Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2019

Thằng Khùng


(Thanh Ngang Trên Thập Tự Giá)

(Thằng Khùng trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài. Phùng Quán viết lại theo lời kể của nhà thơ Tuân Nguyễn (không phải Nguyễn Tuân là nhà văn có cùng tên) – khi cùng ở trong tù)
“… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.
Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.
Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
– Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
– Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:
– Anh Tuân này – không rõ anh ta biết tên mình lúc nào – sống ở đây anh thèm cái gì nhất?
– Thèm được đọc sách – mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.
– Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? – anh ta hỏi.
– Voltaire! – một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
– Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
– Tôi thích nhất là Candide.
– Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
– Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: “Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.
– Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! – anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
– Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:
– Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
– Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn – ngu ngơ, đần độn như thường ngày.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… – những người tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
– Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
– Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
– Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
– Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói:
– Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán
Ghi chú: Tuân Nguyễn (không phải nhà văn Nguyễn Tuân) là một nhà thơ tài hoa, tinh tế, song có số phận hẩm hiu, đau khổ. Đây là câu chuyện do ông Tuân Nguyễn kể lại cho Phùng Quán, rồi Phùng Quán viết lại. Nhân vật chính – Cha Vinh – mất năm 1971. Tuân Nguyễn bị tù đến 1973, nên ông đã chứng kiến cái chết của nhân vật.
____________________
Ghi Chú:
(*) THẰNG KHÙNG trong tù này là Cha Chính Vinh, tức là Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH (1912-1971), của Nhà thờ lớn Hà Nội. Bài viết của Phùng Quán đã kể lại chuyện thật những năm, những ngày cuối trong ngục tù của Ngài.
Xin mời đọc thêm (bài kèm theo dưới đây) tiểu sử của Cha Vinh để chúng ta biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời Ngài; và cũng để hiểu thêm gương phụng sự Chúa của Ngài….
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH,
Cha chính Hà Nội, (1912 – 1971).
Tấm gương can trường.
Linh mục Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH*
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges.
Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.
Ngài học Văn Khoa – Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và hòa âm tại
Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour Madame!”
Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ý chí sắt son.

Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập dòng khổ tu
Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize – Thịnh, Bề trên Giáo phận đã bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ. Vì lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu.
Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.

Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha
Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.
Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.
Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh trình bày bản hợp tấu “Ở Dưới Vực Sâu” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,” “Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8, Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.
Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.
Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn:
“Tự do thế này à!”
Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành. Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.
Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân
khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:
“Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”
Ngài đáp:
“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận mình!”
Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một… Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân thương gọi ngài là “Bố.”
Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ, mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.
Vì không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử.
Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”
Suốt đời mình, trong mọi tình huống cha Chính Vinh làm tròn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
TGP Hà Nội
BBT (Theo HĐGMVN)
Nguồn trang Facebook Lư Lư Châu

