Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2019

Cựu đại tá công an Việt Nam: ‘Guaido sẽ thắng ở Venezuela"


Mặc dù ông Nguyễn Như Phong: Hai chính thể khác nhau hoàn toàn, hai phong cách lãnh đạo của hai quốc gia khác nhau hoàn toàn; cho nên không thể mang Venezuela mà so sánh với Việt Nam, nhưng tôi thấy đoạn này rất giống ở VN: họ đã lãnh đạo đất nước theo kiểu tùy hứng, theo một kiểu là chủ nghĩa ảo tưởng, một thứ Chủ nghĩa Xã hội không tưởng. Nó chẳng ra một thứ chủ nghĩa gì cả. Nó hết sức tùy hứng. Nó không có bất cứ bài bản nào. Rất kỳ lạ. Nhưng điều dở nhất là chính những nước đã phát hiện ra, như Trung Quốc, rồi thậm chí kể cả Việt Nam và Nga, họ biết rất rõ nhưng mà chả ai có cách nào khuyên can được cái ông Hugo Chavez. Thậm chí các nước lớn như Trung Quốc, họ còn lợi dụng sự mê muội của ông Chavez để họ làm ăn và họ đưa người Trung Quốc sang. Cho nên đất nước Venezuela là đất nước bi kịch.

Lời Ban Biên tập: Những diễn biến ở Venezuela trong thời gian gần đây thu hút sự quan tâm to lớn của nhiều người Việt Nam, đặc biệt sau khi lãnh đạo đối lập Juan Guaido tuyên bố trở thành tổng thống lâm thời và được Mỹ cũng như nhiều nước khác công nhận. VOA mới đây đã phỏng vấn ông Nguyễn Như Phong, đại tá công an Việt Nam đã nghỉ hưu, người trước đây từng thăm Venezuela 3 lần trên cương vị là một lãnh đạo báo chí. Ông Phong đã đưa ra những ý kiến đáng chú ý về cuộc xung đột chính trị hiện nay ở đất nước Nam Mỹ. Mời quý vị theo dõi.

Thủ lĩnh đối lập Venezuelan Juan Guaido phát 
biểu với báo giới ở Caracas, Venezuela, 10/2/2019
VOA: Hiện nay nhiều người ở Việt Nam nhìn vào câu chuyện đang diễn ra ở Venezuela và trực tiếp hoặc gián tiếp liên hệ đến Việt Nam, cho rằng điều tương tự có thể xảy ra. Ông có suy nghĩ gì về các nhìn nhận như vậy của những người đó?
Ông Nguyễn Như Phong: Hai chính thể khác nhau hoàn toàn. Hai phong cách lãnh đạo của hai quốc gia khác nhau hoàn toàn. Cho nên không thể mang Venezuela mà so sánh với Việt Nam. Và tôi cho rằng tất cả những ý kiến có tính chất hả hê, móc máy, dè bỉu, chê bai này khác, tôi cho là những ý kiến không công bằng, và họ không xuất phát từ thiện ý, và không có tính xây dựng. Tôi không đồng tình với các ý kiến đó.


Người Venezuela rất yêu Việt Nam

VOA: Trước hết, xin ông cho biết bối cảnh của những chuyến thăm hoặc công tác của ông đến Venezuela.


Ông Nguyễn Như Phong: Tôi đến Venezuela 3 lần. Tôi đi theo Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam để đàm phán về lô dầu mỏ mà Venezuela dành cho Việt Nam là lô Junin 2.

Thực sự là tôi rất yêu người dân Venezuela và các lãnh đạo Venezuela thời đấy, như là ông Hugo Chavez hay ông Ramirez, Bộ trưởng Bộ Năng lượng của Venezuela.

Tôi cũng đã được gặp một số du kích quân Caracas mà ngày xưa đã tham gia bắt thằng trung tá không quân Mỹ [nguyên văn] để đổi lấy anh Nguyễn Văn Trỗi.

Thực sự mà nói, tôi thấy người dân Venezuela họ rất yêu người Việt Nam, rất kính trọng người Việt Nam. Và đặc biệt, lãnh đạo Venezuela họ yêu quý Việt Nam có thể nói là tôi chưa từng thấy.

Thế nhưng bên cạnh đó, tôi cũng đã lờ mờ nhìn thấy những điều không ổn ở đất nước này, trong cái cung cách lãnh đạo.

VOA: Ba chuyến đi của ông diễn ra vào những năm nào? Những thời điểm đó ông thấy hoàn cảnh kinh tế và đời sống người dân như thế nào?

Ông Nguyễn Như Phong: Năm 2009, 2010, và 2011 hay 2012 gì đó. Lúc đấy kinh tế bắt đầu xuống dốc rồi, bắt đầu đã lạm phát ghê gớm rồi. Trộm cắp, cướp giật thì khủng khiếp.

Nghĩa là chúng tôi không dám đi ra khỏi khách sạn nếu như không có người bảo vệ. Và ngồi trên ô tô đi, chúng tôi không dám thò máy ảnh ra cửa sổ để chụp ảnh, đến mức như thế.

Những năm ấy, mặc dù giá xăng dầu còn rất rẻ, thực phẩm, các thứ khác còn ổn, thế nhưng tình hình kinh tế Venezuela đã bộc lộ những điều làm chúng tôi cứ tự hỏi “Đây nó là một cái đất nước gì, nó là một cái xã hội gì?” Không thể hiểu nổi nữa.

Một đất nước mà mị dân đến mức mà không cần làm cũng có ăn. Hàng ngày nghĩa là chờ đến nhận cơm với thực phẩm ở các trung tâm cứu trợ, thế thì chết.

Khắp nơi đổ dồn về thành phố, đổ dồn về thủ đô Caracas để kiếm sống, mà họ chẳng kiếm sống, cứ về đấy để được ăn.

