Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 16 tháng 1, 2019

Hội nghị Tổng kết công tác năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2019 của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam



08/01/2019



Ngày 07 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam (Viện Hàn lâm) đã tổ chức hội nghị Tổng kết công tác năm 2018 và triển khai nhiệm vụ năm 2019. Hội nghị vinh dự được đón tiếp đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; GS.TS. Tạ Ngọc Tấn, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; TS. Vũ Viết Ngoạn, Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ; đồng chí Phạm Công Tạc, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ và GS.TS. Phan Ngọc Minh, Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh phát biểu tại Hội nghị
Tham dự Hội nghị về phía Viện Hàn lâm có GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Viện Hàn lâm cùng các Phó Chủ tịch – PGS.TS. Bùi Nhật Quang, Ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng, Phó Bí thư Đảng ủy; GS.TS. Phạm Văn Đức, Phó Bí thư Đảng ủy; GS.TS. Đặng Nguyên Anh, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy và TS. Đặng Xuân Thanh; cùng các đồng chí là Ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ; ủy viên Hội đồng Khoa học; Thường vụ Công đoàn; Thường vụ Đoàn Thanh niên; Hội đồng Thi đua - Khen thưởng; Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ; Ban chấp hành Hội Cựu Chiến binh Viện Hàn lâm; lãnh đạo các đơn vị trực thuộc Viện Hàn lâm; đại diện Hội cựu viên chức; các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ khoa học; Tổng biên tập, Phó Tổng biên tập các tạp chí chuyên ngành; Bí thư Đảng bộ cơ sở; Bí thư các Chi bộ trực thuộc Đảng bộ; Chủ tịch Công đoàn, Bí thư Chi đoàn các đơn vị trực thuộc Viện Hàn lâm. Hội nghị còn có sự tham dự của các cá nhân đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở và cấp Viện Hàn lâm năm 2018.
Thay mặt Ban Lãnh đạo Viện Hàn lâm, GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn đã trình bày Báo cáo Tổng kết công tác năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019 của Viện Hàn lâm. Báo cáo nêu rõ, năm 2018 là năm tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, các hình thức cạnh tranh ảnh hưởng và chiến tranh thương mại giữa một số nước lớn diễn ra gay gắt. Việt Nam đứng trước những thời cơ và vận hội lớn để ổn định, tiếp tục phát triển những đồng thời cũng đối mặt với nhiều rủi ro và thách thức. Đặc biệt, năm 2018 là năm bản lề thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội giai đoạn 2016-2020 của đất nước, chuẩn bị hướng tới Đại hội Đảng lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như các nhiệm vụ theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIII của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và cũng là năm Viện Hàn lâm kỷ niệm 65 năm thành lập.
Trong bối cảnh đó, tập thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam đã quán triệt phương châm hành động “Đổi mới, Sáng tạo, Chuyên nghiệp, Hiệu quả”, quyết liệt triển khai đồng bộ các mặt hoạt động để đóng góp tích cực vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng như những nhiệm vụ chính trị, các nhiệm vụ công tác của năm 2018, tạo tiền đề thuận lợi cho việc triển khai các nhiệm vụ trong năm 2019 và trong cả nhiệm kỳ (2016-2020).
 
GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam trình bày Báo cáo Tổng kết công tác năm 2018 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2019
Để triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ công tác năm 2019, Giáo sư Chủ tịch khẳng định, Viện Hàn lâm sẽ khẩn trương triển khai đồng bộ, có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm như sau:
1/ Thực hiện tốt các nhiệm vụ tổng kết thực tiễn và xây dựng, góp ý, tư vấn tham mưu vào các nội dung báo cáo, đề cương, văn kiện của Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là nhiệm vụ chính trị và chuyên môn trọng yếu trong năm 2019.
2/ Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác chỉ đạo, điều hành; chú trọng đảm báo tính ổn định và nâng cao tinh thần hành động, tạo tiền đề quan trọng để quyết tâm bứt phá trong giai đoạn phát triển mới tiếp theo.
3/ Lấy thế mạnh nghiên cứu cơ bản làm nền tảng để phát triển, đẩy mạnh nghiên cứu đa ngành, liên ngành; kết hợp giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng, tư vấn chính sách và đào tạo; từng bước xây dựng định hướng nghiên cứu chuyên sâu, tầm nhìn dài hạn cho từng viện nghiên cứu, từng khối viện nghiên cứu cũng như của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
4/ Đẩy mạnh công tác tư vấn về chính sách phát triển trong lĩnh vực KHXH, cung cấp kịp thời luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững của đất nước phục vụ phát triển kinh tế- xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
5/ Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học theo hướng trở thành chuyên gia chuyên sâu, đầu ngành trong từng lĩnh vực và đội ngũ các nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao.
6/ Thúc đẩy liên kết, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn; tăng cường công bố quốc tế, đẩy mạnh xuất bản sản phẩm của các kết quả nghiên cứu khoa học; từng bước hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Viện Hàn lâm thành trung tâm nghiên cứu KHXH có uy tín trong khu vực và thế giới.
7/ Xây dựng môi trường làm việc khoa học sáng tạo, hành động, kỷ cương để khuyến khích và nuôi dưỡng đam mê nghiên cứu trong đội ngũ nhà khoa học của Viện Hàn lâm KHXH VN.
8/ Đảm bảo tính tiết kiệm và hiệu quả trong công tác quản trị; sử dụng hợp lí các nguồn lực từ ngân sách nhà nước; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật trọng điểm phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học theo hướng hiện đại và đồng bộ; sắp xếp, quy hoạch, triển khai xây dựng mới các trụ sở làm việc của các viện nghiên cứu chuyên ngành trên cơ sở bám sát đề án quy hoạch tổng thể Viện Hàn lâm.
9/ Tiếp tục đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, điều hành; tăng cường ứng dụng CNTT trong tất cả các lĩnh vực công tác, đặc biệt trong công tác quản lý văn bản và điều hành tác nghiệp, ứng dụng chữ ký số và văn bản điện tử, hướng tới xây dựng thành công Chính phủ điện tử tại Viện Hàn lâm.
10/ Tiếp tục chuẩn hóa hoạt động đào tạo, nâng cao chất lượng và uy tín đào tạo của Học viện KHXH trên tất cả các mã ngành được giao; phối hợp với Bộ, ngành và các địa phương xây dựng các chương trình bồi dưỡng ngắn hạn, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về KHXH trong cả nước.
  