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2019

IDS: CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ


Chu Hảo
Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) đăng ký hoạt động theo Luật KH&CN tại Sở KH&CN Hà Nội và được chấp nhận ngày 27 tháng 9 năm 2007. Ngày 14 tháng 9 năm 2009 IDS tuyên bố tự giải thể để phản đối Quyết định số 97/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc Ban hành Danh mục các lĩnh vực cá nhân được thành lập tổ chức KH&CN, có hiệu lực từ ngay ngày hôm sau.
Mới đấy mà đã hơn 10 năm IDS ngừng hoạt động, nhưng vẫn đang và sẽ còn để lại những dấu ấn đặc biệt trong quá trình phát triển đầy gian nan của Xã hội dân sự ở nước ta. Nhân dịp này, tôi xin kể lại một vài câu chuyện có liên quan mà còn ít người được biết. Mong được bạn đọc gần xa chia sẻ với tinh thần cởi mở.
Khoảng cuối năm 2006 các anh Phùng Liên Đoàn (PLĐ) và Lê Xuân Khoa (LXK) đã đề xuất với Nguyên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt (VVK) việc thành lập Viện VN21 để tập hợp một số anh chị em trong và ngoài nước cùng nghiên cứu những vấn đề cấp thiết phục vụ phát triển đất nước. Anh PLĐ ước tính phải có khoảng 6 triệu USD cho việc này, trong đó bản thân anh tình nguyện ủng hộ một nửa, số còn lại đề nghị Chính phủ đóng góp. Sẽ thành lập một Ban điều hành chung do Chính phủ và Nhóm PLĐ đề cử. Ông VVK khuyến khích ý tưởng này và mãi lâu sau khi việc không thành Ông mới chia sẻ với chúng tôi, đại ý: Hợp tác với các anh chị em vốn đã là Việt kiều yêu nước thì dễ quá, hợp tác với những người cũng là máu đỏ da vàng mà trước đây không đứng về phía chúng ta mới khó, nhưng đó là việc cần phải làm trên tinh thần hòa hợp để tận dụng chất xám của một bộ phận trí thức tâm huyết đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Còn lúc ấy Ông đã viết thư giới thiệu với Thủ tướng và giao cho các anh Tương Lai, Huy Đức giúp hai anh PLĐ và LXK gặp trực tiếp để thăm dò tính hiện thực của đề xuất nói trên. Tiếc thay việc không thành vì một lý do hết sức giản đơn: Thủ tướng không mấy mặn mà! Thật tiếc cho một ý tưởng lành mạnh và tấm lòng chân thành của những người xa quê hương…
Ở Hà Nội anh Quang A và chúng tôi cũng định thành lập một Viện nghiên cứu phát triển trực thuộc Hiệp hội các Doanh nghiệp Hà Nội. Lại vấp phải cơ chế “xin-cho” nên việc cũng không thành.
Đúng vào lúc ấy ông VVK lại khuyến khích chúng tôi thành lập các tổ chức nghiên cứu kiểu các think tank độc lập. Hai tổ chức như vậy mau chóng được hình thành . Ở Sài Gòn các anh Võ Như Lanh và Trần Hữu Quang thành lập Trung tâm Nghiên cứu trực thuộc Tạp chí Thời báo Kinh tế Sài Gòn gồm khoảng vài chục nhân sĩ trí thức trong và ngoài nước do anh Trần Hữu Quang làm Giám đốc và mời ông VVK làm Chủ tịch Hội đồng Trung tâm. Thấy vậy anh Quang A và tôi bay vào Nam xin ý kiến ông VVK. Chúng tôi báo cáo với Ông là dựa nào Luật KH&CN, các tổ chức nghiên cứu tư nhân chỉ cần đăng ký hoạt động ở các sở KH&CN của các tỉnh thành với thủ tục khá đơn giản. Khối khoa học kỹ thuật thì có nhiều rồi, khối khoa học xã hội nhân văn thì chưa có, nhưng không có điều luật nào cấm cả, chúng tôi sẽ vận dụng. Ông hỏi bao giờ lập xong? Chúng tôi nói khoảng vài tuần; và nói thêm rằng chúng tôi muốn mời ông tham gia với tư cách Chủ tịch HĐ Viện, nhưng rất băn khoăn vì sợ bước đầu khó khăn, hoạt động không hiệu quả thì làm Ông mang tiếng. Ông vui vẻ khuyến khích: “Không cần tôi đâu! Các cậu cứ làm tới đi!”. Với sự chỉ dẫn và giúp đỡ hết sức nhiệt của GĐ sở KH&CN Hà Nội lúc đó, chúng tôi đã hoàn thành thủ tục theo đúng quy trình, và nhanh chóng nhận được Giấy chấp nhận đăng ký, rồi hăm hở bước vào hoạt động.
Theo gợi ý của ông VVK, chúng tôi đã mời các GS Hoàng Tụy (Chủ tịch Hội đồng Viện) và Phan Huy Lê, các chuyên viên cao cấp Trần Việt Phương, Trần Đức Nguyên, tham gia như những thành viên sáng lập cùng với ba chúng tôi là Nguyễn Quang A (Viện Trưởng), Phạm Chi Lan (Viện Phó) và Chu Hảo. Dần dần chúng tôi lần lượt mời các vị sau đây tham gia HĐ viện: Tương Lai, Nguyễn Trung, Lê Đăng Doanh, Nguyên Ngọc, Kim Hạnh, Huỳnh Sơn Phước, Phan Đình Diệu, Nguyễn Quốc Huy và Phạm Duy Hiển.
