Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 16 tháng 9, 2018

10 Cầu nước kỳ lạ và độc đáo nhất thế giới


https://baomai.blogspot.com/

Có rất nhiều điều kỳ vĩ trên thế giới mà thật đáng tiếc nếu bạn chưa từng được nhìn thấy, dù là trực tiếp hay gián tiếp. Trong bài này là câu chuyện về một cây cầu sẽ khiến bạn phải ngạc nhiên vì vẻ đẹp của nó.

Năm 2002, cả thế giới ngả mũ bái phục trước Veluwemeer Aqueduct – một kiến trúc sư thiên tài đã nối liền vùng lục địa của Hà Lan với Flevoland, một hòn đảo nhân tạo

Có rất nhiều ý kiến được đưa ra thảo luận, bao gồm hoặc xây dựng một hầm ngầm dưới nước, hoặc một cây cầu bình thường. Tuy nhiên các dự án xây dựng này quá tốn kém và mất thời gian.

Ý tưởng chủ đạo là làm sao giao thông trên cạn và dưới nước được lưu thông, không bị tắc nghẽn bởi tàu phà.

https://baomai.blogspot.com/
Ý tưởng giao thông bình thường trên cạn và dưới nước được vận hành. 

https://baomai.blogspot.com/
Cây cầu nước này cũng có phần đường dành cho khách bộ hành, đặc biệt nó có hai bên đường đi bộ ở làn đường cao tốc.    

Cuối cùng, người ta đưa ra một quyết định dường như không tưởng, đó là xây dựng một cây cầu nước. Cây cầu nước này cũng có phần đường dành cho khách bộ hành, đặc biệt nó có hai bên đường đi bộ ở làn đường cao tốc. Hiện nay, hơn 28.000 xe ô tô đi lại dưới cây cầu sâu 10 mét này, và tàu bè thì thoải mái đi lại nhờ phần nước bao phủ bên trên cầu. 

Cầu nước (được hiểu là “con sông này nằm trên con sông kia”) là cấu trúc cầu mang theo kênh mương để tàu bè có thể di chuyển được qua những dòng sông, thung lũng, đường sắt và đường bộ.

1_ Cầu nước Pontcysyllte – Anh

https://baomai.blogspot.com/ 

Cầu nước Pontcysyllte nằm trong hệ thống dẫn nước từ kênh Llangollen đến các mỏ than ở Denbighshire và hệ thống kênh rạch ở xứ Wales, bắc qua thung lũng sông Dee. Bắt đầu xây dựng năm 1795 và hoàn thành năm 1805, công trình này được cho là cây cầu nước dài nhất và cao nhất ở Britain.

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Ngoài ra, nó còn được liệt kê vào nhóm công trình Hạng mục I (Grade I Listed Building) và là Di sản Thế giới được UNESCO công nhận. Cầu nước Pontcysyllte được xây dựng bởi Thomas Telford và William Jessop. Cầu Pontcysyllte cấu tạo gồm một máng chứa nước làm bằng thép dài khoảng 307 mét, rộng 3,4 mét và sâu 1,6 mét, nằm trên 18 trụ đỡ được xây bằng đá cao 38m.

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Đường kéo tàu thuyền được gắn trên mặt nước, cùng các cạnh bên được gắn bằng những trụ đúc bằng gang. Ngoài ra, trên cầu còn có hành lang dành cho người đi bộ. Việc xây dựng kết hợp những vật liệu như thép và đá làm cho chiếc cầu trở nên nhẹ nhàng, giúp những chiếc thuyền nhỏ và hành khách có thể di chuyển dễ dàng qua nó. Khi mới được đưa vào sử dụng, cầu nước Pontcysyllte tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp khai thác tại Denbighshire. Tuy nhiên ngày nay, cây cầu nước này chỉ sử dụng để phục vụ hành khách đến thăm quan.

2_ Cầu nước Håverud – Thụy Điển

https://baomai.blogspot.com/ 

Cầu nước Håverud là một trong những thành tựu kỹ thuật lớn nhất lúc bấy giờ. Giữa những năm 1860, cầu nước Håverud được xây dựng với mục đích là cây cầu bắc qua hệ thống kênh đào Dalsland, giúp cho tàu thuyền qua lại giữa hồ Vänern với khu vực trung tâm của Dasland và vùng hồ phía Tây Nam của quận Värmland.
    

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Công trình này là hệ thống máng nước bằng thép dài 33,5m, được ghép lại với nhau bằng 33.000 chiếc đinh tán. Ngày nay, hệ thống kênh đào Dalsland là một địa điểm thu hút rất nhiều du khách bởi cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, kết hợp với hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ và đường sắt trên cao. Du khách có thể ngồi thuyền hoặc đi bộ trên chiếc cầu nước này để ngắm nhìn dòng thác đang chảy ở phía dưới và những phương tiện giao thông đường bộ đang chạy ở phía trên.

