Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 12 tháng 9, 2018

Thói ‘ăn’ nếp ‘ở’ của người Việt qua cách nói


https://baomai.blogspot.com/

Thói ăn:

Không biết có phải do hoàn cảnh thiếu ăn thiếu mặc từ xưa, mà người Á đông nói chung, người Việt nói riêng, đặc biệt quan tâm tới miếng ăn. Ăn không phải chỉ để sinh tồn, mà còn để hưởng thụ. Ăn đứng đầu tứ khoái. Ăn cho sướng miệng cái đã, mấy chuyện khác tính sau.

Ở đâu lúc nào, một mình hay nhiều mình, cũng thấy ăn. Thui thủi, trơ trọi ở nhà, lục lọi trong bếp coi có cái gì ăn cho đỡ buồn. Ra đường, đi chơi hay lo việc, trước hay sau gì cũng phải kiếm thứ gì dằn bụng. Ăn sáng, ăn trưa, ăn chiều, ăn tối, ăn khuya. Vì vậy, trong kho tàng Việt ngữ có vô số động từ đôi đi chung với "ăn". Điểm này không thấy có trong ngôn ngữ của các dân tộc khác.

Nhưng "ăn" nhiều khi lại không có nghĩa là "ăn", mới lạ!

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Tụ họp đình đám, lễ lạt giỗ tết, người mình nói "ăn cưới", "ăn tết", "ăn giỗ", "ăn cúng", "ăn đám ma", "ăn đầy tháng", "ăn thôi nôi", … Từ "ăn" trong những nhóm từ này rõ ràng là hành động đưa thực phẩm vào miệng, nhai rồi nuốt, không thoát đi đâu được. Giống như "ăn" trong "ăn khín", "ăn chực", cũng là "ăn", nhưng hàm ý không mấy tốt, tới ăn không ai mời, hoặc có mời nhưng sau đó lại nhiếc móc sau lưng:

"Cái thằng đó ưa tới nhà mình nhằm giờ cơm để ăn khín mà không biết mắc cỡ!"

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Nhưng "ăn chực" trong thành ngữ "ăn chực nằm chờ" lại ngụ ý: kiên nhẫn chờ được giải quyết một vấn đề gì đó. Nguyên nhân có lẽ bắt nguồn từ xưa: mỗi khi dân chúng từ những làng quê xa xôi có việc tới nhà quan ở chợ, ở tỉnh, ở kinh thành, thường đem theo đồ ăn thức uống để lót bụng, vì biết chắc thế nào cũng phải chờ đợi lâu lắc, lắm khi dăm ba ngày liên tiếp: Ăn để chực chờ tới lượt được vô hầu quan lớn.

Còn có chuyện "ăn ké" nữa kìa! Trong vở tuồng ăn uống này, có hai vai: chính và phụ. Vai chính là người quyết định chuyện ăn, còn vai phụ "ăn ké" là kẻ chầu rìa, được vai chính cho gì ăn nấy, đôi khi là miếng ăn dư. Đó là nghĩa đen. Còn nghĩa bóng? Trong chuyện bài bạc, bài cào hay xì-dách, thường có người ít tiền hay nhát gan đứng ngoài, nhưng để ý coi tay con nào có số đỏ, lâu lâu lại chồng thêm tiền đặt ké, khi thắng gọi là "ăn ké".

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Phong cách ăn uống, nói năng giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong truyền thống phong tục, lễ giáo của người Việt. Con cái, đặc biệt là con gái, bởi lẽ thời xưa không được tới trường, được mẹ dạy cho "học ăn, học nói, học gói, học mở", coi như những chuẩn mực để xử thế và giao tiếp trong gia đình, họ hàng và ngoài xã hội. Nghĩ rộng, thấy bốn món "công, dung, ngôn, hạnh" được gói ghém gần như trọn vẹn trong đó. (Tới đây, người viết xin được mở dấu ngoặc, đặt dấu hỏi lớn về nghĩa đen và nghĩa bóng của cụm từ "học gói, học mở" trong thành ngữ này. Tự điển Việt ngữ có vài cách giải thích khác nhau, không biết thực hư ra sao?).

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Vậy, "ăn" khi đi chung với "nói" được hiểu là đối đãi, cư xử. Nhưng khi cặp kè với "nhậu", tuỳ theo cách nói, lại có nghĩa hoàn toàn khác: "Chuyện vợ chồng người ta không ăn nhậu gì tới mình, mình xía vô đâm ra mất lòng." Ở đây, không biết vì nỗi niềm trắc trở gì mà "ăn nhậu" đành đoạn chia tay, không còn luyến tiếc chút dư vị nào của "ăn uống, nhậu nhẹt" nữa, để cải trang, đổi lớp thành "dính líu, dính dáng". Lạ, nhưng không lớn!

Chuyện lớn chỉ thực sự xảy ra, khi "ăn" lỡ chung chạ với "nằm". Thử nghe mẹ quát con gái:

"Hả, cái gì? Bộ đui hay sao mà mày ăn nằm với cái thằng trời đánh thánh đâm, lưu manh láu cá đó? Trời ơi là trời, con ơi là con!"

Nhất định là phải có "ăn" vô đây thì "nằm" mới trọn nghĩa "tằng tịu" của nó, và được dùng để ám chỉ những trường hợp chung chạ xác thịt không chính thức. Vợ chồng với nhau, không ai, hoặc không nên, nói "ăn nằm", mà nói "ăn ở". Khi người vợ rưng rưng nước mắt trách cứ:

"Vợ chồng mình ăn ở với nhau bảy mặt con, không còn tình cũng còn nghĩa, mình nỡ lòng nào ăn nằm với con ở. Bây giờ, nó chang bang một bụng, em biết ăn nói sao đây với con cái?"