Khó khăn đầu tiên là vấn đề “tiền đâu?”: tiền thuê trụ sở, tuyển nhân viên Văn phòng và Kế toán, tổ chức các cuộc họp và hội thảo…Rất may là trong lúc khó khăn ấy anh Quang A đã vận động gia đình ủng hộ Viện 500.000.000 VNĐ (năm trăm triệu đồng). Có bột sẽ gột nên hồ! Ngay từ đầu Ông VVK nhắc nhở chúng tôi nên hợp tác với các Bộ Ngành để thực hiện các đơn đặt hàng nghiên cứu chính sách. Cuối cùng, sau gần hai năm hoạt động hình như chỉ làm được một HĐ nghiên cứu đánh giá chính sách với Quỹ Đan Mạch do anh Vũ Quốc Huy chủ trì là có vẻ có giá trị. Còn “con cá sổng” mới đúng là “con cá to”: Hợp đồng “Tư vấn Phát triển bền vững dựa trên Khoa học và Giáo dục” mà chúng tôi đã thảo luận khá công phu với Bộ KH&GD của một nước Phi châu có giá trị hàng triệu USD cuối cùng đã không thành (nghe nói vì có nhóm khác từ một nước rất to giành mất?!)
Tuy vậy trong khoảng hai năm tồn tại IDS đã làm được một số việc có ý nghĩa như các bạn đã biết. Nhưng việc IDS đã từng tư vấn cho ông Thường trực Ban Bí thư ĐCS VN (BBT) thì chắc các bạn chưa biết. Ấy là vào lúc Bộ Chính trị ĐCSVN (BCT) chuẩn bị ra Nghị quyết về ổn định kinh tế vĩ mô, khắc phục ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008. Được biết đến IDS như một think tank độc lập, ôngThường trực BBTđã mời một số thành viên của Viện đến để tham khảo ý kiến. Trong tuần làm việc ấy ông đã một mình thân mật tiếp chúng tôi hai lần tại nhà riêng. Khi chị Chi Lan và các anh Lê Đăng Doanh, Quang A, Vũ Quốc Huy trình bày tôi thấy ông chăm chú lắng nghe, hỏi lại nhiếu vấn đề mà ông quan tâm… và ghi chép rất cẩn thận. Ông tỏ ra rất thoải mái và cởi mở khi trao đổi lại những ý kiến của các anh chị khá nặng nề khi nói về hiện trạng nền kinh tế nước nhà, rất thẳng thắn phê phán những chủ trương chính sách không hợp lý, và mạnh dạn đề xuất phương án khắc phục. Chúng tôi không thể biết ông có sử dụng chút nào những ý kiến thảo luận tại hai buổi làm việc ấy trong các cuộc họp của BCT hay không, nhưng cũng thấy vui khi sau đó đã nhận ra vài ba điểm tương đồng giữa ý kiến của các chuyên gia kinh tế IDS với những kết luận ghi trong NQ của BCT về ổn định kinh tế vĩ mô. Rất có thể đấy chỉ là một sự tình cờ…
Rồi một năm sau “tình cờ” chúng tôi được biết ông Tổng Bí thư rất “quan tâm” đến hoạt động của IDS và Trung tâm Nghiên cứu trực thuộc Thời báo Kinh tế Sài Gòn, bằng cách trực tiếp chỉ đạo lãnh đạo Hà Nội và T/p Hồ Chí Minh giải tán hai tổ chức đó. “Lệnh” đã ban ra và lập tức được thi hành. Ở T/p HCM sự việc diễn ra khá đơn giản. Ông Phó chủ tịch thành phố phụ trách khối Văn-Xã truyền đạt cho lãnh đạo cơ quan chủ quản “lệnh miệng” của cấp trên và Trung tâm Nghiên cứu lặng lẽ được giải tán. Ở Hà Nội thì “lủng củng” hơn nhiều. IDS là tổ chức tư nhân nên không có cơ quan chủ quản để mà ra “lệnh miệng”, thành ra phải làm theo Luật, mà chúng tôi thì làm rất đúng Luật nên khó mà hoạnh họe. Nhưng cuối cùng thì lãnh đạo Hà Nội và Chính phủ cũng tìm ra cách loại bỏ IDS bằng cách ra NQ 97 như các bạn có thể tìm hiểu thêm trong tài liệu kể trên.
Tuyên bố tự giải thể thì chẳng phải xin phép ai, nhưng làm các thủ tục trả lại con dấu để dừng hoạt động không dễ dàng đâu nhé! Chi cục thuế Hà Nội phát hiện IDS còn thiếu 6000 VNĐ (sáu ngàn đồng) và bắt thanh toán ngay. Để cho chắc chắn chúng tôi nộp luôn 10.000 VNĐ (mười ngàn đồng), vậy mà cho đến nay “nguyên” IDS vẫn chưa nhận được Giấy chứng nhận nộp đủ thuế để trả lại con dấu theo đúng quy định. Khổ thân Viện trưởng IDS đến hôm nay vẫn phải bảo quản con dấu này rất cẩn thận. Tôi đồ rằng chưa thể có con dấu thứ hai giống thế . Đối với chúng tôi đây cũng là một kỷ niệm vui vui. Và chúng tôi thanh thản…
Chu Hảo
Cựu Thành viên IDS
Lên trang viet-studies ngày 14-9-19
Ảnh: Nguyễn Quang A, Phạm Chi Lan, Chu Hảo, Phan Đình Diệu

