Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2019

Gặp gỡ ở lưng đèo



1

Thời gian trôi, chớp mắt đã quá nửa thế kỷ. Không thể níu kéo nó, không thể bắt nó dừng. Nó đi rồi là hết, may chăng còn rớt lại cái bóng.

Tôi có giữ lại một cái bóng có thể bổ sung cho tiểu sử một con người đáng nhớ. Người ấy có thể là người quen của bạn, người ấy có thể không xa lạ với bạn, biết đâu đấy.

Chuyện là thế này.

Cuộc kháng chiến đã vào năm thứ tư. Con đường hàng tỉnh từ Tuyên Quang đi Thái Nguyên vốn hẹp không có ô tô qua lại còn trở nên hẹp hơn nữa. Những bụi cây lúp xúp tràn ra mặt đường. Cỏ gà, cỏ mần trầu mọc thành bụi ở những ổ gà. Ở đôi chỗ hoa lau lòa xòa quệt vào mặt khách bộ hành.

Ba lô trên vai, tôi cắm cúi đi.

Một mình. Nắng chói chang.

Đường vắng ngắt, không bóng người. Thỉnh thoảng lắm mới thấy một chiếc xe đạp lọc cọc vượt qua.

Đang đi bỗng dưng tôi thấy người ngây ngấy sốt. Trong người cảm giác rét tăng dần. Sốt rét rồi! Cái thứ bệnh tai quái không đến khi mình còn ở cơ quan tĩnh tại hoặc ở một trạm chờ nào đó, khốn nạn thế, lại nhằm lúc mình đang trên đường, không còn gì tệ hơn.

Tôi sốt đùng đùng và rét run cầm cập.

Thứ ánh sáng tàn nhẫn của nắng quái thiêu đốt tất tần tật mọi thứ nó đụng tới. Những bụi rậm ven đường rũ xuống, lá nào lá ấy quắt queo.

Đến lúc không còn chịu đựng được nữa, tôi tạt ngang, lao bừa vào rừng qua những bụi rậm gai góc và dây leo chằng chịt. Chỉ ở trong ấy, dưới những tán lá rậm của cây cao mới có chỗ trú khỏi cái nắng chết người.

Sức trong người tôi cạn dần cùng với mỗi bước đi, cùng với mỗi hơi thở nóng hổi, như thể nước trong thùng từng đợt ộc ra ngoài. Đi được vài chục bước, tôi kiệt lực, gieo mình xuống thảm lá mục, cố lê đến một gốc cây thấp, tựa vào nó mà thở hồng hộc. Hơi thở làm bỏng môi trên. Những dòng mồ hôi lăn dài trên ngực. Áo quần chẳng mấy chốc đã ướt đẫm.

Dù sao thì cuộc chạy trốn khỏi con đường đá răm vắng ngắt phơi mình dưới ánh nắng kinh khủng ngoài kia cũng ngừng được trong giây lát. Một con chim đỏ chót bay vút qua những bụi rậm trước mắt tôi với một tiếng hót lanh lảnh làm tôi giật mình.

Tôi chợt hiểu: cái mà tôi đang chịu đựng không phải sốt rét thường. Rất có thể nó là một cơn ác tính.

Tôi đã biết sốt rét ác tính là cái gì. Nó thường đi kèm với cái chết.

Tôi thì còn quá trẻ để chết.

Không, tôi không thể chết thế này.

Tôi gắng gượng đứng lên, lảo đảo lao trở lại con đường chói lòa.

Không thể dừng. Phải tiếp tục đi. Ngay lập tức.

Bằng mọi giá, phải tới được trạm quân y, tôi nhớ nó cách đấy không xa lắm.

2

Tiếng đàn làm tôi tỉnh giấc. Tôi nằm yên, lắng nghe những giọt âm thanh thánh thót tan vào không gian im ắng. Nó thoáng hiện, thoáng mất, nhưng không phải trong mơ.

Giai điệu mơ hồ đưa tôi về quá khứ, nhắc tôi tới một cái gì mang máng nhớ mà không sao nhớ ra.

Choàng tấm chăn sui [1] lên vai, tôi đứng lên đi, những bước xiêu vẹo về phía có tiếng nhạc.

Qua tấm liếp khép hờ ngăn với gian ngoài tôi thấy một người đàn ông đang cúi xuống cây ghi ta Hạ Uy Di. Cảnh tượng làm tôi sững sờ – tôi không nghĩ tới, không tưởng tượngnổi giữa rừng Việt Bắc thời chiến lại có người nhàn tản chơi đàn như thế.

Tiếng đàn đột ngột tắt.

Người đàn ông ngẩng lên. Rồi bật dậy, sải bước về phía tôi, ngắm nghía tôi, đoạn buông một câu hỏi bất ngờ:

- Hà Nội hở?

Rất ngạc nhiên, nhưng tôi gật:

- Hà Nội.

Anh ta nhìn tôi chằm chằm, đặt tay lên trán tôi, rồi cười lớn:

- Lạy Trời, cậu sống rồi!

3

Tôi không tới được trạm quân y.

Hình ảnh cuối cùng mà tôi nhớ được là một mái tranh lờ mờ trước mặt.

Tỉnh lại, tôi thấy mình trong gian bếp thấp tè, đen sì mồ hóng với bầu không khí đậm mùi khói lưu cữu.

Người đàn ông kéo tôi đến bên chõng, đặt tôi ngồi.

- Tốt rồi! – anh nắm tay tôi, nhìn sâu vào mắt tôi, lặp lại lần nữa – Đã tưởng cậu không sống nổi.

Tôi nhìn anh. Dáng thanh mảnh, cao ráo, gương mặt thông minh, đôi mắt sáng, đen láy, cái nhìn thẳng thắn. Tất cả gợi cảm giác tin cậy , thoải mái. Cách xưng hô “cậu, tớ” ngay lập tức xoá nhoà ranh giới giữa tôi và người lạ.

- Lúc khiêng cậu vào, mặt cậu tím ngắt, lay gọi thế nào cũng không tỉnh.

Tôi ấp úng lời cảm ơn.

- Vớ vẩn! – anh lắc đầu, cười hiền – Cảm ơn cái con khỉ. Cảm ơn trời ấy.

Thì ra đây là người cứu tôi. Tôi chỉ nhớ khi quán nước hiện ra lờ mờ trước mặt, thì trời đất bỗng nghiêng ngả rồi đổ sụp.


Anh đặt tay lên vai tôi:

– Cậu nằm đây vài ngày cho lại sức, mọi cái tính sau.

Nụ cười nói về con người nhiều hơn bất cứ ngôn ngữ nào. Qua nụ cười ta có thể biết mọi thật giả, tốt xấu nơi người đối thoại. Nụ cười của anh cho tôi niềm tin.

- Cậu người phố nào?

- Nhà Rượu, anh ạ.

- Ờ, Sergent Larrivet – anh nói, mắt mơ màng – Tớ cũng hay qua đấy. Bên kia Nghĩa địa Tây có cái marbrerie [2] Ngô Văn Vỹ. Tớ quen gia đình này.

Cái xưởng đá với vô số bia mộ đẽo dở nằm ngổn ngang trong một bãi rộng tràn cả ra ngoài đường là hình ảnh quen thuộc với tôi. Tôi thường đi qua đây để ra phố Huế, nơi lũ trẻ chúng tôi đặt những nút bia lên đường tàu điện, chúng sẽ bị bánh tàu điện ép phẳng lì thành một thứ tiền trong tròăn thua của trẻ con, gọi là xèng.

Từ chỗ chúng tôi đang ngồi, Hà Nội xa tít tắp, như ở một thế giới khác.

Anh đặt cây đàn sang một bên, bắt tôi nằm, rồi ngồi bên – Giữa đường được gặp cậu, lại là người Hà Nội, tớ vui lắm.

Tôi nằm, ngước nhìn anh.

- Cậu có hay đi ciné [3] không?

Tôi gật.

Anh mơ màng:

- Mình hay đi Majestic. Cậu cũng hay xem ở đấy chứ?

Tôi lại gật.

Majestic nằm giữa phố Huế, là rạp cho tây đầm, cho nhà giàu, vé đắt. Tôi mê xem phim, nhưng chỉ có thể xem phim ở rạp Moderne phố Hàng Quạt. Giá hạng bét ở rạp này một hào rưỡi, nhưng khi buổi chiếu đã bắt đầu, cửa đã khép, thì chỉ cần giúi vào tay ông gác cửa to béo có hàng ria mép rậm một hào hoặc không đủ một hào là con người dễ tính liền gạt bức màn bằng vải thô nặng nề đẩy tôi vào không gian mơ ước. Tôi thường được vào khi đã qua phần thời sự hoặc phim chính bắt đầu chiếu. Phim nói tiếng Pháp nhưng đọc chương trình tóm tắt có thể hiểu chuyện phim. Chúng tôi, những đứa trẻ mê xi-nê, đứa nào cũng tích được một tập chương trình. Chúng tôi thuộc tên các diễn viên, ngày ấy gọi là tài tử - Clark Gable, Cary Grant, Gary Cooper…

- Phim cuối cùng cậu xem là phim nào?