Toàn cảnh Hội nghị
Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã nhiệt liệt chúc mừng những kết quả mà toàn thể lãnh đạo, cán bộ, viên chức Viện Hàn lâm đã đạt được trong năm 2018; biểu dương và ghi nhận những thành tích và đóng góp to lớn của Viện Hàn lâm đối với Đảng, Nhà nước và nền khoa học nước nhà. Đồng chí đánh giá cao các hoạt động nghiên cứu khoa học, tư vấn chính sách và đào tạo được triển khai đồng bộ, những kết quả nghiên cứu của Viện Hàn lâm không chỉ góp phần xây dựng, tư vấn chính sách mà còn trực tiếp phục vụ trực tiếp cho công tác nghiên cứu như: Đề án Nghiên cứu khu di tích khảo cổ học Óc Eo- Ba Thên, Nền Chùa (Văn hóa Óc Eo Nam Bộ); Chương trình phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ đến năm 2020; tầm nhìn 2030; Chương trình phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên trong liên kết vùng và hội nhập quốc tế; Đề án Biên soạn Bách khoa toàn thư Việt Nam…
Trong thời gian tới, GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng đề nghị, Viện Hàn lâm cần tập trung mọi nguồn lực cần thiết xây dựng, góp ý, tư vấn tham mưu, phục vụ vào nội dung văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng; báo cáo 10 năm về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; sắp xếp tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6, 7 (Khóa XII) phù hợp với đặc thù của Viện Hàn lâm; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong tất cả lĩnh vực công tác, hướng tới xây dựng “Viện Hàn lâm thông minh”.
Bên cạnh đó, GS.TS Nguyễn Xuân Thắng yêu cầu siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính vào chuyển biến trong thực thi công việc, đảm bảo tính chuyên nghiệp và văn hóa công sở; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác. Tập trung rà soát, xử lý nghiêm minh, dứt điểm các vướng mắc tồn tại, những diễn biến kéo dài, phát huy tính dân chủ, trách nhiệm, kiên quyết đấu tranh loại bỏ trường hợp vi phạm những điều đảng viên không được làm, suy thoái, đạo đức chính trị, lối sống; Đẩy mạnh Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện tốt Quy định 08 của trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.
Tập trung thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản và lý luận theo hướng xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn cấp bách, lấy con người làm trung tâm; Nhận diện và làm rõ các điều kiện cần và đủ để Việt Nam có thể tham gia thực chất vào quá trình Cách mạng công nghiệp 4.0 để tận dụng cơ hội tăng tốc phát triển đất nước; Thực hiện tốt công tác dự báo, nghiêm túc nghiên cứu giá trị văn hóa, con người Việt Nam.
Qua đó, Viện Hàn lâm cần thúc đẩy liên kết, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn; tăng cường các công bố quốc tế, đẩy mạnh xuất bản sản phẩm của các kết quả nghiên cứu khoa học; từng bước  hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Viện Hàn lâm trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học xã hội có uy tín trong khu vực và thế giới.
Hội nghị đã nhận được nhiều ý kiến trao đổi, đóng góp và kiến nghị của các đại biểu tham dự, với những đề xuất về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu khoa học, tư vấn chính sách và đào tạo của Viện Hàn lâm. Các ý kiến đóng góp tại Hội nghị sẽ được tổng hợp, bổ sung cho kế hoạch năm 2019 để triển khai thực hiện.
Với tinh thần “Sáng tạo, Hành động, Kỷ cương, Phát triển” toàn thể cán bộ, công chức và viên chức Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam tiếp tục nỗ lực phấn đấu nhằm tạo ra bước phát triển mới trong năm 2019, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Tin: Nguyễn Thu Trang
                                        Ảnh: Phạm Vĩnh Hà
 https://vass.gov.vn/noidung/tintuc/Lists/TinTucHoiNghiHoiThao/View_Detail.aspx?ItemId=1206

nhận xét hiển thị trên trang

Xuân Sách trước và sau "Chân dung nhà văn"





     Từ các bài thơ chân dung của Xuân Sách, ở các bài trước, tôi đã thử liên hệ với đời sống văn nghệ, những mẫu người viết một thời.
    Nhưng bản thân số phận người viết Xuân Sách cũng là một nhân vật mà tôi muốn kể tiếp.  Sau đây là một ít chuyện vặt và những suy nghĩ rút ra từ đó.
    Ngoài thơ tứ tuyệt các nhà văn cũng thường cũng “chơi nhau” bằng câu đối.
Về Tú Mỡ và Khái Hưng
--Dưới bóng tre xanh Tú Mỡ buông câu dòng nước ngược
Dọc đường gió bụi Khái Hưng đứng bán gánh hàng hoa
Về Vân Đài và Đoàn Phú Tứ
--Thanh lịch Vân Đài, thanh lịch.. kịch
Ngã ba Phú Tứ, ngã ba.. hoa

Về Thanh Tịnh
-- Thanh thanh thanh, thanh tú thanh giường thanh thiếu nữ
Tịnh tịnh tịnh, tịnh sừng tịnh mỏ tịnh nam mô

Và về Xuân Sách
-- Xuân đâu nữa 40, con 3 đứa, sao 3 ngôi, khôn dại dại khôn, khôn cũng nó, dại cũng nó
Sách gì cũng năm bảy, thơ một thể, văn một thể, đức tài tài đức, tài nơi mình, đức nơi mình