Thế rồi có thứ lãnh đạo gì lại thuê người dân đến ngồi nghe mình diễn thuyết và trả tiền. Thì tôi thấy cái kiểu ấy không được. Khi đấy đã bộc lộ nhiều rồi. Thế nhưng vì họ dành cho mình lô Junin 2, rất là yêu quý như thế, nên là mọi thứ nó cũng lấn át đi.

Chủ nghĩa Xã hội không tưởng ở Venezuela

VOA: Lúc đó ông đang là tổng biên tập của một tờ báo ngành dầu khí phải không?

Ông Nguyễn Như Phong: Không. Hai chuyến đầu tiên tôi đi với tư cách là Phó Tổng Biên tập của báo Công An Nhân Dân. Mãi đến năm sau này tôi mới đi với tư cách Tổng Biên tập báo Năng Lượng Mới.

VOA: Xin ông nói rõ thêm về “những điều không ổn” trong việc lãnh đạo đất nước ở Venezuela mà ông đã cảm nhận được?

Ông Nguyễn Như Phong: Tôi đã viết trên Facebook cá nhân. Tôi nói là họ đã lãnh đạo đất nước theo kiểu tùy hứng, theo một kiểu là chủ nghĩa ảo tưởng, một thứ Chủ nghĩa Xã hội không tưởng. Nó chẳng ra một thứ chủ nghĩa gì cả. Nó hết sức tùy hứng theo kiểu của người dân Nam Mỹ. Nó không có bất cứ bài bản nào. Rất kỳ lạ.

Nhưng điều dở nhất là chính những nước đã phát hiện ra, như Trung Quốc, rồi thậm chí kể cả Việt Nam và Nga, họ biết rất rõ nhưng mà chả ai có cách nào khuyên can được cái ông Hugo Chavez. Thậm chí các nước lớn như Trung Quốc, họ còn lợi dụng sự mê muội của ông Chavez để họ làm ăn và họ đưa người Trung Quốc sang. Cho nên đất nước Venezuela là đất nước bi kịch.

PetroVietnam chỉ bị “chôn vốn”?

VOA: Về dự án liên doanh dầu khí giữa Venezuela và Việt Nam, xin ông cho biết thêm thông tin và hiệu quả của dự án đó đến đâu?

​Ông Nguyễn Như Phong: Việt Nam được Venezuela dành cho lô dầu mỏ Junin 2, một lô dầu khí có trữ lượng cực lớn, khoảng hơn 2 tỷ thùng, ở thung lũng dầu khí Colorado. Đây là liên doanh giữa Việt Nam và công ty dầu mỏ Venezuela PDVSA.

Hồi đấy tính theo giá dầu cỡ 100 đô la/thùng thì khai thác ở mỏ dầu này rất có lãi, mặc dù dầu đó là dầu siêu nặng.

Việc Venezuela dành cho mình lô Junin 2 [năm 2009] đầu tiên phải nói là xuất phát từ ông Hugo Chavez ông ấy yêu Việt Nam, ông kính trọng Việt Nam, ông ấy cho. Chứ còn lúc ấy mình có lobby [vận động hành lang] bằng tiền bằng bạc gì đâu.

Ký hợp đồng tất cả các thứ rồi, Việt Nam triển khai rồi, khoan lấy dầu lên rồi thì đùng một cái ông Chavez ông ấy chết [ngày 5/3/2013], rồi tiếp theo giá dầu thế giới giảm một cách thê thảm. Thế là việc khai thác dầu đấy phải dừng lại.

Thế nhưng nhiều người không hiểu cứ nói Việt Nam mất trắng hàng trăm triệu đô la ở đấy.

Mỏ dầu đấy hiện nay vẫn có quyền sở hữu của Việt Nam, và quốc hội Venezuela họ đã phê chuẩn rồi cho nên không thể thay đổi được. Chỉ có điều bao giờ khai thác được tiếp tục thì nó phụ thuộc hoàn toàn vào tình thế chính trị của Venezuela và giá dầu thế giới. Giá dầu thế giới cao lên thì khai thác ở đấy sẽ rất tốt.

Người ta cứ bảo mất trắng hàng trăm triệu đô la thế này thế khác, nói như thế là không đúng.

VOA: Vậy có thể tạm hiểu số tiền này là “chôn vốn” chứ chưa phải là mất?

Ông Nguyễn Như Phong: Chính xác. Nói chôn vốn là đúng đấy.

“Tôi ủng hộ phương Tây can thiệp”

VOA: Hiện nay đang có xung đột chính trị giữa một bên là Tổng thống tự xưng Juan Guaido được nhiều nước quan trọng ủng hộ, và một bên là Tổng thống hợp hiến trên giấy tờ, ông Nicolas Maduro. Theo ông, cuộc xung đột chính trị này sẽ có kết cục như thế nào?

​Ông Nguyễn Như Phong: Tôi thấy cuộc xung đột chính trị này sẽ dẫn đến kết quả là ông Guaido sẽ thắng.

Bởi vì nói gì thì nói, chủ nghĩa gì thì chủ nghĩa, chủ nghĩa gì thì cũng không quan trọng bằng làm cho người dân được no ấm, làm cho người dân được hạnh phúc.

Vậy thì suy xét lại là chính quyền của ông Maduro có làm cho người dân được hạnh phúc không? Ông có làm cho người dân được no ấm không? Tại sao một đất nước vốn giàu có như thế lại trở thành một đất nước của người dân chết đói? Đó là điều không chấp nhận được.

Muốn là chủ nghĩa nào tôi không cần biết. Nhưng mà điều quan trọng nhất là cái chủ nghĩa đó phải làm cho người dân được no ấm, và người dân đừng có khốn khổ như thế này.

Và tôi nghĩ rằng các nước phương Tây họ muốn can thiệp và ủng hộ chính quyền của ông Guaido, và tôi cho rằng tôi cũng ủng hộ sự can thiệp đấy. Để người dân chết đói ai mà chịu được.