3_ Cầu nước Magdeburg – Đức

https://baomai.blogspot.com/ 

Người Đức đã khởi công xây dựng từ năm 1997 đến năm 2003 để hoàn thiện 918m cầu nước bắc qua sông Elbe nằm gần thị trấn Magdeburg. Các kỹ sư xây dựng hệ thống kênh đào đã kết nối kênh đào Elbe-Havel với kênh đào Mittelland, giúp rút ngắn thời gian di chuyển giữa 2 kênh này từ khoảng cách 12km xuống còn 1km.

Được khởi công xây dựng từ năm 1905 nhưng bị trì hoãn do Chiến tranh thế giới lần thứ hai, cho đến tận năm 1997 cầu Magdeburg mới được xây dựng trở lại và hoàn thành vào năm 2003.  

https://baomai.blogspot.com/ 

Sau khi hợp nhất nước Đức, những tuyến đường giao thông trên nước được ưu tiên xây dựng lại. Năm 1997, công trình này được xây lại, kéo dài trong 6 năm với chi phí lên tới 500 triệu euro. Cây cầu nước Magdeburg này sẽ kết nối cảng nội địa của Berlin với các cảng nằm dọc trên sông Rhine. Với tổng chiều dài 918 mét, cây cầu cần 24.000 tấn thép và 68.000m khối bê tông gồm 3 đoạn dài 228m, rộng 34m và sâu 4,25m. Ngày nay, cầu nước Magdeburg được xem là cây cầu nước hiện đại nhất thế giới.

4_ Cầu nước Ringvaart Haarlemmermeer – Hà Lan 

https://baomai.blogspot.com/ 

Nằm gần Roelofarendsveen (thị trấn nằm phía tây Hà Lan), kênh đào Ringvaart bắc qua đường cao tốc A4 bằng một cây cầu nước. Cầu nước Ringvaart Haarlemmermeer được xây dựng vào năm 1961, do vậy nó là một cây cầu nước lâu đời nhất ở Hà Lan. Năm 2006, công trình xây dựng hoàn thành xong hai phần: hướng về phía đông có làn đường cao tốc mới mở rộng theo phía bắc và hướng về phía tây là đường sắt cao tốc HSL-Zuid mới. Cây cầu nước này dài 1,8km.

5_ Cầu nước Pont du Sart – Bỉ 

 https://baomai.blogspot.com/

Cầu nước Pont du Sart là cây cầu mang nước từ kênh Centrumkanaal (nằm phía Tây Vương quốc Bỉ) vượt qua giao lộ đường N55 và N535 gần thị trấn Houdeng-Goegnies. 

 Hệ thống dẫn nước này được xây dựng bằng bê tông có chiều dài 498m và rộng 46m, trọng lượng khoảng 65.000 tấn được nâng đỡ bởi 28 trụ bê tông và đường kính mỗi trụ là 3m.

6_ Cầu nước Veluwemeer – Hà Lan

https://baomai.blogspot.com/ 

Veluwemeer là cầu nước cắt ngang đường cao tốc N032 nằm gần thị trấn nhỏ Harderwijk, miền Đông Hà Lan. Nó là một phần nhỏ của hồ Veluwemeer, đồng thời giúp kết nối phần đại lục của Hà Lan với hòn đảo mang tên Flevoland (được biết đến là một trong những công trình nhân tạo vĩ đại nhất thế giới). 

Cầu nước Veluwemeer có chiều dài 25 mét, mỗi ngày có khoảng 28.000 lượt xe cộ đi qua. Cây cầu nước này được mở cửa thông xe vào năm 2002.

7_ Cầu nước Briare – Pháp

https://baomai.blogspot.com/ 

Cầu nước Briare mang nước từ kênh đào Latéral à la Loire vượt qua sông Loire đến sông Seine của Pháp. Từ giữa năm 1896 đến năm 2003, cầu nước Briare được xem là hệ thống cầu dẫn nước dài nhất thế giới cho đến năm 2003, cầu nước Magdeburg tại Đức được đưa vào sử dụng đã lấy đi vị trí số 1 của nó.

https://baomai.blogspot.com/ 

Cầu nước Briare được xây dựng trên 14 trụ cầu. Những trụ cầu này là những dầm thép đơn hỗ trợ kênh thép chứa hơn 13.000 tấn nước, có độ sâu 2,2m và rộng 6m cho phép tàu thuyền cùng lưới rộng 1,8 mét có thể đi qua được. Chiều rộng của cầu nước là 5,2 mét và chiều dài của hệ thống dẫn nước này là 662,7 mét.

8_ Cầu nước Naviduct Krabbersgat – Hà Lan

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Cầu nước Naviduct Krabbersgat ở Hà Lan là hệ thống dẫn nước hỗ trợ tàu bè qua lại giữa hồ Markermeer và hồ Ijsslmeer, được tích hợp bởi một cơ chế khóa 2 chiều vì mực nước giữa 2 hồ có sự chênh lệch cao thấp. Đây là dự án lớn độc đáo gồm một tàu khóa với một đường hầm giao thông đường bộ được hình thành để giảm bớt tắc nghẽn giao thông cho cả xe cộ lẫn giao thông du lịch biển. 

