người của Quốc Dân Đảng thâm nhập. Họ phải được thanh trừng và “Bolshevik hóa”.
Ảnh hưởng của ông đã đủ để lập một ủy ban đặc biệt ở Giang Tây. Mao cho xử tử những người chống ông như là những kẻ “phản cách mạng”, hàng trăm đảng viên bị khai trừ ra khỏi Đảng.
Lần đầu tiên, ông ấy đã phá bỏ điều cấm kỵ, giết chết đồng chí. Và cho tới lúc đó, ông cũng đã đủ vô lương tâm để che đậy cuộc đấu tranh giành quyền lực này bằng những khái niệm của hệ tư tưởng.
Con người có tư tưởng tự do từ Hồ Nam đã đi qua một đoạn đường dài. Vào lúc đầu, ông từ chối mọi hình thức bạo lực, rồi đối với ông, nó ngày càng mang tính hợp pháp hơn trong cuộc đấu tranh chống lại những người đàn áp. Trong năm trước đó, ông còn ra chỉ thị rằng sự khủng bố chỉ được phép hướng đến những kẻ thù giai cấp. Nhưng bây giờ, ông luôn dịch chuyển mới ranh giới giữa bạn và thù.
Và vì thế mà những cuộc hành quyết do Mao ra lệnh chỉ là lần khởi đầu của một sự cuồng nhiệt tự hủy hoại, kéo dài nhiều tháng liền và ngày càng tăng lên, cái cũng lan sang cả Hồng Quân: chẳng bao lâu sau đấy, mỗi một đại đội đều truy tìm những kẻ phản bội trong hàng ngũ của mình. Chỉ trong một tuần duy nhất, 2000 sỹ quan và quân lính của một đội quân tiền phương đã bị bắn chết, trong số 4400 người bị cáo buộc có liên quan đến những kẻ phản cách mạng dưới áp lực của các cuộc hỏi cung.
Trong thành phố Phúc Điền, các ủy ban đã điều tra bằng cách tra tấn ép buộc những người bị cho là phản cách mạng phải nhận tội: tay sai đắc lực đã trói tay họ lại, đánh họ bằng gậy tre hay đốt cho họ bị bỏng. Hay họ dùng đinh đóng tay của những người phạm tội xuống bàn và đẩy những mảnh tre nhọn vào dưới móng tay.
Không biết được con số chính xác của các nạn nhân cuộc “thanh trừng” này, có lẽ là hàng chục nghìn người đã chết trong những tháng đó. Mao thúc đẩy người của ông tiến hành giết người và đã nhiều lần bảo vệ họ– biết rõ rằng ông hy sinh những người vô tội để chiếm lấy quyền lực.
Cả giới lãnh đạo Đảng cũng chấp thuận tra tấn và giết người.
Về một mặt hẳn là từ nỗi lo sợ “khủng bố trắng”: vì tay sai của Tưởng Giới Thạch truy lùng người Cộng sản trong thành phố; dân quân của các tư lệnh đánh đuổi họ ra khỏi thôn quê, đốt cháy những làng mà họ nghi là có người Cộng sản ở trong đó. Và quân đội Quốc Dân Đảng cố gắng bao vây Hồng Quân.
Trước bối cảnh đấy, nhiều cấp cao trong Đảng cho là lời quả quyết của Mao cũng đáng tin cậy, rằng những người có thiện cảm với Quốc Dân Đảng đã thâm nhập vào trong Đảng.
Về mặt khác, dưới ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản, quan điểm của Stalin ngày càng thắng thế trong ĐCS Trung Quốc, rằng bất kỳ người đồng chí nào mà hoài nghi mệnh lệnh của Đảng thì cũng phải được xem như là kẻ thù.
Vì thế mà các cuộc thanh trừng cứ tiếp tục diễn ra. Nhất là khi mối đe dọa từ quân đội của Tưởng Giới Thạch giữ cho nỗi lo sợ hoang tưởng luôn luôn hiện diện. Phải khéo léo lắm Mao mới có thể luôn trốn thoát được những cuộc tấn công của Quốc Dân Đảng.
Mùa Thu 1931, thế lực áp đảo dường như trở nên quá mạnh. Nhưng rồi ngày 18 tháng 9 năm 1931, quân đội Nhật bất ngờ tiến quân vào Mãn Châu, tỉnh giàu nguyên liệu ở miền Bắc của Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch rút các lực lượng của mình về để bảo vệ vùng biên giới đó.
Những người Cộng sản được cứu thoát.
VÀO NGÀY 7 THÁNG 11 NĂM 1931 – ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Mười – ĐCS Trung Quốc thành lập quốc gia riêng ở Giang Tây. 600 cán bộ Đảng tập họp lại trong một gian sảnh đẹp được trang hoàng bằng biểu ngữ ở giữa một khu rừng nhỏ đầy cây long não lâu năm. Các đơn vị của Hồng Quân diễu binh, pháo hoa được đốt.
