Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 9 tháng 1, 2019

Khmer Đỏ và nạn diệt chủng Campuchia trước khi VN đem quân sang


Nhìn lại chế độ Khmer Đỏ và nạn diệt chủng ở Campuchia
Trong gần bốn năm cai trị Campuchia, chính quyền Khmer Đỏ đã gây ra nạn giết người hàng loạt thuộc hàng kinh khủng nhất của thế kỷ 20.
Nhưng con đường dẫn tới Cuộc chiến Campuchia, còn gọi là Chiến tranh Đông Dương III, xảy ra từ nửa sau thập niên 1970, cùng thời gian có tan vỡ trong quan hệ Trung - Xô và cuộc chiến Việt Nam đến hồi kết thúc.
Du kích quân Khmer Đỏ lớn mạnh lên từ vùng rừng núi chiến khu hẻo lánh ở đông bắc Campuchia hồi thập niên 1960.
Ban đầu là cánh quân sự trong Đảng Cộng sản Campuchia, sau họ sáp nhập với Quốc vương Norodom Sihanouk khi ông bị hạ bệ sau cuộc đảo chính của Lon Nol hồi 1970 và sang sống lưu vong tại Bắc Kinh.
Các sử liệu Phương Tây cũng nói về các trận ném bom rải thảm của Mỹ ở Cambodia, "giết chết 250 nghìn dân", và đánh giá rằng việc này đã giúp lực lượng cộng sản Khmer Đỏ giành được quyền kiểm soát nông thôn.
Getty ImagesBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionKhmer Đỏ mời Quốc vương Norodom Sihanouk đi theo họ sau khi ông bị hạ bệ sau cuộc đảo chính của Lon Nol hồi 1970 và sang sống lưu vong tại Bắc Kinh. Trong hình là Sihanouk (thứ hai từ phải sang) và vợ, cựu Hoàng hậu Monineath, cùng các lãnh đạo Khmer Đỏ ở 'Vùng giải phóng' Campuchia hồi 3/1973
Trung Quốc nâng đỡ Pol Pot và bè nhóm
Khmer Đỏ ngay từ đầu luôn được Trung Quốc nâng đỡ.
Tháng 4/1974, khi chính phủ Lon Nol vẫn đang kiểm soát Campuchia thì tại Bắc Kinh, Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã tiếp đón các vị khách là Quốc vương Sihanouk cùng Tổng tư lệnh Khieu Samphan, người đồng thời cũng là phó thủ tướng và bộ trưởng quốc phòng của chính phủ Campuchia lưu vong.
Getty ImagesBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionDu kích quân Khmer Đỏ lớn mạnh lên từ vùng rừng núi chiến khu hẻo lánh ở đông bắc Campuchia hồi thập niên 1960
Ngày 17/4/1975, Khmer Đỏ tiến vào Phnom Penh. Chế độ Lon Nol thân Mỹ tan rã, bỏ chạy.
Chỉ một ngày sau khi Pol Pot tuyên bố chiến thắng, Phó Thủ tướng Trung Quốc khi đó là Đặng Tiểu Bình, hôm 18/4/1975, đã chúc mừng Sihanouk cùng các lãnh đạo khác của chính phủ lưu vong.
Sihanouk nhanh chóng trở về Phnom Penh làm Quốc trưởng Campuchia Dân chủ.
Tuy nhiên, chưa đầy một năm sau, tháng 4/1976, ông bị bắt giam rồi tiếp tục cuộc sống lưu vong. Pol Pot được bầu làm thủ tướng còn Khieu Samphan trở thành nguyên thủ quốc gia.
Dưới thời Hoa Quốc Phong và Đặng Tiểu Bình, Bắc Kinh là nhà bảo trợ chính cho Khmer Đỏ.
Cố vấn Trung Quốc và Bắc Triều Tiên đã có mặt để giúp xây dựng các công trình khổng lồ, tốn kém mà nay vẫn còn dấu vết tại Campuchia.
ĐặngBản quyền hình ảnhULLSTEIN BILD
Image captionĐặng Tiểu Bình (phải) rất yêu quý Pol Pot (trái)

Công xã hoang tưởng

Chế độ Khmer Đỏ đuổi dân ra khỏi thủ đô, về các công xã nông thôn để xây dựng chủ nghĩa cộng sản.
Xã hội bị biến đổi theo mô hình cánh tả cực đoan. Pol Pot và đồng bọn đã biến Campuchia thành một xã hội nông nghiệp hoang tưởng trở về cội nguồn, không sách vở, không tiền bạc.
Khi còn sống trong khiến khu Đông Bắc, Pol Pot chịu ảnh hưởng của các nhóm sắc tộc rừng núi, sống trong cộng đồng tự cấp tự túc, không dùng tiền, không bị 'ảnh hưởng xấu' của Phật giáo.
Khi lên nắm quyền, chế độ của ông ta đã xóa sổ trường học, hủy hoại văn hóa truyền thống và diệt trừ trí thức.
Người dân Campuchia tuyệt vọng tìm cách vượt biên giới sang các nước láng giềng.
Những người thoát ra được tiếp tục kể những câu chuyện kinh hãi diễn ra bên trong đất nước.
Angkar tiến hành các cuộc xử tử man rợ bằng những công cụ thô sơ.
Người dân phải sống, lao động đến kiệt sức trong điều kiện hà khắc, trong lúc chỉ được cho ăn uống, sinh hoạt vô cùng kham khổ và không được chữa trị y tế.
Sinh hoạt tập thể dùng cờ đỏ, các cuộc meeting, đấu tố diễn ra mọi nơi. Ai bị coi là 'kẻ thù giai cấp' đều phải chịu đi cải tạo, bị tù đày hoặc giết.
Người sắc tộc Chàm và Việt cũng là đối tượng của chính sách giết người này.
Getty ImagesBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTrại tù S-21 ở Phnom Penh khét tiếng về mức độ tàn bạo, man rợ trong thời Khmer Đỏ
Chỉ một trại tù S-21 ở Phnom Penh, vốn là một trường học, Tuol Sleng, đã giam cầm 17 nghìn người, gồm cả phụ nữ, trẻ em.
Nhiều người bị tra tấn và giết.
Số người chết tiếp tục gia tăng, do bị giết, do bệnh tật, do kiệt sức.
Ước tính khoảng gần 2 triệu người đã bỏ mạng trong thời kỳ bốn năm cai trị của Khmer Đỏ.

Quan hệ với các nước láng giềng

Trong lúc đó, quan hệ giữa Trung Quốc với Campuchia vẫn diễn ra rất tốt đẹp.
Lãnh đạo Khmer Đỏ đón quan chức Trung Quốc thăm viếng, nâng đỡ và được đón như thượng khách khi thăm Bắc Kinh.
Tháng 9/1977, Pol Pot được Thủ tướng Hoa Quốc Phong đón tiếp nồng nhiệt khi tới thăm Trung Quốc.
Đến năm sau, 1978, bà Đặng Dĩnh Siêu, phái viên chính phủ Trung Quốc đồng thời là phu nhân cựu Thủ tướng Chu Ân Lai, tới thăm Campuchia, gặp gỡ các lãnh đạo cao cấp nhất gồm Pol Pot, Ieng Sary, Khieu Samphan và Nuon Chea.
Bà tái xác nhận sự ủng hộ của Trung Quốc dành cho Khmer Đỏ. Tin tức nói bà đã ca ngợi chính quyền Campuchia về những thành tựu đã đạt được.
Tuy nhiên, với các nước láng giềng khác thì khác.
Tháng 10/1975, Ieng Sarry, Phó Thủ tướng phụ trách đối ngoại của Khmer Đỏ công du Thái Lan để có các cuộc đàm phán kéo dài 6 tháng.
Ông nói chính phủ ông muốn có hòa bình với các quốc gia láng giềng.
Nhưng không lâu sau đó, các cuộc đụng độ đường biên bắt đầu nổ ra, mà nghiêm trọng nhất là các cuộc tấn công của Khmer Đỏ sang vùng biên giới Tây Nam của láng giềng Việt Nam, thảm sát thường dân.