Phần nhận xét hiển thị trên trang

DI CHÚC SAO LẠI LÀ LỜI CỦA NON SÔNG ĐẤT NƯỚC?


Bài của Chu Mộng Long
Trên trang Hoàng Tuấn Công đưa hình ảnh tuyên truyền của VTV1 với biển hiệu "Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lời của non sông đất nước".
Từ điển định nghĩa: Di chúc: (Trang trọng) (trước khi chết) dặn lại những việc người sau cần làm và nên làm. Nôm na theo dân gian là "lời trăng trối".
Thật khó hiểu khi VTV1 lại đồng hóa Di chúc của Bác Hồ thành lời trăng trối của non sông đất nước. Đành rằng, Hồ Chí Minh bất tử, "sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta", nhưng bản thân từ "Di chúc" lại không mang nghĩa như vậy.
Không hiểu Trần Bình Minh và cán bộ VTV học lớp mấy mà viết tùy tiện như trẻ con học nói?
Khi Tố Hữu viết "Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước" là viết ở bài thơ Sáng tháng năm (tập thơ Việt Bắc), lấy hình tượng sống động của Bác làm biểu tượng cho non sông đất nước. Còn biến Di chúc thành "lời non sông đất nước" thì phải kiêng kỵ. Non sông đất nước chết bao giờ mà để lại di chúc?
Cứ làm phép thay thế trong hai mệnh đề rất cân đối theo nghĩa tương đương của VTV mà xem chứ đừng chụp mũ tôi xuyên tạc: Lời = Di chúc. "Di chúc của non sông đất nước". Có trù mạt non sông đất nước không?
Thật trùng hợp ngẫu nhiên khi chiều nay xem mạng, thấy các bạn dư luận viên bào chữa rằng, khu mộ mênh mông của cố Chủ tịch nước Trần Đại Quang là "di nguyện của nhân dân". Tôi đã bật cười, rằng nhân dân chết bao giờ mà để lại "di nguyện"?
Tiếng Việt do nhân dân ngàn đời làm ra, cũng là hồn thiêng của non sông đất nước, không thể dùng tùy tiện mà được. Biết là VTV tôn vinh Bác Hồ vĩ đại, nhưng dùng từ, đặt câu một cách vô ý thức như vậy thật có hại cho tiếng Việt lẫn có hại cho non sông đất nước.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

SỨC MẠNH CỦA HỘ CHIẾU HONGKONG




 Tuong Duong

Trong hình ảnh có thể có: văn bản

Có thể các bạn có biết? Hộ chiếu Hong Kong có quyền lực như thế nào trên thế giới không? Theo cơ quan di trú đặc khu HK thì công dân xứ HK có thể ra vào 166 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới mà không cần các thủ tục "xin" thị thực trước. Passport Hong Kong luôn nằm trong top 15 cuốn thông hành giá trị nhất toàn cầu.
Bạn có biết tại sao những lãnh đạo phong trào biểu tình HK có thể ra nước ngoài vận động thoải mái, mỗi lần bị police bắt đều được thả ra một cách nhanh chóng không? Bởi vì quyền lực của chính quyền hiện vẫn bị trói buộc bởi các bộ luật cơ sở của Anh quốc để lại, và được vận hành bởi một nền tư pháp vẫn còn độc lập, chưa bị thao túng bởi chính quyền hành pháp (hay đảng) như các nước độc tài.
Bạn có biết tại sao HK trải qua thời kỳ sóng gió trong vòng mấy tháng nay, nhưng đồng đô la HK vẫn không bị sụt giá, có nghĩa là tài sản ròng của dân đặc khu không bị hao hụt tí nào không? Vì nền kinh tế HK là một nền kinh tế tự do hoàn chỉnh, đồng nội tệ Hong Kong (HKD) được ràng giá chặt vào đồng đô la Mỹ (USD). Và HK được hưởng quy chế thương mại đặc biệt với Hoa Kỳ thông qua một đạo luật bảo trợ hẳn hoi.
Và bạn có biết sau New York và Lon Don , HK là trung tâm tài chánh lớn thứ 3 toàn cầu , chỉ số Hangsheng - index còn Dữ hơn chỉ số Nikkei - index của Nhật trên sàn chứng khoán vì có 30% các đại công ty về niêm yết trên sàn chứng khoán Hangsheng
Vậy, đã đủ lý do để dân Hong Kong sống chết bảo vệ tính căn cước và sự tự do của họ chưa? Thử đặt bạn vào hoàn cảnh của dân HK, mỗi việc đổi cuốn passport HK sang thành passport TQ, bạn có vui không ?
Tuong Duong