Mao long trọng tuyên bố: “Từ bây giờ trở đi có hai quốc gia hoàn toàn khác nhau trên lãnh thổ Trung Quốc. Một quốc gia là cái được gọi là Cộng hòa Trung Hoa, công cụ của Chủ nghĩa Đế quốc. Quốc gia khi là Cộng hòa Xô viết Trung Hoa, quốc gia của số đông công nhân, nông dân, quân nhân và người lao động bị bóc lột và đàn áp.”
Xô viết Giang Tây bao gồm một vùng đất với gần sáu triệu người dân. Mao Trạch Đông được bổ nhiệm làm sếp của chính phủ quốc gia lâm thời.
Mười năm sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc được thành lập, người thầy giáo dạy Sử kín đáo đấy đã thăng tiến lên cao. Tuy ông vẫn còn đứng dưới giới lãnh đạo Đảng ở Thượng Hải – thế nhưng trong Vương quốc Đỏ của Giang Tây, lần đầu tiên những người dưới quyền đã xun xoe gọi ông khác đi: là “Mao Chủ tịch”.
Ông sẽ giữ danh hiệu đấy cho đến khi qua đời.
Tiến sĩ Ralf Berhorst
Phan Ba dịch
Giới thiệu tài liệu: Jonathan Spence, “Mao”, nhà xuất bản Claasen: tiểu sử được thuật lại một cách dễ hiểu và chứa đựng nhiều thông tin từ ngòi bút của một trong những nhà Hán học nổi tiếng nhất thời chúng ta. Hung Chang & Jon Halliday, “Mao”, Panteon: một trong những mô tả mới nhất, nhưng cũng bị tranh cãi nhiều nhất về con người của ông chủ tịch vĩ đại. Các tranh luận mà quyển sách này đã gây ra trên khắp thế giới được Gregor Benton & Lin Chun tập trung lại trong quyển “Was Mao Really a Monster? The academic response to Chang and Halliyday’s Mao: The Unknown Story”, Routledge.
Con người chuyên quyền kia
Henning Albrecht
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO EPOCHE xuất bản
Trong cuộc chiến đấu chống những người Cộng sản, Tưởng Giới Thạch, lãnh tụ của những người Dân tộc Chủ nghĩa đã đẩy Trung Quốc vào một cuộc nội chiến
Đối thủ quyết liệt nhất của Mao xuất thân từ những hoàn cảnh hoàn toàn khác với người con trai nhà nông: Tưởng Giới Thạch sinh năm 1887 ở một trong những tỉnh cạnh biển, cởi mở với cả thế giới, cha ông ấy là một thương gia muối khá giả. Tuy Tưởng cũng theo đuổi một mục đích tương tự như Mao – ông cũng muốn hiện đại hóa Trung Quốc và dẫn dắt nó trở về tầm vóc to lớn ngày xưa –, thế nhưng ông đi một con đường hoàn toàn khác.
Gầy gò, gân guốc, chịu nhiều ảnh hưởng của những giá trị đạo Khổng như kỷ luật và phục tùng, nhưng cũng nóng tính và độc đoán: Tưởng ngay từ thời trẻ đã muốn trở thành sĩ quan. Kỳ thi vào một trường quân sự cho phép ông hoàn thành việc học tập ở Nhật, bắt đầu từ năm 1907. Sau đấy ông còn phục vụ trong quân đội Nhật, và đã tiếp nhận các lý tưởng của nó về tình chiến hữu và danh dự người lính. Qua đó, ông trở thành một người hâm mộ các chế độ độc tài, hâm mộ cả những người phát xít châu Âu trong những năm 1930.
Tưởng tìm cách gia nhập các hội đoàn chính trị bí mật. Ông muốn lật đổ triều đình Trung Quốc – vì nó nhu nhược và dâng đất nước cho các thế lực thuộc địa. Năm 1908, ông gia nhập một tổ chức là tiền thân của Quốc Dân Đảng theo đường lối Dân tộc Chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên. Khi biết về cuộc cách mạng ở quê nhà năm 1911, ông trở về Trung Quốc để gia nhập các lực lượng nổi dậy. Cuộc lật đổ tuy thành công, nền cộng hòa được thành lập, nhưng chẳng bao lâu sau đó nó lại tan rã ra thành những lãnh địa riêng của các viên tư lệnh tại địa phương – từ đấy trở đi chính phủ trung ương ở Bắc Kinh bất lực.
Người ta chỉ biết được một ít về những năm kế tiếp theo sau đó trong cuộc đời của Tưởng. Thời gian này ông ở nước ngoài, trước hết là ở Nhật nhưng cũng ở trong giới mafia của Thượng Hải: những mối quen biết mà sau này sẽ trở nên quý báu cho sự nghiệp chính trị của ông ấy.