VOA: Hiện nay nhiều người ở Việt Nam nhìn vào câu chuyện đang diễn ra ở Venezuela và trực tiếp hoặc gián tiếp liên hệ đến Việt Nam, cho rằng điều tương tự có thể xảy ra. Ông có suy nghĩ gì về các nhìn nhận như vậy của những người đó?

Ông Nguyễn Như Phong: Hai chính thể khác nhau hoàn toàn. Hai phong cách lãnh đạo của hai quốc gia khác nhau hoàn toàn. Cho nên không thể mang Venezuela mà so sánh với Việt Nam.

Và tôi cho rằng tất cả những ý kiến có tính chất hả hê, móc máy, dè bỉu, chê bai này khác, tôi cho là những ý kiến không công bằng, và họ không xuất phát từ thiện ý, và không có tính xây dựng. Tôi không đồng tình với các ý kiến đó.

VOA: Xin cảm ơn ông đã dành thời gian cho đài chúng tôi và đưa ra những ý kiến có nhiều giá trị!

(VOA)
https://www.voatiengviet.com/a/cuu-dai-ta-cong-an-vn-ong-guaido-se-thang-o-venezuela/4781599.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cuộc chiến bảo vệ biên giới năm 1979 và bài học quan hệ với nước lớn


NGUYỄN HUY VIỆN

  
(GDVN) - Từ sự bành trướng ấy có thể thấy vì lợi ích quốc gia, các nước lớn sử dụng các nước bé như những quân cờ, cho dù đó là đồng chí hay đồng minh.
Cách đây vừa tròn 40 năm, ngày 17/2/1979, Trung Quốc phát động cuộc chiến quy mô lớn xâm phạm biên giới Việt Nam - nước láng giềng mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc trước đó luôn khẳng định: “vừa là đồng chí vừa là anh em”.
Trung Quốc huy động trên 600.000 quân, tấn công toàn tuyến biên giới Việt - Trung trên bộ, với chiều dài 1449,566 km.
Quân số Trung Quốc tham chiến đông hơn các đạo quân của Mỹ và Pháp trong 2 cuộc chiến tranh trước đó.
Trong kháng chiến chống Mỹ, thời điểm cao nhất, Mỹ tham chiến trên chiến trường gần 550.000 quân; Pháp khoảng 250.000 quân. [1]
Trung Quốc đã phát động cuộc tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979 ngay sau chuyến công du Hoa Kỳ của Đặng Tiểu Bình để gặp Jimmy Carter, ảnh: flickr.
Hành động của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia độc lập; để lại tổn thất nặng nề về nhân lực, vật lực cho nhân dân hai nước; để lại vết thương sâu sắc cho quan hệ của hai quốc gia.
Từ một số sự kiện lịch sử, người viết bài có đôi điều bàn về quan hệ giữa nước lớn với nước bé ở các khía cạnh dưới đây:
Khi người cầm quyền của nước lớn chỉ vì mục tiêu và lợi ích quốc gia hẹp hòi thì mọi cam kết, hứa hẹn với nước bé dễ bị hủy bỏ
Trước năm 1979, trong tất cả các tuyên bố chung được những người đứng đầu hai nước Việt Nam và Trung Quốc ký kết đều khẳng định quan hệ Việt - Trung là mối quan hệ đồng chí, láng giềng đặc biệt, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Xuất phát từ quan điểm trên đây, thời đó trong đường lối đối ngoại, Việt Nam xác định quan hệ hữu nghị với Trung Quốc là hòn đá tảng chiến lược.
Lãnh đạo Trung Quốc cũng thường xuyên khẳng định quan hệ hữu nghị với Việt Nam là quan hệ đồng chí, anh em láng giềng “như môi với răng”.
Năm 2017, trước khi sang dự Hội nghị APEC do Việt Nam đăng cai, ông Tập Cận Bình - Tổng Bí thư Đảng cộng sản, Chủ tịch Trung Quốc gửi bài viết đăng trên Báo Nhân Dân (08/11/2017), có tiêu đề: “Mở ra cục diện mới hữu nghị Trung - Việt”.
Trong bài viết này, ông Tập Cận Bình, tiếp tục nhắc lại câu nói từ những năm 60 thế kỷ XX của Mao Trạch Ðông (Chủ tịch Trung Quốc 1949 - 1976):
“700 triệu người dân Trung Quốc là hậu thuẫn vững chắc của nhân dân Việt Nam, Trung Quốc bao la là hậu phương tin cậy của nhân dân Việt Nam.". [2]
Nhưng trên thực tế thì sao?
Trên thực tế Trung Quốc đã phát động chiến tranh tấn công toàn tuyến biên giới Việt Nam tháng 2/1979. Trước đó, năm 1956, họ đưa quân chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Biên giới phía Bắc đầu tháng 2/1979, những ngày trước khi súng nổ