     Đôi câu đối này Xuân Thiều làm năm 1972. Nó đã phác ra đầy đủ con người gia cảnh tác giả thơ chân dung. Sao ba ngôi chỉ quân hàm thượng úy mà Xuân Sách mang trên vai ( Hữu Mai Hồ Phương lúc này đã đeo quân hàm thiếu tá ). Và tên ba đứa con chính là những chữ làm nên bút danh Lê Hoài Đăng.
      Nhìn vào Xuân Sách lúc này có thể nhận ra dấu ấn một nếp sống thời chiến ổn định ở hậu phương Hà Nội trước 1975. Ổn định hay trì trệ thì cũng vậy. Trừ bom đạn, một chiến trường ở xa và những người đi người về, còn tất cả như đứng nguyên, năm nay giống năm ngoái.  Sự trì trệ này là bao trùm  nên tự nhiên là đi từ đời sống sang sáng tác. Những tờ báo ra những số giống nhau, bài vở na ná như nhau. Những nhà văn  hàng đầu cũng thấy bí, lặp lại mình, chán mình. Chỉ có các cây bút công chức là thấy hợp. Chất công chức trong Xuân Sách cũng được dịp “phát huy’. Các nhà xuất bản cần những cuốn sách tả chiến trường cho đèm đẹp một chút ? Thì, như trên đã kể, Xuân Sách có tập truỵện Đêm ra trận tập  thơ Trong lửa đạn. Phong trào văn học cần những tác phẩm viết cho thiếu nhi, nhất là cái phần tham gia chiến tranh của thiếu nhi? Thì Xuân Sách có Đội du kích thiếu niên Đình Bảng, Mặt trời quê hương...Tôi xin phép không kể ra đây hết mọi sự trung bình thấp lè tè dang dở... của nhiều tác phẩm đương thời. Nhưng làm thế nào được,  cùng đường rồi hết cách rồi. Sự đầu hàng cam chịu bao gồm cả cách nghĩ. Một cách rất bản năng Xuân Sách, đã tìm ra cho mình phương thức tồn tại lý tưởng. Một mặt anh thừa hiểu những cái  mình viết ra chả là gì cả ( anh viết rất vội, chỉ cốt được in, chứ không gửi gắm tâm huyết gì ). Mặt khác anh vẫn không giấu được một nỗi vênh vang ngấm ngầm. Ta đã có sách in, ta cũng chả kém gì đời. Sự trâng tráo, giá thấy ở ai anh sẽ cười giễu ngay, thì lại trở thành cách xử thế chủ yếu của anh. Dường như sau trang viết của Xuân Sách nhiều khi là cái cười khẩy, giữa sự dày công lao tâm khổ tứ của các anh với sự phẩy tay viết xong của tôi, thua đươc có là bao?
      Chạm mặt nhau trong cơ quan, mấy năm ấy, tôi luôn luôn bắt gặp một Xuân Sách lưỡng phân. Lúc là người nhũn nhặn biết điều, lam lũ làm ăn ; lúc khác là kẻ ra cái điều hơn người, kiêu ngạo vô lối. Lúc cam chịu nhẫn nhục, lúc lại lồng lộn như con ngựa bất kham. Vừa  đục nước béo cò tranh thủ làm ăn kiếm chác, vừa ngả sang hư vô thấy mọi thứ hão huyền. Và anh lại muốn xoa đầu thiên hạ, muốn cười thầm, muốn lắc đầu làm một cái án tử hình cho những kẻ gặp thời kẻ quá may mắn, muốn có một quân tẩy xóa bỏ tất cả.
    Trong số những ấn tượng lớn nhất về Xuân Sách tôi nhớ tới cái bĩu môi khinh đời của anh khi nghe những bản báo cáo về công trạng sáng tạo và phẩm cách của đám người làm nghề. Anh nắm bắt rất nhanh cái hãnh tiến ở người này, cái lặng lẽ sung sướng đếm tiền của người kia. Mọi thành tựu dưới mắt anh như đều hiện ra với cái vẻ vô nghĩa của nó. Cuối năm 1973, nhân dịp tổ sáng tác của Hồ Phương tổng kết, Xuân Sách cũng ném ra cách tổng kết của mình 
Tổ sáng tác, tổ sáng tác
Tác phẩm ùn ra như đống rác
Dấu chân người lính chửa in xong
Đã viết 
Ký sự hai bờ đác
Ông 
chủ tịch huyện cưỡi xe tăng
Thằng nào không tránh thì mất xác
Tôi ngẩng mặt lên nhìn 
Vùng trời
Mây trắng xếp đầy như xếp bạc
Một mình anh hùng Lê Mã Lương
Đánh 
cho lữ dù 3 tan tác
Thôi đành trở lại 
Thôn ven đường
Kiếm lấy cái gì mà gỡ gạc
Con gà động ổ nhà bên
Cục, cục tác, cục cục tác.


       Trong tiếng Việt có một từ gọi là khôn. Người khôn thông thường được hiểu không phải là người uyên bác về kiến thức  hoặc giỏi giang về nghề nghiệp mà chủ yếu  là người giỏi thích ứng, trong phạm vi hạn hẹp của tài năng và trình độ của mình vẫn biết cách kiếm lợi cho bản thân  làm nổi bản thân khiến người ta phải chấp nhận, lắm khi không yêu không phục nhưng cũng phải chấp nhận.
      Làm sao mà một người sáng tác không có gì đặc biệt như Xuân Sách tạo đươc một ấn tượng khiến người ta luôn phải nhắc đến anh – đấy là cái khôn của anh.
       Nguyễn Minh Châu ví von: Xuân Sách lúc này như chất dầu nhờn chỗ nào cũng chảy vào được, đâu cũng có mặt.
      Mặc! Xuân Sách vẫn sống và viết một cách kiên trì với những lý lẽ riêng của mình. Có lần anh nói với Nguyễn Minh Châu:
-- Anh đừng vênh mặt với chúng tôi! Tại trời cho anh nhiều hơn chúng tôi chứ đâu anh có cần cố gắng! Vậy thì với tư cách nhà văn, lẽ ra anh phải thông cảm với đám chúng sinh bất hạnh mới phải! Cũng nên sớm học tập cách kính trọng bọn không nổi tiếng đi thì vừa. Vì trong cái bọn không nổi tiếng ấy, khối tay, về mặt thông minh và bản lĩnh, nó còn bằng mấy anh đấy!
     Dường như Xuân Sách không chỉ nói với thiên hạ mà thường xuyên nói với chính mình như vậy. Sự tự tin làm cho anh đứng vững, lại cũng là nhân tố khiến anh tìm cách huy động hết vốn liếng của mình cho cuộc chơi.  Một lần nào đó anh bảo tôi:
-- Ông xem còn cửa nào mà tôi không thử vào không?
    Nghe mà sững sờ! Trong khi tưởng là dong chơi  Xuân Sách  vẫn lẩn mẩn làm cuộc phiêu lưu nho nhỏ. Ở những khu vực người khác bỏ qua anh lại gặt hái được một ít thành tựu. Trên tinh thần tự khẳng định như vậy, Xuân Sách có lần khắc họa chân dung mình một cách phô trương 
Cô giáo làng tôi đẻ sòn sòn
Một đêm ra trận được nghìn con
Thiếu nhi Đình Bảng nô ầm ĩ
Du kích Bạch Đằng hát véo von
Đường ra mặt trận chân chẳng mỏi
Lối vào lửa đạn bước không mòn
Mặt trời rạng rỡ quê hương mới
Vang khắp xa gần một tiếng khôn

    Còn nhớ khi lần đầu nghe đọc bài này, Nguyễn Minh Châu cho luôn một chùy “Như là một bản báo công ấy”. Nguyễn Khải thì nhân đó nói chung về cả con người bạn mình: “Thế mà cũng đòi khôn!”
   Dường như thấy tự khen như thế quá lố, nên Xuân Sách có chữa như sau
 Cô giáo làng tôi đã chết rồi
Một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa Đình Bảng người chồng goá
Đau đớn Bạch Đằng lũ trẻ côi
Đường ra mặt trận gân cốt rão
Lối vào lửa đạn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
Khôn dại trần gian để tiếng cười

    (tôi ghi theo bản chép trong sổ, so với bản in sau này câu cuối có khác. Câu cuối về sau là Ở một cung đường rách tả tơi )
       Chê thì có chê, tuy nhiên âm điệu chủ yếu vẫn là khoe, khoe một cách kín đáo. Dao sắc không gọt được chuôi—người ta  lại chỉ có thể kêu lên như vậy.