- Bạch Tuyết và bảy chú lùn, anh ạ.

Tôi không thể cậu tớ với người hơn mình nhiều tuổi

Bạch Tuyết và bảy chú lùn không được chiếu ở các rạp rẻ tiền. Tôi phải hy sinh vài buổi xem ở rạp Moderne để được ngồi ghế hạng bét ở Majestic.

- Thích chứ?

- Thích.

- Còn mình thì thích Pinoccio.

Mắt anh mờ đi.

Nỗi nhớ chung dắt chúng tôi về nơi đã trở thành dĩ vãng.

- Tôi cũng thích Pinoccio. Nhưng thích nhất là những phim cao-bồi như La Chevauché fantastique[4].

- Tớ có xem phim này. Charles Starett vai chính.

- Xem xong, sau buổi chiếu muộn - tôi mơ màng nhớ lại - khi ngoài tiếng guốc gỗ khua trên vỉa hè đêm là tiếng huýt sáo bản nhạc trong phim vừa xem.

Anh huýt sáo giai điệu tôi vừa nhắc:

- Tuyệt. Người Hà Nội rất có khiếu âm nhạc. Không thế thì làm sao nhớ được một giai điệu vừa mới nghe.

4

Một cô gái xuất hiện ở cửa quán.

Ánh sáng ngược tạo ra một vầng hào quang trên mái tóc cô, nó làm gương mặt cô chìm trong tối, trừ cặp mắt long lanh.

- Cô chủ quán – anh ngừng nói, mắt tươi rói.

Nhìn thấy tôi, cô gái reo lên mừng rỡ:

- Ối trời, anh đã dậy được rồi kìa!

Cô đặt bàn tay mềm và mát rượi lên trán tôi, cười khanh khách:

- A lúi, lúc ấy trông anh kinh lắm. Mấy ngày rồi ấy nhỉ? Hôm nay là ngày thứ ba.

- Không có cô ấy thì một mình tớ không tài nào tha nổi cậu đâu – anh nói – Cậu trông thế mà nặng kinh.

Anh cười tươi, mắt không rời cô gái.

- Như chết rồi ấy – cô gái nói – Người chết nặng hơn người sống, các cụ bảo thế.
Nước da trắng hồng, nụ cười phô hàm răng trắng đều đặn – một cô gái xinh. Thoạt nghe cô “a lúi”, tôi nghĩ cô người Tầy, nhưng “may ơi là may” thì chỉ có người Kinh nói.

- Đang nằm xuội anh bật dậy, răng nghiến chặt, bọt mép sùi ra, giãy giụa như lên cơn động kinh – cô miêu tả tình cảnh của tôi - Hai anh em đè không nổi.

Tôi nói xinh là không đủ, hoặc sai.

Tôi đang ở cái tuổi nhìn thấy cô gái nào cũng đẹp, không đẹp lắm thì cũng đẹp vừa. Trong bộ quần áo xanh chàm, trông cô không khác những cô gái Tày. Cô có giọng liến thoắng, rất trong, như hát.

Anh cười theo cô, lắc đầu:

- Khiếp, lại còn đái cả ra quần nữa chứ.

Tôi nhìn xuống.

Tôi đỏ bừng mặt. Ai đã thay cho tôi? Người đàn ông nọ? Hay… cô gái?

Cái ba lô của tôi nằm dưới chân chõng. Tôi kéo nó lại. Bộ quần áo cũ đã được giặt sạch nằm trên cùng. Cái tôi quan tâm hơn hết là bó tài liệu bọc trong vải mưa tẩm nhựa thông. Nó còn nguyên vẹn.

Anh không để ý cử chỉ hấp tấp của tôi. Nếu nhận thấy, anh sẽ giận vì nó chứng tỏ tôi không tin người đã cứu mình.

- Ca ác tính này tớ đã gặp. Khó qua lắm – anh chậm rãi nói – Phải có Quinoform tiêm thẳng vào ven mới xong. Ở cái chốn hẻo lánh này thì làm gì có nó. May sao, tớ còn nhiều ký ninh. Mới hòa thật đặc cho cậu uống. Là còn nước còn tát, chứ chẳng hy vọng gì.

- Cả một vốc thuốc. Răng anh cắn chặt lắm – cô gái kể - hai người cậy mãi mới được. Anh vùng vẫy, phun phì phì.

- Tớ còn sợ làm cậu chết vì thuốc ấy – anh nghiêm nghị - Thôi thì cứ liều, đổ đại cho cậu. Coi như còn nước còn tát.

5

Tôi không quên từng chi tiết cuộc gặp gỡ bất ngờ. Nó hằn sâu trong trí nhớ bề bộn.

Nó đúng là như thế. Bắt đầu không phải cái gì khác, mà một câu hỏi:
- Hà Nội hở?

Làm sao anh có thể thoáng qua đã nhận ra một nét Hà Nội trong tôi?

Tôi không đặt câu hỏi ấy ra với anh. Anh hỏi mà như khẳng định. Không khảo sát, không đánh giá.

Quán nước này giống hệt mọi quán khác – một mái tranh nhỏ, tạm bợ, không chái, không vườn. Những quán nước như thế nằm rải rác trên con đường hàng tỉnh với quãng cách không thể nào biết trước, có thể vài cây số, có thể hơn. Chúng hiện ra bất ngờ ở những khúc ngoặt, những ngả rẽ bên con đường ngoằn ngoèo hết lên lại xuống giữa đồi núi chập chùng.

- Em phải chạy ngay, mẹ em bảo. Đã có các anh ở đây rồi.

Tôi gặp mẹ cô vài lần mấy ngày sau khi bà tạt qua quán – một người hết sức đồng bằng, chít khăn mỏ quạ, thấp bé, nhanh nhẹn, ít nói, cười nhiều. Bà kể: khi làng bị Tây càn, bà đắt con chạy theo gia đình một ông lái gỗ, vùng này ông quen khi còn làm sơn tràng. Thời chiến, nghề buôn gỗ về xuôi không còn đất, ông dựng hai ngôi nhà tạm cho hai gia đình. Đất rộng, hai nhà phát hoang trồng khoai trồng sắn, nuôi gà, chạy chợ.

Trong gian ngoài cái quán có cái chõng tre đã ngả màu cánh gián, trên đó có ấm nước vối sứt vòi, mấy cái bát sành, vài nải chuối, mấy tấm bánh lá, mấy gói kẹo vừng, kẹo lạc, vài phong thuốc lào - hàng hoá muôn thuở của bất cứ quán ven đường nào. Sang hơn cả, được đặt trong một lọ thuỷ tinh không trong suốt là những cái kẹo đen sì làm bằng đường thẻ, có tên là “kẹo đầu Tây”, vì chúng trông giống những cái mũ sắt. Khi vắng chủ quán, khách vãng lai tự ăn tự uống, rồi tự bỏ tiền vào một cái hộp bánh quy đã rỉ sét, không có nắp. Hàng bày trên chõng đều có ghi giá, khi bằng bút chì, khi bằng mực tím, viết nguệch ngoạc trên một mẩu giấy.

Nhiều quán trên mấy tỉnh lộ vùng núi cũng thế - người ta chẳng cần trông, khách không bao giờ ăn uống mà không trả tiền.

- Có lần người ta trả bằng gạo, chắc là của mấy chú bộ đội – bà chủ quán kể - Tội nghiệp, không còn tiền thì thôi, chứ ai nỡ đòi gạo bộ đội.

Ngoài hai mẹ con, trong quán còn có một con chó bốn mắt, thứ chó mực có hai đốm vàng trên mặt, tôi gặp nhiều ở vùng này. Cả ngày nó tha thẩn theo cô chủ, cô đi đâu nó theo đấy. Nhưng khi cô bảo nó ở lại quán thì nó nghe lời, ở lại với hai chúng tôi.

Con bốn mắt không có tên. Nó quấn tôi lắm. Mỗi khi tỉnh giấc thấy con bốn mắt nằm giãi thải dưới chân, mắt lim dim, cùng tôi nghe đàn, tôi có cảm giác đang ở nhà mình.

Khi tôi còn bé, nhà tôi có một con Kiki trắng vá đen. Lứa đầu nó đẻ bốn con rất đẹp, cũng trắng vá đen như mẹ. Suốt ngày tôi chơi với chúng. Khi một đứa con của nó chết, tôi đem con chó tí xíu chôn ở dưới gốc hoàng lan cuối phố, nơi có con đường tắt đầy cỏ may dẫn vào chùa Hai Bà. Những giọt nước mắt đầu tiên của tôi trước sự mất đi không thể nào lấy lại của sinh linh bé bỏng đã nhỏ xuống nấm mồ cũng tí xíu.

Tôi trên đường công tác. Người đàn ông chẳng nói mình đi đâu, làm gì. Tôi cũng không hỏi.