Việt Nam xóa sổ chế độ diệt chủng

Getty ImagesBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionQuân đội Việt Nam bắt đầu tiến vào Campuchia từ 25/12//1978
Sau hàng loạt các cuộc tấn công qua biên giới táo tợn của Khmer Đỏ, Việt Nam quyết định tiến quân vào Campuchia, bắt đầu từ ngày 25/12/1978.
Đến ngày 7/1/1979, quân đội Việt Nam chiếm được Phnom Penh, đẩy Pol Pot về phía biên giới với Thái Lan.
Lực lượng của Pol Pot rút về vùng biên giới với Thái Lan tiếp tục cuộc chiến du kích dài lâu chống lại quân đội Việt Nam và quân đội Campuchia mới do Hà Nội hỗ trợ cho tới tận 1991.
Pol Pot chết tháng 4/1998 trong rừng rậm, và tháng 12 năm đó, Khieu Samphan ra đầu hàng.
Phải đến tận tháng 12/1999, thủ lĩnh cuối cùng, Ta Mok và các chỉ huy còn lại đầu hàng, chấm dứt tàn dư của Khmer Đỏ ở Campuchia.
Nhiều năm sau, chỉ một con số rất nhỏ cựu lãnh đạo Khmer Đỏ bị đem ra xử về tội chống nhân loại và gần đây là tội diệt chủng.
Getty ImagesBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTháng 12/1989, những người lính Việt Nam cuối cùng rút khỏi Campuchia
Ngày 7/1 đánh dấu ngày giải phóng, chấm dứt chế độ diệt chủng Khmer Đỏ, nhưng với một số người, thì đó được coi là ngày bắt đầu cho thời kỳ chiếm đóng kéo dài cả thập niên của Việt Nam.
Cuối thập niên 1980, Việt Nam rút quân về nước để bàn giao lại việc gìn giữ hòa bình và tiến trình tái thiết Campuchia sau nội chiến cho Liên Hiệp Quốc,.
Có rất nhiều ý kiến ghi nhận công lao của Việt Nam giúp nước láng giềng xóa sổ chế độ diệt chủng Pol Pot nhưng việc đóng quân lại lâu vẫn khiến một phần dư luận Campuchia khó chịu.
Campuchia vừa làm lễ kỷ niệm 40 năm ngày Khmer Đỏ bị đuổi khỏi Phnom Penh.
Câu hỏi cho đến nay vẫn được nhiều người đặt ra là số thương vong chính thức của bộ đội VN tại chiến trường Campuchia là bao nhiêu.
Ngày nay, Việt Nam đã thành thành viên khối ASEAN, và cả vùng Đông Nam Á chứng kiến sự trở lại mạnh mẽ của Trung Quốc tại Campuchia.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lịch sử… cứ như mới hôm qua


Nguyễn Hoàng
Một nửa chiếc bánh mì vẫn là chiếc bánh mì, nhưng một nửa sự thật thì không còn là sự thật. Kỷ niệm 40 năm lật Khmer đỏ mà không được phép nhắc tới vai trò Trung Quốc và rút ra các bài học đắt giá của những năm tháng Việt Nam từ “bộ đội nhà Phật” trở thành kẻ chiếm đóng, thì ý nghĩa của mùa kỷ niệm liệu còn gì?

Biểu diễn nghệ thuật kỷ niệm cuộc chiến chống Khmer Đỏ ở Campuchia hôm 4/1/2018 tại Hà Nội

Biểu diễn nghệ thuật kỷ niệm cuộc chiến chống Khmer Đỏ ở Campuchia hôm 4/1/2018 tại Hà Nội. AFP

Mồng 7/1 năm nay trong nước kỷ niệm khá ồn ào, từ tội ác của Khmer đỏ đến tình đoàn kết VN-Campuchia. Tuy nhiên, hai thực thể hiển nhiên ai cũng nhớ thì báo chí lề phải không được “xớ rớ” tới. Thứ nhất, “Trung Quốc là người ‘bảo mẫu’ cho chế độ Khmer đỏ”. Thứ hai, “cái bẫy TQ dựng lên hồi bấy giờ đã khiến VN chảy máu, bị cô lập tuyệt đối trên trường quốc tế suốt 12 năm”.

Nửa sự thật không là sự thật

Kỷ niệm 40 năm lật Khmer đỏ mà không cho phép nhắc tới vai trò Trung Quốc và rút ra các bài học đắt giá của những năm tháng VN từ anh hùng giải phóng, trở thành kẻ chiếm đóng, thì ý nghĩa của lễ kỷ niệm liệu còn gì?
Bỉnh bút Naya Chanda mô tả dịp này 40 năm trước, các cố vấn Trung Quốc lang thang trong các khu rừng rậm ở miền tây Campuchia đến 61 ngày, ngủ trong lều lợp cỏ tranh, ăn đồ hộp. Sứ mệnh của những nhà ngoại giao ấy chỉ chấm dứt khi Việt Nam tấn công vào thủ phủ của Pol Pot trong rừng già.

Một lãnh đạo của Khmer Đỏ là Ta Mok (phải) đang chào đón quan chức đại diện Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 1975 đến 1979

Một lãnh đạo của Khmer Đỏ là Ta Mok (phải) đang chào đón quan chức đại diện Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 1975 đến 1979. AFP

Chiều 11/4/1979 vị đại sứ Trung Quốc cùng với bảy đồng nghiệp quần áo bẩn thỉu nhếch nhác, nước mắt đầm đìa lặng lẽ trốn qua Thái Lan”. Lần đầu tiên, đại diện của một vương triều trung tâm (tức là Trung Quốc) phải trốn chạy khỏi một vùng đất chư hầu (Campuchia) một cách thật tủi nhục”[1].
Mặc dù chiến thắng về mặt quân sự, nhưng theo ước tính, khoảng 25.000 chiến binh Việt đã mất mạng ở CPC từ tháng 12/1978 đến tháng 9/1989. Huy Đức trích từ trang mạng “SOHA”, dẫn lời tướng Hoàng Kiền, cho biết 12 vạn (120.000) bộ đội VN đã hy sinh trong các cuộc xung đột Tây Nam và trên biên giới phía Bắc (1977 - 1989).

“Chủ nghĩa nhân văn Tàu”

Hàng chục vạn người lính khác đã để lại một phần cơ thể họ trên đất nước chùa Tháp, nhiều chàng trai trong số họ để lại đôi chân trần, bởi một loại mìn rất đặc biệt do Trung Quốc chế tạo, không gây chết người nhưng cắt đứt luôn cả hai chân. (Không cho nạn nhân chết, chỉ để lại gánh nặng cho xã hội và chứng nhân cho lịch sử)[2]. Thế mới thấy “Chủ nghĩa nhân văn Tàu” thật rùng rợn! Lịch sử cứ như mới hôm qua đây thôi, cần được ôn lại một cách nghiêm túc và sòng phẳng!
Đối với Trung Quốc, “cuộc trường chinh” của họ từ bấy đến giờ xem ra lại “có hậu”. Hun Sen từng bị Đặng Tiểu Bình coi là “con rối của Việt Nam”, nay lại là đồng minh trung thành nhất của Bắc Kinh. Ngày nay, Campuchia đang có dấu hiệu biến thành một tỉnh của Trung Quốc.
Trước đây, Hun Sen từng tố cáo Trung Quốc là “kẻ chống lưng cho Khmer Đỏ”, nhưng năm 2012, Hun Sen công khai giúp Bắc Kinh ngăn chặn việc ASEAN ra thông cáo chung tại thượng đỉnh hàng năm, đồng lõa với hành vi bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông.