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Kiến trúc khổng lồ này có chiều dài 125 mét và chiều rộng 25 mét. Bên cạnh đó, 1.450 m3 đất được di dời đi thay vào đó là 20.000 m3 bê tông. Cầu nước Naviduct Krabbersgat được khánh thành vào năm 2003.

9_ Cầu nước Edstone – Anh

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Cầu nước Edstone là một trong ba cây cầu nước nằm trên 6km của kênh Stratford-upon-Avon ở Warwickshire. Khác với những cây cầu nước khác, đường kéo tàu lại nằm ở phía dưới đáy kênh. Với chiều dài là 145m, cầu nước Edstone là cây cầu dẫn nước dài nhất nước Anh. Nó chảy qua một đường nhỏ nằm giữa đường sắt Birmingham và đường sắt North Warwickshire.

10_ Cầu nước Langdeel – Hà Lan

https://baomai.blogspot.com/ 

Cầu nước Langdeel nằm trên đường cao tốc N31, gần thành phố Leeuwarden ở phía bắc Hà Lan. Cầu nước này cùng tên với hệ thống kênh chảy qua. 

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Bắt đầu xây dựng năm 2004, cây cầu nước Langdeel được hoàn thành vào năm 2007. Cầu dẫn nước này có độ sâu 2,78 mét (9 ft), rộng 25 mét (82 ft) và dài 110 mét (360 ft). Ngoài ra, nó còn được xây trên ba hàng cột bê tông.

https://baomai.blogspot.com/

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đừng quên chuyện này:

Tìm hiểu số lượng cống thuế hàng năm dưới thời Trung Quốc đô hộ nước ta

  •   HỒ BẠCH THẢO


Sứ đoàn các nước triều cống nhà Tống. Tranh của Cửu Anh đời nhà Minh. Nguồn InternetSứ đoàn các nước triều cống nhà Tống. Tranh của Cửu Anh đời nhà Minh. Nguồn Internet
Sách An Nam Chí Nguyên[安南志原]đời Minh, tại quyển 2, mục Cống phú [cống thuế] chép khá chi tiết về sản phẩm và tiền bạc phải nạp cho Trung Quốchàng năm. Sử liệu giúp cho người đọc thấy được cụ thể dã tâm bóc lột tại nước ta, quan lại thu thuế xuống tận các địa phương, dương cặp mắt cú vọ xăm xoi tước đoạt đủ mọi sản phẩm thuộc các ngành nghề. Chúng vơ vét bằng đủ loại tiền: tiền đồng, tiền giấy, và một loại tiền khác đặc biệt phạt hành thời Minh gọi là “Bảo tiền” mà người mình quen gọi là tiền quí, hay tiền tốt. Ngoài ra đứng về lãnh vực nghiên cứu, những số liệu thuế nạp tại trung ương và các phủ, châu; cho phép ta hình dung được tình hình kinh tế nước nhà vảo đầu thế kỷ thứ 15.
Cao Hùng Trưng, tác giả An Nam Chí Nguyên, phân biệt 3 cơ quan chính phụ trách về cống thuế: thứ nhất các công trường, thứ hai là trung ương, thứ ba tại các phủ, châu. Lấy năm Vĩnh Lạc thứ 15 [1417] làm chuẩn, tác giả trình bày như sau:
1.Sản phẩm sản xuất từ công trường.
Những sản phẩm sản xuất từ các công trường như vàng, bạc, muối vv… và các đồn điền, thường do hoạn quan được vua gửi đến, cùng các quan phụ trách trưng thu đưa thẳng về Trung Quốc. Tác giả không có số lượng, chỉ mô tả một cách tổng quát như sau:
“ Lấy năm Vĩnh Lạc thứ 15 [1417] làm chuẩn, các thứ như vàng, bạc, hương liệu, sản xuất từ các công trường, thì đã có điển lệ trưng thu; mỗi năm do nội quan (1), cùng quan tam ty (2), hay Đề đốc quân dân cùng quyết định trưng thu, nên không có định số; rồi hội đồng niêm phong, sai người tiến cống; số này không thuộc loại ngạch các phủ huyện liệu biện hàng năm nên không đăng tải số lượng.”
Tuy nhiên qua danh sách về các cơ quan phụ trách về muối trích dẫn dưới đây, có thể hình dung được cơ ngơi rất lớn:
Ty muối công trường An Hòa tại huyện Thủy Đường, phủ Tân An.
Ty muối công trường Chi Phong tại huyện Chi Phong phủ Tân An.
Ty muối công trường An Lão tại huyện An Lão phủ Tân An.
Ty muối công trường Đại Hoàng tại huyện Hoàng Sơ phủ Kiến Xương.
Ty muối công trường Quảng Từ tại huyện An Ninh phủ Kiến Bình.
Ty muối công trường Châu Hiệp tại huyện Cửu Hoàng phủ Thanh Hóa.
Ty muối công trường Hoàng Phúc tại huyện Hoàng Phúc phủ Nghệ An.
Ty muối công trường Nam Giới tại huyện Phi Lộc phủ Nghệ An.
Ty muối công trường Thiên Đông tại Diễn châu.” (An Nam Chí Nguyên quyển 2)
Hoặc văn bản ngày 22 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 7 [11/9/1419] về việc lập các cục khai thác vàng tại nước ta như sau:     
Lập các cục mỏ vàng tại Giao Chỉ; thuộc trấn Thất Nguyên phủ Lạng Sơn, trấn Qui Hóa phủ Tam Giang, trấn Tuyên Quang phủ Tuyên Hóa. Đặt 2 viên Đại sứ, 4 viên Phó sứ.”
 ( Minh Thực Lục v. 14, tr. 2152; Thái Tông q.215, tr.1b )
2.Thuế do trung ương thu.
Tại trung ương do Tam ty tức ty Bố chánh, ty Án sát, và Đô chỉ huy sứ ty đảm trách; thành trì Tam Ty tại góc sông Tô Lịch và Hồng thành phố Hà Nội ngày nay. Riêng năm 1417 số lượng thuế thu vềnhư sau:
-Thúy bì (3) 2.000 cái.
-Quạt giấy: 10.000 cái.
-Sơn sống: 3.350 cân , 9 lượng rưỡi.
-Phèn sống: 500 cân.
-Số ruộng đất, ao hồ của quan dân gồm 17.442 khoảnh 34 mẫu 5 phân 6 ly. Lương thực gạo nạp vào tiết hè thu là 74.549 thạch (4), 4 thăng, 2hợp. 6 chước, 5 sao.
-Muối: 40.400 đấu, 40 thăng.
-Thuế vàng: 573 lượng 8 tiền, 5 phân, 1 ly.
-Thuế bạc: 1.712 lượng, 3 phân, 5 ly.
-Tơ: 1.229 cân (5), 15 lượng, 1 tiền.
-Lương thực gạo nạp vào mùa thu: 3.001 thạch, 8 đấu.
-Thuế voi: 4 con.
-Thuế buôn bán; tiền giấy: 34.461 quan, 616 đồng; tiền đồng: 3.902 quan, 556 đồng; tiền quí (6): 30.558 quan, 921 đồng.
-Tiền mướn ruộng công: 512 quan, 130 đồng.
-Thuế lò làm đồ sành: 618 quan, 2 trăm đồng.
3.Thuế thu tại địa phương.
Lúc bấy giờ toàn thể nước ta có 17 phủ 5 châu, nhưng vì châu Thăng Hoa (7) mới  lấy lại từ Chiêm Thành, dân chúng chưa yên với nghề nghiệp, nên tạm thời chỉ thu tại các địa phương còn lại, gồm 16 phủ, 5 châu:
1.Phủ Giao Châu[ ước lượng thuộc Thành phố Hà Nội, tỉnh Hà Tây, Hà Nam ngày nay (8)]
-Thúy bì: 50 cái.
-Quạt giấy: 1.500 cái.
-Sơn sống: 1.695 cân.
-Ruộng đất ao hồ của quan dân: 3.316 khoảnh, 26 mẫu, 6 phân, 6 ly. Thuế lương thực hè thu: 16.562 thạch, 4 đấu, 4 thăng, 9 hợp, 5 chước.
-Tơ: 383 cân, 12 lượng, 6 tiền.
-Thuế buôn, tiền giấy nạp: 13.987 quan, 500 đồng; tiền đồng: 983 quan, 300 đồng; tiền quí: 13.014 quan, 200 đồng.
-Thuế cá trong hồ, tiền giấy:6.160 quan, 400 đồng; tiền đồng: 1.857 quan, 880 đồng; tiền quí: 4.032 quan, 220 đồng.
-Thuế mướn đất công, tiền quí: 132 quan, 85 đồng.
2.Phủ Bắc Giang [tỉnh Bắc Giang và một phần tỉnh Bắc Ninh]        
-Thúy bì: 200 cái.
-Quạt giấy: 1.500 cái.
-Ruộng vườn ao hồ quan dân: 1.962 khoảnh, 92 mẫu, 7 phân. Nạp tiền đồng: 801 quan, 445 đồng. Nạp lương thực hè thu: 8. 267 thạch gạo, 9 thăng, 10 hợp, 7 chước, 5 sao.
-Tơ: 100 cân, 12 lượng.
-Thuế buôn, tiền giấy nạp: 5.054 quan, 253 đồng; tiền quí: 4.253 quan.
-Thuế cá, tiền giấy nạp: 985 quan, 540 đồng; tiền đồng: 611 quan, 940 đồng; tiền quí: 373 quan, 600 đồng.
-Thuế lò gốm, tiền đồng: 28 quan.
3. Phủ Lạng Giang[tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh]
-Thúy bì: 250 cái.
-Quạt giấy: 1.000 cái.
-Ruộng đất ao hồ của quan dân: 1040 khoảnh, 4 mẫu, 3 phân. Thuế lương thực hè thu, gạo: 4.468 thạch, 7 thăng, 2 hợp.
-Tơ: 88 cân, 5 tiền.
-Thuế buôn bán, nạp tiền giấy: 5.072 quan, 700 đồng. Tiền đồng: 215 quan, 60 đồng. Tiền quí: 4.857 quan, 100 đồng.
-Thuế cá ao đầm, tiền giấy: 1.064 quan; tiền đồng: 321 quan, 600 đồng; tiền quí: 740 quan, 300 đồng.
-Tiền mướn ruộng công: 10 quan.
4. Phủ Lạng Sơn[tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng]
-Đất ruộng ao hồ của dân: 657 khoảnh, 15 mẫu, 2 phân.Nạp lương thực hè thu: 2.614 thạch, 7 đấu, 2 thăng, 8 hợp.
-Thuế vàng: 29 lượng, 7 tiền.
-Thuế buôn bán, tiền giấy: 117 quan, 400 đồng; tiền đồng: 37 quan, 400 đồng; tiền quí: 80 quan.
-Thuế bạc: 145 lượng, 3 tiền.