Anh không giống những người tôi thường gặp. Áo sơ mi trắng, quần ka ki, sạch sẽ. Như thế anh không thể là bộ đội, bao giờ cũng xộc xệch, cũng nhếch nhác, không nhiều thì ít. Cũng không phải cán bộ chính trị chỉn chu trong bộ ka ki với cái xà cột bất ly thân, cán bộ cấp cao một chút còn cưỡi xe đạp Sterling. Anh cũng chẳng giống dân “bờ lờ”, cách gọi tắt dân buôn lậu, trong bộ cánh nâu tươm tất, kính đen Stigmal gọn gàng trên sống mũi. Tôi đoán anh là nhạc công trong một đoàn nào đó. Nhưng dân văn công thường đi đoàn với đủ mọi thứ lỉnh kỉnh. Người này chắc hẳn có công việc gì đấy không quan trọng, không cấp thiết. Không thế thì sao anh có thể ở lại giữa đường để trông nom một kẻ không hề quen biết.

Khi tôi hỏi ở lại giúp tôi có làm dở dang công việc của anh không, thì anh thờ ơ:« Chuyện vặt. Người nào gặp trường hợp này thì cũng làm như tớ thôi. Cậu có thể bỏ một người thập tử nhất sinh mà không cứu? Phải đợi cậu khỏe lại hẳn tớ mới đi được. »

Mấy ngày tôi nằm lại, anh bắt tôi uống thuốc, chơi đàn cho tôi nghe, trò chuyện với tôi về thành phố từ đó chúng tôi ra đi.

Hà Nội đã tít tắp xa. Chẳng ai biết trước ngày trở lại. Có thể mường tượng nó – những con phố với những cột điện, những hàng cây, lá rụng trên hè, nước lặng lẽ chảy trong rãnh. Và “mái buồn nghe sấu rụng” trong thơ Quang Dũng.

Rõ ràng là con người này chẳng vội vàng, gặp chỗ dừng chân dễ chịu thì dừng, chẳng buồn kén chọn. Rất có thể cuộc gặp gỡ bất ngờ với người cùng quê hương cho anh cái cớ để dừng lâu hơn.

Tôi ngờ anh dừng lâu hơn vì cô gái.

- Một bông hoa rừng. Nhưng từ dưới xuôi lên.

Khi nhìn cô, mắt anh vừa sáng lên, vừa mơ màng. Cũng có thể tôi nhầm. Đôi lúc tôi có cảm giác vừa nói chuyện với tôi anh vừa nghĩ về một cái gì khác rất xa, chẳng dính dáng tới điều chúng tôi đang nói.

Ngày nào anh cũng bảo cô chủ quán mua gà, mua trứng về nấu cháo cho tôi ăn. Những bữa ăn như thế giúp tôi lại sức rất nhanh. Không những thế, chúng còn là những bữa ăn sang trọng hiếm có trong đời lính.

Một hôm, thấy tôi có vẻ băn khoăn, anh gọi tôi ra sau quán. Đứng trong những bụi sắn, anh trật quần dài, kéo tay tôi đặt vào cạp quần đùi:

- Cậu nắn đi.

Tôi nắn thấy những vật tròn cứng.

- Vàng đấy. Toàn nhẫn cả. Dự trữ cho kháng chiến trường kỳ. Thỉnh thoảng tớ lấy ra một cái bán đi ăn dần.

Anh xắp lại quần, cười hì hì:

- Đừng lo tớ không có tiền.

Tôi kể dài dòng văn tự chỉ cốt để người đọc những dòng kỷ niệm này hình dung được khung cảnh một thời đã mất. Thời ấy con người với con người là bạn, và còn hơn thế. Mà cũng để ghi lại một cái ơn. Không có cuộc gặp gỡ tình cờ ấy, biết đâu tôi chẳng còn.

Thời gian ngắn ngủi ở bên nhau đủ để chúng tôi thân nhau, yêu quý nhau nữa, có thể nói như thế. Những cuộc tâm sự đêm khuya trong tiếng sương rơi lộp độp trên mái tranh làm tôi hiểu và quý anh hơn.

Tôi trách mình đã không hoàn toàn tin anh. Thời chiến, tinh thần cảnh giác cách mạng làm cho cuộc chia tay giữa hai chúng tôi không được như lẽ ra nó phải có.

Chúng tôi quyết định lên đường đi Thái Nguyên khi tôi đã có thể đi được. Tôi cố ý đi quá nơi tôi phải rẽ vào chừng một cây số mới chia tay với anh:

- Mình sẽ còn gặp lại – tôi nói.

- Chắc chắn – anh nói.

Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn và gia đình.
6

Tôi đã gặp Đoàn Chuẩn đúng như thế. Chia tay với anh, tôi chỉ biết cái tên.

Tôi gặp một con người, không phải một danh tiếng.

Những tác phẩm của Đoàn Chuẩn tôi không được nghe trong những năm kháng chiến. Tôi không nghĩ rằng đã có một lệnh cấm những bài hát lãng mạn. Chúng có vẻ không thích hợp trong thời chinh chiến thì người ta không hát, thế thôi. Hoặc giả có một lệnh cấm nào đó mà tôi không biết, không được nghe phổ biến.

Cuộc gặp gỡ thứ hai với người cứu mạng mình xảy ra mấy năm sau.

Ngày 10.10 năm 1954, xong việc quay cảnh thượng kỳ ở Cột Cờ, tôi đi lang thang. Ở phố Huế, trước cửa rạp chiếu bóng Majestic, tôi thấy một chiếc xe hơi bồng bềnh đi chầm chậm theo mình. Một gương mặt lạ – mái tóc bóng mượt, miệng ngậm bót thuốc lá ló ra ở cửa để mở. Người ngồi sau tay lái chăm chú nhìn tôi rồi cho xe vượt lên ngang tầm:

- Hiên hả? Phải Hiên không?

Đến lúc ấy tôi nhận ra anh: Đoàn Chuẩn.

Anh cho xe dừng, bước ra, ôm chặt tôi, mừng rỡ.

- Về khi nào?

- Đêm qua. Mới đi bát phố một lát.

- Cậu ở đâu?

- Khách sạn Splendid.

Anh cười:

- Sang nhỉ?

Rồi kéo tôi vào quán cà phê An Thái Majestic.

Người Hà Nội xưa đều biết quán cà phê này. Nó ở bên trái rạp chiếu bóng nếu đứng từ ngoài đường nhìn vào. Sau này, khi rạp Majestic đổi tên thành Tháng Tám thì nó biến thành một cái gì khác, một quán tạp hóa thì phải.

Quán đầy người. Khói thuốc lá mù mịt.

Đoàn Chuẩn lấy ra một cái hộp đựng thuốc lá lạ mắt bằng nhựa trong, màu vàng. Hộp này có rất nhiều ngăn, trong mỗi ngăn là một thứ thuốc lá: Phillips Morris, State Express, Craven A, Camel, Melia Jaune, Bastos… Các ngăn nối với nhau bằng dây thun. Chọn thứ thuốc loại nào thì bẻ gập nó ra. Tôi ngắm hộp thuốc lá của anh không rời – lần đầu tiên tôi thấy một hộp thuốc lá như thế.

- Cậu chọn loại nào?

Tôi chọn Craven A.

Anh bật lửa cho tôi. Cái bật lửa cũng lạ mắt như hộp thuốc lá, nó nhỏ, mạ vàng. Trong vùng kháng chiến chúng tôi chỉ có thứ bật lửa có khắc hình xe tăng, được gọi là “bật lửa tàu bò” có bán ở các chợ giáp ranh.

Anh nheo mắt ngắm tôi:

- Sao cậu không mặc uniforme (đồng phục)?

- Tôi không thích nó – tôi cười - Mặc vào như người gỗ.

Tôi trở về Hà Nội từ Nam Định. Trong thành phố người Pháp vừa bỏ lại mọi sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường. Đoàn quay phim chúng tôi được lệnh phải may mỗi người một bộ đại cán để vào tiếp quản Hà Nội.

Đúng vào lúc lên đường, mọi người mới ngớ ra – cả đoàn đều vận đại cán, riêng tôi thì mặc đồ dân sự: áo popeline Thụy Sĩ, quần simili, giày tây.

Tôi phân trần:

- Mọi hiệu may đều hết vải ka ki.

Lý do này nghe cũng hợp lý. Tôi không bị “kiểm điểm” về thói tự do chủ nghĩa là cái tôi thường bị phê phán, và người ta phê phán đúng – tôi không vừa cho một cái khung nào.

Tiền tiêu chuẩn phát cho cán bộ may đại cán không đủ cho bộ quần áo tôi chọn. Ông chủ tiệm hào phóng không lấy thêm:

- Có mấy khi ta được gặp nhau như thế này.

Hòa bình ở Việt Nam chỉ có một nghĩa: hết chiến tranh.

Đoàn Chuẩn ngắm tôi:

- Với bộ diện này ai bảo cậu là cán bộ.

Tôi móc túi lấy cái phù hiệu tiếp quản thủ đô mọi cán bộ đều được phát cho anh xem. Đoàn Chuẩn ngắm nó lâu với vẻ tò mò.

- Tôi không đeo nó – tôi phân trần – Như thế tôi lẫn vào mọi người . Mới nghe được những nhận xét: “Quân phục xấu quá! Mà xăng Liên Xô thối kinh!”