Tiếp đến ngày 19/01/1974, Trung Quốc chiếm đóng trái phép toàn bộ phần còn lại quần đảo này của nước ta.
Ngày 14/3/1988, Hải quân Trung Quốc đã gây ra vụ thảm sát dã man 64 chiến sĩ Công binh Hải quân Việt Nam đang làm nhiệm vụ canh giữ chủ quyền của Tổ quốc ở đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa.
Sau đó, Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép 5 bãi đá ngầm của Việt Nam ở khu vực này.
Như vậy, vì mục đích chính trị, vì tham vọng mở rộng lãnh thổ lãnh đạo Trung Quốc đã hủy bỏ mọi cam kết giữa hai quốc gia và xâm phạm nghiêm trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Vì lợi ích quốc gia, khi cần các nước lớn sử dụng các nước bé như những quân cờ
Hơn ai hết, người Việt Nam rất thấm thía điều này. Tháng 2/1972, khi cuộc chiến tranh chống Đế quốc Mỹ của dân tộc Việt Nam đang ở giai đoạn gay go quyết liệt, Mao Trạch Đông đã mời Tổng thống Mỹ Richard Nixon thăm Bắc Kinh.
Theo các nhà phân tích thời sự quốc tế, một trong những nội dung quan trọng nhất chuyến thăm của Nixon là tìm kiếm thỏa thuận với Trung Quốc để đảm bảo cho Mỹ kết thúc chiến tranh Việt Nam có lợi nhất.
Luật gia J. Amter, đồng Chủ tịch Hội nghị Nhà trắng nghiên cứu về công tác quốc tế của Mỹ, người nắm nhiều tài liệu đặc biệt quan trọng của cuộc chiến Việt Nam qua các đời Tổng thống Mỹ, đã viết về chuyến đi Bắc Kinh của Nixon trong cuốn “Lời phán quyết về Việt Nam”:
“Trên thực tế, Nixon gợi ý Trung Quốc ép Hà Nội chấp nhận những điều kiện hòa bình của Mỹ và tổng thống Nixon muốn Bắc Kinh giúp ông ta thương lượng với Hà Nội những điều kiện hòa bình thuận lợi (cho phía Mỹ) đó”. [3] 
J. Amter viết tiếp: “Nixon nói rằng nếu Bắc Kinh giúp làm giảm các căng thẳng ở Việt Nam thì Nixon thấy không có lý do tại sao các lực lượng Mỹ ở Đài Loan lại không thể rút đi”.
Theo J. Amter: “Đó là “thông điệp” của Nixon trực tiếp gửi đến Trung Quốc, rằng: “Mỹ hoàn toàn sẵn sàng thỏa hiệp vấn đề Đài Loan để đổi một giải pháp ở Việt Nam”! [4] (sđd, tr.374).
Phải chăng, tháng 1/1974, Trung Quốc đưa quân chiếm quần đảo Hoàng Sa (lúc đó do quân đội Việt Nam Cộng hòa - đồng minh của Mỹ quản lý), nhưng Mỹ làm ngơ cũng nằm trong “thông điệp” của Nixon chuyển tới lãnh đạo Trung Quốc?

Chiến tranh Biên giới 1979: Khúc bi tráng trên đỉnh Pò Hèn

Ngày 28/01/1979, Đặng Tiểu Bình thực hiện chuyến công du Hoa Kỳ với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc.
Một trong những mục tiêu hàng đầu của chuyến thăm này là dọn đường đưa quân tấn công Việt Nam.
Hai ngày sau khi từ Mỹ trở về, Đặng Tiểu Bình triệu tập phiên họp Bộ Chính trị mở rộng, giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tấn công Việt Nam. Ngày 17/2/1979, Trung Quốc phát động cuộc tấn công toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam. 
Qua đó, có cơ sở để có thể khẳng định, Đặng Tiểu Bình đã đạt được thỏa thuận với Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Jimmy Carter trong việc đưa quân tấn công Việt Nam.
Qua các sự kiện trên đây có thể thấy, vì lợi ích quốc gia, các nước lớn sử dụng các nước bé như những quân cờ, cho dù đó là đồng chí hay đồng minh. 
Nhìn thẳng vào hành động của Trung Quốc để bác bỏ những tuyên truyền sai lệch của họ về các vấn đề lịch sử
Có một nội dung mà từ hàng chục năm nay, luôn được lãnh đạo hai nước Việt - Trung khẳng định trong các tuyên bố chung hoặc thông cáo báo chí khi viếng thăm nhau, đó là:
Hai bên cần xử lý tốt vấn đề trên biển trên tinh thần tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế.
Hai bên cần thực hiện nghiêm túc nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước, thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển và các quy định của luật pháp quốc tế để giải quyết hòa bình tranh chấp trên biển.
Hai bên cần kiểm soát tốt bất đồng, không có hành động làm phức tạp tình hình, góp phần giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
Ai cũng có thể thấy, Việt Nam luôn nhất quán thực hiện quan điểm trên đây cả trong lời nói và việc làm.
Nhưng với Trung Quốc thì hoàn toàn khác. Trên thực tế, ở quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa (của Việt Nam bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép), Trung Quốc đã huy động tối đa nhân lực, vật lực để biến các đảo mà họ chiếm đóng thành các căn cứ quân sự.
Đến nay, Trung Quốc đã bồi đắp các bãi đá ngầm thành các đảo nhân tạo, có tổng diện tích trên 13 km2 (chiếm khoảng 95% tổng diện tích các đảo đảo tự nhiên và đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa). [5]
Theo các chuyên gia quân sự nước ngoài và qua hình ảnh vệ tinh cho thấy, Trung Quốc đang khẩn trương biến các đảo chiếm đóng trái phép của Việt Nam thành những căn cứ quân sự hiện đại, khống chế toàn bộ biển Đông và khu vực Đông Nam Á.