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGOẠI TRƯỞNG ĐỨC TUYÊN BỐ ỦNG HỘ HOÀNG CHI PHONG, ĐẨY QUAN HỆ TRUNG - ĐỨC VÀO CĂNG THẲNG NGHIÊM TRỌNG



Trần Đình Thu

Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người, máy ảnh và bộ vét
Quan hệ ngoại giao Trung - Đức đang rơi vào căng thẳng nghiêm trọng sau chuyến thăm của thủ lĩnh biểu tình Hong Kong Hoàng Chi Phong đến Đức, đặc biệt là sau khi ngoại trưởng Đức tuyên bố ủng hộ Hoang Chi Phong.
Đại sứ quán Trung quốc tại Đức đã họp báo ngay lập tức sau đó, cảnh báo quan hệ Trung - Đức đang bị sứt mẻ nghiêm trọng. Đại sứ Trung quốc còn lên án cả Hoàng Chi Phong lẫn cách hành xử của phía Đức.
Tại cuộc họp báo, Đại sứ Trung quốc Ngô Khẩn nói:
“Hoàng Chi Phong đã bị kết án tù vì tham gia vào các cuộc tụ tập bất hợp pháp. Cách đây không lâu, y (ông Ngô dùng từ Tha theo tiếng Hán là chỉ nam nhân ở ngôi thứ 3 với hàm ý không coi trọng) đã bị cảnh sát bắt giữ vì cáo buộc kích động tụ họp bất hợp pháp và tham gia vào hội nghị bất hợp pháp.
Y và những người ủng hộ đã cố gắng hết sức để tạo ra sự chống đối xã hội, thúc đẩy thù hận và bạo lực, bôi nhọ "một quốc gia, hai hệ thống", nói xấu chính quyền đặc khu và cảnh sát, và nói rằng Hồng Kông đang tìm kiếm dân chủ và tự do, nhưng y không đề cập đến việc tham gia vào các tội ác bạo lực. Đáng ngờ về mục đích chính trị đằng sau y. Một số lực lượng chính trị và chính trị gia ở Đức đã coi một kẻ chủ mưu bạo lực bất hợp pháp như một vị thượng khách”.
Ông Ngô đặt câu hỏi phải chăng cuộc gặp đó có động cơ chính trị.
Ông Ngô Khẩn cũng cho rằng truyền thông Đức đang bóp méo sự thật khi ca ngợi thủ lĩnh Hoàng Chi Phong.
Như vậy chuyến thăm Đức của thủ lĩnh Hoàng Chi Phong đã gây ra rất nhiều sóng gió cho quan hệ ngoại giao Trung - Đức. Điều nhận thấy rõ ràng là chính phủ Đức công khai ủng hộ người biểu tình Hong Kong đang muốn tách ra khỏi Trung quốc.
Chúng ta tiếp tục chờ xem chuyến thăm Mỹ sắp tới của thủ lĩnh Hoàng Chi Phong sẽ như thế nào.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2019

Kiện Trung Quốc, "chúng ta sẽ đập nát sự tự tin của họ"


Tuổi trẻ Online, thứ năm 26/5/2016
TT - Là nhà nghiên cứu sâu về luật quốc tế, GS-TS Nguyễn Vân Nam rất nặng lòng với thời sự nóng bỏng ở biển Đông. Theo ông, cần phải kiện ra tòa án quốc tế để Trung Quốc phải thay đổi chiến lược.
Kiện Trung Quốc, "chúng ta sẽ đập nát sự tự tin của họ"
Tàu kiểm ngư bị hư hỏng nặng - Ảnh: Hữu Khá
k9WA849m.jpg
GS-TS Nguyễn Vân Nam
 