5. Phủ Tân An[Thành phố Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương].
-Thúy bì: 300 cái.
-Quạt giấy: 2.000 cái.
-Tơ: 1 cân.
-Ruộng đất ao hồ quan dân: 2.914 khoảnh, 76 mẫu, 5 ly. Thuế lương thực hè thu, gạo: 9.844 thạch, 2 đấu, 1 hợp, 5 chước; nạp mùa thu 31 thạch, 8 đấu.
-Thuế buôn bán, thu bằng tiền giấy được: 6.102 quan 504 đồng; tiền đồng: 753 quan 218 đồng; tiền quí: 5.349 quan 286 đồng.
-Thuế cá, tiền giấy: 608 quan 420 đồng; tiền đồng: 304 quan 462 đồng; tiền quí: 303 quan 910 đồng.
-Thuế lò gốm, tiền đồng: 40 quan 200 đồng.
-Thu tô, tiền giấy: 33 quan 860 đồng; tiền đồng: 7 quan 200 đồng; tiền quí: 26 quan 660 đồng.
-Thuế muối: 26.775 cân.
6. Phủ Kiến Xương[tỉnh Hưng Yên, Thái Bình].
-Thúy bì: 200 cái.               
-Quạt giấy: 500 cái.
-Ruộng đất ao hồ quan dân: 442 khoảnh 412 mẫu 3 phân 5 ly. Thu lương thực hè thu, gạo: 2.712 thạch 7 thăng 3 hợp.
-Tơ: 41 cân 5 tiền 5 phân.
-Thuế cá, ao đầm, tiền giấy: 2414 quan 200 đồng; tiền đồng: 524 quan 600 đồng; tiền quí: 1889 quan 600 đồng.
-Tiền thu tô đất công: 102 quan.
-Thuế muối: 1.940 cân.
7. Phủ Trấn Man[tỉnh Thái Bình, Nam Định].
-Thuế lò gốm: 200 cân.
-Tơ: 9 cân 7 lượng 3 tiền.
-Ruộng đất ao hồ quan dân 533 khoảnh 51 mẫu 6 phân. Nạp lương thực hè thu, gạo: 2.187 thạch 8 đấu 8 thăng 5 hợp.
-Thuế buôn, tiền giấy: 582 quan; tiền đồng: 48 quan; tiền quí: 480 quan.
-Thuế đánh cá, tiền giấy: 66 quan, tiền đồng: 18 quan; tiền quí: 40 quan.
- Tô thuế đất công: 4 quan 500 đồng.
-Thuế muối: 4.658 cân.
8. Phủ Phụng Hóa[tỉnh Nam Định].
-Thúy bì: 100 cái.
-Tơ: 15 lượng.
-Quan dân ruộng đất ao hồ: 901 khoảnh, 66 mẫu 7 phân. Lương thực mùa thu nạp, gạo: 3.303 thạch 2 đấu 5 thăng.
-Thuế buôn, nạp tiền giấy: 224 quan 464 đồng; tiền đồng: 114 quan 440 đồng; tiền quí: 112 quan.
-Thuế cá, tiền đồng: 60 quan.
-Tô thuế đất công, tiền quí: 144 quan.
-Thuế muối: 441 cân.
9. Phủ Kiến Bình[tỉnh Ninh Bình].
-Thúy bì: 100 cái.
-Tơ: 7 cân 12 lượng 5 phân.
-Quan dân ruộng đất ao hồ: 1.198 khoảnh 32 mẫu. Thuế lương thực hè thu, gạo: 3.974 thạch 6 đấu 9 thăng 3 hợp.
-Thuế buôn, tiền đồng: 95 quan 875 đồng.
-Thuế cá, nạp tiền giấy: 151 quan 600 đồng; tiền đồng: 27 quan 300 đồng; tiền quí: 74 quan 400 đồng.
-Thuế muối: 2.452 cân.
-Tô thuế mướn đất công, tiền giấy: 130 quan 200 đồng.
10. Phủ Tam Giang[tỉnh Hà Tây, Phú Thọ].
-Thúy bì: 225 cái.
-Quạt giấy: 2.500 cái.
-Quan dân ruộng đất ao hồ: 1.960 khoảnh 36 mẫu 2 phân. Thuế lương thực hè thu, gạo: 8.686 thạch 3 đấu 8 thăng.
-Sơn sống: 300 cân.
-Tơ: 378 cân 2 lượng 4 tiền.
-Thuế buôn, nạp tiền giấy: 471 quan 874 đồng; tiền đồng: 220 quan 39 đồng; tiền quí: 249 quan 335 đồng.
-Thuế cá, tiền đồng: 80 quan 221 đồng.
-Tô thuế đất công: 54 quan.
11. Phủ Tuyên Hóa[tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Hà Giang].
-Sơn sống: 340 cân.
-Thuế bạc; 859 lượng 7 tiền 3 phân 7 ly.
-Quan dân ruộng đất ao hồ: 701 khoảnh 38 mẫu 5 phân 7 ly. Thuế hè thu, gạo: 2.474 thạch 5 đấu 3 thăng 6 hợp 4 chước.
-Thuế buôn, nạp tiền giấy: 824 quan 722 đồng; tiền đồng : 21 quan 552 đồng; tiền quí: 44 quan.
-Tơ: 1.008 cân 9 lượng.
12. Phủ Thái Nguyên[tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn].
-Thuế bạc: 144 lượng 5 tiền.
-Thuế vàng: 65 lượng 5 tiền.
-Ruộng vườn ao hồ quan dân: 241 khoảnh 20 mẫu. Nạp lương thực hè thu, gạo: 591 thạch 9 đấu 6 hợp.
-Thuế buôn, tiền giấy: 211 quan 977 đồng. Tiền quí: 176 quan.
13. Phủ Thanh Hóa[tỉnh Thanh Hóa].
-Quan dân ruộng vườn ao hồ: 830 khoảnh 55 mẫu 7 phân. Nạp lương thực hè thu, gạo: 4.088 thạch 6 đấu 1 thăng 4 hợp.
-Tơ: 85 cân 8 lượng 4 tiền.
-Thuế vàng: 180 lượng.
-Thuế buôn cửa hàng, tiền giấy: 1.505 quan 516 đồng; tiền quí: 1.022 quan; tiền đồng: 191 quan.
-Thuế cá, ao hồ, tiền giấy: 950 quan, tiền đồng: 191 quan; tiền quí: 764 quan.
-Thuế muối: 1.739 thăng 40 cân.                       
14. Phủ Nghệ An[tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh].
-Quan dân ruộng đất ao hồ: 110 khoảnh 57 mẫu 2 phân 5 ly. Nạp lương thực hè thu: 483 thạch 9 đấu 1 thăng 3 hợp 5 chước.
-Tơ: 6 cân 2 lượng 6 tiền.
-Thuế vàng: 220 lượng.
-Thuế voi: 3 con.
-Thu tô công điền, tiền giấy: 90 quan.
-Thuế muối: 3.308 cân.
15. Phủ Tân Bình[tỉnh Quảng Bình].
-Đất đai của dân: 27 khoảnh 56 mẫu 7 phân. Nạp lương thực hè thu, gạo: 133 thạch 9 đấu.
-Tơ: 9 cân 13 lượng 4 tiền.
- Thu tô đất công, tiền quí: 10 quan.
16. Phủ Thuận Hóa[tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên].
-Ruộng đất dân: 71 khoảnh. Nạp lương thực hè thu: 213 thạch 2 đấu 9 thăng 7 hợp.
1.Châu Quảng Oai[tỉnh Hòa Bình].
-Thuế buôn, tiền giấy: 43 quan.
-Thuế cá, tiền đồng: 31 quan.
-Tơ: 34 cân 8 lượng.
-Quan dân ruộng đất ao hồ: 181 khoảnh 95 mẫu 5 phân; nạp lương thực hè thu, gạo: 778 thạch 8 đấu 5 thăng 4 hợp.
2.Châu Gia Hưng[tỉnh Phú Thọ, Sơn La].
-Tơ: 34 cân 15 lượng 6 tiền.
-Thuế buôn, tiền giấy: 670 quan 750 đồng; tiền đồng: 508 quan 250 đồng; tiền quí: 163 quan 500 đồng.
-Quan dân ruộng đất ao hồ: 151 khoảnh 69 mẫu 9 phân. Nạp lương thực hè thu, gạo: 115 thạch 2 đấu 3 thăng 5 hợp.
3.Châu Qui Hóa[tỉnh Yên Bái, Lào Cai].
- Quan dân ruộng đất ao hồ: 151 khoảnh 69 mẫu 6 phân. Nạp lương thực hè thu, gạo: 115 thạch 2 đấu 3 thăng 5 hợp.
-Tơ: 34 cân 15 lượng 6 tiền.
-Thuế buôn, tiền giấy: 670 quan 750 đồng; tiền đồng: 580 quan 250 đồng; tiền quí: 163 quan 500 đồng.
4.Châu Ninh Hóa[phủ Nho Quan, tỉnh Ninh Bình].
-Tơ: 14 cân 7 lượng 3 tiền.
-Ruộng đất ao hồ dân: 76 khoảnh 1 phân. Nạp lương thực hè thu, gạo: 336 thạch 5 đấu 4 thăng.
5.Châu Diễn[ Huyện Diễn Châu, Quỳnh Lưu thuộc tỉnh Nghệ An].
-Thuế muối: 580 cân.
-Đất đai ao hồ dân: 20 khoảnh 65 mẫu 8 phân. Nạp lương thực hè thu: 78 thạch 4 đấu 2 thăng 4 hợp.