Chiến tranh Biên giới 1979 - Một góc nhìn hậu chiến

Qua đó cho thấy, hành động của Trung Quốc khác xa (không muốn nói là trái ngược) với những gì mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc cam kết với lãnh đạo Việt Nam trên các bàn hội nghị.
Từ ba vấn đề trên đây có thể rút ra bài học rằng, với những nước lớn có tư tưởng cực đoan về lợi ích dân tộc, trong quan hệ với nước bé, họ sẵn sàng bỏ qua các hiệp ước, các cam kết; bỏ qua tình đồng chí, đồng minh với nước bé; sẵn sàng bán rẻ lợi ích của nước bé để bắt tay các nước lớn khác, phục vụ cho lợi ích quốc gia mình.
Cho nên, đòi hỏi nước bé phải luôn tỉnh táo, cảnh giác với đối sách của các nước lớn, nhất là nước lớn láng giềng, nước lớn có tư tưởng dân tộc cực đoan. Có như vậy các nước bé mới không bị biến thành quân cờ trong tay các nước lớn.
Quay lại luận bàn về sự việc xảy ra tại Biên giới phía Bắc tháng 2/1979, phải khẳng định đây là chủ ý của Trung Quốc và dân tộc Việt Nam phải một lần nữa đứng lên bảo vệ Tổ quốc.
Trên quan điểm đó, cần phải loại bỏ tư tưởng e ngại khi luận bàn cuộc chiến ái quốc này của dân tộc.
Và cũng đừng cho rằng phê phán một cách khoa học và khách quan tính chất phi nghĩa của Trung Quốc khi bành trướng vào biên giới Việt Nam tháng 2/1979 và việc họ đã và đang thôn tính biển đảo của Việt Nam, là kích động, chia rẽ quan hệ Việt - Trung.
Có như vậy mới tôn trọng và công bằng với sự hy sinh của hàng chục nghìn chiến sĩ và đồng bào trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc tháng 2/1979 và các trận chiến bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông.
Cũng chỉ như vậy mới đảm bảo được sự công bằng, khách quan, chính danh của lịch sử.
Cho nên cần phải đánh giá, tổng kết và tuyên truyền, giáo dục cho các thế hệ về tính phi nghĩa của kẻ bành trướng và tính chính nghĩa của dân tộc ta trong cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc tháng 2/1979, tương xứng như các cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.
Thay cho lời kết, người viết xin trích dẫn quan điểm rất xác đáng của Phó giáo sư Nguyễn Mạnh Hà, nguyên Viện trưởng Lịch sử Đảng về Cuộc chiến tranh Biên giới phía Bắc tháng 2/1979: "Nếu không đề cập đến thì mười năm, hai mươi năm nữa con cháu lớn lên không hiểu gì về mối quan hệ Việt - Trung giai đoạn này. Để cho thế hệ sau không biết gì hoặc hiểu sai về cuộc chiến là có tội với lịch sử". [6]
Tài liệu tham khảo:
[1] https://vnexpress.net/projects/chien-tranh-bien-gioi-phia-bac-nhung-dieu-khong-the-quen-3542378/index.html
[2] http://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/34654802-mo-ra-cuc-dien-moi-huu-nghi-trung-viet.html.
[3] NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội 1985, trang 375.
[4] SĐD, tr.374).
[5] http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Gio-Gac-Ma-nhin-lai-qua-trinh-Trung-Quoc-thon-tinh-Hoang-Sa-mot-phan-Truong-Sa-post184439.gd
[6] https://vnexpress.net/projects/chien-tranh-bien-gioi-phia-bac-nhung-dieu-khong-the-quen-3542378/index.html
NGUYỄN HUY VIỆN


Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2019

'Trung Quốc dự liệu đúng về Liên Xô khi tấn công Việt Nam năm 1979'


Lãnh đạo Bắc Kinh phán đoán Liên Xô không mạo hiểm huy động lực lượng lớn đánh trả Trung Quốc, dù Việt - Xô quan hệ khăng khít. Cách đây 40 năm (17/2/1979), Trung Quốc nổ súng tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam, gây nhiều đau thương cho người dân. VnExpress có cuộc trao đổi với Thiếu tướng, Giáo sư Nguyễn Hồng Quân, nguyên Phó viện trưởng Viện Chiến lược quốc phòng về những mưu toan của Bắc Kinh khi gây chiến.
Thiếu tướng Nguyễn Hồng Quân. Ảnh: Gia Chính
- Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc rạn nứt từ thời điểm nào, thưa ông? 
- Để hiểu rõ hơn, cần đặt mối quan hệ Việt - Trung trong mối quan hệ cũng như tính toán chiến lược giữa các nước lớn. Cụ thể là giữa Việt Nam - Trung Quốc; Liên Xô - Trung Quốc và Liên Xô - Mỹ. Giai đoạn 1950-1964 được coi là thời kỳ "trăng mật" của quan hệ Việt - Trung. Hai nước là láng giềng gần gũi, hữu nghị truyền thống, chung ý thức hệ, chung nhu cầu đảm bảo an ninh quốc gia. Vì thế Trung Quốc là nước viện trợ hàng đầu cho Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Việt Nam cũng luôn ủng hộ đường lối đối ngoại của Trung Quốc, tuy không ký kết bất kỳ hiệp định đồng minh chính thức nào. 


Dù vậy, Bắc Kinh luôn giữ tư tưởng bề trên. Luôn nói "không gây sức ép về chính trị, kinh tế thông qua viện trợ", nhưng Trung Quốc lại muốn Việt Nam thừa nhận vai trò lãnh đạo của nước này với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và thế giới.

Từ giữa thập niên 1960, Đảng Cộng sản Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc công khai mâu thuẫn, đối đầu toàn diện. Để tránh Việt Nam đứng về phía Trung Quốc, Liên Xô tìm cách lôi kéo Việt Nam.

Trung Quốc muốn Việt Nam chỉ đánh du kích có giới hạn chống Mỹ, để họ dễ bề điều khiển, phục vụ ý đồ bắt tay với Mỹ. Trong khi Việt Nam muốn thống nhất đất nước. Việt Nam cũng muốn trực tiếp đàm phán với Mỹ, không qua trung gian và đã đàm phán từ năm 1968. Còn Trung Quốc thì phản đối, muốn Việt Nam tiếp tục chiến tranh đến khi Mỹ chấp nhận thua cuộc mới đàm phán.

Năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và Trung - Mỹ ra thông cáo chung. Có ý kiến coi hành động này là sự phản bội của Trung Quốc. Cùng với đó, Trung Quốc cắt giảm viện trợ cho Việt Nam nhằm tìm kiếm cơ hội đàm phán với Mỹ.

Năm 1974, Trung Quốc cưỡng chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam) trong sự làm ngơ của Mỹ. Một năm sau, Việt Nam và Liên Xô ra Tuyên bố Việt - Xô, xác định quan hệ toàn diện giữa hai Đảng. Tháng 11/1978, Việt Nam và Liên Xô ký Hiệp ước Hữu nghị, hợp tác. Cùng năm đó, Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV) và được Liên Xô gọi là "tiền đồn đáng tin cậy của các nước XHCN ở Đông Nam Á".