Đoàn Chuẩn cười vui, giống hệt anh trong lần đầu chúng tôi gặp nhau.

- Xuống xe điện tôi vẫn nhảy bổ được, chưa quên đâu – tôi khoe.

- Vẫn còn Hà Nội – anh khen.

Tôi không đụng tới chuyện anh bỏ kháng chiến. Có cả đống lý do cho chuyện đó, mỗi người mỗi kiểu. Nghe người ta kể thì Phạm Duy rất bực khi anh đã có trong danh sách đi dự festival thanh niên và sinh viên thế giới ở Berlin, nhưng vào phút chót không hiểu sao anh đã bị gạt ra. Vì thế, và chắc vì nhiều điều khác nữa, anh bỏ kháng chiến. Sau này, tôi gặp Phạm Duy nhiều lần tôi cũng không hỏi anh chuyện đó. Nó không bao giờ là một thắc mắc. Người ta đi, người ta về, chẳng liên quan tới ai.

Đoàn Chuẩn không bực bội gì với kháng chiến. Người ta không quan tâm anh, anh không quan tâm họ. Anh đi kháng chiến như đi vào một cuộc viễn du thú vị, có vẻ chỉ là thế. Rồi anh trở về khi anh thấy đi đã đủ. Chẳng có chính chị chính em gì trong chuyện anh đi và về.

Chúng tôi hàn huyên cả giờ, uống mấy ly cà phê rồi mới chia tay.

Tối hôm đó tôi bị kiểm điểm: “Vừa mới vào đã liên lạc với bọn tư sản”. Tôi không biết mấy cậu bảo vệ đã tình cờ gặp tôi hay đi theo tôi, họ đã báo cáo. Dường như những cuộc tiếp xúc giữa chúng tôi với người ăn vận sang trọng đều bị coi là thiếu cảnh giác với cái gọi là “viên đạn bọc đường”.

Họ bảo vệ tôi vì được dạy dỗ như thế. Chứ không có ý xấu.

7

Sau cuộc gặp gỡ bất ngờ với Đoàn Chuẩn tôi được đi Liên Xô học, rồi làm báo, rồi đi tù 9 năm. Giữa những khoảng cách ấy tôi còn gặp Đoàn Chuẩn vài lần. Ngoài anh ra tôi không gặp một người nào chơi ghi ta Hạ Uy Di. Thứ đàn ấy ít người chơi, người ta thành kiến với tiếng ngân nga của nó, chắc vậy.

Ra tù, tôi bận lăn lộn kiếm sống, rồi liều mạng vào Sài Gòn, nơi không có bàn tay quen thuộc nào chìa ra cho mình. Đất phương Nam rộng rãi, người miền Nam phóng khoáng, che chở tôi, cho tôi mái ấm trong tha hương.

Thỉnh thoảng lắm tôi mới ra Hà Nội thăm cha mẹ và các em. Hoá ra bác Đoàn Vạn Vân, cha anh, là bạn với cha tôi. Bác là một trong số ít nhà mà cách mạng gọi là tư sản dân tộc, chủ một hãng nước mắm nổi tiếng. Cha tôi nói bác có giấm giúi cho cách mạng tiền, nhưng tôi không thấy những người viết hồi ký nhắc tới bác. Có lẽ tại bác cho không đủ nhiều. Hoặc vì chẳng bao giờ bác ra mặt ủng hộ cách mạng.

Đoàn Chuẩn vẫn vui khi gặp tôi, chắc hẳn như gặp một kỷ niệm không quên. Có một lần anh nhắc tới cô gái ở quán lưng dèo, mắt mơ màng. Trong đời anh chắc có nhiều bóng hồng lướt qua, cô là một. Mặt thêm nhiều nếp nhăn, anh không đi xe hơi nữa, hút thuốc lá Điện Biên bao bạc.

Chúng tôi hay kéo nhau tới quán cà phê ở gần Cột Đồng Hồ, nơi văn nghệ sĩ Hà Nội thường lui tới. Ông chủ quán có biệt danh Lâm Toét trọng các nghệ sĩ, nhất là các hoạ sĩ, mắt hấp him nhận ra Đoàn Chuẩn, đãi chúng tôi Gold Flake, thứ thuốc lá ngoại không biết của nước nào, vào Việt Nam bằng đường nào.

Thời gian ở Sài Gòn, cũng tới mười năm có lẻ, tôi mới được nghe nhạc Đoàn Chuẩn. Tôi nghe và sung sướng – tôi đã gặp một nhạc sĩ tài ba mà không biết.
Văn Cao đánh giá Đoàn Chuẩn:

- Nhạc hay. Ca từ lạ, là tâm sự mà đi thẳng vào hồn người.

Nhớ lại cuộc gặp gỡ ở lưng đèo Re, tôi đồ rằng những ngày ấy anh cho tôi nghe những bản nhạc anh vừa sáng tác:

Đây khách ly hương mấy thu vàng ấm...
Nơi quán cô đơn mơ qua trùng sóng...
Mơ tới bên em em tô quầng mắt...
Em tôi ngập ngừng trong tấm áo nhung...

Tung phấn hương yêu qua muôn lời hát...
Bay tới bên em tới em thầm nhắc...
Đây ý tơ xưa đâu duyên tình cũ...
Bóng anh phai dần ái ân tàn theo...

Và:

Chiều nào áo tím nhiều quá
Lòng thấy rộn ràng nhớ người
Đường về Việt Bắc xa cách mây
Nhìn về đường lối muôn khó khăn

Đây núi cao. Đây suối sâu
Đây lá xanh như ngàn xưa
Đường về ngập gió tha phương
Tiếc đời gấm hoa ta đành quên núi rừng…

Đoàn Chuẩn là một tiên ông lạc bước xuống trần. Anh không thuộc về thế giới này. Tôi không thể nghĩ khác thế.

Năm 2001 khi tôi đang lang thang ở miền Nam Ý thì nhận được tin nhắn của một người bạn cho biết Đoàn Chuẩn không còn nữa.

Ông tiên của tôi đã về trời !


2019

[1]Chăn làm từ vỏ cây sui, một thứ cây trong rừng Việt Bắc. Người ta lột vỏ nó, đập giập, ngâm nhiều ngày trong nước suối cho nó cho tới khi mềm nhũn chỉ còn lại những sợi gỗ làm thành một thứ có thể dùng làm chăn.
[2] Xưởng sản xuất đá bia mộ.
[3]Ciné (xi nê, tiếng Pháp, chiếu bóng)
[4]Chuyến đi ngựa kỳ thú.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cuộc sống nơi nước ngập tới nóc nhà


Đợt lũ lớn xảy ra ở Quảng Bình khiến xã Tân Hóa (huyện Minh Hóa) bị chìm sâu trong mực nước hơn 4 m. Người dân phải sống trong các nhà nổi hoặc đến chỗ cao tránh lũ.

Mưa lớn tiếp tục xảy ra ở thượng nguồn sông Rào Nan khiến lũ tiếp tục đổ về xã Tân Hóa những ngày qua.

Chúng tôi phải chờ hơn 2 giờ mới có thuyền máy đưa nhóm vào vùng rốn lũ xã Tân Hóa, huyện Minh Hóa (Quảng Bình).


Từ khi nước bắt đầu dâng ở Tân Hóa, người dân nơi đây bắt đầu dọn lương thực thực phẩm và nước uống, đồ đạc có giá trị lên các nhà nổi để sẵn sàng sống chung với lũ.


Mỗi nhà nổi chống lũ được thiết kế gồm nhiều thùng phuy bên dưới, lát ván gỗ và lợp tôn, che kín xung quanh và có diện tích 10-20 m2.


Lũ về, những gia đình có người già ốm đau, trẻ em, sản phụ mới sinh được "ưu tiên" đưa đến ở những nhà cao tầng như trường tiểu học của xã.


Sản phụ mới sinh con gái chưa đầy tháng tuổi được đưa đến tránh lũ tại Trường Tiểu học Tân Hóa


Tầng 3 của Trường Tiểu học Tân Hóa là nơi dành cho người già ốm đau, trẻ em đến trú ngụ.


Đồ dùng, lương thực được đưa lên nhà nổi.


Em bé Tân Hóa sống trong nhà nổi cùng ông bà ngoại khi lũ dâng.


Đến cuối giờ chiều 5/9, lũ bắt đầu hạ ở xã Tân Hóa. Toàn xã có 650/679 hộ dân bị ngập nhà hoàn toàn, 2 người bị thương trong lũ khi vận chuyển đồ đạc. "Khi chạy lũ, người dân đã chuẩn bị lương thực thực phẩm cho một tuần đến 10 ngày nên vẫn đảm bảo cái ăn. Trong 3-4 ngày tới, nước rút nên có thể xảy ra tình trạng thiếu nước sạch cho người dân", ông Cao Thanh Đá, Chủ tịch UBND xã Tân Hóa, cho biết.


Xã Tân Hóa (khoanh đỏ). Ảnh: Google Maps.

Văn Được


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Việt Nam sẽ bồi thường cho Repsol để rút lui khỏi dự án Cá Rồng Đỏ?