Chú thích:
1.Nội quan:  Hoạn quan do nhà vua gửi đến.
2. Tam ty tức 3 ty, gồm:  ty Bố chánh, ty Án sát, ty Đô chỉ huy.
3.Thúy bì: lá thuốc giải nhiệt.
4.1 thạch thời Minh bằng 60 kg; 10 đấu = 1 thạch;  10 thăng= 1 đấu; 10 hợp = 1 thăng; 10 chước = 1 hợp; chước tương đường với môi múc canh
5.1 cân = .50 kg; 16 lượng = 1 cân; tiền còn gọi là đồng cân= 1/10 lượng.
6.Tiền quí tức Bảo sao, một loại tiền giấy chỉ phát hành vào thời Minh, bề ngang 20 cm., bề dọc 30 cm.; là loại giấy bạc có kích thước rộng nhất. Bảo sao được gọi là tiền quí, hay tiền tốt; bởi vậy  bài ca dao có bài nói việc người nội trợ mang tiền tốt đi chợ, với những câu mở đầu như sau:
Một quan tiền tốt mang đi,
Nàng mua những gì mà tính chẳng ra?……
7.Phủ Thăng Hoa: thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay. Thời nhà Hồ thuộc Việt Nam, thời Minh xâm lăng Chiêm Thành hợp tác với nhà Minh và chiếm lấy đất này; rồi vào năm 1417 quân Minh lấy lại từ Chiêm Thành. Xin xem bài Phủ, châu, huyện tại Việt Nam đổi thay dưới thời Minh đô hộcủa Hồ Bạch Thảo.
8. Dùng Bản đồ hành chánh 64 tỉnh thành phố Việt Nam, NXB Bản đồ: Hà Nội, 2005, đểphỏng chừng so sánh.  