Cuối năm 1978, Liên Xô ký thỏa thuận với Việt Nam về việc xây dựng và cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật tại Cam Ranh trong 25 năm. Theo đó, Cam Ranh trở thành nơi tiếp nhận tàu chiến, tàu ngầm, tàu hộ tống, máy bay trinh sát, vận tải và máy bay mang tên lửa thuộc Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô. Việt - Xô gần gũi và thân thiết bao nhiêu, thì lãnh đạo Trung Nam Hải lúc ấy tức tối bấy nhiêu.

Sau năm 1975, Trung Quốc tăng cường viện trợ cho Pol Pot ở Campuchia, đây cũng là khoảng thời gian đội quân này mạnh tay tàn sát dân lành Việt Nam dọc biên giới Tây Nam, đẩy mâu thuẫn hai nước thêm gay gắt.

Khi Việt Nam đưa quân phản kích Pol Pot, giúp nhân dân Chùa Tháp thoát khỏi nạn diệt chủng thì quan hệ Việt - Trung lao dốc.


- Tam giác quan hệ Xô - Trung - Mỹ ảnh hưởng ra sao đến việc Bắc Kinh quyết định tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam?
- Đầu thập niên 1970, lãnh đạo Trung Quốc theo đuổi chiến lược toàn cầu chống Liên Xô, dựa trên cơ sở hướng tới hợp tác với Mỹ. Tuy nhiên thời điểm này Washington không hưởng ứng. Trung Quốc tin rằng lý do là Mỹ đang quan tâm hơn đến chính sách hoà dịu với Liên Xô.
Khi Trung Quốc lập liên minh chống Liên Xô, Việt Nam phản đối. Trung Quốc giảm mạnh viện trợ và đến năm 1978 thì cắt toàn bộ. Một trong những điều kiện để Trung Quốc nối lại viện trợ là Việt Nam phải từ chối tất cả các khoản viện trợ của Liên Xô. Trước việc Việt Nam quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô, Trung Quốc gọi Việt Nam là "tiểu bá", còn Liên Xô là "đại bá".
Đặc biệt sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết (ngày 27/1/1973), quan hệ Trung - Xô - Việt phức tạp hơn, lợi ích và xung đột về kinh tế, chính trị đan xen, rạn nứt Việt - Trung ngày càng rõ nét. 
Ngày 1/11/1977, Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc gọi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất và coi Mỹ là đồng minh. Đầu tháng 4/1978, Liên Xô tuyên bố sẽ triển khai trên tuyến biên giới các hệ thống vũ khí mới. Mặt khác, Liên Xô cố gắng kéo dài hiệp ước hữu nghị, hợp tác Xô - Trung ký năm 1950 nhưng Trung Quốc tuyên bố chấm dứt sớm một năm.  
Đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố khả năng một cuộc chiến tranh tổng lực chống Liên Xô và tập trung 1,5 triệu quân dọc biên giới hai nước. Ngược lại, Liên Xô triển khai hơn 40 sư đoàn, thường xuyên tập trận bắn đạn thật. 
Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Trung Quốc Đặng Tiểu Bình (trái) và Tổng thống Jimmy Carter tại Nhà Trắng năm 1979. Ảnh: AFP
Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Trung Quốc Đặng Tiểu Bình (trái) và Tổng thống Jimmy Carter tại Nhà Trắng năm 1979. Ảnh: AFP
Trung Quốc tin rằng Liên Xô và Việt Nam đang phối hợp để đe doạ nước này, nhất là Việt Nam cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh. Giới lãnh đạo Bắc Kinh cũng khó chịu vì nỗ lực của Việt Nam trong việc thiết lập quan hệ đặc biệt với Lào và hợp tác toàn diện với Campuchia. Thậm chí, Bắc Kinh cho rằng Liên Xô hậu thuẫn Việt Nam đưa quân vào đánh đuổi Pol Pot, giải phóng Campuchia. Vậy nên dưới góc nhìn của Trung Quốc, Việt Nam là mối đe doạ quân sự nghiêm trọng, cần thiết phải phát động cuộc chiến tranh "trừng phạt". 
- Cuộc xâm lược dưới danh nghĩa "trừng phạt" đó được lên kế hoạch như thế nào?
- Khi bàn kế hoạch tấn công Việt Nam, Trung Quốc đã tính toán kỹ các khả năng Liên Xô có thể đáp trả. Họ nhận định Liên Xô sẽ không mạo hiểm huy động lực lượng lớn để tấn công Trung Quốc song có thể xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số lưu vong tấn công các vùng xa xôi như Nội Mông, Tân Cương hoặc gây đụng độ nhỏ kích động căng thẳng ở biên giới. 
Các lãnh đạo Trung Quốc phán đoán cuộc tấn công Việt Nam chớp nhoáng, có giới hạn sẽ không đủ để kích thích Liên Xô can thiệp trực tiếp hay quốc tế phản đối. Tuy vậy, Bắc Kinh vẫn di tản dân gần đường biên và lệnh các đơn vị quân đội ở biên giới với Liên Xô sẵn sàng chiến đấu.
Việc tấn công Việt Nam còn để Bắc Kinh thăm dò khả năng giúp đỡ của Liên Xô và khả năng phòng thủ của Việt Nam khi là thành viên của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV). Đến nay nhìn lại, cần thừa nhận rằng Trung Quốc đã dự liệu đúng phản ứng của Liên Xô.
Đối với Mỹ, thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam là một chấn thương nặng nề mà họ đang ôm trong lòng. Đồng thời, Mỹ muốn tìm kiếm mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc để tạo thế cân bằng trước Liên Xô. 
Trung Quốc nhận thấy điều đó nên hy vọng bình thường hoá quan hệ với Mỹ sẽ cải thiện vị trí chiến lược của nước này, tạo điều kiện thuận lợi cho cải cách kinh tế. Xa hơn, đánh Việt Nam, Trung Quốc sẽ thuyết phục Mỹ rằng hai nước có lợi ích chung và sẵn sàng hợp tác chống Liên Xô.
Vì vậy, Trung Quốc lựa chọn thời điểm tấn công Việt Nam ngay sau chuyến công du Mỹ của Đặng Tiểu Bình. 
- Còn vấn đề Hoa kiều thì sao thưa ông?
- Tháng 4/1978, Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam, ít nhiều liên quan tới người Hoa là thương nhân, nhà sản xuất, tiểu thủ công nghiệp... Đây là công việc đối nội của Việt Nam, nhưng Trung Quốc coi là sự thách thức với chính sách bảo vệ Hoa kiều của Bắc Kinh. Phong trào đòi lấy quốc tịch Trung Quốc trong người Hoa ở Việt Nam nổi lên. Trung Quốc loan tin trong cộng đồng người Việt gốc Hoa về cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi giữa hai nước, khiến cộng đồng người Hoa hoảng hốt.