Một nguồn tin cực kỳ khả tín và có trách nhiệm ở Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) vừa cho tôi biết: Vào sáng ngày 06-9-2019, PVN và hãng dầu khí Repsol đã đi đến thỏa thuận cuối cùng là, Repsol sẽ dừng hẳn việc triển khai dự án dầu khí Cá Rồng Đỏ tại lô 136.03 và lô 07.03. Theo nguồn tin, PVN và Repsol sẽ không đưa nhau ra tòa trọng tài quốc tế mà sẽ tự thỏa thuận đền bù cho Repsol. Thỏa thuận đền bù dân sự này cao hơn tổng mức đầu tư mà Repsol đã đầu tư vào Cá Rồng Đỏ là 300 triệu USD nhưng không vượt quá 1 tỉ USD.

Vào tháng 7-2017 và tháng 3-2018, phía Trung Quốc đã gây sức ép mạnh mẽ lên Việt Nam bằng cách yêu cầu Việt Nam đơn phương yêu cầu Repsol hủy bỏ dự án Cá Rồng Đỏ tại hai lô 136.03 và lô 07.03. Yêu cầu của phía Trung Quốc nêu rõ, nếu Việt Nam không yêu cầu Repsol hủy bỏ dự án Cá Rồng Đỏ, Trung Quốc sẽ tấn công một số thực thể tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Trước đó, thay mặt nhà nước Việt Nam, PVN đã đàm phán với Repsol, theo đó, Việt Nam sẽ cấp phép cho- đền bù cho Repsol tiếp quản và khai thác mỏ Petronas Carigali đã hết hạn khai thác vào năm 2017. Nhưng Repsol từ chối với lí do mỏ Petronas Carigali được cấp phép vào năm 1992, sau 25 năm khai thác đã không còn trữ lượng thương mại khả quan.

***
Liên quan đến dự án chân đế giàn khoan Sao Vàng- Đại Nguyệt, nguồn tin từ PVN cho biết, ngày 6-9-2019, 10 cọc của chân đế đã đóng xong. Trong ngày 7-9-2019, 2 cọc còn lại của chân đế sẽ được đóng xong. Một công ty Nhật Bản đảm nhận phần đóng chân đế giàn khoan. Trước đó, một công ty Mỹ đảm nhận phần cẩu và định vị chân đế. Trước đó nữa, một xà lan chuyên dụng của Indonesia đã vận chuyển chân đế này từ Vũng Tàu ra khu vực hạ đặt.

Bãi Tư Chính (Vanguard Bank) là một thuật ngữ có nhiều cách hiểu. Nếu xét về địa chất, Tư Chính là bãi ngầm có diện tích 700 km2, nhưng vùng nước bãi Tư Chính có diện tích lớn hơn, và không được xác định chính xác. Vùng nước này có thể là 700 km2 nhưng cũng có thể là 70.000 km theo ý chí bảo vệ chủ quyền của Việt Nam hay tham vọng của Trung Quốc.

CÁ RỒNG ĐỎ VÀ NHỮNG HẬU QUẢ ĐAU ĐỚN

Việc Việt Nam quyết định hủy dự án Cá Rồng Đỏ ở biển Đông đã ngay lập tức gây ra nhiều hậu quả. Còn trong tương lai gần, các hậu quả khủng khiếp hơn sẽ diễn ra.

HÀNG NGÀN NGƯỜI MẤT VIỆC LÀM

Sáng ngày 26-3-2018, tại các cảng dịch vụ dầu khí thượng lưu và hạ lưu ở Vũng Tàu, sự vắng lặng hiện lên rất rõ: xe cộ ít, công nhân vào cảng cũng ít ỏi so với ngày thường. Tại sao lại thế? Câu trả lời rất đơn giản: tại các bến cảng này có hàng loạt cơ sở dịch vụ hậu cần cho ngành công nghiệp dầu khí, chủ yếu là các cơ sở thiết kế và đóng mới giàn khoan dầu khí biển, sản xuất các kết cấu thép trong ngành dầu khí phục vụ cho ngành dầu khí, trong đó có việc phục vụ dự án Cá Rồng Đỏ.

Nguồn tin cho biết, vào ngày 25-3- 2018, Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam – Petro Vietnam đã yêu cầu hãng dầu khí Repsol của Tây Ban Nha – nhà đầu tư lớn nhất trong dự án Cá Rồng Đỏ ở lô 07-03 đề nghị các nhà thầu phụ của dự án ngừng tất cả các hoạt động phục vụ sự phát triển của dự án. Đa phần các công việc đều liên quan đến cơ khí, chủ yếu là việc đóng mới giàn khoan dầu khí và các block kết cấu của giàn khoan này, và các công việc liên quan đến chế tạo và phủ bọc đường ống ngầm dưới biển. Hơn 1000 chuyên gia, kỹ sư và công nhân tay nghề cao của hàng chục nhà thầu phụ của dự án Cá Rồng Đỏ vào ngày 25-3-2018 đã nhận được thông báo nghỉ việc vô thời hạn.

Giám đốc một công ty chuyên cung ứng nhân lực chuyên môn cao trong ngành dầu khí, đề nghị được giấu tên, cho VNTB biết: Mấy năm nay, do giá dầu thấp nên công ty của ông lâm vào cảnh thiếu việc làm. Dự án Cá Rồng Đỏ không chỉ là niềm hi vọng của công ty ông mà còn là hi vọng của rất nhiều công ty khác nữa. Vào đầu tháng 2 này, Repsol đã đề nghị công ty ông cung ứng 10 nhân lực chất lượng cao. Rất vất vả để “săn đầu người” với chi phí cao, thế nhưng chỉ sau 25 ngày làm việc, 10 nhân sự cao cấp này đã buộc phải thôi việc.

Cty VN, một công ty lớn trong dịch vụ cơ khí dầu khí và cung ứng nhân lực dầu khí cũng đành phải ôm “quả đắng”. Cuối tháng 02-2018 công ty tuyển dụng gần 400 công nhân tay nghề cao để làm dự án Cá Rồng Đỏ, và tất cả họ chỉ được phép làm 25 ngày, từ ngày 01 đến ngày 25 tháng 3-2018. Ông tổng giám đốc công ty VN nói như mếu máo:” Đau đớn không thể tưởng tưởng được. Mất mát nhiều không thể tưởng tượng được. Có lẽ chết cả nút thôi.”

VIỆT NAM PHẢI ĐỀN BÙ BAO NHIÊU CHO REPSOL?

Hai dự án Cá Rồng Đỏ do tập đoàn dầu khí Repsol và các đối tác triển khai thăm dò khai thác ở lô 136-03 và lô 07-03 thuộc vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, bị đình chỉ thăm dò và khai thác trước áp lực của Trung Quốc đã đặt ra nhiều câu hỏi. Câu hỏi lớn nhất, đau xót nhất đã được nhiều người nêu ra: Từ lâu, Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền đối với các lô này trong khi Trung Quốc coi hai lô này là vùng tranh chấp, vậy tại sao Việt Nam lại cúi đầu trước áp lực của Trung Quốc, và việc cúi đầu này có làm mất chủ quyền biển đảo của đất nước? Câu trả lời chỉ có thể có từ chính quyền Việt Nam, mọi trả lời khác đều chỉ là phán xét và suy đoán.

Quanh vụ Cá Rồng Đỏ, hiện chưa có ai đặt câu hỏi: Chính quyền Việt Nam liệu có phải bồi thường thiệt hại cho Repsol và các đối tác khi ra lệnh cho họ ngừng khoan và ngừng triển khai khai thác thương mại? Câu trả lời chắc chắn là có. Trong vấn đề khai thác dầu khí ở Việt Nam, theo thông lệ quốc tế, Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam đại diện cho nhà nước Việt Nam ký kết hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí với 01 hoặc 02 đối tác dầu khí nước ngoài. Theo lẽ thường, và cũng theo thông lệ quốc tế, hợp đồng này không được các bên tham gia công bố, hoặc công bố cho một pháp nhân nào đó không tham gia hợp đồng.

Trong hợp đồng này sẽ có các điều khoản rất chi tiết về khả kháng và bất khả kháng. Liệu quyết định của nhà nước Việt Nam yêu cầu Repsol ngừng khoan trước áp lực của Trung Quốc là điều kiện khả kháng hay bất khả kháng trong hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí? Chắc chắn rằng, đó không phải là bất khả kháng. (Bất khả kháng là thiên tai, tai ương không thể né tránh).

Vậy, nếu không phải là bất khả kháng thì phía Việt Nam phải đền bù thiệt hại cho Repsol và các đối tác bao nhiêu? Chắc chắn là toàn bộ số tiền đã đầu tư, các tổn hại có liên quan và tiền phạt vì đã đơn phương phá hủy hợp đồng. Thông thường, trong các hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí, số tiền đền bù các tổn hại liên quan và tiền phạt vì đơn phương phá hủy hợp đồng bằng hoặc lớn hơn so với số tiền đã đầu tư. Nhưng quan trọng hơn hết, các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí sẽ không còn mặn mà đầu tư vào lĩnh vực dầu khí biển của Việt Nam khi họ không còn niềm tin được bảo vệ, được bảo đảm an ninh từ nhà nước Việt Nam.