Phần nhận xét hiển thị trên trang

“PHÁ GIÁ NGƯỢC”




Trong hình ảnh có thể có: 1 người, đang cười

Ông Lê Đức Hiền, Phó cục trưởng Cục phòng, chống tệ nạn xã hội, Bộ Lao độngTB & xã hội nói rằng: “Giá bán dâm 600 triệu đồng là …rất cao !”.
Thực ra không phải đồng chí Cục phó CHÊ các nàng chân dài cố tình bán đắt để “cắt cổ đại gia”, mà ngược lại là TRÁCH các đại gia cố tình “phá giá ngược”, tạo thế “cạnh tranh”, làm khó cho “Một bộ phận không nhỏ” vẫn “đang phát triển ổn định”.
Tiền chứ đâu phải vỏ hến. Anh em phải “lao động thối cả móng tay” mới kiếm được vài trăm tỉ, nhiều thì vài nghìn tỉ…Nhưng phải chi trăm thứ bà rằn, đâu phải chỉ dùng vào mỗi việc đi chơi gái? Chỉ một ví dụ nhỏ là phải đầu tư về quê xây lăng mộ các cụ cũng phải hàng chục tỉ, để còn ngẩng mặt với gia tộc. Rồi còn phải xây những ngôi biệt thự ở các nước “tư bản giáy chết” để gửi mấy đứa con sang đấy học, mong cho chúng “thành người”...
Thế mà trong thị trường mua – bán dâm, mấy bố đại gia “phá giá ngược” thế này thì hỏng (!)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Bảy, 15 tháng 9, 2018

Phi vụ 1.200 lượng vàng của cựu trung tá công an


Theo Hoàng Yến - Pháp luật TPHCM

Dân Trí - Cựu trung tá công an bất ngờ thừa nhận hành vi ký chứng từ nộp khống 1.200 lượng vàng tại DongABank...

Mới đây, CQĐT Bộ Công an đã hoàn tất kết luận điều tra bổ sung lần hai, chuyển hồ sơ sang VKS đề nghị ra cáo trạng truy tố các bị can gây thiệt hại 3.608 tỉ đồng tại DongABank. Trước đó, tháng 7-2018, VKS từng trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án này.

Đáng chú ý, trong kết luận điều tra bổ sung lần này nhắc đến trường hợp bị can Nguyễn Hồng Ánh (SN 1962, cựu trung tá, đội trưởng một đội nghiệp vụ Công an TP.HCM) bị đề nghị truy tố là đồng phạm với ông Trần Phương Bình (nguyên tổng giám đốc, phó chủ tịch HĐQT và chủ tịch Hội đồng tín dụng Ngân hàng TMCP Đông Á) về tội cố ý làm trái theo Điều 165 BLHS đối với 1.200 lượng vàng thu khống.