Ông Nam nhấn mạnh:
- Trung Quốc chỉ muốn giải quyết tranh chấp song phương, không chịu đa phương. Nhưng thỏa thuận song phương với Trung Quốc rất nguy hiểm.
Họ có thể dùng nó để loại trừ các nghĩa vụ quốc tế của mình. Bởi nguyên tắc tối cao của công pháp quốc tế là tôn trọng chủ quyền quốc gia, tôn trọng sự thỏa thuận giữa các nước, nên những thỏa thuận song phương như vậy có khả năng và hiệu lực loại trừ nghĩa vụ quốc tế mà một trong hai nước đã ký kết.
Tức là với một thỏa thuận song phương, Trung Quốc có thể loại trừ được những điều mà họ muốn loại trừ, nhưng không thể hoặc chưa kịp loại trừ khi ký kết các thỏa thuận quốc tế.
Ngoài ra, họ còn có thể ép chúng ta thực hiện những điều cam kết song phương với họ. Nhưng chính họ lại có thể không thực hiện, bởi trong quan hệ giữa ta và Trung Quốc có những loại thỏa thuận song phương không có hiệu lực quốc tế, và vì vậy họ không sợ bị phán xử.
Điều này cực kỳ nguy hiểm. Chính vì vậy, việc cần làm ngay là phải đưa Trung Quốc vào cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương trong công pháp quốc tế.
4 cách khởi kiện Trung Quốc
"Với việc khởi kiện, chúng ta sẽ đập nát sự tự tin của họ, buộc họ phải bị động thay đổi chiến lược chứ không thể hoàn toàn hành động ngang ngược, trâng tráo theo ý mình"
GS-TS NGUYỄN VÂN NAM
* Trung Quốc luôn khăng khăng không chấp nhận thẩm quyền tài phán của tòa án quốc tế. Với trường hợp kiện của Philippines cho thấy Trung Quốc không đồng ý ra tòa mà còn gia tăng áp lực song phương.
- Điều 287 khoản 1 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) quy định khi tranh chấp, các nước thành viên có thể chọn bốn khả năng: thứ nhất là tòa án quốc tế ở Hà Lan, thứ hai là Tòa án quốc tế về luật biển ở Đức, thứ ba là tòa trọng tài theo phụ lục 7 của UNCLOS, thứ tư là tòa trọng tài theo phụ lục 8 cho những tranh chấp đặc biệt.