Tận hưởng lộc trời
        Tuy chỉ in ra có một lần, nhưng thơ chân dung thực sự tồn tại theo lối truyền khẩu. Mà khi truyền khẩu thì nó trở nên một thứ tập mờ không có hình thù rõ rệt, bị giải thích tuỳ tiện, có lúc trở thành một thứ bí truyền, khiến người ta vừa đọc vừa giải đoán. Chẳng hạn đây là  những lời ca tụng thơ chân dung theo tôi là hơi bốc “Hình như trong đó sừng sững đến cả trăm gương mặt. Tập thơ đặc tả những gương mặt quen thuộc, nhàu nát như thể sách giáo khoa. Những thế hệ bầy đàn như chúng tôi chính là đã lớn lên trong cái vầng hào quang giáo khoa chói lọi ấy”.
   Nên nhớ là Xuân Sách làm tập này ban đầu chỉ để đùa, chả có lớp lang quy hoạch gì. Có một vài bài làm chỉ để lấp chỗ trống. Có bài làm theo đơn đặt hàng,. Một nhà văn thấy phải có mặt trong tập thơ này của Xuân Sách thì mới nên người, nên chèo kéo ông mời mọc ông, rồi thì Xuân Sách cũng chiều đời mà làm thôi, chứ chả hề mang vào đấy chút chủ kiến nào cả.
    Còn về nghệ thuật, loạt thơ cũng trong tình trạng xôi đỗ, bài hay bài dở, khá nhiều bài chặt chẽ ( nhất là mấy bài làm theo thể tứ tuyệt ) nhưng nhiều hơn là những bài vần điệu xộc xệch, tác giả viết vội viết vàng cho qua, và trong khi thưởng thức người ta chỉ mải để ý xem nó dùng để chơi xỏ ai, ra đòn có ác không, chứ không đếm xỉa tới nghệ thuật.
   Song khi đã mê rồi còn ai tỉnh nữa.  Hơn nữa từ yêu thơ, người ta chuyển sang yêu người, cái bước đi phi lô-gich ấy đã đến với cuộc đời bao người, lại đến với Xuân Sách.
   Từ sau 1980, cuộc sống trong nghề của Xuân Sách có bước rẽ ngoặt. Không chỉ chuyển về các cơ quan văn nghệ dân sự, mà cái chính là từ nay anh trở thành một bộ phận của sinh hoạt văn học ở cả bề nổi cũng như bề chìm của nó. Trong giới, cái tên Xuân Sách nổi lên như một người thạo đời thạo việc. Khoảng 1989-90, Dương Thu Hương còn sinh hoạt với Hội nhà văn, và nhiều lần được nhăm nhe vào chấp hành hội. Trước Đại hội nhà văn cuối 1989, Dương Thu Hương nói với nhiều người:
-- Tôi mà trúng vào Ban chấp hành thì thả nào tôi xin Đại hội để nhường cho Xuân Sách. 
          Dương Thu Hương tin khả năng ứng phó và hiểu nghề, hiểu giới viết văn của Xuân Sách sẽ giúp cho việc điều hành hoạt động của Hội.
     Ngoài những người bạn cũ, bắt đầu có bao nhiêu người viết khác, chỉ đọc chân dung mà cảm thấy Xuân sách như người quen của mình. Các đám nhậu trở nên sang trọng hơn nếu mời được Xuân Sách đến dự. Người ta chẳng những thấy đây là một tác giả sành sỏi thạo đời mà còn tin chắc rằng anh là một người một người viết có bao điều chưa bộc lộ, có cái bề sâu thăm thẳm chưa kịp nói ra. Cơn sóng ngấm ngầm sùng bái đã đẩy tác giả của những bài thơ đùa bỡn này lên thành một bậc trí giả, một cây bút uyên bác thông kim bác cổ. Cách nghĩ thâm thúy của người Tàu được vận dụng để cắt nghĩa. Trong số các danh hiệu được đặt bên cạnh anh có những chữ thuộc loại thiêng liêng nhất mà dưới áp lực của văn hóa Trung Hoa, mọi người đều dùng một cách tự nguyện. Nào một ẩn sĩ cô đơn, một nhân giả, một chân kẻ sĩ, một cây cổ thụ. Có mặt trong một bữa rượu, anh được mô tả  “có cái gì giống Khuất Nguyên ngày trước. Cả cuộc đời say, đủ các kiểu say, chỉ có mình ông tỉnh...” “ Ông chính là người mà thời gian đã kịp “nấu” thành... cao, một thứ “cao” giống như cao hổ cốt.”
     Dễ dàng đoán ra tâm trạng nào đã khiến người ta có sự qúa đáng trong những lời khen tặng như vậy. Ngoài đời nhiều giá trị giả quá, mà không ai phá tung ra được, nên thấy ở Xuân Sách có chút gì thực, là người ta khen không tiếc lời.  Xã hôi tốt xấu nhập nhèm, mà tìm trong  dư luận công khai chẳng thấy gì, nên người  ta mù quáng tin vào  những lời đồn thổi. Xã hội quá nhiều người sống cứ nhô ra, làm nổi mình lên, nên thấy ai có vẻ bình lặng một chút, người ta gán cho đủ thứ phẩm chất.
     Câu thơ Xuân Sách viết về Chính Hữu Anh thành đồng chí tự bao giờ ? lúc này có thể đổi thành anh thành huyền thoại tự bao giờ.
     Và tôi hiểu rằng, khốn khổ, Xuân Sách cũng tham gia vào cái việc tạo ra huyền thoại cho chính mình. Anh muốn bù lại những năm bị thiệt thòi, bị quên lãng.
     Ở các làng xóm xưa có những nho sĩ chuyên làm vè. Cái gì họ cũng biết một tí. Về  kiến thức, chân trời của họ là những cuốn sử sách và triết lý bên Tàu . Nhưng cái chân trời ấy xa quá thăm thẳm nên khi đến với mỗi người thì nó chỉ còn là những mảnh tan nát rời vụn mỗi người nhặt một mảnh mỗi kiểu. Xuân  Sách cũng không ra thoát khỏi tình trạng chung. Nhưng như thế kể đã đủ lắm.
     Ngoàì  một chút “thâm như người Tàu”,  loại  trí thức nông thôn mà Xuân Sách đại diện lại còn chỗ mạnh của người trung lưu bình dân. Lơ lửng sống giữa nông thôn, họ như ma xó, tức là không cần đi đâu mà chuyện gì trong cái “ hương đảng tiểu triều đình” cũng không qua khỏi mắt. Tầm hiểu biết của họ bao quát từ những vụ việc bê bối trong làng xóm tới các kiểu tính cách con người, những mối quan hệ lằng nhằng phức tạp. Với năng khiếu thiên về phúng thích (=châm biếm mỉa mai), những người làm vè nhậy với những gì cũ càng, héo hon, tan nát. Vượt quá lên nữa, đôi khi họ chạm tới cả sự vô nghĩa của kiếp người lẫn sự bất lực của cái cao sang cái tốt đẹp.
     Xuân Sách là một con người như thế còn sót lại. Xuân  Sách mang cái nếp nghĩ ấy  nghĩ về làng văn. Ta biết rằng cuối đời Xuân Sách dặn người thân khi chết đưa mình về làng. Tôi nhìn nhận việc này như một lời thú nhận. Người ấy biết thân biết phận.
     Sáng tác của Xuân Sách từ 1980 cũng theo đà này mà thay đổi về sau cũng đậm hơn sắc thái nhân văn
  Làm vua mà cũng chán --  Bỏ đi theo mây ngàn -- Một nước cờ Yên Tử --Làm bận lòng thế gian ( bài Yên Tử )
   Đừng rót nữa tôi không sành rượu -- Uống không say thì uống làm gì -- Vui chẳng thêm, buồn không quên được-- Cứ như thừa từ cái mặt thừa đi -- Cứ như thừa trong cõi đời náo nhiệt -- Hay hớm gì nhìn gan ruột người ta -- Giữa thời buổi cạnh tranh quyết liệt-- Cứ tỉnh quoeo lắm lúc cũng phiền hà... ( bài Rượu).
  Tôi về tới bến sông xưa-- Hút tàn điếu thuốc mà chưa gọi đò -- Nhìn theo ngọn khói vu vơ-- Nhớ thương thì có đợi chờ thì không -- Buồn ai thả lại giữa dòng-- Cho tôi mang lấy nặng lòng chiều nay-- Hư hao một thoáng heo may-- Sương nhòa mặt đất mây bay cuối trời-- Cất lên một tiếng đò ơi - Nhỏ nhoi như giọt mưa rơi giữa đồng. ( bài Bến quê).
       Trong các hồi ức có liên quan tới nhà số 4 Lý Nam Đế, tôi đã kể những buổi họp mặt ngẫu nhiên ở đó các nhà văn chúng tôi sống thật cuộc sống của mình. “ Giao ban” với nhau về những tin tức mới thu thập được. Đọc được cái gì hay kể lại. Có chuyện gì bực bội kể lại. Bao nhiêu những tình cảm suy nghĩ mà mỗi người vừa trải nghiệm có dịp bộc lộ. Thành thử  ở đó  mỗi nhà văn cũng có dịp hiện ra với  tính cách có thật của mình. Hữu Mai  với bộ dạng kín kín hở hở muốn chứng minh rằng mình quen biết nhiều vị cấp trên, được dự vào nhiều việc quan trọng. Xuân Thiều  còn nhiều chất của người cán bộ cơ sở, thực thà đơn giản,  trong khi Hải Hồ ranh vặt, Nhị Ca hư  vô, Mai Ngữ chẳng còn tin ở việc gì tử tế trên đời...Trong số này tôi nhớ hơn cả là  Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu. Người thứ nhất sôi nổi hào hứng không chỉ từng trải sự đời mà còn giỏi bình luận biết chớp ngay được những chi tiết người khác vừa kể biến ngay thành tài liệu  riêng, và điều quan trọng hơn là cái gì cũng chấp nhận, chuyện gì cũng thấy có lý. Còn người thứ hai bề ngoài  như một người thừa,  thỉnh thoảng chêm vào một câu chẳng đâu vào đâu hoặc nhếch mép cười một mình, song thật ra ngấm ngầm thu góp tất cả, để rồi mai kia trong buổi nói chuyện riêng sẽ thủ thỉ với tôi về những chiêm nghiệm  và sau cùng đưa những gì tâm huyết vào trang sách.
       Người thứ ba tôi phải nhớ là Xuân Sách. Anh có cả đặc điểm của hai người trên.  Với sự thông minh hiếm có, gần như chuyện gì anh cũng có thể tham gia được, chuyện bên ta hay bên Tàu cũng chen vào được. Cũng có lúc chẳng qua là nói vuốt đuôi nhạt nhẽo, song có khi lại là sự tiên cảm sâu sắc kỳ lạ. Ngay hồi ấy, tức là giữa lúc cách mạng văn hoá bên Trung Hoa bộc lộ tính cách cực đoan kỳ dị của nó, Xuân Sách có lúc đã dự đoán đúng. Anh bảo không chừng thứ tai hoạ này lại là một lời cảnh tỉnh, sau  cơn dằn vặt này xã hội Trung Hoa sẽ trưởng thành vượt bậc. Đây là kết quả của một đầu óc có nhặt được ít mảnh vụn lấy từ  những Đông Chu,  Chiến quốc sách, Tam quốc, Thuỷ hử. Còn cách bộc lộ của Xuân Sách thì đại khái thường gồm mấy bước thế này. Thoạt đầu, giữa đám đông anh cũng chỉ  dửng dưng lơ láo như một người thừa. Làm sao mà thi thố tài năng được với những cái mồm lợi hại khác? Vả chăng còn để mọi người có ngón gì trổ hết ra đã chứ. Rồi cái gì phải đến sẽ đến. Khi câu chuyện đã tàn, phần lớn mọi người ra về cả,  anh  thường còn cùng một vài người khác nán lại tiêu hoá nốt câu chuyện. Và Xuân Sách là người tiêu hoá nhanh nhất, có cách giải thích độc đáo nhất khiến những ai kiên trì ở lại cùng anh sẽ không mấy khi phải hối hận. Mà về cách biểu hiện, đã bốc lên thì Xuân Sách của chúng tôi cũng bồng bột lắm. Cũng có lúc anh đỏ mặt tía tai như vãi nhau với ai đó. Lại cũng có lúc đang ngồi anh phải đứng lên vung chân múa tay như đang diễn thuyết trước đám đông, và diễn xong  lăn ra cười,  tự mình thưởng thức những lời bình luận sâu sắc của mình.
     Tôi nghĩ sự có mặt của Xuân Sách, cái vai Xuân Sách đóng trong những buổi nói chuyện trên đây cũng mang bóng dáng cách tồn tại của Xuân  Sách nói chung. Những vần thơ chân dung của anh, sự có mặt của anh trong giới văn nghệ mà trên đây tôi thử miêu tả  nuôi trong đầu óc tôi một cảm tưởng về sự đa dạng của tài năng trong giới văn nghệ, nhất là văn nghệ trong hoàn cảnh của Hà Nội lúc đó. Miễn làm sao mỗi chúng ta  tìm được cái vai của mình, thứ đặc sản của mình, thì rồi không bao giờ thiệt, thiên hạ sẽ biết hết, cuộc đời này công bằng trong cái lý lớn lao của nó.





Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bản án này là quá nhẹ!

Làm thuốc ung thư giả, cựu lãnh đạo VN Pharma bị bắt

Việt Nam, y tếBản quyền hình ảnhTUOI TRE
Image captionÔng Nguyễn Minh Hùng (áo xanh) lắng nghe đề nghị 10-12 năm tù của tòa cho cáo buộc nhập thuốc chữa ung thư giả hôm 22/8
Thêm hai cựu lãnh đạo Công ty CP VN Pharma vừa bị bắt với các buộc sản xuất, buôn bán thuốc giả, theo truyền thông Việt Nam.
Ông Phan Xuân Thiện (cựu Phó Tổng giám đốc Công ty CP VN Pharma) và bà Hoàng Trúc Vy (cựu nhân viên Phòng nghiên cứu phát triển thuộc Công ty CP VN Pharma) vừa bị bắt tạm giam để điều tra tội "Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh".
Bà Vy được tại ngoại do đang nuôi con nhỏ.
Trong một diễn biến liên quan, năm 2017, nguyên Tổng giám đốc VN Pharma, ông Nguyễn Minh Hùng và 8 đồng phạm đã phải ra tòa sơ thẩm trong vụ án "Buôn lậu" và "Làm giả con dấu, tài liệu cơ quan tổ chức" xảy ra tại VN Pharma. Ông Hùng bị tuyên 12 năm tù và bị bắt tạm giam để phục vụ điều tra ngay tại tòa hôm 23/10/2017.
Sau đó, Hội đồng xét xử đã quyết định hủy toàn bộ án sơ thẩm, điều tra lại vụ án theo yêu cầu của Viện Kiểm sát Nhân dân Cấp cao.
Theo nhận định của Hội đồng xét xử, bản án sơ thẩm chưa phản ánh đúng bản chất vụ án, bỏ lọt hàng loạt hành vi phạm tội, cần phải khởi tố điều tra các bị can về hành vi buôn bán thuốc giả.
Theo Vietnamnet, nếu bị kết án "Sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh", các bị cáo nhận có thể phải đối mặt với mức án chung thân hoặc tử hình.

