Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2019

Mỹ


Là một công dân, tôi đề nghị chính phủ, nhất là bộ ngoại giao nước này bỏ ngay, không dùng từ "Hoa Kỳ" để chỉ nước Mỹ (USA, hoặc America) nữa.

Hoa Kỳ là cách gọi nôm na, đùa cợt, không nghiêm túc, không thể hiện sự tôn trọng trong quan hệ quốc tế. Nó cũng giống như ta thường diễn đạt nôm na: xứ kim chi (để chỉ Hàn Quốc), xứ củ sâm (Triều Tiên), cảng thơm (Hồng Kông), đội bóng phố núi (Gia Lai), gái đất cảng (Hải Phòng); thậm chí miệt thị như: quê rau má (Thanh Hóa), đất cầu tõm (Hà Nam), nhà máy cháo (Thái Bình), dân cá gỗ (Nghệ An), địa đạo chỉ cu (Củ Chi)...

Khi trò chuyện với nhau, thân mật, gọi đùa thì được, còn dùng "Hoa Kỳ" trong ngôn ngữ ngoại giao, quan hệ nghiêm túc thì chả khác gì trò đùa. Ngay trong nước, chẳng ai nói, chẳng hạn năm nay tỉnh rau má thu được bao nhiêu ngân sách, xứ Nghệ có mấy trường đạt chuẩn...

Thấy lá cờ (quốc kỳ) của nước người ta có nhiều ngôi sao, nói trẹo thành hoa, gọi là cờ hoa là đã đùa cợt, nôm na rồi; lại còn tới mức đặt thành tên nước là "Hoa Kỳ" thì quá thể, nhố nhăng.

Đừng bảo lâu nay từ thời các cụ đã gọi thế quen rồi có sao đâu, không bỏ cũng chả chết ai, v.v.. Đúng là không chết ai, nhưng nó như trò cười, bị khinh, bị coi thường. Tại sao không dùng tên gọi chính xác, phổ biến trên thế giới, và nhất là người Mỹ đang dùng để gọi tên chính nước của họ. Nếu thấy đổi sẽ gây nhiều phiền phức thì cứ gọi ngay là Mỹ (phiên âm kiểu từ Hán Việt xưa kia, Mỹ Lợi Kiên, gọi tắt là Mỹ), có phải nghiêm túc hơn không nào.

Chả dẫn đâu xa, cụ Hồ khi viết hoặc nói về đối phương đều dùng từ "Mỹ", chẳng hạn đế quốc Mỹ, nước Mỹ, nhân dân tiến bộ Mỹ, tổng thống Mỹ, "đế quốc Mỹ là con hổ giấy"; còn khi dè bỉu chê cười Mỹ thì gọi là Hoa Kỳ, Huê Kỳ, ví dụ cụ làm thơ "Cồn Cỏ nở đầy hoa chiến thắng/Đánh cho tan xác giặc Huê Kỳ". Rất rõ ràng.

Ngay trong rất nhiều văn bản của nhà nước, bài phát biểu của các ông bà cai trị xứ này, lúc thì Hoa Kỳ, lúc thì Mỹ, cứ tùm lum tà la, chẳng ra làm sao.

Vậy tại sao chính người Mỹ lại dùng từ "Hoa Kỳ" chỗ này chỗ khác (Đại sứ quán Hoa Kỳ, Đài tiếng nói Hoa Kỳ...)? Đơn giản bởi họ tư duy theo kiểu phương Tây, thoáng, ít quan tâm tới thứ vụn vặt, vả lại khi quan hệ với Việt Nam, thấy người Việt cứ gọi mình là Hoa Kỳ thì tặc lưỡi chấp nhận dùng cái tên ấy cho xong.

Ông ngoại trưởng Phạm Bình Minh nên gương mẫu đổi trước đi, để những ông bà kia thấy chối mà đổi theo.

Một việc như thế mà không làm được, lại cứ đòi thành hổ thành rồng.

Nguyễn Thông

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc âm mưu thôn tính Hoàng Sa từ Hội nghị Geneva 1954?