Năm 1917, Tôn Dật Tiên trở thành tổng tư lệnh quân đội trong miền Nam Trung Quốc. Năm 1920 ông thành lập mới Quốc Dân Đảng và bổ nhiệm Tưởng làm tham mưu trưởng của quân đội tỉnh Quảng Đông. Để tái thống nhất Trung Quốc, Quốc Dân Đảng cần sự hỗ trợ từ nước ngoài: họ có quá nhiều đối thủ ở trong nước. Nước Nga Xô viết trẻ tuổi đề nghị cộng tác – việc cuối cùng dẫn đến một mặt trận thống nhất với ĐCS của Trung Quốc: nhiều cán bộ Cộng sản, trong đó có Mao Trạch Đông, trở thành đảng viên của Quốc Dân Đảng.
Với sự giúp đỡ và tiền bạc từ các cố vấn Xô viết, Quốc Dân Đảng thành lập một học viện quân sự năm 1924 và bổ nhiệm Tưởng chỉ huy nó. Dưới sự lãnh đạo của ông ấy, những người lính được giáo dục phải phục tùng tuyệt đối, bằng cách luyện tập hà khắc, truyền giáo chính trị và với những hình phạt tập thể.
Tháng 3 năm 1925 Tôn Dật Tiên qua đời. Cái chết của ông ấy quá đột ngột đối với Tưởng: ông không tỏ vẻ muốn tiến đến một chức vụ chỉ huy về chính trị, thế nhưng bây giờ ông lại trở thành người đứng đầu Đảng. Vào lúc ban đầu, ông thuộc phe cánh tả của Đảng, phe ngưỡng mộ tính chiến đấu của ĐCS Xô viết. Thế nhưng trong tháng 3 năm 1926, khi Tưởng biết được rằng những người Cộng sản âm mưu muốn tước quyền chỉ huy học viện của ông, ông thay đổi khuynh hướng chính trị hoàn toàn: cho tới tháng 5, ông đã thành công trong việc loại trừ toàn bộ những người Cộng sản ra khỏi các chức vụ trong Đảng.
Rồi ông chuẩn bị hiện thực kế hoạch tái thống nhất Trung Quốc của Tôn. Trong tháng 7, Quân đội Cách mạng Quốc gia dưới quyền tổng chỉ huy của ông ấy bắt đầu một chiến dịch chống các tư lệnh địa phương ở miền Bắc. Với tài năng thương lượng đặc biệt của mình, Tưởng thuyết phục được nhiều viên tư lệnh tham gia quân đội của ông. Trong vòng một thời gian ngắn, họ chiếm được toàn bộ vùng đất ở phía dưới Trường Giang.
Đầu tháng 4 năm 1927, Tưởng đàn áp đẫm máu một cuộc nổi dậy của những người thuộc công đoàn và những người thuộc phe Xã hội trong Thượng Hải, hàng ngàn người bị giết chết. Trước đó, ông ấy đã nhận được sự giúp đỡ từ các trùm mafia và doanh nhân của thành phố. Đánh đổi cho công lao của mình, Tưởng bắt buộc giới doanh nhân ở Thượng Hải phải chi trả tiền cấp dưỡng cho quân đội của ông ấy: ông ấy cho bắt giam con trai của các doanh nhân như là “những người Cộng sản” và chỉ trả tự do cho họ khi nhận được tiền trợ giúp.
Bây giờ, ông ấy là viên tư lệnh có nhiều quyền lực nhất của Trung Quốc. Tháng 4 năm 1927, ông tuyên bố Nam Kinh trở thành trụ sở của chính phủ quốc gia mới mà trong đó những người chống đối mặt trận thống nhất chiếm thế áp đảo nhờ ảnh hưởng của Tưởng. Đồng thời, ông cho bắt giam những người Cộng sản ở khắp nơi trong vùng kiểm soát của mình. Ông liên kết với hai viên tư lệnh thuộc trong những người hùng mạnh nhất và hoàn thành chiến dịch tiến lên phương Bắc trong mùa hè năm 1928. Giờ đây, chính phủ quốc gia kiểm soát hầu như toàn bộ đất nước.
Tháng 10 năm 1928, Trung Quốc có Hiến Pháp mới: Tưởng trở thành chủ tịch của Hội đồng Nhà nước mới hình thành và qua đó trên thực tế là lãnh đạo chính phủ. Nhưng yêu cầu cầm quyền của ông ấy dựa trước hết là trên quyền chỉ huy quân đội: nền cộng hòa mới thật ra là một chế độ độc tài quân sự mà trong đó một hệ thống độc đảng bảo đảm cho Tưởng quyền kiểm soát chính phủ, hành chính và cảnh sát chính trị.
Ông ấy sẽ biết cách sử dụng quyền lực này trong những năm kế tiếp theo sau đó – cho các chiến dịch tiêu diệt không thương xót những người Cộng sản của Mao.
Henning Albrecht
Phần nhận xét hiển thị trên trang