Năm 1978, người Hoa ở Việt Nam ồ ạt kéo về Trung Quốc. Đến tháng 2/1979, đã có khoảng 160.000 Hoa kiều hồi hương từ Việt Nam bằng đường biển hoặc đường bộ qua cửa khẩu Hữu Nghị. 
Trung Quốc lập các trạm đón tiếp dọc biên giới và đưa tàu sang đón người Hoa về. Ngày 12/7/1978, Trung Quốc đóng cửa biên giới với Việt Nam, làm cho hàng vạn người Hoa muốn về Trung Quốc bị kẹt tại biên giới.
Đặng Tiểu Bình lấy cớ cho rằng Hà Nội "vong ơn, bội nghĩa" tạo thêm sức ép cho quyết định tấn công Việt Nam.
- Cuộc phản công Pol Pot của Việt Nam ở biên giới Tây Nam ảnh hưởng ra sao đến kế hoạch của Bắc Kinh?
- Theo tài liệu của Trung Quốc, tháng 9/1978, Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc đã họp bàn về vấn đề xung đột biên giới với Việt Nam. Lúc đầu, Bắc Kinh dự định tiến hành chiến dịch quy mô nhỏ nhằm vào một trung đoàn bộ đội địa phương huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng của Việt Nam nằm sát đường biên giới với tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Tuy nhiên, sau khi có tin Việt Nam sắp phản công tự vệ ở biên giới Tây Nam và tiến công Pol Pot ở Campuchia, thì đa số giới lãnh đạo Bắc Kinh đặt quyết tâm, bất kỳ hành động quân sự nào cũng phải gây ảnh hưởng đáng kể với Hà Nội và tình hình Đông Nam Á. Họ chủ trương tiến công các đơn vị quân chính quy của Việt Nam trên địa hình rộng lớn. 
Riêng Đặng Tiểu Bình nhìn thấy cả thách thức lẫn cơ hội trong mối quan hệ khó khăn với Việt Nam và cho rằng cách giải quyết tốt nhất là hành động quân sự. Tháng 1/1978, trong chuyến thăm chính thức Thái Lan, Malaysia, Singapore nhằm dò xét và tìm sự hậu thuẫn, Đặng tuyên bố sẽ tiến công Việt Nam nếu nước này tiến vào Campuchia. Trong chuyến thăm này, Đặng tuyên bố với báo giới "Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học". Hôm sau, báo chí Trung Quốc rút gọn thành "phải dạy cho Việt Nam bài học".
Ngày 7/12/1978, Hội nghị Quân uỷ Trung ương Trung Quốc họp và quyết định phát động "Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam". "Mệnh lệnh triển khai chiến lược" được ban hành một tháng sau đó, nêu rõ mục đích cuộc chiến là "chi viện cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Campuchia chống Việt Nam xâm lược".
- Bắc Kinh đã tính toán như thế nào khi huy động 600.000 quân trong cuộc tấn công xâm lược này thưa ông?
- Lúc đầu Bắc Kinh dự tính sử dụng 6 quân đoàn chủ lực đánh 3-5 ngày vào một số huyện biên giới, tiêu diệt một đến hai sư đoàn Việt Nam. Ngày 31/12/1978, Quân ủy Trung Quốc lại họp hội nghị tác chiến, quyết định mở rộng quy mô chiến tranh, tăng thêm 3 quân đoàn, đổi mục tiêu tấn công huyện lỵ thành các tỉnh lỵ biên giới; thời gian kéo dài lên 15-20 ngày, nhằm tiêu diệt 3 đến 5 sư đoàn Việt Nam. 
Sự chuẩn bị của Bắc Kinh diễn ra khá lâu trước khi quân đội Việt Nam vượt sông Mê Kông đã chứng minh rõ ràng việc Trung Quốc rêu rao "trả đũa" Việt Nam tiến quân vào Campuchia chỉ là cái cớ. Từ lâu, Trung Quốc vẫn giữ tư tưởng bá quyền nước lớn, ngấm ngầm tìm cách đánh Việt Nam. 
Trung Quốc coi cuộc chiến chống Việt Nam là phép thử với quan hệ Xô - Việt và lôi kéo Mỹ cùng chống lại Liên Xô. Đó mới là lý do sâu xa của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc từ tháng 2/1979.
- Việt Nam đã ứng phó ra sao trước âm mưu và hành động của Bắc Kinh?
- Đối phó lại việc Trung Quốc tập trung bộ binh và vũ khí hạng nặng tại biên giới, Việt Nam tăng cường chuẩn bị các vị trí phòng ngự, sẵn sàng cho cuộc chiến. 
Lúc đó ở ta cũng có ý kiến tự hào vì được trang bị vũ khí của Liên Xô và của Mỹ thu hồi được, hơn hẳn trang bị của quân đội Trung Quốc. Tuyên bố của Đặng Tiểu Bình chỉ một tuần trước khi nổ súng, rằng chiến dịch quân sự này sẽ "giới hạn về không gian và thời gian" khiến có người tin tưởng khả năng cầm chân quân Trung Quốc ở biên giới chỉ bằng dân quân và bộ đội địa phương. 
Chúng ta đã huấn luyện và trang bị vũ khí hạng nhẹ cho dân quân các tỉnh biên giới. Ngày 1/1/1979, các lực lượng vũ trang biên giới được lệnh chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Ngày 15/2/1979, ngoại trừ các xã biên giới và một vài đơn vị, các lực lượng trên tuyến một được lệnh hạ cấp xuống trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Một số đơn vị cho một phần bộ đội về trạng thái sinh hoạt bình thường, điều chỉnh lại đội hình.
Ngày 12/2/1979, Quân uỷ Trung ương Trung Quốc ra mệnh lệnh tấn công Việt Nam vào sáng 17/2.
Sáng sớm hôm đó, Trung Quốc huy động 29 sư đoàn bộ binh thuộc 9 quân đoàn chủ lực ồ ạt tấn công biên giới phía Bắc Việt Nam. Cùng ngày, Nhân dân Nhật báo đăng bài "Không thể nhẫn chịu, thật không thể nhẫn chịu - báo cáo từ biên giới Trung-Việt" như cách công bố với thế giới Bắc Kinh đã tấn công Việt Nam. 
Trung Quốc còn thâm độc khi lựa chọn tấn công vào ngày Thứ Bảy. Khi đó, các phương tiện truyền thông còn khá lạc hậu, nên phải đến đầu tuần sau thông tin chi tiết về cuộc chiến cũng như phản ứng của Việt Nam mới được thế giới biết đến rộng rãi. 
Viết Tuân
https://vnexpress.net/40-nam-cuoc-chien-bao-ve-bien-gioi-phia-bac/trung-quoc-du-lieu-dung-ve-lien-xo-khi-tan-cong-viet-nam-nam-1979-3877111.html?fbclid=IwAR1qMM1H0COKcNH1_luSo5fGS5Skia6rDeJDP5B4N1mik1_PfQtGZv9DG94