Phó Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Chí Hiếu

Bài này vừa đăng thì đã bị gỡ xuống. Khổ thân cho báo chí chính thống! Vừa muốn biểu tỏ lòng yêu nước vừa phải liếc chừng Ban Tuyên Giáo. Thái độ ấy có khi thể hiện ngay trong một tờ báo. Như Thanh Niên, tuy có đăng hai bài tố cáo Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa (https://thanhnien.vn/…/45-nam-trung-quoc-cuong-chiem-hoang-… vàhttps://thanhnien.vn/…/45-nam-trung-quoc-cuong-chiem-hoang-…), nhưng trong bản tin nói Bộ đội biên phòng Quảng Ngãi phối hợp với Cảnh sát biển vùng 2 xua đuổi một tàu đánh bắt hải sản trái phép cách bờ biển huyện Mộ Đức Quảng Ngãi chỉ có 11 hải lý, clip kèm theo (xem ảnh) cho thấy trên thân tàu rành rành mấy chữ Trung Quốc (xem ảnh cắt từ clip), báo vẫn rụt rè nói đó là “tàu nước ngoài”, tịnh không dám nhắc đến chính danh thủ phạm là Trung Quốc (https://thanhnien.vn/…/xua-duoi-tau-ca-nuoc-ngoai-danh-bat-…).
Trong hình ảnh có thể có: văn bản
(GDVN) - Với việc đẩy Hoàng Sa ra khỏi tay Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngay từ Hội nghị Geneva, Trung Quốc đã chuẩn bị xong điều kiện “cần” để xâm lược quần đảo này.
LTS: Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được bài viết của Phó giáo sư Tiến sĩ Hoàng Chí Hiếu từ Trường Đại học Sư phạm Huế nhân 45 năm ngày Trung Quốc cất quân xâm lược nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Tòa soạn trân trọng gửi đến quý bạn đọc bài viết này và cảm ơn Phó giáo sư Tiến sĩ Hoàng Chí Hiếu! Văn phong và nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Ngày 19/1/2019 là tròn 45 năm kể từ khi Trung Quốc xâm lược nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Song theo người viết, có lẽ ít ai để ý cuộc chiến này đã được Bắc Kinh chuẩn bị từ Hội nghị Geneva 1954.
Tại Geneva, vấn đề gây nên tranh cãi nhất trong việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương chính là vạch giới tuyến quân sự tạm thời chia cắt Việt Nam.
Chu Ân Lai (phải) gặp Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Pháp Mendès France (trái) tại Hội nghị Geneva 1954, ảnh: Getty.
Đối với Việt Nam Dân chủ cộng hòa, lập trường ban đầu là vĩ tuyến 13, sau lui ra vĩ tuyến 14 rồi chốt ở vĩ tuyến 16.
Tuy nhiên, phái đoàn Pháp không chấp nhận giải pháp này, mặc dù họ đã lui dần từ vĩ tuyến 19 xuống 18, thậm chí là 17,5 theo gợi ý của Mỹ.
Trước đó, phe Đồng minh đã sử dụng vĩ tuyến 16 làm ranh giới để giải giáp quân Nhật sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, lựa chọn này cũng phù hợp tương quan kiểm soát thực tế của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân đội Pháp trên chiến trường.
Thế nhưng phái đoàn Quốc gia Việt Nam muốn giới tuyến phải nằm phía bắc Huế, nơi có lăng tẩm của tổ tiên Quốc trưởng Bảo Đại, trong khi vương quốc Lào muốn có lối ra biển mà quốc lộ 9 chính là con đường ngắn nhất và thuận tiện nhất.
Để đảm bảo hành lang an toàn cho lối đi này, đường giới tuyến phải ở phía Bắc của quốc lộ 9.
Trên thực địa, cách đường 9 khoảng 10km về phía Bắc có con sông Hiền Lương, là điều kiện tự nhiên lí tưởng dùng để làm ranh giới phân cách đôi bên tham chiến và nó trùng với vĩ tuyến 17.
Tuy nhiên, với vị thế của Lào và Quốc gia Việt Nam lúc đó thì áp lực của họ khó có đủ sức nặng để buộc đại diện phái đoàn Pháp phải đấu tranh cho bằng được vĩ tuyến 17, nhất là khi phía Việt Nam Dân chủ cộng hòa chấp nhận vĩ tuyến 16 với nhượng bộ:
1. Đà Nẵng có thể do phía Pháp bảo lưu thêm một thời gian, ví dụ một năm.
2. Lào có thể lợi dụng đường số 9 để ra biển.
3. Cố đô Huế có thể mở cửa cho hoàng tộc, để cho họ tảo mộ (như tác giả Tiền Giang - 钱江/ Qian Jiang – đã đề cập trong cuốn “Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève 1954”, 2005), mà đơn giản là vĩ tuyến 17 trùng hợp với quan điểm của Mỹ, Pháp và đặc biệt là ý đồ của Trung Quốc.
Trong cuộc gặp ở Liễu Châu để thống nhất lập trường giữa hai nước Việt - Trung (đầu tháng 7/1954), dù hứa với Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ hết sức cố gắng để đạt được vĩ tuyến 16, nhưng trước khi chia tay, Chu Ân Lai (Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng, Trưởng đoàn Trung Quốc tham dự Hội nghị Geneva) lại xin được linh hoạt vì đường sá xa xôi, không kịp trao đổi!
Hồi ký “Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết:
“Trước lúc đoàn ta ra về, đồng chí Chu nói với Bác: “Tôi sẽ bàn với đồng chí Môlôtốp (Ngoại trưởng Liên Xô - người viết chú thích) hết sức cố gắng thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch. Vì ở xa không có điều kiện trao đổi, nếu việc đấu tranh xác định ranh giới tạm thời gặp khó khăn, vạn bất đắc dĩ phải chọn vĩ tuyến 17”.
Điều này xác quyết rằng, Trung Quốc quyết định chọn vĩ tuyến 17 và muốn “gài” Việt Nam vào thế đã rồi.
Nếu nhìn đơn giản, vĩ tuyến 16 hay 17 đối với Pháp và Trung Quốc không quan trọng, bởi đó không phải đất của hai quốc gia này và nhất là khi họ đã xem Việt Nam Dân chủ cộng hòa ở giữa làm “trái độn”.
Việc Trung Quốc không “giúp” Việt Nam Dân chủ cộng hòa nhằm phục vụ ý đồ sâu xa của Bắc Kinh đối với Hoàng Sa, khi gần như toàn bộ quần đảo này (ngoại trừ đảo Tri Tôn và Đá Bắc) nằm gọn trong vĩ tuyến 16 đến vĩ tuyến 17.
Như vậy, sự dịch chuyển vị trí giới tuyến quân sự tạm thời từ vĩ tuyến 16 lên 17 không chỉ là 200 km từ Đà Nẵng ra sông Hiền Lương, gồm tỉnh Thừa Thiên Huế và phần lớn Quảng Trị trên đất liền, mà còn cả quần đảo Hoàng Sa ngoài biển.
Với vĩ tuyến 16, Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẽ là chủ thể quản lý quần đảo Hoàng Sa chờ ngày tổng tuyển cử theo tinh thần Hội nghị Geneva.
Điều này Trung Quốc nắm rất rõ bởi sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, theo quy định của Hội nghị Potsdam, song song với việc vào bắc vĩ tuyến 16, quân Trung Hoa Dân quốc đã có mặt ở Hoàng Sa để giải giáp quân Nhật và chỉ vừa rút khỏi quần đảo này vào tháng 4/1950.
Khi sự tương đồng ý thức hệ đóng vai trò chủ đạo, chi phối quan hệ giữa hai nước thì việc Trung Quốc ra tay chiếm đoạt Hoàng Sa từ Việt Nam Dân chủ cộng hòa sẽ khó có thể xảy ra.
Nhưng nếu chọn vĩ tuyến 17 làm giới tuyến, quần đảo này do phía đối địch với đồng minh của mình quản lý, mọi việc sẽ thuận lợi hơn cho Bắc Kinh.
Nhìn lại quá trình bành trướng của Trung Quốc xuống Hoàng Sa từ năm 1909, nhất là sau khi đề nghị của Liên Xô chuyển giao chủ quyền quần đảo này từ Nhật Bản qua Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Hội nghị San Francisco 1951 và bị bác bỏ, mới thấy thâm ý của Trung Quốc ở Hội nghị Geneva.
Với việc đẩy Hoàng Sa ra khỏi tay Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngay từ Hội nghị Geneva, Trung Quốc đã chuẩn bị xong điều kiện “cần” để xâm lược quần đảo này.
Trên thực tế, chỉ chưa đầy 2 năm sau Hiệp định Geneva, lợi dụng lúc Pháp rút quân khỏi miền Nam Việt Nam, Trung Quốc đưa quân chiếm một nửa phía Đông quần đảo Hoàng Sa.
Và cuộc chiến xâm lược nốt nửa phía Tây quần đảo Hoàng Sa năm 1974 chính là bước đi cuối cùng để hoàn thành ý đồ đã được vạch ra từ Hội nghị Geneva 1954.
Phó giáo sư Tiến sĩ Hoàng Chí Hiếu
Giới thiệu về trang web này
THANHNIEN.VN|BỞI BÁO THANH NIÊN
Giới chuyên gia quốc tế thực sự lo ngại trước các hành vi của Bắc Kinh ở quần đảo Hoàng Sa lẫn quần đảo Trường Sa cũng của Việt Nam, và xa hơn là cả khu vực Biển Đông.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2019