Thủ tướng Campuchia Hun Sen (giữa) vẫy tay trong lễ kỷ niệm đánh dấu 40 năm lật đổ Khmer Đỏ ở Sân vận động Olympic ở Phnom Penh hôm 7/1/2019

Thủ tướng Campuchia Hun Sen (giữa) vẫy tay trong lễ kỷ niệm đánh dấu 40 năm lật đổ Khmer Đỏ ở Sân vận động Olympic ở Phnom Penh hôm 7/1/2019. AFP

Đặc biệt, bước sang 2018, khi Trung Quốc thực hiện “Dự án Koh Kong” thì đến cả lợi ích kinh tế lẫn chủ quyền quốc gia, Hun Sen cũng sẵn sàng hy sinh nốt. Tờ “Asia Times” nhận định: “Bắc Kinh đã có thể tận dụng ảnh hưởng của mình để biến CPC thành căn cứ cho mục tiêu chiến lược lâu dài của họ trên toàn vùng Đông Nam Á”.
Chẳng thế, không phải ngẫu nhiên, ngày 7/12/2018 Hun Sen đã phải sang tận Hà Nội để bảo đảm với Nguyễn Xuân Phúc, rằng Hiến pháp CPC không cho phép bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình. Trong khi trước đó, truyền thông quốc tế lại đưa tin, Trung Quốc đã vận động hành lang CPC từ năm 2017 để thiết lập một căn cứ quân sự ở Koh Kong trong Vịnh Thái Lan.
Ông Hun Sen phủ nhận ngay những đồn đại trên và cho đấy là bịa đặt. Nhưng “thanh minh tức là thú nhận”, nhất là ở một đất nước có 43 cụm tượng phật Bayon 4 mặt khổng lồ với nụ cười đầy bí hiểm. Chưa nói, Hun Sen có lúc cũng đã đặt câu hỏi về “sự chống lưng” của Việt Nam dành cho ông ta, sau khi có thông tin cựu lãnh đạo đảng đối lập Sam Rainsy từng bí mật đàm phán với một số quan chức ngoại giao VN. Hun Sen nói sẽ yêu cầu Việt Nam cung cấp thông tin về vụ này.[3]

“Hội chứng Khmer Đỏ”

Thật ra thì Hun Sen hoàn toàn có thể chất vấn “ngược” đối với VN để chạy tội. Bởi vì, ngay cả dải đất Việt Nam cũng đang dần dần nằm gọn vào tay Trung Quốc. Bô xít Tây Nguyên phía Tây; đặc khu Vân Đồn (Quảng Ninh) ở phía Bắc; cảng nước sâu Vũng Áng Formosa (Hà Tĩnh) và đặc khu Bắc Vân Phong (Khánh Hòa) ở miền Trung và đặc khu Phú Quốc (Kiên Giang) ở phía Nam (nay mai).
Những đặc khu nói trên danh nghĩa là kinh tế nhưng khi động binh, sẽ hiện nguyên hình thực chất là những đặc khu quân sự. Vậy thì VN “trách cứ” CPC nỗi gì? Trong tương lai gần, cả về tiến độ lẫn quy mô các đặc khu mở ra cho Trung Quốc, giữa CPC và VN, chưa chắc ai đã vượt ai!
Như vậy, “rổn rảng” kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng CPC thoát khỏi hoạ diệt chủng, dường như chỉ là lý do phụ. Lý do chính yếu hơn, đó là nỗi lo sợ về một “hội chứng Khmer đỏ” có thể tái xuất hiện để kềm chế VN trong tương lai. Trong đợt kỷ niệm vừa qua, những “vùng huý kỵ” vẫn được cả VN lẫn CPC quán triệt để khỏi làm phật ý thiên triều, giờ là “đối tác chiến lược” của cả hai người anh em thù địch (brother enemy).
Để hoá giải “hội chứng Khmer đỏ” và ngăn ngừa nguy cơ xuất hiện một “Khmer Đỏ không Pol Pot”, Việt Nam cần nỗ lực cải thiện ngay sức mạnh mềm, để đủ sức thuyết phục “ông em” đầy bất trắc. Điều này, chỉ bằng sức mạnh quân sự không thôi là chưa đủ, quan trọng hơn đó phải là sự vượt trội của mô hình quản trị (governance) và chất lượng thể chế.
Một thực tế đáng ngại hiện nay, Việt Nam đang cho thấy sự tụt hậu so với cả hai “ông em” CPC và Lào trên một số tiêu chí như chất lượng tăng trưởng và năng suất lao động, tự do báo chí và xã hội đa nguyên… Thậm chí, khá nhiều doanh nhân khởi nghiệp Việt phải chạy sang tận Campuchia thì mới có đất dụng võ.
Nói cho cùng, thay vì ý tưởng về một “Liên bang Đông dương” gây tranh cãi, phải chăng Việt-Miên-Lào từ nay nên cùng tiến trên con đường tiếp thụ các giá trị phổ quát nhân loại. Nếu mỗi quốc gia này thụ đắc được mô hình nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường và xã hội dân sự thì đó mới là đảm bảo cho hoà bình và thịnh vượng chung trên bán đảo vốn đã chịu quá nhiều đau khổ trong lịch sử.
N.H.
Nguồn: https://www.rfa.org/vietnamese/news/blog/history-is-like-yesterday-01092019102656.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tin cực xấu:

"Facebook đang vi phạm nghiêm trọng pháp luật VN" !!!

He he Luật ANM đã có hiệu lực được 10 ngày. Bắt đầu tấn công FB: 'Facebook đang vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam'. Họ mà đuổi FB ra khỏi VN thì ace chúng ta giao lưu bằng cách nào đây ? Sao họ không cấm luôn trao đổi email, cấm liên lạc điện thoại với nước ngoài, cấm người VN ra nước ngoài và người NN vào VN luôn đi ???
'Facebook đang vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam'
09/01/2019 “Tất cả sản phẩm mà nếu rao bán ngoài đời thực có thể nhận án tù thì Facebook lại cho phép quảng cáo tràn lan”, lãnh đạo Cục PTTH và TTĐT cho biết. Theo Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin Điện tử (Bộ Thông tin và Truyền thông), Facebook vi phạm pháp luật Việt Nam trên 3 lĩnh vực lớn gồm quản lý nội dung thông tin, quảng cáo trên mạng, thuế và thanh toán xuyên biên giới. Việt Nam hiện xếp thứ 7 trong số những quốc gia có lượng người dùng lớn nhất với 58 triệu người dùng (tính đến tháng 4/2018).
'Quảng cáo chính trị', nói xấu người khác
Theo Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin Điện tử, về vấn đề kiểm soát nội dung, Facebook vi phạm rất nghiêm trọng các luật, nghị định, thông tư đã ban hành, đã có hiệu lực gồm luật an ninh mạng, nghị định 72 về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng và thông tư 38 về quản lý hoạt động cung cấp thông tin công cộng xuyên biên giới. Cụ thể, Facebook không bóc gỡ các fanpage, tài khoản của các tổ chức phản động được Bộ Công an liệt kê trong danh sách, những tài khoản, fanpage nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Đó là chưa kể đến những trang phái sinh, chia sẻ lại bài viết để lan truyền các thông tin chống phá trực diện. Với các tài khoản nói xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Facebook có tiến hành gỡ bỏ nhưng rất hạn chế.

“Họ làm rất lâu. Chúng tôi yêu cầu gỡ bỏ các tài khoản nói xấu lãnh đạo trong vòng 48 tiếng nhưng họ chỉ gỡ sau vài tháng. Mới đây, Facebook đã gỡ 3.000 status nói xấu, gồm cả tài khoản nhưng sau đúng một năm khi Bộ Thông tin và Truyền thông yêu cầu”, lãnh đạo Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin Điện tử cho biết.

Thứ hai, Facebook cho phép các tài khoản hoạt động rao bán, quảng cáo sản phẩm và dịch vụ bất hợp pháp tại Việt Nam. “Tất cả sản phẩm mà nếu rao bán ngoài đời thực có thể nhận án tù thì Facebook lại cho phép quảng cáo tràn lan”, vị này cho hay.

Tất cả sản phẩm mà nếu rao bán ngoài đời thực có thể nhận án tù thì Facebook lại cho phép quảng cáo tràn lan" - Lãnh đạo Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin Điện tử.

Truy cập Facebook, không khó để người dùng tìm thấy các màn rao bán vũ khí, vật liệu cháy nổ, buôn bán người, hàng giả, động vật hoang dã hay mặt hàng không được phép quảng cáo như rượu. Mạng xã hội này cũng cho phép quảng cáo tràn lan cờ bạc, lô đề, quảng cáo mại dâm.

Facebook cũng cho phép người dùng mua quảng cáo để phát tán thông điệp tới một nhóm đối tượng mà người đó mong muốn.

Tại Việt Nam, những hành vi này đã xảy ra và mức độ rất nghiêm trọng. Nhiều cá nhân, doanh nghiệp đã bị ai đó đăng thông tin sai trái, sau đó mua quảng cáo, tiếp cận với một lượng người dùng khổng lồ, cũng như cơ quan chức năng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, danh dự cũng như hoạt động kinh doanh của họ.

Với hình thức này, bất cứ ai cũng có thể phát tán các nội dung chưa được kiểm chứng nhằm mục đích tạo khủng hoảng truyền thông.