Luật sư Nguyễn Văn Hòa ở Vũng Tàu đã đưa ra nhận định: Thường thì trong các hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí, các bên tham gia sẽ chọn một tòa trọng tài quốc tế, hoặc một tòa án quốc tế phán xử vụ việc có tranh chấp, và thông thường, theo thỏa thuận, các bên không công bố kết quả của phán xử này. Nếu dự án Cá Rồng Đỏ được đưa ra phán xử ở tòa quốc tế, chắc chắn tòa sẽ tuyên phía Việt Nam phải bồi thường toàn bộ số tiền đầu tư, và một khoản tiền ứng như thế nữa cho các tổn hại có liên quan và đơn phương phá vỡ hợp đồng.

Cá Rồng Đỏ không phải là một canh bạc của Việt Nam và Repsol, nhưng trong thực tế đã trở thành canh bạc của Việt Nam. Và trong canh bạc đó, Việt Nam thua cháy túi, Repsol vẫn có lãi như ý muốn, còn kẻ thắng bạc lớn nhất là cướp biển Trung Quốc.

Chu Vĩnh Hải
(FB. Chu Vĩnh Hải)



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2019

Anh xe ôm nuôi cô gái khờ lang thang


1/9/2019, Cô gái lạ xinh xắn nhưng đờ đẫn, Sơn đưa về nhà nuôi, chỉ mong cô nhớ ra nhà mình ở đâu, nhưng mãi cô vẫn im lìm. Cô được một tài xế gặp trên đường, thương tình đưa tới xóm trọ nhờ giúp đỡ vào một ngày tháng 1/2019. Cô trạc 30, ai hỏi gì cũng không nói. Anh Chung Hồng Sơn (46 tuổi) quyết định dẫn cô về căn nhà cấp 4 sập xệ của mình ở phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.

Anh Sơn gọi điện hỏi thăm gia đình Pa sau ngày đưa cô trở về với gia đình. Anh giờ đây coi Pa như người thân. Ảnh: Diệp Phan. 
Những ngày đầu ở nhà người lái xe ôm độc thân, cô gái biểu hiện như người mất trí, rất ít nói chuyện, Sơn nghĩ chắc cô đã gặp cú sốc nào đó lớn lắm. Anh trấn an và chờ đợi xem có ai liên lạc với cô qua điện thoại. "Thấy trên hai cổ tay cô có vết sẹo dài cắt ngang, tôi nghĩ ngay đến việc cô ấy đã định tự tử nhưng không thành", Sơn thương cảm nên quyết tìm cách đưa cô về với gia đình.

Công việc xe ôm với thu nhập ít ỏi, bản thân lúc ốm đau còn phải vay mượn, nay anh lại nuôi thêm một cô gái không bình thường. Nhiều người ác ý, nghĩ anh "dụ cô về nhà" hay "đã làm gì khiến cô ấy trở nên như vậy".

"Tôi chỉ nghĩ để cô ấy đi lang thang thật không đành lòng", Sơn nói.

Từ đó, mỗi ngày đi làm, anh để mở cửa nhà với hy vọng cô tự nhớ ra có thể tự đi về, anh không giữ. Nhưng sau mấy tháng, cô chỉ ở trong nhà anh, không đi đâu. Hễ nhắc tới gia đình là cô khóc nức nở. "Tôi hoang mang lắm", Sơn nói.

Ngày 24/8, Sơn đi làm về, bất ngờ cô gái chạy đến níu tay anh và nói: "Ông Sơn ơi đưa tôi về nhà", khiến anh mừng quýnh. Cô nói cha mình tên Út, mẹ tên Xuân, nhà có 5 anh em, sống gần một ngôi chùa Khmer, cạnh nhà có đồng lúa và hồ nuôi tôm ở Bạc Liêu.

"Có bao nhiêu căn nhà gần một ngôi chùa Khmer, cánh đồng lúa và hồ nuôi tôm giữa tỉnh Bạc Liêu mênh mông. Tôi tự hỏi không biết sẽ bắt đầu từ đâu", Sơn lo lắng.

Anh định kiếm thêm một chút tiền nữa để lo lộ phí, nhưng cô gái cứ liên tục đập tay vào đầu, khóc nằng nặc đòi chở đi tìm nhà, Sơn quyết định lên đường ngay. Trong túi của anh vỏn vẹn có 800 nghìn đồng.

Trên hành trình, cô gái lại kể từng có thời gian ở Cần Thơ. Vậy là thay vì đi thẳng đến Bạc Liêu, Sơn vòng lên Cần Thơ, rồi lại theo lời cô gái đến Trà Vinh, cuối cùng mới về Bạc Liêu. Anh cố gắng chạy qua những cánh đồng lúa, những chỗ người ta nuôi tôm, hỏi thăm những ngôi chùa Khmer để mong cô gái nhớ ra, nhưng vô vọng.

Bế tắc, Sơn đến công an tỉnh Bạc Liêu nhờ giúp đỡ. Tại đây, cô gái nhớ thêm rằng mình tên là Sơn Thị Trùm Pa, ở nhà còn gọi là Thái, Thơ, trước từng làm ở một quán karaoke ở Phú Quốc.

Trong 2 ngày, công an tỉnh Bạc Liêu đã gọi điện đến các huyện, xã và những ngôi chùa Khmer hỏi thăm thông tin nhưng không có phản hồi. Song song, đài truyền hình Bạc Liêu cũng đưa tin tìm người thân cho cô gái.



Pa (trái) và người thân sau khi được đoàn tụ với gia đình, cô hầu như vẫn không nói gì. Ảnh: Diệp Phan.

Không ngồi yên chờ đợi, Sơn tiếp tục chở cô đến từng ngôi chùa Khmer, từng đồng lúa, hồ tôm trong vùng. "Nghĩ hành trình này không biết còn kéo dài bao lâu, nhưng tôi không thể ngồi yên chờ đợi", anh nói.

Ngày 26/8, tại Bạc Liêu, trong lúc chuẩn bị tiếp tục hành trình thì Sơn nhận tin báo, người thân của Pa liên lạc. Thông tin về gia đình trùng khớp với những gì cô gái kể, nhưng khác một điều là gia đình đó ở Sóc Trăng.

Ngay lập tức, các cơ quan báo đài tỉnh Bạc Liêu đã giúp đỡ, thuê một chiếc xe chở Pa và anh Sơn về nhà cô tại ấp Rạch Sên, xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

Tới trước nhà, bà con lối xóm đã đến chờ đông nghẹt. Chiếc xe vừa mở cửa, cha mẹ Pa đã òa lên ôm lấy con gái mình, Pa bật khóc. Hoá ra, Pa đã thất lạc gia đình suốt 20 năm. Theo lời người nhà, Pa năm nay 31 tuổi, cô trầm lặng từ nhỏ, bỏ đi lúc 11 tuổi, gia đình đã lập bàn thờ vì nghĩ con đã chết.

"Thấy người nhà cô ấy vui mừng không nói nên lời, tôi cảm thấy những khó khăn mấy tháng qua tan biến", Sơn nói.


Anh Sơn thấy căn nhà mình trở nên vắng vẻ sau khi cô gái rời đi. Ảnh: Diệp Phan.

Lúc chia tay, Pa mới chịu cười, để lộ má lúm đồng tiền và bắt tay anh Sơn. "Tôi tính kiếm thêm được ít tiền nữa sẽ về lại Sóc Trăng, thăm gia đình cô ấy", anh cho biết.

Diệp Phan

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Robert Mugabe, từ anh hùng thành nhà lãnh đạo độc tài


Robert MugabeBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Ông Robert Mugabe, biểu tượng cho Zimbabwe độc lập nhưng về sau trở thành nhà lãnh đạo độc tài, vừa qua đời ở tuổi 95.
Ông Mugabe đã được điều trị tại một bệnh viện ở Singapore kể từ tháng Tư.
Ông bị lật đổ trong cuộc đảo chính quân sự hồi 2017, sau 37 năm nắm quyền.
Vị cựu tổng thống từng được ca ngợi vì đã mở rộng dịch vụ y tế, giáo dục ra cho người da đen chiếm đa số.
Tuy nhiên, trong những năm về sau, Zimbabwe đã đàn áp một cách đầy bạo lực các đối thủ chính trị của ông, và nền kinh tế đất nước rơi vào cảnh tàn lụi.
Người lên thay thế ông, Emmerson Mnangagwa, bày tỏ rằng ông "vô cùng đau buồn" và gọi ông Mugabe là "một biểu tượng của tự do".
Mugabe là ai?
Ông Mnangagwa làm phó cho ông Mugabe trước khi lên thay ông.
Bộ Ngoại giao Singapore nói họ đã làm việc với Tòa Đại sứ Zimbabwe tại nước này để đưa di hài ông Mugabe về nước.

Robert Mugabe là ai?