Việt Nam tuyên bố sẵn sàng tiếp đón thượng đỉnh Trump-Kim


mediaTổng thống Mỹ Donald Trump (T) và lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un đi dạo, nhân cuộc gặp tại Singapore, tháng 06/2018REUTERS/Jonathan Ernst/File Photo
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khi trả lời Bloomberg TV hôm 18/01/2019 cho biết Việt Nam sẵn sàng đón tiếp và tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh lần thứ hai giữa tổng thống Mỹ Donald Trump và lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un về việc phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên.
Ông Nguyễn Xuân Phúc cho biết : « Chúng tôi vẫn chưa biết được quyết định cuối cùng ra sao, tuy nhiên, nếu cuộc gặp diễn ra tại Việt Nam, chúng tôi sẽ nỗ lực hết sức để tạo điều kiện ».
Một nguồn tin chính phủ Việt Nam nói với AFP là « việc chuẩn bị hậu cần đang diễn ra, cho dù chưa có quyết định chính thức nào ».
Tối 17/01, tướng Kim Yong Chol, cánh tay mặt của Kim Jong Un, đã đến Washington để bàn bạc với ngoại trưởng Mike Pompeo về khả năng hai nguyên thủ gặp gỡ. Theo nhiều nhà quan sát, thượng đỉnh Trump-Kim lần thứ hai có thể được tổ chức tại Đà Nẵng.
Thành phố biển Đà Nẵng, nơi có căn cứ không quân Mỹ quan trọng trong thời chiến, hồi năm 2017 đã từng tiếp đón tổng thống Donald Trump đến dự hội nghị thượng đỉnh APEC.
Hôm 17/01, Reuters đưa tin ông Kim Jong Un sẽ có chuyến viếng thăm cấp nhà nước Việt Nam sau Tết nguyên đán (4-8/02/2019), tuy nhiên nguồn tin không xác nhận chuyến đi này có gắn liền với thượng đỉnh Trump-Kim hay không. Một chuyên gia ghi nhận bản tin Reuters bằng tiếng Anh trên Tuoi Tre News hôm 18/01 đã bị rút xuống.
Việt Nam vốn có quan hệ tốt với Bắc Triều Tiên, và Bình Nhưỡng từng bày tỏ mong muốn học hỏi kinh nghiệm của Hà Nội về việc phát triển kinh tế thị trường, bình thường hóa quan hệ với Mỹ.
Từ sau cuộc gặp Trump-Kim đầu tiên tại Singapore tháng 6/2018 với các tuyên bố không rõ ràng về phi hạt nhân hóa, tình hình vẫn không tiến triển. Hoa Kỳ nhấn mạnh duy trì trừng phạt kinh tế nếu Bắc Triều Tiên không từ bỏ vũ khí nguyên tử. Phía Bình Nhưỡng đòi giảm nhẹ trừng phạt lập tức, đòi được bảo đảm an ninh, tố cáo Washington muốn Bắc Triều Tiên đơn phương hạ vũ khí mà chẳng có nhượng bộ nào.
Theo tin giờ chót, Nhà Trắng đã loan báo thượng đỉnh Trump-Kim sẽ diễn ra vào cuối tháng 2/2019, địa điểm sẽ thông báo sau.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lắng Nghe Sóng Hoàng Sa