Chỉ cần lập fanpage, tung thông tin và chạy quảng cáo hướng đến nhóm đối tượng nhất định (ở đây là trên 18 tuổi, sống ở Hà Nội), bất kỳ ai cũng có thể phát tán nội dung chưa được kiểm chứng nhằm mục đích tạo khủng hoảng truyền thông.

Với tập người dùng khổng lồ lên đến 2,5 tỷ người, Facebook phân loại được từng nhóm đối tượng, sau đó đưa thông tin lên news feed của đúng nhóm đối tượng mục tiêu.

Một thuật ngữ mới có tên "quảng cáo chính trị" đang tạo ra mối nguy hại rất lớn. Tại Mỹ, 2 thượng nghị sĩ đã trình dự thảo cấm "quảng cáo chính trị". Tại Việt Nam, Bộ Thông tin Truyền thông đã yêu cầu Facebook không cho cá nhân tổ chức mua quảng cáo nói xấu cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, Facebook trả lời mập mờ rằng sẽ nghiên cứu và trả lời sau. Theo đánh giá của Bộ, "quảng cáo chính trị" không chỉ tác động đến cá nhân, tổ chức mà còn tác động đến an ninh quốc gia.

Thứ ba, Facebook hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, nhận tiền từ người dùng Việt Nam để chạy quảng cáo nhưng không nộp thuế tại Việt Nam.

Theo số liệu từ công ty nghiên cứu thị trường ANTS, năm 2018 mức độ chi tiêu cho quảng cáo trực tuyến tại Việt Nam ước đạt 550 triệu USD, trong đó quảng cáo chi cho Facebook chiếm 235 triệu USD. Riêng Google và Facebook chiếm 66,7% thị phần quảng cáo tại Việt Nam và hoàn toàn không đóng thuế.

Quảng cáo cờ bạc, mại dâm

Facebook cũng cho các game cờ bạc, mại dâm, quảng cáo tràn lan tại Việt Nam và thu lợi bất chính từ những quảng cáo này.

Chính sách quảng cáo Facebook nêu rõ, mạng xã hội này không chấp nhận hiển thị quảng cáo thực phẩm chức năng, sản phẩm, dịch vụ người lớn... Tuy vậy, những quảng cáo này vẫn nhan nhản xuất hiện trong thời gian qua.


Quảng cáo thuốc kích dục, dịch vụ y học - những thứ nằm trong danh mục cấm chạy quảng cáo của Facebook.

Gần đây, nhiều người dùng phản ánh các quảng cáo lách luật xuất hiện trên news feed của họ. "Các quảng cáo này sử dụng các ký tự đặc biệt hoặc dấu chấm giữa những từ nhạy cảm. Những từ này vừa khó đọc, vừa có nội dung xấu. Tôi rất bất ngờ khi Facebook nhận tiền để quảng cáo thuốc kích dục như vậy", Thùy Linh, người dùng Facebook ngụ quận Phú Nhuận, TP.HCM chia sẻ.

Theo ông Lê Minh Hiệp, người làm lâu năm trong lĩnh vực quảng cáo đa nền tảng, những mặt hàng như nước hoa kích dục, thực phẩm chức năng, thuốc trị bệnh chưa biết hiệu quả đến đâu nhưng đều vi phạm chính sách quảng cáo của Facebook. "Trên lý thuyết là vậy, nhưng giới "cao thủ chạy ads" vẫn có những chiêu trò để né được sự kiểm duyệt này", ông Hiệp nói.

"Đầu tiên họ sẽ chuẩn bị một tài khoản Facebook có độ tin cậy cao. Để lấy được lòng tin từ Facebook, tài khoản này phải đáp ứng các điều kiện như đã từng chạy quảng cáo các sản phẩm sạch với lượng tiền lớn", ông Trọng Nhân, một người trong "giới chạy ads" chia sẻ.

Sau khi có được tín nhiệm từ Facebook, các trang này bắt đầu đổi hướng sang chạy những nội dung quảng cáo vi phạm chính sách. "Đa phần những từ khóa nhạy cảm sẽ được diễn đạt dưới dạng ẩn ý, không tập trung vào mặt hàng, dùng tiếng lóng... Đồng thời những từ khóa này sẽ được tùy biến lại bằng những ký tự đặc biệt của bộ mã Unicode", ông Hiệp nói thêm.

"Với tỷ lệ chốt đơn cho những mặt hàng ngách này khá cao. Chỉ cần một lần Facebook 'cắn tiền', những nhà quảng cáo sản phẩm bẩn có thể có thu nhập vài chục triệu đồng/ngày", ông Trọng Nhân cho biết.

Facebook ‘câu giờ’ với cơ quan chức năng VN

Theo Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin Điện tử, Bộ Thông tin và Truyền thông đã nhiều lần gửi công văn, email, làm việc chính thức với Facebook nhưng mạng xã hội này đều dùng các lý do khác nhau để thoái thác.

“Việc ngăn chặn các quảng cáo trái phép hoàn toàn nằm trong khả năng của Facebook nhưng nhưng họ chỉ làm khi chúng ta gửi báo cáo và thời gian cũng mất rất lâu. Nguyên nhân sâu xa nằm ở việc Facebook sống nhờ quảng cáo nên họ đang gián tiếp tiếp tay cho những hoạt động sai trái này”, lãnh đạo Cục cho hay.

“Dưới góc độ kinh doanh, không có lý do gì một doanh nghiệp khi vào Việt Nam kinh doanh, kiếm vài trăm triệu USD mà không tuân thủ pháp luật. Mục đích họ sang, gặp mặt chúng ta chỉ là để câu giờ. Họ không bao giờ chốt các vấn đề, không làm việc bằng văn bản bản chất. Facebook đang kinh doanh kiếm lời tại một quốc gia và không tuân thủ luật pháp quốc gia đó", vị này khẳng định.

Mục đích họ sang gặp mặt chúng ta chỉ để câu giờ. Facebook đang kinh doanh kiếm lời tại một quốc gia và không tuân thủ luật pháp quốc gia đó - Lãnh đạo Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin Điện tử.

Theo đại diện Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin Điện tử, việc yêu cầu Facebook tuân thủ pháp luật Việt Nam cần có sự chung tay của nhiều bên, trong đó, không thể thiếu sự hợp tác của Tổng cục Thuế, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Phía Bộ Thông tin và Truyền thông đang yêu cầu Facebook ký kết bổ sung cam kết tuân thủ pháp luật Việt Nam trong thỏa thuận đặt máy chủ tại Việt Nam với các nhà cung cấp mạng. Theo Cục Viễn thông, hiện có 8 nhà cung cấp trong nước đang hợp tác với Facebook, đặt khoảng 900 máy chủ tại Việt Nam.

Bộ Thông tin và Truyền thông cũng sẽ phối hợp với các cơ quan có liên quan để quản lý các hoạt động thanh toán, thuế đối với giao dịch thương mại, quảng cáo tại Việt Nam của Facebook.

Bộ cũng đang tính đến phương án áp dụng các biện pháp kỹ thuật cần thiết trong trường hợp Facebook không có động thái tích cực.

Thành Duy
https://news.zing.vn/facebook-dang-vi-pham-nghiem-trong-phap-luat-viet-nam-post907266.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Làm gì để phát triển tạp chí KHXH&NV theo chuẩn mực quốc tế?

Thời gian gần đây đã có nhiều đại học, cơ quan nghiên cứu thảo luận, đưa vào chương trình nghị sự việc nâng cấp chất lượng tạp chí KHXH&NV đạt chuẩn quốc tế. Trong bài viết này, trên cơ sở quan sát và hiểu biết cá nhân, chúng tôi thử phân tích những điểm yếu của các tạp chí khoa học xã hội nhân văn và đề xuất một vài kiến nghị cụ thể nhằm cải thiện chất lượng của các tạp chí này theo các chuẩn mực quốc tế.

Khảo sát nghiên cứu của nhóm nhà khảo cổ Việt Nam và quốc tế trong đề tài nghiên cứu Phân tích ADN người cổ đại ở Đông Nam Á. Nguồn ảnh: Lorna Tilley, Australian National University.