Mới nghe thì rất dễ, nhưng không đơn giản. Ví dụ tòa án quốc tế ở Hà Lan có quy định tòa chỉ có thẩm quyền xét xử nếu được cả hai bên cùng công nhận thẩm quyền.
Về nguyên tắc, các nước ký UNCLOS đều chịu phán quyết của tòa án biển quốc tế, nhưng mỗi nước khi ký đều có quyền tuyên bố bảo lưu, không chấp nhận thẩm quyền phán xử của tòa án quốc tế trong lĩnh vực nào.
Trung Quốc đã có tuyên bố hợp lệ loại trừ quyền tài phán của tòa án biển quốc tế đối với toàn bộ tranh chấp về chủ quyền liên quan đến đảo.
* Ngày 25-8-2006, Trung Quốc gửi Liên Hiệp Quốc các tuyên bố bảo lưu theo điều 298 của UNCLOS, sau đó đẩy căng thẳng biển Đông lên cấp độ ngày càng nóng hơn. Theo ông, chúng ta nên chọn giải pháp nào để đấu tranh hiệu quả trên mặt trận pháp lý với Trung Quốc?
- Tôi thấy có gì đó rất nguy hiểm. Tại sao Trung Quốc lại đưa giàn khoan vào đúng lúc mọi người bất ngờ nhất? Theo tôi, nó là phép thử đầu tiên xem phản ứng của Việt Nam và công luận quốc tế để họ thu thập và đánh giá đầy đủ thông tin cần thiết cho những bước nghiêm trọng hơn.
Cho nên mục tiêu của chúng ta không thể chỉ là đuổi giàn khoan xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam. Đây là cơ hội để ta đạt được các mục tiêu lớn hơn, buộc Trung Quốc vào một cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương.
Đó là mục tiêu quan trọng đầu tiên. Mục tiêu thứ hai là bẻ gãy sự tự tin ngạo mạn kiểu Trung Quốc, khiến họ phải thay đổi chiến lược ở biển Đông.
Mục tiêu thứ ba là phòng vệ chủ động: khi Trung Quốc bị buộc phải tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp của tòa án quốc tế, họ sẽ không thể nào dùng vũ lực được nữa.
Theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc và UNCLOS, trong khi tòa án giải quyết các tranh chấp như thế, các bên có nghĩa vụ không được làm tình hình nghiêm trọng hơn.
Nghĩa là với đơn kiện như vậy, Trung Quốc bị buộc không được dùng vũ lực hoặc các mưu mô khác có khả năng làm hiện trạng tồi tệ thêm.
Có thể khởi kiện Trung Quốc sử dụng vũ lực
* Giới luật gia quốc tế cho rằng Trung Quốc tính già hóa non trên biển Đông. Họ cũng đang lộ ra nhiều điểm sai trái và kẽ hở?
- Trung Quốc đã rào trước đón sau rất kỹ. Kế sách của họ đưa ra tuyên bố bảo lưu theo điều 298 của UNCLOS loại trừ cả bốn cách quốc tế giải quyết tranh chấp theo luật biển, đặc biệt là tòa án quốc tế giải quyết tranh chấp liên quan đến chủ quyền đảo...
Chúng ta phải nghĩ ra toàn bộ hướng khởi kiện, nghiên cứu sâu các hướng đó để đánh giá hướng nào có khả năng nhất.
Vì vậy, trước tiên đơn kiện của chúng ta phải không lọt vào vùng loại trừ của Trung Quốc. Thứ hai, đơn kiện này phải được một cơ quan tài phán quốc tế chấp nhận.
Đây là cái khó, nhưng có giải pháp. Chúng ta kiện vào cái mà Trung Quốc buộc phải thực thi, một nghĩa vụ căn bản của thành viên Liên Hiệp Quốc mà Trung Quốc không thể loại trừ.
Đó chính là khoản 3 điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc và điều 279 UNCLOS đều quy định các nước thành viên có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình, không được sử dụng vũ lực, và nghĩa vụ này không bị loại trừ bởi bất kỳ tuyên bố nào.
Thế nào là sử dụng vũ lực thì có thể còn tranh cãi. Và bởi vì còn tranh cãi nên cần phải có cơ quan tài phán độc lập. Đó chính là thuận lợi cho mình.
Các hành vi sử dụng vũ lực này là dùng tàu hải giám, hải cảnh, tuần ngư... thuộc sở hữu nhà nước Trung Quốc phá hỏng tàu Việt Nam. Nghiêm trọng hơn là tàu của nhà nước Trung Quốc đã có gây thương tích cho người Việt Nam.
Như vậy, chúng ta có thể khởi kiện Trung Quốc sử dụng vũ lực vi phạm khoản 3 điều 2 Hiến chương Liên Hiệp Quốc và điều 279 UNCLOS ra Tòa án quốc tế về luật biển. Nội dung kiện này không nằm trong vùng loại trừ của Trung Quốc. Họ có thể không đồng ý.
Nhưng theo quy định của UNCLOS, nếu một bên không đồng ý thì phải chuyển qua tòa trọng tài theo phụ lục 7. Tòa trọng tài này sẽ không thể tuyên là việc sử dụng vũ lực không thuộc thẩm quyền, bởi đó là nghĩa vụ căn bản mà Trung Quốc không thể loại trừ.
* Ngoài hướng kiện này, chúng ta còn có thể kiện theo nội dung nào khác?
- Ngoài kiện kết tội, chúng ta có thể khởi kiện yêu cầu xác định hành vi. Đó là yêu cầu Tòa án quốc tế về luật biển khẳng định hành vi tàu Trung Quốc đâm vào làm hư hỏng tàu Việt Nam, gây thương tích người Việt Nam là hành vi sử dụng vũ lực.