Kết quả hình ảnh cho hình ảnh hai chien hoang sa



Vẫn còn đó mây trắng
bay qua năm tháng 
vắng ngày xưa

Sóng Hoàng sa gọi 
bao nhiêu lần nước mắt thành mưa
rơi xuống ướt lưng trời
ướt tơi bời 
trên quê hương của chúng ta

Và còn lưu lại mãi
giữa triệu niềm xót xa
Chưa bao giờ tắt 
trong trái tim người nước Việt
Dẫu nghìn thu 
biệt mù còn trôi mãi không thôi

Buổi sớm nầy
ngày của năm nào quay trở lại
Tôi đi hái từng nỗi buồn
Thắp lên tiếng chuông
vọng thành nỗi u sầu
nguyện với hồn ai...

Lắng nghe sóng Hoàng Sa.


                                               19/01/2019



                                        


nhận xét hiển thị trên trang

Bắt cóc chủ tịch Quốc hội, 12 nhân viên an ninh vào tù

Venezuela : 

Chủ tịch Quốc hội Venezuela, Juan Guaido trong một cuộc mít-tinh ở Caracas ngày 16/01/2019.


Tại Venezuela, 12 nhân viên an ninh bắt cóc chủ tịch Quốc hội Juan Guaido, nhà đối lập với tổng thống Maduro hôm qua 17/01/2019 đã bị tòa án Caracas ra lệnh bắt giam.

Theo tòa án, các nhân viên thuộc cơ quan An ninh quốc nội (SEBIN) đã « vi phạm quyền tự do, lạm dụng quyền lực, liên kết với các tổ chức tội phạm ». Họ bị tống giam vào Hélicoide, nổi tiếng là một trong những nhà tù tệ hại nhất Venezuela.

Ông Juan Guaido, chủ tịch Quốc hội – định chế duy nhất nằm trong tay đối lập – hôm 13/01 đã bị những người bịt mặt bắt cóc trên đường ra sân bay đi dự một cuộc mít-tinh. 

Chính quyền Caracas sau đó rũ bỏ mọi trách nhiệm, cho rằng các nhân viên này hành động một cách đơn phương và bất hợp pháp. Chính quyền cũng cáo buộc ông Rodriguez Mucura, lãnh đạo SEBIN từ 18 năm qua đã bị phe đối lập cực hữu mua chuộc để làm mất ổn định đất nước.

Ông Guaido, kỹ sư 35 tuổi, lên làm chủ tịch Quốc hội từ ngày 05/01, cho biết sẵn sàng lãnh đạo đối lập. Ông nhanh chóng nhận được sự ủng hộ của Tổ chức các quốc gia châu Mỹ (OEA), và đang kêu gọi dân chúng biểu tình quy mô vào ngày 23/01 tới.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGƯỢC NGUỒN CHỮ VIỆT (Kì 1 và 2)


Bút ký của Hoàng Minh Tường


Ghi nhớ
 Một trăm năm chữ Quốc NgữKết quả hình ảnh cho GS Nguyễn Đăng HÆ°ng Đi tìm nguồn gốc chữ Quốc ngữ
(1919 – 2019)


Bút ký 

Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, rồi các nhà nước phong kiến Việt Nam tự chủ từ Ngô Quyền xưng Vương năm 939, với sự xuất hiện của chữ Nôm, loại hình chữ Việt của tầng lớp trên biến thể từ chữ Hán, hầu hết các văn bản chính thống Quốc gia, các trước tác, văn bia, tàng thư lưu trữ…, cho đến năm 1919, đều dùng chữ Hán và chữ Nôm. Đọc được thứ chữ này chỉ có các nhà nho và quan lại, hơn chín mươi chín phần trăm dân cư mù chữ. Chỉ đến khi vua Khải Định ra đạo dụ ngày 26 tháng 11 năm Mậu Ngọ ( 28/12/1918) bãi bỏ các khoa thi lều chõng cử tử, đưa chữ Quốc ngữ vào nhà trường, chữ Việt hiện đại mới chính thức được phổ cập và phát triển trên toàn xứ sở.
Sự thần kỳ nào đã giúp người Việt thoát thứ chữ tượng hình hàng nghìn năm bao quấn tư duy và tự tôn dân tộc để có một hệ ký tự Latin hiện đại, để rồi một trăm năm qua khởi phát giao hòa đông tây, kết nối đồng bào, khuếch tán văn hóa với toàn nhân loại?
Hãy làm một cuộc ngược dòng, tìm đến nguồn cội của chữ Quốc ngữ.