Chúng ta hoàn toàn có thể và cần phải tiến đến phổ thông hóa loại hình “tạp chí theo chuẩn quốc tế” trong khi phấn đấu để tiến đến xây dựng một số “tạp chí quốc tế” thuộc danh mục ISI và Scopus. Tuy nhiên, cũng không thể làm đại trà loại hình tạp chí quốc tế được vì cần có nguồn lực về con người, về vật chất và tạo được mạng lưới liên kết, hợp tác quốc tế với các học giả và cơ quan xuất bản quốc tế. Trong điều kiện hầu hết các cơ quan khoa học mạnh ở nước ta đều đặt dưới sự quản lý trực tiếp của nhà nước nên việc đầu tư hay hỗ trợ có trọng điểm cho một hai tạp chí phát triển thành “tạp chí quốc tế” sẽ khả thi hơn. Mặt khác, cần đặt ra một lộ trình và có những yêu cầu bắt buộc đối với các tạp chí khoa học còn lại phải “quốc tế hóa” quy trình tuyển bài, bình duyệt, và các yêu cầu kỹ thuật trong xuất bản tạp chí khoa học.

Những "tử huyệt" của các tạp chí KHXH&NV ở nước ta hiện nay
Cho đến nay, các tạp chí về KHXH&NV vẫn được xếp vào nhóm báo chí, và  công tác xuất bản của tạp chí được xem như hoạt động tuyên truyền văn hóa, chính trị và xã hội. Những người làm công tác biên tập của tạp chí được cấp thẻ phóng viên và chịu sự quản lý nghiệp vụ báo chí của Bộ Thông tin và Truyền thông. Thực ra, hoạt động nghiên cứu và công bố khoa học không giống như hoạt động tuyên truyền, bởi thuật ngữ tuyên truyền (Propaganda) có ngụ ý cung cấp thông tin một chiều nhằm thuyết phục người khác, trong khi tính minh bạch thông tin lại không rõ ràng. Thông tin trong khoa học, ngược lại, phải minh bạch, nhiều chiều và có tính tranh luận, phê bình. Tình trạng tréo ngoe như vậy làm ta thấy đôi khi có những tạp chí khoa học không khác tạp chí tuyên truyền minh họa là mấy.
Tình trạng lưỡng nan như nói ở trên, cùng với các ràng buộc khác, đã đặt các tạp chí khoa học và các nhà nghiên cứu xã hội nhân văn trước một số vấn nạn, mà chúng tôi có thể gọi là những “tử huyệt” của khoa học xã hội, nếu không vượt qua được thì không thể hy vọng có các tạp chí chuẩn quốc tế. Ít nhất, có năm vấn đề sau đây cần được nêu lên để thảo luận.
Thứ nhất, điểm yếu về nội dung của bài vở trên các tạp chí khoa học xã hội thường thấy là tình trạng nghèo nàn về nội dung, nặng về minh họa, kém thuyết phục về phương pháp thường không cập nhật được tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về chủ đề mình đang nói tới, và hậu quả là không hội nhập được nghiên cứu của mình vào dòng chảy học thuật chung, có liên quan trực tiếp đến chủ đề nghiên cứu mà mình đang theo đuổi. Tình trạng này gây ra ba hệ quả trầm trọng. Một là nó làm cho nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn của ta giống như đang diễn ra trong ao làng, mình viết mình đọc, mình tự khen nhau mà không thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu nước ngoài. Hai là nó không làm nổi bật được đóng góp mới của nghiên cứu do thiếu khảo cứu và cập nhật tình hình nghiên cứu của những học giả khác trong và ngoài nước về cùng chủ đề. Thậm chí có những chủ đề đã được nghiên cứu và công bố từ lâu ở nước ngoài nhưng trong nước không biết và không cập nhật. Và ba là nó không khuyến khích tạo ra các tranh luận khoa học để tìm ra phát hiện mới. Cần phải nhấn mạnh rằng trong KHXH&NV, nếu không có tranh luận và phê bình học thuật được xây dựng trên cơ sở những cứ liệu vững chắc thì khó có những phát hiện mới.
Thời gian qua, nhiều đơn vị đã tổ chức các hội thảo bàn về việc xây dựng tạp chí KHXH&NV theo chuẩn quốc tế. Ảnh: Hội thảo “Hình thức trình bày tạp chí theo chuẩn quốc tế” do Liên chi hội nhà báo Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam tổ chức. Trong ảnh: PGS.TS. Phạm Minh Phúc, Phó Trưởng ban Ban Tổ chức – Cán bộ trình bày báo cáo quy định mới về cấp, đổi thẻ Nhà báo. Nguồn: vass.gov.vn.
Thứ hai, công tác tuyển chọn bài vở và bình duyệt được làm có tính hình thức và không tuân thủ các nguyên tắc bình duyệt theo chuẩn mực, hoặc không có những chuẩn mực rõ ràng. Hầu hết các bài báo được lựa chọn trên cơ sở cảm tính, và chỉ được bình duyệt nội bộ (internal review), đôi khi chỉ là ý kiến của người quản lý tạp chí, chứ không phải là sự bình duyệt kín của các đồng nghiệp có chuyên môn sâu ở bên ngoài tạp chí (external/blind/peer review).1Một số tạp chí gần đây đã cố gắng gửi bài cho người bình duyệt bên ngoài tạp chí nhưng các bài bình duyệt này thường có xu hướng góp ý về kỹ thuật, thiếu tính phê phán và đề xuất hướng nâng cao chất lượng học thuật của bài báo. Bài vở được bình duyệt qua loa làm cho trạng thái hời hợt không được cải thiện nhiều sau khi gửi đăng.
Thứ ba, các bài báo khoa học thường coi nhẹ việc trích dẫn khoa học, cả về mặt đạo đức nghề nghiệp và kỹ thuật trích dẫn. Vì nhiều lý do mà người biên tập thường khuyên cắt bớt phần thư mục hoặc các chú thích. Các quy định trích dẫn tài liệu của các tạp chí quá đa dạng, không theo nguyên tắc hay thông lệ chung của thế giới. Chẳng hạn như quy định về trích dẫn tài liệu khoa học cho nghiên cứu sinh và sinh viên của Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn duy trì hình thức mở ngoặc vuông, đánh số tài liệu tham khảo và số trang. Cách làm này rất bất tiện, khi thêm bớt tài liệu tham khảo lại phải đánh số lại, ít thông tin, hay nhầm lẫn, và không có tạp chí khoa học nào trên thế giới còn làm theo cách này. Ngoài ra, chúng ta vẫn chưa có các quy định về đạo đức nghề nghiệp khi dẫn nguồn tin, khai báo tên người cấp tin, và tính minh bạch thông tin. Các hội nghề nghiệp như Liên hiệp hội Khoa học và các Hội khoa học dường như vẫn đang đứng ngoài cuộc và ít can dự vào vấn đề như đạo đức nghề nghiệp của hội viên mà để mặc chính quyền xử lý.
Thứ tư, có những lo ngại hiển nhiên về những vấn đề bị coi là "nhạy cảm chính trị" hoặc "bí mật quốc gia" ở cả phía các nhà nghiên cứu và phía các tạp chí khoa học. Có những vấn đề khoa học quan trọng nhưng lại bị né tránh do lo sợ bị dán nhãn “nhạy cảm chính trị”. Có những lĩnh vực nghiên cứu thậm chí còn không có chuyên gia do bị né tránh quá lâu. Chẳng hạn, đến nay trong dân tộc học Việt Nam hầu như không còn chuyên gia có hiểu biết sâu về người Hoa do các nhà nghiên cứu e ngại chủ đề có thể nhạy cảm và dễ bị phiền toái, khó công bố. Vấn đề thường hay được nêu lên nhất trong các thảo luận gần đây về viết bài công bố quốc tế là xung đột giữa tự do học thuật và những phát biểu bị coi là nhạy cảm chính trị. Cần phải thừa nhận tự do học thuật là nguyên tắc tối thượng trong sáng tạo khoa học. Nhưng điều đó không có nghĩa là tự do nói xấu, xuyên tạc hay đi ngược lại lợi ích của đất nước. Các vấn đề nghiên cứu phải được giải quyết và đối xử trên tinh thần khoa học. Thực ra, việc thiên kiến chính trị là khó tránh khỏi, thậm chí ở ngay cả những tạp chí thuộc nhóm ISI/Scopus2. Trong KHXH&NV, mối liên hệ chặt chẽ giữa quan điểm chính trị và học thuật rất khó tách bạch, bởi các nhà nghiên cứu hay các tạp chí khoa học đều chịu chi phối bởi một tư tưởng chính trị nào đó. Nhưng vấn đề là thái độ ứng xử của chúng ta trước những thiên kiến đó như thế nào. Thảo luận công khai minh bạch trên tinh thần khoa học thay vì ngấm ngầm né tránh hoặc phê phán cực đoan thiếu khoa học sẽ giúp chúng ta có thể đứng vững trên đôi vai của thần công lý.