Ông sinh ngày 21/2/1924 tại Rhodesia - nơi khi đó còn là thuộc địa của Anh, do người da trắng chiếm thiểu số cai trị.
Sau khi chỉ trích chính quyền Rhodesia hồi 1964, ông bị bỏ tù suốt hơn một thập niên mà không được đưa ra xét xử.
Năm 1973, khi vẫn còn trong tù, ông được bầu làm chủ tịch đảng Zanu do ông sáng lập.
Robert Mugabe, wearing a bright red scarf and sunglasses, raises a fistBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionÔng Mugabe đã cai trị Zimbabwe trong 37 năm
Khi được ra tù, ông tới Mozambique, và từ nơi đó lãnh đạo du kích quân tấn công vào Rhodesia. Ông cũng được coi là một nhà thương thuyết khéo léo.
Các thỏa thuận chính trị nhằm chấm dứt cuộc khủng hoảng cuối cùng đã dẫn đến việc ra đời của một quốc gia mới, độc lâp: Cộng hòa Zimbabwe.
Là một gương mặt nổi trội trong phong trào đòi độc lập, ông Mugabe giành được chiến thắng đầy thuyết phục trong kỳ bầu cử đầu tiên của nước cộng hòa này, hồi 1980.
Nhưng qua nhiều thập niên nắm quyền, ông Mugabe dần trở nên khét tiếng là một nhà lãnh đạo "cứng rắn", nắm toàn bộ quyền lực, cai trị bằng sự đe dọa và bạo lực. Ngày càng có nhiều người gọi ông là kẻ độc tài.
A younger Robert Mugabe is seen in this black and white photoBản quyền hình ảnhFAIRFAX / GETTY IMAGES
Image captionÔng Robert Mugabe hồi năm 1981
"Qua đời ở một nơi xa xôi, chết trong cay đắng, cô đơn và nhục nhã, đó là một cái kết ê chề cho ông," phóng viên BBC chuyên về vùng Nam Phi, Andrew Harding, nhận xét.
"Robert Mugabe từng là hiện thân cho cuộc đấu tranh của châu Phi chống lại chủ nghĩa thuộc địa.
"Ông là một chính trị gia quả cảm, bị cầm tù vì dám chống lại sự cai trị của người da trắng thiểu số.
"Đất nước mà ông dẫn dắt đến độc lập là một trong những quốc gia nhiều triển vọng nhất ở châu Phi. Zimbabwe trong nhiều năm đã phát triển tốt.
"Tuy nhiên, khi nền kinh tế đổ vỡ, ông Mugabe đã mất tinh thần. Ông áp dụng chương trình cải cách ruộng đất vô cùng tai hại. Zimbabwe nhanh chóng rơi vào siêu lạm phát, bị cô lập, và lâm vào cảnh hỗn loạn chính trị," phóng viên BBC nói.
Zimbabwe President Robert Mugabe (L) and his wife Grace (R) greet supporters at a national Heroes Day rally in Harare, August 11, 2014Bản quyền hình ảnhREUTERS
Image captionSự sụp đổ của ông Mugabe diễn ra sau khi có nghi ngờ rằng bà Grace vợ ông có thể lên kế vị ông
Năm 2000, ông tịch thu đất đai của các chủ sở hữu người da trắng.
Năm 2008, ông dùng dân quân sử dụng bạo lực để bịt miệng các đối thủ chính trị trong kỳ bầu cử.
Ông từng có tuyên bố nổi tiếng rằng chỉ có Chúa Trời mới có thể đẩy ông ra khỏi nhiệm sở.
Ông bị buộc phải chia sẻ quyền lực vào năm 2009, khi kinh tế sụp đổ, và phải đưa đối thủ Morgan Tsvangirai lên làm thủ tướng.
Nhưng năm 2017, giữa lúc có những lo ngại rằng ông đang đầu tư để vợ ông bà Grace, trở thành người kế vị, quân đội vốn là đồng minh lâu năm của ông đã quay lưng, chống lại ông và buộc ông phải từ chức.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Năm 1945: Liên Xô không ưa Pháp nhưng để Pháp quay lại VN


2 tháng 9 2019 Một trong những vấn đề của lịch sử Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám 1945 là không một đại cường nào thuộc phe Đồng Minh thắng trận công nhận chính phủ Hồ Chí Minh. Trước đó, chính phủ Đế quốc Việt Nam với thủ tướng là Trần Trọng Kim năm 1945 cũng không được Đồng Minh công nhận. Các nước lớn khi đó tập trung vào việc làm gì với Pháp và quyết tâm phục hồi chủ quyền của Paris ở cựu thuộc địa Đông Dương.

Stalin và Truman ở Potsdam 7-8/1945. Tại hội nghị này, các đại cường thắng trận trong Thế Chiến 2 đã quyết định số phận của nhiều dân tộc nhỏ.
Moscow, Washington, London đã coi vấn đề của các lực lượng bản địa ở châu Á nói chung, và Việt Minh nói riêng, là thứ yếu so với chính sách lớn hơn của họ.
Không ưa Pháp nhưng vẫn ủng hộ Pháp

Tư liệu từ hội đàm tại Tehran, trong hội nghị ba đại cường Mỹ, Anh, Liên Xô 28/11/1943 cho thấy Moscow và Washington đã khá đồng quan điểm ban đầu về Pháp trong và sau chiến tranh.

Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt không muốn Pháp quay lại chiếm Đông Dương, còn Stalin thì nói thẳng ra là quân Đồng Minh không nên đổ máu ở chiến trường đó.

Vào thời điểm diễn ra Hội nghị Tehran năm 1943, Đông Dương vẫn nằm trong tay đế quốc Nhật.

Hai nhà lãnh đạo Liên Xô và Mỹ thậm chí còn chia sẻ cách nhìn coi thường người Pháp.

Trong tài liệu có nội dung nêu trên do Thomas G. Paterson và Dennis Merrill biên tập và ấn hành năm 1995, Tổng thống Hoa Kỳ Roosevelt nhắc lại với Nguyên soái Stalin điều ông nghe được từ thủ tướng Anh, Winston Churchill.

Quan điểm của Churchill là nước Pháp sẽ nhanh chóng được tái thiết để trở thành quốc gia mạnh.

Roosevelt nói với Stalin ông không nghĩ như vậy mà cho rằng "Pháp cần nhiều năm làm việc cực nhọc để phục hồi vị trí".

"Điều cần thiết, cho cả người dân, và chính phủ Pháp, là trở thành các công dân trung thực."

Tranh ảnh Liên Xô. Stalin và các đại diện nhân dân Trung Á

"Nguyên soái Stalin đồng ý và còn nói thêm rằng ông không hề đề nghị để quân Đồng Minh phải đổ máu nhằm phục hồi Đông Dương cho chế độ thực dân cũ là Pháp", tài liệu trích thuật lại lời nhà lãnh đạo Liên Xô.

"Stalin cũng nói điều quan trọng là không chỉ đánh quân Nhật về quân sự, mà cần chống lại Nhật về chính trị, do Nhật đã trao độc lập, tuy chỉ là hình thức thôi, cho một số vùng thuộc địa. Ông nhắc lại rằng Pháp không thể được cho phép giành lại Đông Dương, và người Pháp phải trả giá cho sự hợp tác tội phạm (criminal collaboration) với Đức."

"Tổng thống Roosevelt nói ông đồng ý 100% với Nguyên soái Stalin và nêu ý kiến rằng sau 100 năm Pháp chiếm Đông Dương, người dân ở đó có cuộc sống tệ hơn trước."

Thế nhưng Moscow và Washington đã dần thay đổi quan điểm về Đông Dương.

Trước khi phát-xít Đức đầu hàng quân Đồng Minh ở châu Âu và trước lúc Nhật Bản thua trận, vào tháng 4/1945, Roosevelt qua đời.

Tổng thống kế nhiệm, Harry Truman lên cầm quyền và thay mặt Hoa Kỳ dự hội nghị Potsdam đề bàn về tình hình thế giới hậu chiến, gồm cả vùng Đông Á.

Chính phủ Pháp tự do của tướng Charles de Gaulle đã vận động ráo riết để Hoa Kỳ hỗ trợ nhằm giành lại các thuộc địa.

Dù không được dự hội nghị Potsdam, Pháp vẫn đề nghị để quân của họ giải giáp quân Nhật ở Đông Dương nhưng bị từ chối.

Các đại cường để quân Anh vào Việt Nam giải pháp quân Nhật ở dưới vĩ tuyến 16, và nhiệm vụ tương tự phía Bắc giao cho Trung Hoa Dân quốc (Đồng Minh chống Nhật).

Theo sử gia David Marr, sự hiện diện của chính quyền Việt Minh năm 1945 tại Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo đặt ra một vấn đề khó khăn cho các đại cường.

Vào tháng 4/1945, Hoa Kỳ đề nghị để lập chế độ ủy trị (trusteeship) với Việt Nam nhưng bị Pháp kịch liệt phản đối.

Mỹ có thái độ không hoàn toàn rõ ràng và để Anh giúp Pháp quay lại Đông Dương.