  1. MỘT ĐẤT NƯỚC KỲ BÍ

Đất nước Iran trông tựa như một chiếc lá phong bay phần phật giữa vùng Tây Á và Nam Á, kẹp giữa hai biển, phía bắc là Caspi ( Lý Hải), phía nam là vịnh Pecxich. Bay trên trời, tưởng tượng Airbus đang là chiếc thảm bay, từ Istanbul đến Teheran, nhìn xuống, chỉ thấy bao la một vùng cao nguyên khô cằn màu đất gan gà. Đi đường bộ dọc bắc nam từ bờ Caspi đến bờ vịnh Pecxich cũng điệp trùng những dải núi như được nung đốt thành sành gốm và mênh mông hoàng thổ. Hiếm hoi lắm mới gặp một vạt xanh. Đúng hơn là những chấm xanh.
Đất đai ấy, mà sao từ hơn ba ngàn năm trước đã tạo nên những đế chế của người Media và người Babylon cổ đại, để rồi đến thế kỷ thứ VII trước CN, hợp thành đế chế Achamenes của người Aryan với vua Syrus đại đế, tiền thân của đế quốc Ba Tư hùng mạnh về sau. Đất đai ấy mà thảng hoặc lại bắt gặp những thành quách đền đài, nơi bị thời gian vùi lấp, nơi hầu như còn nguyên vẹn, nguy nga tráng lệ. Và âm u trong gió, bảng lảng trong mây là những câu chuyện huyền hoặc của một nghìn lẻ một đêm và những tấm thảm bay kỳ ảo.
Giữa vùng hoang mạc khô cằn và kì bí ấy, tưởng rằng chẳng có gì dính líu đến nước Việt viễn đông xa xôi, nào ngờ có hai sự kiện mà hậu thế bây giờ mới giật mình.
Ấy là vào năm 1255, khi vó ngựa của Thành Cát Tư Hãn tiến qua vùng Trung Á, đế quốc Ba Tư bị khuất phục. Hulagu, cháu nội của Hốt Tất Liệt trở thành thái thú Ba Tư, lập tức thành lập đội quân viễn chinh người bản xứ, theo gót quân Nguyên Mông đi chinh phục thế giới. Ba lần quân Nguyên tiến đánh Đại Việt (1258, 1285 và 1287), hai lần sau đều có tướng Ô Mã Nhi. Ở cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ hai, thủy quân Ô Mã Nhi đã làm mưa làm gió vùng hạ lưu sông Hồng, sông Thái Bình, có lúc dồn đuổi thủy quân Trần Hưng Đạo về Vạn Kiếp, có lúc bao vây thành Thăng Long, truy sát vua tôi nhà Trần xuống Xuân Trường, khiến vua Trần lo lắng hỏi Trần Hưng Đạo có nên hàng giặc không? Và Hưng Đạo Vương đã nói câu bất hủ: “Nếu bệ hạ muốn hàng thì hãy chém đầu tôi đi đã”. Rồi Trần Hưng Đạo đưa thượng hoàng và vua về Ba Chẽ, Quảng Ninh để lừa giặc trước khi vòng vào xứ Thanh, thoát lưới vây bủa của Ô Mã Nhi, chờ lúc phản công, đuổi giặc ra khỏi bờ cõi. Những ngày nguy nan ấy, một loạt quan quân nhà Trần đã ra hàng giặc, như hoàng tử Trần Ích Tắc, hoàng thân Trần Lộng, Trần Kiên…
Cuộc xâm lược lần thứ ba, Ô Mã Nhi đã được phong chức Bình chương sự, cùng Phàn Tiếp dẫn thủy binh vào cửa Bạch Đằng. Và trận thủy chiến lừng danh nhất trong lịch sử quân sự nước Việt (và cả thế giới) đã được Quốc công Tiết chế Hưng Đạo Đại vương dàn trận. Trước đó ở Vân Đồn, Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư đã tiêu diệt Trương Văn Hổ và toàn bộ hạm đội hậu cần tiếp viện. Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ cùng hơn bốn trăm chiến thuyền giặc lọt vào trận địa phục kích và bị đốt cháy. Phàn Tiếp bị giết, Ô Mã Nhi bị bắt sống. Trận đánh thần sầu ấy diễn ra vào tháng tư năm Mậu Tý, 1288.
Tướng Ô Mã Nhi này, phải chăng chính là Omar, người Ba Tư?
Nhà sử học Ba Tư nổi tiếng thế kỷ XIII là Fazi Allah Radsidud có thể đã đi trong đoàn quân ấy, đã biết Omar, hoặc được nghe kể, để rồi đã ghi lại trong sử biên niên về xứ Giao Chỉ (Kiafka) thời ấy: …“ Nước đó có những vùng khó đi lại và nhiều rừng cây… Nước đó có quốc vương riêng không thần phục Hãn (vua Mông Cổ). Con trai của Hãn là Thoát Hoan (Tugan)chỉ huy đội quân bảo vệ miền Manzi cũng như để ngăn ngừa và chống lại những ai không khuất phục. Một lần Tugan mang quân vào nước đó, chiếm lấy các thành thị ven biển và thống trị ở đây một tuần lễ. Nhưng bỗng nhiên từ biển, từ rừng, từ núi, xuất hiện những đội quân nước đó đánh tan đạo quân của Tugan đang lo cướp bóc. Tugan trốn thoát và lại về đóng ở Lukin Fu ( Nam Kinh)…
Đọc mà sướng âm ỉ. Ngay từ thế kỷ XIII chiến thắng của quân dân nhà Trần Đại Việt ta đã ngân vang trong sử sách Iran.