Thứ năm, có một thực tế là vai trò của các hội đồng biên tập của các tạp chí rất mờ nhạt trong khi người biên tập lại có thể tự cho mình cái quyền cắt xén, thêm thắt, sửa chữa cho bài viết phù hợp tư tưởng của tạp chí mà ít khi tham khảo ý kiến tác giả. Việc biên tập kỹ thuật và nội dung thường hay bị bỏ qua và đôi khi người biên tập chỉ làm mỗi việc sửa chính tả và ngôn từ. Nhìn vào danh sách hội đồng của các tạp chí, chúng ta thường thấy tên tuổi của nhiều nhà khoa học uy tín, nhưng đôi khi chính họ cho biết hội đồng chỉ có tính hình thức. Có những học giả nổi tiếng thế giới đã thẳng thắn chia sẻ với một tạp chí: Tôi đồng ý tham gia vào hội đồng biên tập (Tạp chí KHXH&NV, trường ĐH KHXH&NV) nhưng “Đừng nghĩ đưa tên của tôi vào thì sẽ làm uy tín của tạp chí tăng lên”. Một học giả khác có tên trong hội đồng cũng chỉ ra tính hình thức của danh sách: “Tôi thi thoảng nhận được yêu cầu bình duyệt, nhưng chưa bao giờ nhận được lời đề nghị nào về tham gia đóng góp ý kiến xây dựng tạp chí, có lẽ là do ban biên tập muốn “giữ mọi thứ trong tầm kiểm soát”. Ông giải thích thêm rằng các tạp chí khoa học Việt Nam được dẫn dắt bởi một hệ thống quản lý nhà nước mà các nhà khoa học, nhất là người nước ngoài, không thể can thiệp được.   
Giải pháp nào để hướng đến tạp chí chuẩn quốc tế và tạp chí quốc tế?
Từ những “tử huyệt” của tạp chí KHXH&NV nói trên, chúng tôi xin nêu một số gợi ý để tham góp vào các cuộc thảo luận của giới khoa học nhằm tìm kiếm giải pháp phù hợp, phát triển tạp chí khoa học Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế.
Trước hết, chúng tôi cho rằng muốn tạo cơ sở bền vững cho các tạp chí chuẩn mực quốc tế, phải bắt đầu ngay từ bây giờ công tác đào tạo ở tất cả các bậc đại học và sau đại học trong đó chú trọng rèn luyện cho sinh viên phương pháp nghiên cứu khoa học và các kỹ năng thực hành nghiên cứu, viết bài, tranh luận khoa học và trích dẫn tài liệu theo thông lệ quốc tế. Như đã chỉ ra ở trên, có những quy định về trích dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn chưa theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế, trong khi ở nhiều trường đại học, việc trau dồi kỹ năng phương pháp chưa được chú trọng. Khi các trường đại học chuyển dịch theo hướng đại học nghiên cứu thì việc dịch chuyển phương pháp đào tạo trên cơ sở project-based learning cho sinh viên các năm cuối là một phương pháp thích hợp để tạo thói quen tư duy và kỹ năng thu thập thông tin và phân tích. Cách đào tạo của các ngành KHXH&NV hiện nay vẫn nặng về thuyết giảng mà không chú trọng các kỹ năng nghiên cứu.
Thứ hai, cần thiết phải xây dựng một bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp (ethic code) và đưa vào giảng dạy ở các đại học định hướng nghiên cứu (research-oriented-university), các bậc học sau đại học và phổ biến trong giới nghiên cứu về các nguyên tắc trích dẫn khoa học, bảo vệ người cấp tin, và minh bạch thông tin. Cần vận động và tạo cơ chế cho các hội đoàn nghề nghiệp như Liên hiệp hội khoa học kỹ thuật và các hội chuyên ngành tham gia sâu hơn vào việc tạo ra bầu không khí học thuật lành mạnh thay vì trông chờ ở các cấp chính quyền và cơ quan nhà nước.
Thứ ba, các tạp chí khoa học cần phải được tách ra khỏi hệ thống tuyên truyền của báo chí và có cơ chế quản lý thích hợp để đảm bảo tôn trọng tuyệt đối khách quan học thuật và các tạp chí, với tư cách là cơ quan truyền bá tri thức khoa học không bị chi phối bởi thiên kiến chính trị và lợi ích nhóm. Điều này không có nghĩa là khoa học thoát ly khỏi chính trị, mà là đảm bảo cho khoa học phát huy được tốt hơn vai trò của nó đối với xã hội.
Thứ tư, mỗi tạp chí cần tập hợp được một hội đồng biên tập có năng lực, nhiệt tình, làm việc trên cơ sở các nguyên tắc, tiêu chí và chuẩn mực của một tạp chí quốc tế. Thêm nữa, tạp chí cần chủ động mở rộng mạng lưới tác giả để có nguồn bài vở phong phú, đa dạng, được tạo ra từ những công trình khoa học thực sự nghiêm túc thay vì ngồi chờ tác giả gửi bài tới như hiện nay. Thành viên hội động biên tập nên có sự tham gia của học giả trong và ngoài nước, và những nhà nghiên cứu có kinh nghiệm làm việc ở tầm quốc tế. Có cơ chế khuyến khích những tên tuổi khoa học có uy tín trong và ngoài nước tham gia viết bài cho tạp chí và lôi cuốn được học giả nước ngoài tham gia biên tập và bình duyệt.
Thứ năm, cần tổ chức xếp hạng tạp chí theo định kỳ thay vì lập một danh mục các tạp chí với những tiêu chí còn mơ hồ và ít thay đổi như hiện nay. Việc xếp hạng không nên giao cho một cơ quan nhà nước mà nên do Hội Liên hiệp các khoa học chủ trì, với sự tham gia của các nhà khoa học có chuyên môn sâu trong và ngoài nước. Cần thiết phải tạo ra một bộ tiêu chí và quy chuẩn của tạp chí khoa học theo chuẩn mực quốc tế và các tạp chí cần được đánh giá và xếp hạng theo những chuẩn mực này thay vì những chuẩn mực riêng lẻ, có tính địa phương.
Thứ sáu, khuyến khích các tạp chí trong nước hợp tác xuất bản với các cơ quan, tổ chức khoa học có uy tín của nước ngoài. Sự hợp tác có thể thực hiện ở nhiều cấp độ, như mời học giả viết bài theo chuyên đề, mời các học giả có uy tín thế giới làm guest editor cho các số chuyên đề của tạp chí cho đến ký kết các hiệp định hợp tác xuất bản với một cơ quan xuất bản quốc tế có uy tín.   
Thứ bảy, các tạp chí cần mở rộng hình thức bài vở, thay vì chỉ tập trung vào các bài viết có tính học thuật như hiện nay. Ngoài mục đưa tin các hoạt động khoa học trong nước và trên thế giới, cần mở một phần điểm sách (literature review) trong nước và quốc tế để giới thiệu những nghiên cứu mới. Mục này hầu hết các tạp chí khoa học có uy tín trên thế giới đều làm, vì nó liên kết đọc giả, nhà nghiên cứu với cộng đồng học thuật, và khuyến khích họ quan tâm đến những phê bình góp ý của tạp chí. Một số tạp chí của ta hiện nay cũng có mục này, nhưng nghèo nàn về thông tin và còn vu vơ trong nhận xét đánh giá, phê bình, góp ý, do đó chưa tạo được sự kết nối và quan tâm của giới học thuật.
Cuối cùng, cần có quy chế và chính sách khuyến khích công bố trực tuyến theo hình thức open access để phổ biến tri thức khoa học ra cộng đồng học thuật. Nên học hỏi kinh nghiệm xây dựng hệ thống công bố mở của Nhật Bản J-STAGE, trên cơ sở đăng ký dữ liệu VCI và ACI. Các tạp chí khoa học xã hội của chúng ta hiện nay chủ yếu vẫn đang hoạt động theo cơ chế bao cấp, với kinh phí được nhà nước rót vào hằng năm, và hầu như chưa có tạp chí nào sống được từ nguồn bán tạp chí. Vấn đề quan trọng của khoa học xã hội là tác động xã hội. Việc tạo hệ thống công bố trực tuyến theo quy chế chặt chẽ chắc chắn sẽ giúp mở mang ảnh hưởng và góp phần làm tăng trích dẫn khoa học của các tạp chí.
-----
Chú thích:
1 Trần Mạnh Tuấn (2016). Nâng cao chất lượng Tạp chí Khoa học Xã hội theo tiêu chuẩn quốc tế. Bài viết trình bày tại hội thảo Viện HLKHXH Việt Nam, 20/6/2016. Tài liệu lưu tại Viện thông tin Khoa học Xã hội, VASS.
2 Chẳng hạn, Daniel Klein và Eric Chiang (2004) đã báo cáo kết quả khảo sát chỉ số trích dẫn các tạp chí khoa học xã hội thuộc hệ thống ISI (Social Sciences Citation Index) và cho biết có biểu hiện của xu hướng thiên vị tư tưởng chính trị (Daniel Klein and Eric Chiang. The Social Science Citation Index: A Black Box—with an Ideological Bias? Econ Journal Watch, Volume 1, Number 1, April 2004, pp 134–165). Trong khi đó Albach Philip lại báo cáo xu hướng thiên kiến với các tạp chí ngoài tiếng Anh (Albach Philip (2005). “Academic Challenges: The American Professoriate in Comparative Perspective”. The Professoriate: Profile of a Profession. Dortrecht: Springer. pp. 147–165)