Trong đó, đặc biệt là yếu tố gây tổn thương đến con người. Đây là trường hợp Tòa án quốc tế về luật biển có thẩm quyền lý giải và áp dụng UNCLOS. Ở nước ngoài, kiểu kiện yêu cầu tòa án khẳng định một sự việc này rất phổ biến (kiện không có bị đơn).
Để giải quyết, tòa sẽ phải mời Trung Quốc nhưng không phải trong tư cách bị đơn. Và như thế, họ vẫn bị buộc phải tham gia cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương.
Đây là giải pháp khởi kiện tốt vì khả năng thắng lợi rất cao. Sau khi tòa ra phán quyết hành vi vũ lực của Trung Quốc, chúng ta có thể sẽ tiếp tục kiện kết tội họ.
* Liệu có khả năng dù tòa phán quyết thế nào, Trung Quốc vẫn cậy thế nước lớn, không chấp nhận và cứ làm theo ý chí của mình?
- Đó là thực tế. Nhưng với việc khởi kiện, chúng ta sẽ đập nát sự tự tin của họ, buộc họ phải bị động thay đổi chiến lược chứ không thể hoàn toàn hành động ngang ngược, trâng tráo theo ý mình.
Trung Quốc khó có thể còn lu loa nói càn như “rất ngạc nhiên, sửng sốt”. Họ sẽ chùn tay trong hành động làm tình hình tồi tệ thêm.
Ngư dân có thể kiện
* Ngoài hướng kiện của Nhà nước Việt Nam đối với nhà nước Trung Quốc, ông có cho rằng chính ngư dân chúng ta cũng có thể tìm công lý từ luật pháp quốc tế, mà cụ thể là UNCLOS?
- UNCLOS bảo vệ rất chặt chẽ quyền đánh cá. Khoản 2 điều 20 quy chế Tòa án quốc tế về luật biển ghi rõ đây là tòa án quốc tế duy nhất cho phép các chủ thể không phải là nhà nước có thể khởi kiện đối với các tranh chấp liên quan đến cách hiểu và áp dụng UNCLOS.
Một thuận lợi lớn mà chúng ta chưa vận dụng. Chính các thành viên Tòa án quốc tế về luật biển cũng khuyến khích hướng kiện này từ người dân.
* Với sự “phòng thủ” kín kẽ luật pháp của Trung Quốc, ngư dân Việt Nam có thể kiện theo hướng nào để có thể thực thi mà không bị rơi vào vùng loại trừ trong tuyên bố bảo lưu của Trung Quốc?
- Trung Quốc đang cản trở tự do đánh bắt, gây thiệt hại đến tài sản và tính mạng ngư dân. Nếu dựa vào UNCLOS thì Trung Quốc có rất nhiều vi phạm.
Nhưng điều chủ yếu ở đây phải xem xét kỹ là với những hành vi sử dụng vũ lực đó, ngư dân Việt Nam đã có thể khởi kiện được Trung Quốc chưa? Cá nhân ngư dân hoặc qua các hiệp hội, tổ chức nghề cá đều có thể khởi kiện được.
Tuy nhiên, dù là cá nhân hay tổ chức nghề cá thì khi ra Tòa án quốc tế về luật biển họ cũng như là một nhà nước khởi kiện. Họ cũng gặp nhiều khó khăn lẫn thuận lợi như nhà nước tiến hành kiện. Nhưng nếu biết lập luận, có thể họ sẽ không rơi vào những trường hợp tuyên bố loại trừ của Trung Quốc.
* Ngư dân cần được hỗ trợ, chuẩn bị những gì để tự tin bước vào mặt trận tìm kiếm công lý quốc tế?
- Theo tôi, khó khăn lớn nhất ở đây với ngư dân là quá trình thu thập chứng cứ. Ngư dân đi đánh cá bị tàu Trung Quốc đâm hư hỏng, phun vòi rồng nước, bắn cháy, cướp tài sản và hải sản... thì phải thu thập được chứng cứ. Đặc biệt, những chứng cứ đó phải được lấy theo chuẩn mực quốc tế như chụp ảnh, quay phim...
Nhà nước, các hội đoàn và nhân dân cả nước có thể hỗ trợ ngư dân bằng kinh phí, trang bị máy móc đủ điều kiện để thu thập chứng cứ, bản thân ngư dân rất khó tự thân xoay xở.
Chính Trung Quốc cũng hiểu rõ điều này. Ngoài các tàu nhà nước, nhiều lần họ sử dụng tàu ngụy trang tàu cá để che đậy hành động tấn công ngư dân Việt Nam.
Hỗ trợ ngư dân kiện
Bản thân ngư dân hay tổ chức nghề cá rất khó làm hồ sơ kiện ra Tòa án quốc tế về luật biển. Họ cần được giúp đỡ, cần có người hướng dẫn cụ thể trình tự lấy chứng cứ như thế nào, cách lấy, và mỗi loại chứng cứ thì điểm gì là điểm không thể không có. Có nhiều loại chứng cứ như quay phim, chụp ảnh, nhân chứng. Ví dụ, tàu ngư dân bị tàu Trung Quốc đâm va thì người trên tàu rất khó ghi hình để thấy rõ toàn cảnh tàu bị hại, tàu tấn công, số tàu, kinh độ vĩ độ, ngày giờ, hành vi... Có hai loại nhân chứng và chứng cứ, nhưng chứng cứ khách quan tại hiện trường thì tốt hơn nhiều. Vì vậy, nên cần có hai, ba tàu phối hợp để tàu bị tấn công, tàu khác có thể ghi lại chứng cứ rõ ràng. Sau khi ngư dân thu nhập xong chứng cứ nên gửi đến luật sư để đánh giá. Nếu đủ sẽ phát đơn khởi kiện. Và họ có thể ủy quyền cho luật sư nhân danh họ khởi kiện đến Tòa án quốc tế về luật biển.
QUỐC VIỆT thực hiện

Phần nhận xét hiển thị trên trang