II. ĐI TÌM MỘ ALEXANDRE DE RHODES


Sự kiện thứ hai.
Bốn trăm năm sau, năm 1651, có một người từ Đại Việt ra đi, sau khi hoàn thành công trình vĩ đại: Bộ từ điển Việt - Bồ - La (Ditionarium Annamitium Lusitanum ed Latinum) cùng với tác phẩm “Phép giảng tám ngày”, và cho in tại Roma, đã được Giáo hội cử đến Ba Tư truyền đạo và mất ở đó năm 1660. “ Phép giảng tám ngày” hiện còn một bản duy nhất, một báu vật, được lưu giữ tại nhà thờ Mằng Lăng, Phú Yên. Tác giả của hai công trình bất hủ đó là Linh mục Alexandre de Rhodes, một nhà Việt Nam học, nhà ngôn ngữ học, người đã góp phần quan trọng tạo ra chữ Việt hiện đại. Thông tin này mãi gần đây mới tìm thấy trong tàng thư của Tòa thánh Vatican. Báo chí Việt từ vài chục năm nay cũng chỉ đưa tin vậy thôi, chứ chưa người Việt nào biết đích xác mộ cha Alexandre de Rhodes ở đâu, hình thù thế nào, có ai khói hương chăm sóc?
Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Đắc Lộ), sinh ngày 15/3/1591, gốc người Do Thái, sinh trưởng ở vùng Avignon, lãnh thổ Giáo Hoàng miền nam nước Pháp, học tại nhà tập Dòng Tên ở Roma. Ông giỏi thiên văn học, toán học, ngôn ngữ học. Năm 26 tuổi (1619), ông sang Nhật truyền giáo, rồi chuyển sang Ma Cao. Năm 1625 cùng bốn cha Dòng Tên cập cảng Hội An.
Trước đó, năm 1617, tại đây đã có một số giáo sĩ đến truyền đạo, đặc biệt có cha người Bồ Đào Nha Jean Francois Calixte de Pina, người đã hầu như thông thạo tiếng Việt để giảng đạo trực tiếp cho các con chiên. Cha Francois de Pina (1585 - 1625) sinh tại Guarda, Bồ Đào Nha, tốt nghiệp chủng viện Dòng Tên năm 1605, sang Nhật Bản, Ma Cao, rồi đến Đàng Trong năm 1617. Ông là giáo sĩ thông thạo tiếng Việt đầu tiên để giảng đạo cho con chiên bản xứ. Tại thư viện Quốc gia Bồ Đào Nha ở thủ đô Lisbon hiện còn giữ nhiều tài liệu về cha Francois de Pina. Đó là những trang ghi kí tự Latin đầu tiên về tiếng Việt được gửi từ xứ Đàng Trong về tòa thánh Vatican, kiểu chữ fantazi đẹp như các thợ chữ viết bằng khen. Lại nữa, trong các tài liệu ấy còn có phương pháp ký tự sáu thanh điệu tiếng Việt ( nặng, hỏi, ngã, không, huyền, sắc ) trên các khuông nhạc, từ cung trầm nhất cho đến cung bậc cao. Cuộc gặp giữa cha De Pina với cha De Rhodes rất ngắn ngủi, chỉ trong vài tháng đầu năm 1625, nhưng lại là một cuộc gặp bàn giao định mệnh. Chính cha Francisco de Pina đã truyền cách học và ghi tiếng Việt bằng chữ Latin cho cha De Rhodes. Sau cái chết vì vụ cứu nạn đắm tàu năm 1625 của cha De Pina, tất cả tài liệu chữ Việt thuở sơ khai đã được cha De Rhodes gìn giữ. Phải chăng, nếu cha De Pina không bị tử nạn, có thể chính ông là người đầu tiên soạn thảo bộ từ điển Việt - Bồ - La, hoặc là đồng tác giả với cha Alexandre des Rhodes?
Cùng với người thầy đầu tiên, Francisco de Pina, dạy tiếng Việt cho cha De Rhodes vào cái năm 1625 ấy, còn có một chú bé mười hai tuổi người bản địa.

“ Chỉ trong ba tuần, cậu đã dạy tôi các cung giọng của tiếng Việt và cách phát âm từng chữ, cậu hiểu được tất cả những gì tôi diễn đạt, đồng thời cậu học viết Latin và có thể giúp lễ. Sau đó cậu thành người trợ giảng loan báo tin mừng cho xứ sở…”
“ Mỗi ngày tôi hăm hở học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học thiên văn học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng bốn tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội, và sau sáu tháng tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt…”
“… Khi tôi tới Nam Kỳ (Đàng Trong - HMT) và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ngã lòng vì nghĩ rằng có lẽ không bao giờ mình học nói được ngôn ngữ như thế… Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt.”