Thuốc ung thư giả

Sự việc gây bức xúc trong dư luận từ năm 2014, khi Bộ Công an phát hiện lô 9.300 hộp thuốc chữa ung thư H-Capital 500mg Caplet trị giá hơn 5 tỷ đồng có giấy tờ nhập khẩu giả.
Đây là loại thuốc mà VN Pharma vẫn cung cấp cho các bệnh viện tại Việt Nam.
Quá trình điều tra cho thấy nguyên Tổng giám đốc VN Pharma, ông Nguyễn Minh Hùng đã cho nhân viên làm giả giấy tờ, con dấu, hồ sơ kỹ thuật để trình Cục Quản lý Dược duyệt cho nhập khẩu lô hàng này từ Công ty Helix Canada.
Các giấy tờ như Giấy chứng nhận bán hàng tự do, Giấy chứng nhận thực hành tốt sản xuất thuốc của Bộ Y tế Canada, hóa đơn thương mại, giấy chứng nhận kiểm nghiệm xuất xưởng lô thuốc H-Capita 500 mg Caplet mang tên Helix Canada... được giám định là giả.
Bảng hướng dẫn sử dụng được nhét trong từng hộp thuốc được xác định là do Nguyễn Minh Hùng chỉ đạo cấp dưới tự viết, nhãn mác thuốc lưu hành tại Việt Nam do VN Pharma tự thiết kế.
Mã vạch in trên vỏ hộp thuốc H-Capita 500 mg Caplet được xác định là không được đăng ký bởi một quốc gia nào trên toàn cầu.
Bộ Y tế kết luận lô thuốc này không rõ nguồn gốc, kém chất lượng, không được sử dụng làm thuốc chưa bệnh cho người.
Việt Nam, y tếBản quyền hình ảnhEPA
Image captionVN Pharma từng cung cấp thuốc cho nhiều bệnh viện công tại Việt Nam




Phần nhận xét hiển thị trên trang

Việt Nam cần cảnh giác hơn nữa Viện Khổng tử tại ĐH Hà Nội?


Năm 2014, trong trào lưu mở Viện Khổng tử khắp nơi trên thế giới, tại Việt Nam, dưới sự chứng kiến của ông Nguyễn Thiện Nhân – Chủ tịch UBTW Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và ông Du Chính Thanh – Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân Dân Trung Quốc đã dự gắn biển “Học viện Khổng tử” tại trường ĐH Hà Nội. Một hoạt động được đánh giá là góp phần tăng cường quan hệ Việt – Trung.


Lễ gắn biển "Học viện Khổng Tử" tại 
rường ĐH Hà Nội vào sáng 27.12.2014.
Viện Khổng tử tại Việt Nam hay các nơi khác được đầu tư và tài trợ của Tổng Bộ viện Khổng tử bên Trung Quốc. Điều này bao gồm cả việc đảm nhận giáo trình, phương pháp và các hình thức học bổng cho người học tại nước sở tại qua bên Trung Quốc. Tại Việt Nam, Viện Khổng tử trong tôn chỉ cũng nhấn mạnh “quan hệ hợp tác giữa hai trường, tăng cường sự hiểu biết của những người học tiếng Hán tại Việt Nam đối với Văn hóa và Ngôn ngữ Trung Quốc, mở rộng quảng bá về Văn hóa và Ngôn ngữ Trung Quốc tại Việt Nam, tạo điều kiện tốt nhất cho việc học tập và tìm hiểu văn hóa Trung Quốc”. Viện Khổng tử là môi trường xuất khẩu sức mạnh mềm của Trung Quốc ra thế giới dưới lớp bọc văn hóa.

Tại Mỹ, cũng xuất hiện nhiều Viện Khổng tử, tuy nhiên, Chính phủ nước này cũng đã nhanh chóng phát hiện ra sự nguy hại của Viện Khổng tử và ra các quyết định bài trừ.

WP, trong một bài viết vào ngày 11.1.19 đã giải thích vì sao Chính phủ Mỹ, một quốc gia tự do học thuật lại nghiêm khắc với Viện Khổng tử đến thế.

Theo đó, ĐCSTQ đã nỗ lực rất lớn để quảng bá hình ảnh của Trung Quốc với tư cách là một nhà lãnh đạo toàn cầu. Và Viện Khổng tử ra đời cũng nằm trong kế hoạch này. Trong bài phát biểu ngày 2.1 vừa qua, nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhắc lại sự vĩ đại của Trung Quốc thời hiện đại, một quan điểm nhấn mạnh Giấc mơ Trung Hoa, trở lại như một cường quốc có tiếng nói trên thế giới.

Tuy nhiên, việc duy trì một giấc mơ Trung Hoa như vậy không lọt qua mắt của Chính quyền Mỹ, khi mà vào tháng 10 năm ngoái, Phó Tổng thống Pence đã phàn nàn rằng ĐCSTQ đang chi hàng tỷ USD cho các cơ quan tuyên truyền ở Mỹ (kể cả những tờ báo lớn như Economic hay The Washington Post). Nhưng để làm gì? Theo WP, chủ ý của Trung Quốc là nhằm xóa bỏ những suy nghĩ của nhiều nước về một Trung Quốc nguy hiểm (về mặt quân sự hay kinh tế), định hình trong suy nghĩ người dân và lãnh đạo các quốc gia khác về một Trung Quốc ôn hòa, và thịnh vượng - một quốc gia góp phần tích cực cho hòa bình của thế giới.

Và để làm được như vậy, thì tất cả giảng viên ngôn ngữ và văn hóa trong Viện Khổng tử ở các quốc gia, kể cả Hà Nội đều được giáo sát bởi tổ chức sau cùng là – Ban Tuyên giáo T.Ư ĐCSTQ.

Chính sự bài bản trong lớp bọc ôn hòa này, đã giúp cho Viện Khổng tử phát triển như nấm sau mưa. Tại Hàn Quốc, kể từ thời điểm mở Viện Khổng tử đầu tiên vào năm 2004, đến nay đã có hơn 5.000 Viện; tại Mỹ thì có hơn 100 Viện trú ngụ tại các trường ĐH của xứ cờ hoa này.

Vấn đề tại sao phải cảnh giác với một Viện được khoác bởi lớp áo văn hóa này?