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tướng Lê Văn Cương: Việt Nam đã 5 lần bị Trung Quốc 'bán đứng'

Kết quả hình ảnh cho Trung quoc ban dung Viet nam

Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược - Bộ Công an vạch rõ Việt Nam đã 5 lần bị 'bán đứng'. Do bản tính bành trướng quá dữ dội và sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích, Trung Quốc không có đồng minh. Lần thứ nhất tại Hội nghị Genève năm 1954. Trung Quốc đã có sự mặc cả với Mỹ, Pháp chứ đúng ra ranh giới hai miền không phải vĩ tuyến 17 mà có thể là 13, nếu không thì là 15. Nhưng để lấy lòng Mỹ và phương Tây, Trung Quốc đã nhân nhượng Mỹ và Pháp kéo lên vĩ tuyến 17. Sau này chính Pháp nói với ta điều ấy.

Lần thứ hai khi Việt Nam gần thắng Mỹ năm 1972, Henry Kissinger đã ký tắt với ông Lê Đức Thọ, hai bên báo cáo cấp cao để chuẩn bị ký Hiệp định Paris. Nhưng sau đó Mao Trạch Đông mời Tổng thống Mỹ Nixon sang ký Thông cáo chung Thượng Hải. Ngày 1-3-1972, Kissinger về Tokyo họp báo, nói một câu nổi tiếng: Bây giờ chúng tôi chỉ còn nhìn về Mạc Tư Khoa để nghiền nát Hà Nội! Sau khi ký xong, những việc tày trời trước đây các tổng thống Mỹ khác không làm được thì Nixon làm được, đó là phong tỏa cảng Hải Phòng, con đường biển duy nhất Việt Nam ra thế giới, cho máy bay đánh sát biên giới Trung Quốc, rồi sau đó là 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không. Thiệt hại về người và tài sản trong cuộc không chiến của Mỹ ở miền Bắc từ 1-3-1972 đến khi ký Hiệp định Paris bằng cả sáu năm trước cộng lại. Ở miền Nam, ta cũng phải đổ xương máu nữa. Nên thông cáo Thượng Hải thực chất đã được viết bằng máu của người Việt Nam.

Lần thứ ba, họ đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974. Không có sự đồng ý của Mỹ thì Trung Quốc không bao giờ dám đánh.


Lần thứ tư, chính Trung Quốc là kẻ chủ mưu gây nên vụ thảm sát hơn 2 triệu người Campuchia. Trung Quốc cung cấp từ A đến Z, lương thực thực phẩm, vũ khí, đạn dược, thuốc men cho Khmer Đỏ. Chiến tranh biên giới Tây Nam 1976-1978 là Trung Quốc mượn Khmer Đỏ để đánh Việt Nam. Sau đấy, khi ta giải phóng Campuchia, Trung Quốc là kẻ lu loa trên thế giới rằng Việt Nam có âm mưu lập “Liên bang Đông Dương”. Kẻ gây ra họa diệt chủng lại vu cáo cho những người cứu người Campuchia khỏi họa diệt chủng.


Lần thứ năm là chiến tranh biên giới năm 1979. Năm lần họ buôn bán trên lưng mình.


Tất cả những chuyện tranh chấp của Trung Quốc với nước khác, từ xưa đến nay, không có cuộc tranh chấp nào mà Trung Quốc có lý cả. Cuộc chiến năm 1962 với Ấn Độ, họ chiếm của Ấn Độ mấy chục ngàn cây số vuông, không có lý nào cả.


Quan hệ với Nhật Bản, Philippines cũng vậy, không có lý nào. Tôi thống kê có 15 cuốn sách, 20 bản đồ cổ khẳng định cực nam của họ chỉ đến đảo Hải Nam thôi.


(Pháp luật TPHCM)



nhận xét hiển thị trên trang