Anh đã chuyển quân trang quân dụng trên đường từ Ấn Độ về châu Âu cho Pháp để tướng Leclerc chuẩn bị quay lại Sài Gòn.

Liên Xô có vai trò rõ ràng ở hơn Triều Tiên vì nhận nhiệm vụ giải pháp quân đội Nhật ở phía Bắc vĩ tuyến 38.

Với Stalin, châu Á là Đông Bắc Á, Trung Á và Mông Cổ, còn tại Đông Dương, Moscow không thấy có quyền lợi gì để công nhận chính phủ Hồ Chí Minh.

Một hình tiền năm 1953 với hình cựu hoàng Bảo Đại. Chính phủ Đế quốc VN với thủ tướng là Trần Trọng Kim năm 1945 cũng không được các đại cường thắng trận công nhận

Trong cuốn 'Vietnam: State, War, and Revolution (1945-1946)', David Marr viết rằng Stephane Solovieff, đại diện của Liên Xô ở Hà Nội đã gặp Hồ Chí Minh và biết ông Hồ là một 'đồng chí cộng sản'.

Nhưng ông Solovieff, người thạo cả tiếng Anh, Pháp, và Nhật, muốn giữ quan hệ trung dung, tốt đẹp với tất cả các bên: Nhật, Hoa, Việt Nam và Pháp.

Vẫn theo David Marr, ông Solovieff nói với thiếu tá OSS của Hoa Kỳ Archimedes Patti, người từng tuyển ông Hồ Chí Minh cho công tác tình báo theo dõi quân Nhật ở Đông Dương, rằng nước Nga Xô Viết "cần thời gian để phục hồi, tái thiết trước khi xác định vị thế ở Đông Nam Á".

Người Liên Xô này còn nói rằng theo ông "Người Pháp rất cần có mặt để dẫn đạo giúp cho người Việt Nam đi đến chỗ có khả năng tự chủ (self-government)".
Không chỉ như vậy, từ đầu năm 1946, Solovieff cộng tác chặt chẽ với cao ủy Pháp, Jean Sainteny, người đã giúp ông ta đi tàu thuỷ về Paris.

Theo bài của Merle Pribbenoff được Trung tâm Wilson lưu trữ thì Liên Xô cũng không trợ giúp Việt Minh chút gì về an ninh, tình báo dù có cử an ninh sang.

Các tài liệu của Anh cho hay khi quân Anh vào Sài Gòn, họ bắt được một người Liên Xô hoạt động tình báo tại đó.

Theo Pribbenoff, điều trớ trêu là các nhân vật chủ chốt của an ninh tình báo Việt Minh như Trần Hiệu, Lê Giản đều "học nghề" từ tình báo Mỹ và một đại tá Nhật đi theo Việt Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Pháp điều đình năm 1946 nhưng không thành

Có vẻ như những gì Solovieff nói và làm không chệch ra khỏi đường lối chung của Moscow khi đó, đặt các vấn đề châu Âu lên cao hơn Đông Dương.

Tháng 12/1944, Moscow đã ký với phe kháng chiến Pháp một hiệp ước, tương tự với Anh, coi Pháp có vị thế "đồng minh của Liên Xô cùng chống Đức phát-xít".

Có giá trị 20 năm, hiệp ước này nhằm xóa bỏ mọi đe dọa từ Đức, thỏa thuận các vấn hậu chiến ở châu Âu, liên quan nhiều đến Đức, biên giới Tây Âu ở Bỉ, Hà Lan...

Một số nhà nghiên cứu tin rằng sự ủng hộ không có gì của Liên Xô cho chính thể VNDCCH có lý do cá nhân, rằng với họ, với ông Hồ chưa 'đủ chất cộng sản'.

Tuy nhiên, ý kiến này có vẻ không đúng nếu ta nhìn vào sự thiếu vắng ủng hộ của Liên Xô dành cho một quốc gia lớn hơn Việt Nam là Indonesia.

Theo Guy Faulker viết trên Foreign Affairs (The Soviet Challenge in Indonesia), sau khi người Indonesia tuyên bố độc lập khỏi Hà Lan (17/08/1945), Moscow chỉ ủng hộ họ tại Liên Hiệp Quốc trên nguyên tắc "chống chủ nghĩa đế quốc".

Trên thực tế, Moscow quan tâm nhiều hơn về quan hệ với Hà Lan ở châu Âu, và không công nhận chính phủ Sukarno ở Jakarta, dù ông Sukarno nhiều lần kêu gọi.

Báo chí Liên Xô còn phê phán tổng thống Sukarno là "tư sản' và đặt hy vọng và cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 9/1948 (sự kiện Madiun - 'Cộng hòa Xô Viết Indonesia') của đảng cộng sản địa phương.

Rút cục, Liên Xô không giúp cho cả Đảng Cộng sản Indonesia lẫn chính phủ Sukarno.

Sự công nhận Indonesia chỉ đến đầu năm 1950, sau khi Indonesia đã ký thỏa thuận chuyển chủ quyền từ Hà Lan cuối 1949.

Điều lạ là Liên Xô công nhận chính quyền Indonesia theo yêu cầu của Hà Lan và sau cả Mỹ và Anh.

Muốn theo Liên Xô nhưng chỉ thấy Pháp và Trung Quốc

Nếu như Liên Xô không muốn dính vào Đông Dương về mặt nhà nước, việc riêng với Đảng Cộng sản Đông Dương và Việt Minh lại được Moscow 'giao' cho Đảng Cộng sản Pháp quyết định.

Vấn đề là sau chiến tranh, Đảng Cộng sản Pháp tham gia liên minh cầm quyền và không hề mặn mà gì trong việc giúp ông Hồ Chí Minh giành lại độc lập toàn bộ.

Ước vọng của tướng Charles de Gaulle muốn giành lại các thuộc địa được cử tri Pháp rất ủng hộ và vẫn là động lực của các chính phủ Pháp kế nhiệm kể cả sau khi Charles de Gaulle từ chức tháng 1/1946.

Điều này khiến chủ tịch VNDCCH sau chuyến sang Pháp năm 1946 trở về thấy thất vọng về quan hệ cũ của ông với các 'đồng chí cộng sản Pháp', theo David Marr.

Một lối đi nữa cho chính quyền VNCDCH là kêu gọi lên Liên Hiệp Quốc.

Sau khi quân Anh vào Sài Gòn cuối 1945, sang tháng 1/1946, Hồ Chí Minh gửi thư cho Henri Spaak, chủ tịch Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, đề nghị đưa vấn đề Việt Nam vào nghị trình bàn thảo, nhưng không nhận được trả lời.

Điều dễ hiểu là các cường quốc châu Âu đã ngồi trong Hội đồng Bảo an như Liên Xô, Pháp chống lại mọi cố gắng được công nhận của người Việt Nam.

Mỹ và Anh cũng có mặt trong Hội đồng Bảo an thì nghiêng về phía Paris.

Những khó khăn của chính phủ VNDCDH diễn ra trong bối cảnh dù không được Moscow ủng hộ, báo chí của Việt Minh tiếp tục ca ngợi Liên Xô và Stalin.

Một số tờ báo Việt Minh, kể cả ở các tỉnh, có bài ca ngợi xã hội Liên Xô và các tấm gương anh hùng Xô Viết.

Sang mùa hè 1946, cây bút của Đảng, ông Trần Huy Liệu bắt đầu có loại bài phân biệt rõ Liên Xô và Hoa Kỳ, "với đường lối để VNDCCH cùng nhịp với Liên Xô", theo David Marr.

Cùng lúc, báo của phe dân tộc chủ nghĩa Việt Nam thì có các bài gọi Stalin là độc tài đỏ.

Mao Trạch Đông đón Hồ Chí Minh ở Bắc Kinh

Mầm mống của cuộc đấu tranh ý thức hệ Quốc - Cộng đã bắt đầu từ đó giữa người Việt với nhau cho dù các đại cường chưa chú ý đến Việt Nam.

Vấn đề của VNDCCH với Liên Xô xem ra còn tiếp tục kể cả sau khi lực lượng Việt Nam đã lớn mạnh và được Moscow công nhận đầu 1950, theo Pribbenoff.

Stalin đã giao phó việc trợ giúp Hồ Chí Minh cho Mao Trạch Đông còn Liên Xô vẫn giữ khoảng cách với VNDCCH.

Trung Quốc đóng vai trò chủ chốt trong "chỉnh huấn, chỉnh quân" để biến Việt Minh thành hệ thống chính trị Maoist, với nhiều di sản thể chế ở Việt Nam.

Tóm lại, sau 02/09/1945, ước vọng độc lập của người Việt Nam không được đặt vào nghị trình gì hết của các đại cường thắng trận, kể cả Liên Xô.

Những sợi dây ý thức hệ của Việt Minh với Đảng Cộng sản Liên Xô và Pháp không tác động được được tới tính toán quyền lợi lớn hơn của các đại cường châu Âu.

Những bài học này có thể vẫn còn ý nghĩa khi ta nhìn vào các diễn biến địa chính trị gần đây nhất, trong quan hệ Việt Nam với Nga, EU và Trung Quốc.


Phần nhận xét hiển thị trên trang