http://tiasang.com.vn/-khoa-hoc-cong-nghe/Lam-gi-de-phat-trien-tap-chi-KHXHNV-theo-chuan-muc-quoc-te-14090

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bùi Giáng, cuồng sĩ hay gã chăn trâu trên đồng cỏ VN? (Kỳ 01)

DTL.

Một dạo, tin Bùi Giáng mất tích đã gây xúc động cho một số anh em văn nghệ tại miền Nam. Đó là lúc mà không ai biết ông đi đâu, làm gì? Sống chết ra sao? – Nhà thơ Xuân Hiến, một trong những người bạn thân của họ Bùi cũng không biết. Ngay anh em của ông cũng không rõ gì hơn. Người thì bảo Bùi Giáng đã bỏ văn nghệ đi buôn. Kẻ lại bảo ông đã vào rừng, hay lên núi tu… tiên. Tất cả chỉ là những ức đoán, đồn đại. Tựu trung, vẫn không ai rõ thực hư! Từ chỗ mù mờ, nhuốm huyền hoặc đó, một vài anh em khác giầu tưởng tượng hơn, nghĩ xa xôi hơn, nhưng cũng chua xót hơn cho rằng:
“Biết đâu Bùi Giáng đã chẳng chết dấm chết dúi bụi bờ nào rồi(?) Trong một giây phút ‘xuất thần’ nào đó, có thể ông đã tự hủy đời mình”…!
Anh em văn nghệ ai cũng biết Bùi Giáng gầy còm, ốm yếu. Ông vốn thấp, khô quắt, chỉ có cái đầu to quá khổ so với khuôn mặt chữ điền xương xẩu. Lại thêm tính nết đôi khi không được bình thường vì lao lực tinh thần, hoặc quá khứ nhiều bi kịch (?) Những người sống gần ông ghi nhận rằng, mỗi khi bàn luận về vấn đề văn chương, tư tưởng, ông thường đưa tay ôm đầu, gục mặt. Nhất là khi đề cập tới truyện Kiều của Nguyễn Du, không chỉ ôm mặt, ông còn hay bật khóc, cộng với nhiều phản ứng bất thường khác, khiến nhiều anh em nghi ngờ, lo lắng, hoang mang về sự “mất tích” của chàng thi sĩ họ Bùi.
Trước những tin không vui ấy, tôi càng nôn nả muốn tìm gặp ông. Nhưng tìm Bùi Giáng đúng như câu nói của một người bạn tôi về ông: Tìm Bùi Giáng “như thể tìm chim”….
Chúng tôi đến căn nhà đường Trương Tấn Bửu không có, trại định cư khu Ngã Tư Bảy Hiền cũng không. Nhớ tới những phỏng đoán trên, tôi nghĩ: Biết đâu chẳng đúng! Rồi, những thôi thúc, náo động trong tôi với thời gian cũng lắng nguội dần. Phần vì mưu sinh, phần vì thiếu sức khỏe, chán nản, tôi quên dần chuyện tìm gặp tác giả “Mưa nguồn”.
Một buổi tối, một bạn chung đưa anh Trần Quốc Túy, họa sĩ (cũng là bạn học cũ của tôi ở CVA) tới thăm tôi.
Có thể vì gặp TQT, nên tôi lại trực nhớ Bùi Giáng. Tưởng cũng nên nhấn mạnh, ngoài con người văn chương thơ phú, Bùi Giáng còn là một họa sĩ chuyên vẽ tranh mầu nước loại trừu tượng. Ở khía cạnh này, có dễ ít người biết, mặc dù rất nhiều họa sĩ tên tuổi từng tỏ ý thán phục tranh của ông như N.T, T.T. N.Đ… Riêng tòa đại sứ Đức, đã điều đình mua một số tranh của ông với giá cao… Nhưng ông từ chối và, chỉ tặng cho tòa đại sứ Đức một bức.
Khi TQT nghe tôi nhắc tới Bùi Giáng, anh bảo sẽ tìm ra địa chỉ và, anh tin rằng không có một bất trắc nào xẩy đến cho Bùi Giáng. Anh kể, anh từng ở cùng khu vực và có giao du khá thân thiết với họ Bùi. Bạn tôi quả quyết:
“Bùi Giáng vẫn còn ở Sài Gòn.”
Hai hôm sau, TQT trở lại, báo tin anh đã tìm ra chỗ ở mới nhất của họ Bùi: “Khu Ngã Ba Ông Tạ.”
Tối hôm đó, chúng tôi hẹn gặp nhau ở quán cà phê L.C gần bên con ngõ dẫn vào nhà ông.
Khi dựng xe trước căn nhà quét vôi trắng khá đồ sộ, sâu trong một hẻm lớn, tôi bồi hồi nghĩ tới lúc gặp mặt tác giả “Tư Tưởng Hiện Đại” (1)
Đúng như lo ngại lúc ban đầu, bà chủ nhà cho biết, Bùi Giáng mới đi khỏi cùng ông Ý (Bửu Ý). Hỏi bà có biết chừng nào ông ấy về? Bà đáp:
“Không chừng, có thể một lát ông ấy trở về ngay, cũng có thể 2, 3 giờ sáng hoặc vài hôm sau.” Tuy nhiên bà vẫn muốn giữ chúng tôi nán lại. Hy vọng Bùi Giáng sẽ trở về ngay như thường khi.
Chúng tôi ngồi chờ ông, nghe bà chủ nhà nói rất nhiều chuyện ngộ nghĩnh về ông.
Lợi dụng lúc chờ đợi, tôi mượn một ngọn nến soi sáng chỗ làm việc của họ Bùi. Nếu không có chiếc “đi-văng” nhỏ kê sát tường và, đống quần áo vứt bừa bãi trên chiếc giá sách hỏng, trên cả bàn viết, lẫn lộn cùng những chồng sách cao ngút, chắc tôi sẽ có cảm tưởng gian nhà của Bùi Giáng là một phòng bán sách cũ. Bởi chung quanh phòng, những giá sách cao gần sát trần, chất đầy sách đủ loại, cả những chồng sách để ngay ở dưới sàn nhà, lẫn lộn cùng những khung tranh ông vẽ từ mấy năm nay.
Chiếc đi-văng, giường ngủ của Bùi Giáng, cũng được dùng để chứa sách. Ông chỉ chừa lại một khoảng nhỏ đủ để đặt lưng. Trên đầu đi-văng, có 2 mẩu nến cháy dở. Hỏi ra mới biết ông có thói quen dùng đèn cầy đọc sách, bất cứ ngày hay đêm (mặc dù nhà có điện). Ông còn thích bỏ màn suốt ngày. Ông từng tiết lộ với bà chủ nhà rằng, ông làm như vậy, để bạn bè đến thấy không có chỗ ngồi, sẽ rời đi sớm.
Bà chủ nhà kể thêm:
“Ông ấy không bao giờ bỏ giặt quần áo! Mặc bộ này chán rồi thay ra, mặc bộ khác vào. Cứ thế, xoay tua. Từ vòng này qua vòng khác…”
Trong căn phòng, tôi ước lượng cũng có tới cả 100 bức tranh to, nhỏ đủ loại. Đa số là những chân dung tưởng tượng. 