Như đã đề cập, cơ quan chủ quản của Viện Khổng tử là Ban tuyên giáo T.Ư thuộc ĐCSTQ, chính vì vậy, mọi yếu tố lan tỏa của Viện Khổng tử đều nhằm vào ý đồ tuyên truyền, tẩy não. Theo, báo cáo của tổ chức AidData gần đây về điều tra tác động của các nỗ lực ngoại giao của Trung Quốc ở Đông Á và Thái Bình Dương, và Trung tâm nghiên cứu Pew về kiểm tra dư luận về Trung Quốc tại nhiều địa điểm khác nhau trên toàn cầu. Theo đó, việc mở Viện Khổng tử giúp tăng cường câu chuyện Trung Quốc ở một khu vực địa lý lên 6%. Yếu tố tiêu cực bị che giấu, trong khi gia tăng những luận điệu “hảo hảo” từ chính quyền Trung Quốc.

Chính Viện Khổng tử, với nguồn tài trợ khổng lồ từ ĐCSTQ đã khiến những vụ tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, bẫy nợ qua sáng kiến “Một vành đai – một con đường”, sự đàn áp nhân quyền đối với các dân tộc thiểu số và cá nhân đấu tranh nhân quyền (kể cả người đạt giải Nobel như Lưu Hiểu Ba) bị lặn xuống.

Như vậy, trong tình hình Việt Nam đang có tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông, có những vấn đề trong nhận nguồn vốn tài trợ từ Trung Quốc, thì việc kiểm soát các vấn đề liên quan đến Viện Khổng tử của Trung Quốc tại Việt Nam là điều cần thiết. Tránh các trường hợp, một lượng lớn người Việt Nam bị tẩy não bởi thể chế và các thành tựu văn hóa của Bắc Kinh, trở thành “Ngũ Mao Đảng” trong lòng Việt Nam nhằm chống lại các lợi ích về mặt chủ quyền quốc gia – lãnh thổ của Việt Nam.

Đây không phải là một sự phóng đại quan điểm, bởi Mỹ - một quốc gia yêu chuộng và tiếp nhận sự đa dạng văn hóa, cũng như tự do tư tưởng – học thuật cũng buộc thừa nhận rằng: “ĐCSTQ đã sử dụng chiến thuật này để trao thưởng cho các quan điểm ủng hộ Trung Quốc và ép buộc các ấn phẩm và các diễn đàn học thuật phương Tây tự kiểm duyệt.”

Tất cả mọi sự tài trợ từ Bắc Kinh đều phục vụ cho chính lợi ích quốc gia ích kỷ của chính đất nước này.

Việt Nam – một vùng đất phía Nam mà Trung Quốc luôn nhăm nhe trong hàng ngàn năm qua cũng sẽ không thoát ra khỏi mục đích sau cùng đó của Trung Quốc, một cuộc xâm lăng văn hóa...

Hoa Nghi



Phần nhận xét hiển thị trên trang

SÂN BAY VÂN ĐỒN CÓ THỂ SẼ BỨC TỬ VỊNH HẠ LONG


Bài đăng trên báo South China Morning Post, mục Asia Travel.
By: Mercedes Hutton. Ngày 9/1/2019. Pham Terry The dịch.
Du khách phàn nàn rằng họ bị đưa đến các điểm tham quan trên vịnh quá đông người. Hang Sửng Sốt dường như nổi tiếng hơn, không phải vì các cấu trúc nhũ đá của nó, mà bởi nhung nhúc những người, cộng thêm một thứ ánh đèn trang trí loè loẹt chói chang lắp đặt trong hang, và những đám rác xả bừa xuống vịnh.Mùa hè năm ngoái, các tình nguyện viên đã thu gom được 741 kg rác thải trên các bãi Coc Cheo và Ang Du trên vịnh Hạ Long. Nhưng điều mà người ta lo ngại, không phải chỉ là loại rác nhìn thấy được bằng mắt, theo tờ báo online VietnamNet Bridge ấn bản bằng tiếng Anh, số phát hành tháng 7 năm ngoái, thì có đến 80% lượng nước sinh hoạt dân dụng từ các khu dân cư được thải thẳng ra vịnh mà không qua xử lý.
Vịnh Hạ Long, di sản thiên nhiên thế giới, điểm đến của khách du lịch được Unessco công nhận, nằm ở vùng đông Bắc Việt Nam thuộc tỉnh Quảng Ninh, đã chào đón 7 triệu lượt du khách trong và ngoài nước tới thăm năm 2017, theo công bố trên trang Website Halong Bay Tourism. Ngành du lịch tỉnh nay đang hy vọng sẽ thu hút 16 triệu du khách vào cuối năm tới, với doanh thu đạt từ 30-40 ngàn tỷ đồng (1.3-1.7 tỷ $USD).

Từng bước cơ bản để hướng tới mục tiêu trên, ngày 30/12 vừa qua, Việt Nam đã khai trương sân bay quốc tế Vân Đồn, với tính toán sẽ cắt ngắn khoảng thời gian tới Hạ Long cho khách quốc tế, lộ trình mà trước đây thường phải mất đến 8 tiếng từ HN xuống HL và ngược lại, giờ sẽ chỉ còn hơn một tiếng bằng đường hàng không. Khi sân bay Vân Đồn đi vào hoạt động hết công suất, nó sẽ kết nối Hạ Long với 35 thành phố trên thế giới, kể cả Hồng Kông, Macau, và 10 thành phố ở Trung Quốc.

Việc khai trương sân bay Vân Đồn cùng lúc với sự kiện thông xe tuyến đường cao tốc dài 60 km, nó sẽ làm giảm thời gian chạy xe từ Hà Nội xuống Vân Đồn chỉ còn 2 giờ 30 phút, và một chiếc cầu tầu hai bến neo đậu cho du thuyền quốc tế có sức chuyển tải cùng lúc cho khoảng 6,460 hành khách và thủy thủ đoàn đã được đưa vào hoạt động tại khu vực bến Đoan.

Nhưng, tất cả những việc làm trên, người ta tiên đoán nó sẽ dẫn đến một thảm hoạ quá tải lượng du khách cho vịnh Hạ Long.

Ngược dòng thời gian, hồi tháng 8/2012, một nữ phóng viên chuyên viết về du lịch, Mary O’Brien, đã viết đăng trên tờ tạp chí Traveller ấn bản ở Úc rằng: “ sự thật đằng sau những hình ảnh đẹp quảng cáo trên vịnh HL là những điều rất đáng lo ngại. Trên các bãi biển và các cầu tàu du lịch người ta vô tư thải rác, và du khách phàn nàn về mùi hôi thối bốc lên”.

Trong suốt những năm tiếp theo đó, hàng loạt các cuộc khảo sát đã được tiến hành thông qua hệ thống truyền thông báo chí và các trang webs du lịch. Tất cả, đều có chung một kết luận rằng: Du khách phàn nàn rằng họ bị đưa đến các điểm tham quan trên vịnh quá đông người. Hang Sửng Sốt dường như nổi tiếng hơn, không phải vì các cấu trúc nhũ đá của nó, mà bởi nhung nhúc những người, cộng thêm một thứ ánh đèn trang trí loè loẹt chói chang lắp đặt trong hang, và những đám rác xả bừa xuống vịnh. Mùa hè năm ngoái, các tình nguyện viên đã thu gom được 741 kg rác thải trên các bãi Coc Cheo và Ang Du trên vịnh HL.