Những dòng nhật ký của linh mục Alexandre de Rhodes, ba trăm bẩy mươi năm trước, cho người sau hiểu rằng ông đã đến với nước Việt bởi một tình yêu dâng hiến, một sự xả thân công đức.
Cũng cần phải nói thêm rằng, trong các tài liệu công giáo ở Đàng Trong, có ghi lại một sự kiện quan trọng. Đó là sau cái chết của cha Francois de Pina vì vụ cứu tàu, Chúa Nguyễn đã kiên quyết trục xuất nhóm các giáo sĩ phương Tây. Đúng lúc đó, có một bàn tay Bồ Tát của người Việt chìa ra giúp đỡ. Đó là quan tuần phủ Quy Nhơn Trần Đức Hòa, người đã từng tiến cử Đào Duy Từ với chúa Sãi Vương. Với quyền lực và ảnh hưởng của mình, cộng với lòng nhân ái vô bờ, tầm viễn kiến về một ảnh hưởng văn hóa, ông đã giấu mấy vị linh mục mắt xanh, trong đó có cha Alexandre de Rhodes, trong nhân dân, trong đức tin và tình người rộng mở, để rồi những năm sau các giáo sĩ tiếp tục được sống, được hành đạo và góp phần đưa văn minh văn hóa phương Tây vào đất Việt. Alexandre de Rhodes sống ở Việt Nam tròn hai mươi năm, từ năm 1625 đến 1645, đã sáu lần bị các chúa Nguyễn trục xuất, nhưng sáu lần đều nhẫn nhịn, luồn trốn để ở lại. Đó là sự tận hiến vì đức tin vì đạo nghĩa với xứ sở này, chứ quyết không phải là một âm mưu thôn tính thực dân mà ai đó nếu cố tình gán ghép. Năm 1625, lần cuối cùng bị chúa Hiền Vương trục xuất, Alexandre de Rhodes trở về Roma với gia tài tiếng Việt tích lũy hai mươi năm, cùng với cuốn từ điển tiếng Việt của linh mục Gaspa do Amaral và cuốn từ điển tiếng Bồ của linh mục Antonio Barbosa, âm thầm đóng cửa phòng để miệt mài tạo nên kiệt tác Từ điển Viêt - Bồ - La. In xong cuốn đại từ điển đầu tiên cho người Việt, ông dâng lời khẩn cầu muốn được trở lại Đại Việt, nhưng giáo hội khuyên ông đến Isfahan, để tiếp tục công việc truyền đạo.
Isfahan bấy giờ đang là tân đô lộng lẫy của đế chế Ba Tư, triều đại Safavid, một triều đại dung hòa giữa các tôn giáo, đạo Hồi và đạo Kito cùng được song hành. Trong môi trường làm việc và truyền bá đức tin đạo Kito chắc dễ dàng hơn ở Đại Việt, nhưng có lẽ không phải là mảnh đất của Alexandre de Rhodes, nên chỉ năm năm sau ông buồn đau, bệnh tật và qua đời (1660). Các con chiên người Armenia đã an táng và khắc bia mộ ông trong nghĩa trang của dân tộc mình ở ngoại ô thành phố.
Ba trăm bẩy mươi tám năm qua, không một người Việt nào biết cha Alexandre de Rhodes đã nằm đó.
Cho tới một ngày…
Ảnh: Các thành viên đoàn Việt Nam trước mộ Alexandre de Rhodes


Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHÌN VÀ NGHĨ TỪ "NGUYỄN TUÂN"


Nguyễn Khắc Phê



(Ảnh: Chung cư cao tầng vừa “cắm” bên đường Nguyễn Tuân – Nhìn tư hồ Nhân Chính) NKP