Những khuôn mặt người rách nát đau thương… Như TQT, bạn tôi cho biết thì khi vẽ, bao giờ ông cũng mặc quần áo chỉnh tề, thắt cravate, nhưng chân lại đi… dép. Ông vẽ rất nhanh, đường cọ đi rất mạnh bạo. Không phác trước… Bạn tôi nói, ông vẽ tranh nhanh như làm thơ vậy.
“Tranh của ông ấy, nếu có mang một giá trị, hay sức quyến rũ nào đó, (dù ông không hề theo học một lớp hội họa cũng như không hề nhờ ai chỉ dẫn) có lẽ vì nó là kết quả của những suy nghiệm, những ray dứt, dày vò tâm thức ông từ quá khứ. Nên trong những giây phút xuất thần, cây cọ của ông phóng đi với những đường nét bất ngờ, mê hoặc…”
Thời gian này, Bùi Giáng ham mê nhất là khi vẽ chân dung nhà bác học Einstein và, nữ nghệ sĩ Kim Cương. Với hai khuôn mặt ấy, ông vẽ đi vẽ lại cả chục lần không chán. Trên tấm kính của mấy tủ sách, tôi cũng thấy dán hình hai nghệ sĩ Kim Cương và Thẩm Thúy Hằng. Không biết ông lấy phụ bản từ tờ báo nào!
Ngồi chờ khoảng một tiếng sau, vẫn chưa thấy Bùi Giáng về, chúng tôi đành xin phép cáo lui. Trở lại tiệm cà phê giữa tiếng nhạc nỉ non, trong một không khí ẩm thấp khói thuốc, mờ mờ những khuôn mặt thanh niên đủ trang lứa; giữa những tiếng cười khả ố, lâu lâu ré lên, tôi nghĩ tới Bùi Giáng không biết giờ này đang ở đâu, làm gì? Nghĩ tới chính mình và những người chung quanh - Thế hệ hiện tại - Tôi thấy cà phê đắng hơn mọi bữa và hình như không có mùi vị gì…
Trưa hôm sau, như đã hẹn trước, chúng tôi trở lại gặp Bùi Giáng đang xúng xính trong chiếc quần ngủ vải thô vàng, chiếc áo sơ mi cụt tay màu xanh với những khoanh tròn vàng (loại bán sẵn ở chợ), chiếc kính trắng dày cộm, nặng nề trên sống mũi thấp, ông bắt tay chúng tôi bằng nụ cười nửa như mừng rỡ, nửa như méo xệch, miễn cưỡng…
Du Tử Lê,
(Kỳ sau tiếp)
____________
Chú thích:
(1) Sài Gòn Kim Hải Việt Nam X.B năm 1962. Toàn bộ gồm 3 cuốn. Bộ sách này, từng gây xôn xao dư luận một thời.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Khi Đông La chưa vào HNVVN:

Trên blog NGƯỜI BUÔN GIÓ thứ bảy ngày 21-9-2013 có in bài: “Nhà văn Đông La kể công xin tiền Tô Huy Rứa", có chụp lại bức thư của ông Đông La từ trang mạng http://nguyentandung.org như sau:

Nhà Văn Đông La kể công xin tiền Tô Huy Rứa


Xin chép lại thư ông Đông La gửi ông Tô Huy Rứa -Ủy viên bộ chính trị đảng CSVN, trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương được chụp lại từ website NGUYENTANDUNG.ORG trên đây cho rõ ràng hơn:

“ TPHCM 17-5-2006

Kính gửi ông Tô Huy Rứa trưởng ban TTVHTW

Đồng kính gửi ông Vụ trưởng vụ văn nghệ Ban TTVHTW, ông Vụ trưởng vụ báo chí BanTTVHTW

Tôi là Nguyễn Văn Hùng, bút danh ĐÔNG LA, kỹ sư, viết văn, làm thơ và viết phê bình lý luận.

Tôi thấy hiện nay trên mạng thông tin toàn cầu bọn chống đối chế độ tung hoành như đi vào chỗ không người. Như ông Phan Diễn nói trong đại hội đảng vừa qua là ta đã thua trên mạng. Trong khi đó báo chí trong nước gần như làm ngơ, kiểu như “ không thèm chấp”.Trong khi trên mạng, những bài độc hại nảy nở và lan nhanh như nấm mọc sau mưa. Riêng TMH kẻ chống phá đất nước hung hăng nhất hiện nay, đã viết một loạt bài phủ nhận Các- Mác và đường lối CM của nước ta, còn “thách đấu trí tuệ” với cả giới trí thức. Tôi không biết có ai đấu lại chưa?
Tôi thấy tư do ngôn luận có vấn đề, có khi sự sai trái lại được tự do đăng tải và ngược lại. TMH là một ví dụ cụ thể nhất. Rất mong được sự quan tâm của Ban TTVHTW.

Xin kính chào
ĐÔNG LA”

Trong lá thư gửi ông Tô Huy Rứa trên, ông Đông La đã trắng trợn vu cáo chính trị chúng tôi (TMH) một cách rất hèn hạ như sau:

Riêng TMH kẻ chống phá đất nước hung hăng nhất hiện nay, đã viết một loạt bài phủ nhận Các- Mác và đường lối CM của nước ta, còn “ thách đấu trí tuệ với cả giới trí thức. Tôi không biết có ai đấu lại chưa?

Thưa ông Đông La, TMH tôi không bao giờ chống phá đất nước như ông vu cáo trong lá thư tố điêu trên. Chúng tôi có viết hàng chục bài phê bình chủ nghĩa Marx và phê bình những sai trái của đảng cầm quyền hiện nay trên mạng Intrenet, nhưng không hề có một dòng nào chống phá đất nước như ông vu cáo. Khi ông Đông La đồng nghĩa chủ nghĩa Marx là đất nước Việt Nam, đồng nghĩa đảng cộng sản Việt Nam là đất nước như ông vừa tố điêu tôi là một hành vi đánh tráo khái niệm, hành vi gian lận, hành vi phi khoa học hèn hạ nhất, thưa ông!

Chúng tôi mong ông hãy thôi đi trò vu cáo chính trị rẻ tiền gian manh hèn hạ TMH tôi và vu cáo chính trị những nhà đấu tranh dân chủ tự do trong nước và ngoài nước. Một lần nữa, chúng tôi ( TMH) công bố : chúng tôi không làm chính trị, chúng tôi chỉ thực hiện thiên chức của người cầm bút là nói lên sự thật, đúng như lời Kinh Thánh đã phán: “Sự thật sẽ giải thoát anh em”.

Ông Đông La trên blog của mình còn viết nhiều bài phê bình chúng tôi là phản quốc, phản động, là kẻ bất tài về thơ văn, thậm chí ông còn yêu cầu cơ quan công an bắt chúng tôi, hệt như ông là tên mật vụ chỉ điểm vậy.
Năm 1988, ông Đông La từng đến nhà chúng tôi, viết vào sổ tay tôi mấy câu thơ ca ngợi tôi như sau:

LOGIC
Tặng T.M.Hảo nhà thơ lớn trong lịch sử dân tộc

Đến nhà anh chơi về
Trở trăn không ngủ được
Tại trà hay tại thuốc
Biết làm gì thâu đêm
Đành ì ách vác những vần thơ của anh đặt lên bàn cân
Thì ra thơ anh nặng hơn của tất cả lũ chúng nó cộng lại
Một điều thật khó tin
Lại ì ạch vác những nỗi khổ đau của anh đặt lên bàn cân
Cả những nỗi buồn, nỗi đau, nỗi yêu, nỗi hận
Thì ra của anh cũng nặng hơn trăm ngàn lần chúng nó
Logic này đơn giản đến thế ư ?

31/1/1988
Ký tên
ĐÔNG LA

Mới ca ngợi TMH hết lời, nay ĐL đã chửi bới TMH hết lời.

Ai dám bảo đảm mai mốt Đông La sẽ không chửi đảng cộng sản VN hết lời, dù hôm nay ông này đang ca ngợi, bốc thơm “ đảng ta” nhất nước ?

Xem bản chụp lại bút tích của ông Đông La:


Sài gòn ngày 23/9/2013

Trần Mạnh Hảo

Tác giả gửi cho NTT blog



Phần nhận xét hiển thị trên trang