Nhưng điều mà người ta lo ngại, không phải chỉ là loại rác nhìn thấy được bằng mắt, theo tờ báo online VietnamNet Bridge ấn bản bằng tiếng Anh, số phát hành tháng 7 năm ngoái, thì có đến 80% lượng nước sinh hoạt dân dụng từ các khu dân cư được thải thẳng ra vịnh mà không qua xử lý.

Trong cùng tháng đó, Nghiệp Đoàn Bảo Tồn Thiên Nhiên Thế Giới (IUNC) đã thuê các chuyên viên tư vấn để tư vấn cho phân ban du lịch và bảo tồn thiên nhiên của Unessco. Sau thời gian khảo sát và thăm dò thực tế vịnh HL, họ đi đến kết luận bằng văn bản báo cáo như sau: “ lượng du khách ùn ùn kéo đến HL và nạn ô nhiễm môi trường đã đang tàn phá danh tiếng vịnh HL, đặc biệt trong con mắt người nước ngoài”.

Nếu muốn coi doanh thu ngành du lịch là mũi nhọn kinh tế của quốc gia, thì các nhà làm quản lý du lịch vịnh cần phải dừng ngay cách làm hiện nay của họ lại, phải có một phương cách quản lý đẳng cấp hơn, một cách nhìn khôn ngoan hơn, chứ không phải là mong chờ những cho chuyến bay, những chuyến xe buýt, và những tàu du lịch chở khách ồ ạt đổ xuống vịnh Hạ Long.

Nguồn: https://www.scmp.com/magazines/post-magazine/travel/article/2181148/why-new-airport-vietnams-ha-long-bay-makes-popular


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Pháp tung bằng chứng khẳng định Hoàng Sa là chủ quyền của Việt Nam


Năm 1938, khi còn bảo hộ Việt Nam, Chính phủ Pháp nhiều lần khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa. Tài liệu được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ của Phòng Thương mại và Công nghiệp Marseille, Pháp: kí hiệu Hồ sơ: MQ28/02.
Việt Nam xây dựng Trạm khí tượng tại Hoàng Sa
Ở tài liệu thứ nhất, với tiêu đề: “Pháp có chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa (Paracels) hay không?” đã khẳng định: “Ngày xưa, quần đảo Hoàng Sa là thuộc về Việt Nam. Vương triều An Nam (nhà Nguyễn – người dịch) đã đóng quân trên đảo này từ đầu thế kỉ XIX. Quần đảo này là vùng thuộc chủ quyền của An Nam (Đại Nam tức Việt Nam – người dịch). Pháp chỉ làm cái việc là khẳng định tất cả các quyền không thể chối cãi đối với quần đảo này. Vấn đề này là thực tế”.
Tư liệu lưu trữ (1938) khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa
Năm 1932, dưới thời Toàn quyền Pasquier, một tàu Pháp đã đổ bộ lên và cắm cờ Pháp trên quần đảo này.
Tài liệu cho biết thêm: “Để đảm bảo an toàn hàng hải trên vùng biển này, chính quyền Đông Dương đã thiết lập trên quần đảo này hai ngọn hải đăng và một trạm khí tượng. Một vài biệt đội vùng với lực lượng đông đảo cảnh sát người Việt cũng đã được cử đến quần đảo này để bảo vệ những công trình này. Trong năm 1937, một quan chức hành chính của chính quyền Đông Dương cùng 6 lính bảo an đã thực hiện cuộc kiểm tra trên quần đảo này nhằm duy trì hai ngọn hải đăng và đảm bảo cho trạm khí tượng đặt trên quần đảo này được hoạt động tốt”.
Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam từ thế kỷ XIX
Tài liệu thứ hai trong Hồ sơ lưu trữ cho biết: “Theo luận điểm của Pháp, quần đảo Hoàng Sa đã được sáp nhập vào Việt Nam bởi Vua An Nam (Vua Nguyễn) vào năm 1816, sau đó là bởi Courbet vào năm 1885. Vào năm này, Trung Quốc đã thừa nhận rằng, Pháp thay thế quyền chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này”.
Tài liệu cũng nêu rõ, lối vào quần đảo Hoàng Sa là vô cùng khó khăn, nếu không muốn nói là không thể.
“Quần đảo này được tạo bởi 36 đảo hoặc cụm đảo nhô lên hoặc đảo chìm. Yếu tố này thực sự nguy hiểm đối với giao thông hàng hải. Những đảo lớn của quần đảo này bao gồm các đảo: Tri Tôn, Pyramide, Lincoln, Boiseé, Rocheuse, Roberts, Pattle, Amphitrite,…”.
Một số hải đội người Việt đã đóng trên quần đảo này, nó nằm giữa đảo Hải Nam và cảng Đà Nẵng. Tuy nhiên, khi Chính phủ bảo hộ Pháp và triều đình Việt Nam thiết lập trên quần đảo Hoàng Sa một vài ngọn hải đăng và trạm khí tượng để kiểm soát bão, thì Bộ Ngoại giao Trung Quốc lại kiến nghị với Bộ trưởng Pháp rằng, quần đảo này là của Trung Quốc.
Chính phủ Pháp khẳng định, quần đảo Hoàng Sa đã được sáp nhập vào Việt Nam năm 1816. Đến năm 1885, Trung Quốc cũng đã thừa nhận, Pháp thay thế quyền chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
Trung tâm Lưu trữ Phòng Thương mại và Công nghiệp Marseille (CCIMP) ở số 9 đường La Canebìere, 13001, thành phố Marseille, Cộng hòa Pháp. Trung tâm này chủ yếu lưu trữ những tài liệu liên quan tới thương mại giữa Pháp và các nước trên thế giới cũng như với thuộc địa của Pháp, trong đó có Việt Nam. Nguồn tài liệu ở đây được chính thức thu thập và lưu trữ từ thế kỷ XVII. Các hồ sơ lưu trữ ở đây phản ánh những thông tin liên quan tới chính sách thương mại, quan hệ thương mại, thuế quan từ thế kỉ XIII đến nay. Nguồn lưu trữ ở đây được chia thành 3 phông chủ yếu: Phông cũ là những hồ sơ chứa đựng thông tin từ năm 1801 trở về trước, gồm các série từ A đến K. Phông hiện đại là những hồ sơ chứa đựng thông tin từ năm 1801 đến nay, gồm các série : MA, MB, MC, MD, MÉTROPOLE, MF, MG, MH, MJ, MK, ML, MM, MN, MP, MQ, MR, AC. Phông đính kèm là những hồ sơ liên quan tới các công ty thương mại, những nhân vật, quan chức thương mại của Pháp và các thuộc địa Pháp. Tài liệu liên quan tới Hoàng Sa mà chúng tôi đề cập nằm lẫn trong Hồ sơ série MQ thuộc phông hiện đại.
“Theo luận điểm của Pháp, quần đảo Hoàng Sa đã được sáp nhập vào Việt Nam bởi Vua An Nam (Vua Nguyễn) vào năm 1816, sau đó là bởi Courbet vào năm 1885. Vào năm này, Trung Quốc đã thừa nhận rằng, Pháp thay thế quyền chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này”

Phần nhận xét hiển thị trên trang