Nhà văn Nguyễn Tuân thì những ai “có chữ” trong thiên hạ đều biết, nhưng tôi xin để trong “ngoặc kép”; lý do là tôi nhớ đến cụ Nguyễn và lời nhắc của Cụ trên con đường mang tên Nguyễn Tuân ở quận Thanh Xuân (Hà Nội) mà tôi vừa có dịp qua lại nhiều lần trong những ngày Thu Hà Nội vừa qua.
Lời nhắc của Cụ là với Huế, chứ sinh thời của Cụ thì đã làm gì có đường Nguyễn Tuân. Cuối năm 1987, trước ngày Cụ Nguyễn đi xa một tháng, tôi có dịp bước lên những bậc cầu thang nhỏ trong căn hộ bên đường Trần Hưng Đạo, quãng đối diện phố Yết Kiêu để xin Cụ một bài in vào số chuyên đề “Văn hóa du lịch” của Tạp chí “Sông Hương”. Cụ ngẫm nghĩ, nhìn đâu rất xa về phía cửa sổ, rồi dừng lại bảo tôi :
- Này, mình định viết thế này, các ông có dám đăng không ? Giả sử mất Huế đi...,ừ, cứ giả sử thế ...
- Xin bác cứ viết. Phản đề nhiều khi rất có tác dụng.
Mấy hôm sau, tôi quay lại nhận bài. Không ngờ đây là một trong những trang viết cuối cùng của Cụ. Trong câu chuyện, Cụ đã kể lại nỗi ám ảnh của một người từng học ở Huế, khi vào bệnh viện cứ nằm mơ ú ớ la hét: ”Răng, mi thấy cái chi? Nghe dễ sợ! - Chà chà, tao thấy con sông Hương không còn nước chảy, chỉ còn đôi bờ khô, bờ Bắc bờ Nam đều không có người chi cả!” Lần khác, trong chuyến tàu về thăm lại Huế, ông ta lại nằm mơ ú ớ la hét. “Mi lại thấy cái chi nữa? - Lại thấy mất con sông Hương!” Sau đó, khi đã nằm trên con đò đôi ngay giữa lòng sông Hương rồi, hai người bạn ấy vẫn còn “ôn vấn nhau về những ác mộng MẤT Huế”. Cơn ác mộng nghe qua như là phi lý, nhưng ngẫm kỹ đó là lời cảnh báo cần thiết không chỉ đối với Huế. Những năm qua, Huế cũng như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, cuộc đấu tranh để gìn giữ vẻ đẹp riêng và môi trường sinh thái, để không đánh MẤT mình quả là không đơn giản.
Hơn hai mươi năm đã qua từ ngày đó. Huế vẫn còn và tháng 3 mới đây, một hội thảo lại bàn việc lập hồ sơ đưa sông Hương cùng cảnh quan đôi bờ lên UNESCO công nhận là di sản thế giới, mặc dù cuộc đấu tranh để bảo vệ vẻ đẹp của dòng sông mà tạo hóa ban tặng cho Huế vẫn còn phải tiếp tục …. Còn T.P. Hồ Chí Minh và Hà Nội thì đã phát triển và thay đổi đến chóng mặt nhưng cái “mất” nhãn tiền lớn nhất là hàng triệu con người bị mất quyền… tự do đi lại, mất quyền… thở không khí trong lành do nạn tắc đường kẹt xe như một bệnh nan y chưa có thuốc chữa! Chuyện này thì mọi người đã biết, đã nghe kêu ca, đã có chuyên gia tính ra số tiền thiệt hại kinh tế nhiều tỷ mỗi ngày (do tốn thêm xăng và lãng phí thời gian chờ đợi…). Và cần chi các chuyên gia, ai chẳng biết những con phố trước đây mở ra chỉ dành cho số lượng dân cư nhiều lắm là của những nhà lầu 3-4 tầng, nay chồng lên thành 20-30 tầng, lại chen khít nhau thì không tắc đường mới là sự lạ!
Vì thế, từ 8 năm trước, tôi đã viết bài “Tắc nghẽn ở các thành phố lớn – S.O.S. tầm quốc gia” đăng báo “Văn nghệ” sau khi nghe kỹ sư Lê Huy Cận, nguyên là Tổng Thư ký Hội Người yêu Huế tại Pháp, trong dịp ông về nước, hai lần gọi điện thúc giục tôi với tư cách là nhà văn-nhà báo cần phải lên tiếng! Bài viết đã kiến nghị các thành phố lớn phải kiên quyết cấm xây các chung cư, siêu thị cao tầng ở những khu trung tâm, nhưng hình như chẳng ai thèm nghe!
Tám năm qua, bao nhiêu tên tuổi các nhà quản lý đô thị đã lên tiếng nữa mà tình hình tắc nghẽn càng nghiêm trọng, các nhà cao tầng cứ mọc lên san sát tại khắp các thành phố lớn! Và lần này, đi dọc đường Nguyễn Tuân, tôi lại muốn kêu lên… Vì chợt nghĩ một người nổi tiếng thích xê dịch như Cụ, khi biết tên mình được đặt cho một con đường ở Thủ đô, dù “đi xa” đến cõi nào, Cụ cũng đã quay về dạo bước ở đây. Hẳn là Cụ rất mừng khi thấy hồ điều hòa Nhân Chính vừa khánh thành nhưng mỗi lúc chen chân cùng bà con trên vỉa hè hẹp chật cứng người và xe cộ, ngước nhìn những tòa nhà cao tầng đã và sắp đưa vào sử dụng thì chắc là Cụ sẽ phải kêu lên: Ô là là! Thế này thì còn đâu trời xanh mà ngắm? Còn đâu không khí trong lành để thở? Hỡi các nhà quản lý đô thị!...
Ôi! Rồi cũng sẽ là một tiếng kêu vô vọng! Thời đại dân gian có câu “Tiền là Tiên là Phật…” mà; còn một kiến trúc sư bảo tôi: Anh có biết một tòa nhà như thế mọc lên, họ phải cống nạp bao nhiêu tỷ cho các cấp không?...Thế thì dại chi mà không ký duyệt! Còn bao nhiêu con đường ở nhiều thành phố khác, các tòa chung cư mọc lên còn dày đặc hơn! Trớ trêu thay là tòa nhà cao tầng nào mọc lên cũng “hợp pháp” nhưng cộng tất cả các công trình “hợp pháp” đó lại tạo thành sự “vô pháp” tệ hại, vì chúng hạn chế và tước đoạt những quyền lợi căn bản của cộng đồng là được hưởng thụ môi trường trong lành và giao thông thuận tiện, nhanh chóng. Dù sao, hy vọng vào lúc Đảng “tuyên chiến” với các “nhóm lợi ích”, chính phủ đã tuyên ngôn đại ý “không phát triển với bất cứ giá nào - phát triển nhưng không được phá hoại môi trường sinh thái” thì tiếng kêu cụ Nguyễn sẽ có người lắng nghe chăng?...
____

Phần nhận xét hiển thị trên trang