Trong quá trình điều tra trước, bị can Ánh không hợp tác làm việc, khai báo không thành khẩn nên bị đề nghị xử nghiêm trong quá trình truy tố, xét xử. Nay trong kết luận điều tra bổ sung, CQĐT cho rằng bị can này đã thừa nhận hành vi ký chứng từ nộp khống 1.200 lượng vàng tại DongABank. Đồng thời, ngày 30-8-2018, vợ của bị can Ánh cũng đã nộp 500 triệu đồng vào tài khoản của Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu mở tại kho bạc nhà nước tại TP Hà Nội khắc phục hậu quả cho bị can Ánh.

CQĐT xác định trong việc tất toán khống khoản vay trên đã khiến DongABank thiệt hại hơn 53 tỉ đồng và ông Ánh phải liên đới chịu trách nhiệm về số tiền này.

Theo hồ sơ, do có mối quan hệ thân quen từ trước nên ông Ánh và ông Bình thống nhất vay vàng để được hưởng lãi suất thấp hơn vay tiền. Tháng 1-2008, ông Ánh đề nghị vay 2.000 lượng vàng để góp vốn hợp tác kinh doanh. Tài sản đảm bảo cho khoản vay này là căn nhà và quyền sử dụng 339 m2 ở quận Phú Nhuận, quyền sử dụng 326 m2 đất ở phường Thảo Điền, quận 2 cùng 3.000 cổ phiếu của Ngân hàng TMCP Gia Định.

Và ông Bình đã phê duyệt đồng ý cho ông Ánh khoản vay trên trong thời hạn cho vay là 12 tháng. Ngày 14-1-2008, ông Ánh ký nhận nợ số vàng này.

Ngày 21-1-2009, ông Ánh trả nợ gốc là 2.000 lượng cho DongABank. Nhưng thực chất hai bên chỉ làm thủ tục tất toán trên giấy tờ, đảo nợ thành khoản vay mới 2.000 lượng vàng tại DongABank vào ngày 24-1-2009.

Đến ngày 26-1-2010, ông Ánh chỉ trả được 100 lượng vàng nên trong cùng ngày, DongABank tiếp tục làm thủ tục tất toán trên giấy, đảo nợ cho ông Ánh thành khoản vay mới là 1.900 lượng vàng từ ngày 28-1-2010.

Ông Bình và ông Ánh đã bàn bạc, thống nhất để ông Ánh nộp 32 tỉ đồng, là tiền tiết kiệm của ông Ánh tại DongABank. Còn ông Bình sẽ tiếp tục chỉ đạo tất toán khoản 1.900 lượng vàng của ông Ánh (tương đương 53 tỉ đồng).

Ngày 29-2-2012, cấp dưới của ông Bình đã làm phiếu thu khống 1.900 lượng vàng của ông Ánh để trả nợ gốc cho khoản vay ngày 28-1-2010. Cùng ngày, Hội sở DongABank lập phiếu thu tiếp nhận điều chuyển khống 1.900 lượng vàng về hội sở, chịu âm quỹ số vàng này.

Theo quy định, trường hợp khách hàng vay vàng nhưng trả bằng tiền thì bắt buộc phải dùng số tiền đó mua vàng của ngân hàng, rồi dùng số vàng trả lại cho ngân hàng. Tuy nhiên, CQĐT xác định được tại thời điểm ông Ánh tất toán khoản vay 1.900 lượng vàng ngày 29-12-2012 không phát sinh chứng từ mua vàng của ông Ánh đối với DongABank. Như vậy chứng từ trả nợ bằng vàng của ông Ánh không đúng quy định với hợp đồng.

Theo hồ sơ, ông Trần Phương Bình (nguyên tổng giám đốc, phó chủ tịch HĐQT và chủ tịch Hội đồng tín dụng Ngân hàng TMCP Đông Á) và bà Nguyễn Thị Kim Xuyến (nguyên phó tổng giám đốc DongABank) bị đề nghị truy tố hai tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Riêng bị can Phan Văn Anh Vũ (nguyên chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Xây dựng Bắc Nam 79 - viết tắt Công ty Bắc Nam 79) bị đề nghị truy tố về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

Ông Bình đã tổ chức, chỉ đạo các hoạt động ngân quỹ và đầu tư tại DongABank, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây thiệt hại cho ngân hàng này hơn 3.608 tỉ đồng, bao gồm 1.160 tỉ đồng trong việc ông Bình mua hơn 74.000 cổ phần DongABank; 437 tỉ đồng và 650 lượng vàng chi lãi ngoài; hơn 24 triệu USD và hơn 15.000 lượng vàng trong việc kinh doanh ngoại hối và kinh doanh vàng tài khoản trái phép… Chính vi phạm pháp luật nghiêm trọng của ông Bình dẫn đến DongABank tại thời điểm 31-12-2015 lỗ lũy kế 31.076 tỉ đồng, vốn chủ sở hữu âm 25.451 tỉ đồng và tổng tài sản thực chỉ còn 47.011 tỉ đồng… Vụ án đến nay đã có 26 bị can bị khởi tố đề nghị truy tố.

Phần nhận xét hiển thị trên trang