Nghe thương xót biết mấy! Và, "ăn nói" trong tình huống này, có thêm nghĩa "giải thích, làm sáng tỏ", ở đây là lý do tại sao cái bụng chị ở không dưng càng ngày càng phình lớn một cách vô cùng khó hiểu.

Chuyển qua "ăn vụng". Nghĩa đen ý nói "giải quyết cái đói một cách lén lút": "Nhà tôi có tật ăn vụng ban đêm, khuya nào cũng thức dậy, xuống bếp lục cơm nguội." Chuyện nhỏ, không sao cả. Nhưng tới lúc nàng nghiến răng trèo trẹo cảnh cáo: "Tôi nói cho anh biết, anh mà lén tôi đi ăn vụng, tôi biết được, đừng có trách tôi ác!" Và, tới khi bạn gái trề môi nhún mỏ rỉ tai nhau: "Ai kêu, ăn vụng không biết chùi mép, bị vợ đuổi ra khỏi nhà, đáng đời!", thì chuyện đã… mọc trăng sao, đang tối thành sáng trưng. Hành động "ăn vụng" trở mặt, chỉ còn độc nhất một nghĩa bóng: "Đã có gia đình, còn lén lút ngoại tình."

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Trực tiếp hay gián tiếp cùng nghĩa với "ăn", trong tiếng Việt có "ăn xin", "ăn mày": "Xin" người khác để có miếng ăn, để sinh sống. (Chữ "mày" trong "ăn mày" ngụ ý gì, có dính dáng gì tới "mày ốc", "mày ghẻ" hay không, người viết không rõ. Tìm trong tin mạng, thấy bác Google phán: "mày" có nghĩa bóng là "của bố thí".) Không riêng gì ở Việt nam, mà khắp nơi trên thế giới, đều có người ăn mày. Thậm chí, như ở Việt nam, nghe nói có cả làng sống bằng nghề ăn mày, từ đời cha tới đời con (?). "Ăn mày", lẽ đó, nghiễm nhiên trở thành cái nghề. Để rồi, từ "nghề" chuyển ra "nghiệp", đâu mấy hồi. Sinh ra, vướng nghiệp "ăn mày", cuộc đời hẳn nhiên rách, rách tả tơi. Đâu mấy ai nhờ đó mà "ăn nên làm ra"?

Qua tới các động từ "ăn cắp", "ăn trộm", "ăn cướp" thì đột nhiên "ăn" không còn ý nghĩa là hành động giải quyết cái đói nữa (hay có, nhưng rất gián tiếp), mà: lấy của người khác làm của riêng.

Ca dao có câu:

https://baomai.blogspot.com/   
Thì ra, không phải chỉ có nghề "ăn mày", có cả nghề "ăn trộm" nữa kia. Và, cái nghề này hứa hẹn một tương lai sáng sủa hơn nhiều. "Ăn trộm" trúng mẻ, trời ạ, "thu nhập" ngang ngửa ba năm làm. Nghe bắt ham!

Dĩ nhiên, đã là nghề thì phải có trường ốc đào tạo, để học viên rành rẽ bài bản sáu câu mùi mẫn sau khi tốt nghiệp học đường "ăn mày", và có chiến thuật tiến thoái gọn gàng, êm thắm, không để lại dấu vết khi thành tài "cử nhân ăn trộm". Theo học trường ốc ở đây, học viên không cần ghi danh, đóng lệ phí, cũng không nên hy vọng sẽ có ngày được bảng vàng ghi tên. Tất cả tuyệt chiêu, mánh mung được "sư phụ" tận tình chỉ giáo cho "đệ tử", và hẳn là lén lút theo truyền thống dân gian truyền khẩu, cha truyền con nối. Vì vậy, không thấy lưu lại sách vở, tài liệu gì, để hậu bối đưa lên tin mạng cho người viết tiện việc tra cứu.

Trong khi "ăn cắp" và "ăn trộm" mang nghĩa lén lút, lặng lẽ, lấm lét, lạnh lùng lấy "cắp" và lấy "trộm" của người khác làm của riêng, thì "ăn cướp" là dùng võ lực lấy công khai, nhiều khi sử dụng cả dao găm, súng đạn để tước đoạt cho bằng được.

https://baomai.blogspot.com/   

Khổ cho dân mình quá! Nhưng không phải chỉ có khổ không đâu, cũng có trường hợp dân chúng nhờ cướp mà sướng. Thời xưa, ở Tây có anh hùng Robin Hood, ở Tàu có "108 anh hùng Lương Sơn Bạc" là những anh hùng thổ phỉ, cướp của người giàu, phân phát cho dân nghèo.

Sướng không? Rủi thay, chỉ sướng… ảo, vì các vị anh hùng thảo khấu nêu trên toàn là những nhân vật huyền thoại. Thời nay, tin mạng loan tin, ở Mỹ có anh quản lý ngân hàng "vừa bị tuyên án 41 tháng tù giam vì tội đã lấy tiền ở một số tài khoản của ‘người giàu’ bù vào tài khoản của ‘người nghèo’ tại ngân hàng nơi anh ta làm việc." Khi bị phát giác, anh được các nhà tâm lý học chẩn bệnh, rằng anh mắc phải "hội chứng Robin Hood" (Robin Hood syndrome). Dù vậy luật sư vẫn không cứu vãn cho anh được trắng án. Thì ra, ngoài "hội chứng ăn cắp", danh từ khoa học là Kleptomania, còn có thêm "hội chứng ăn cướp"! Biết đâu chừng, dám có cả "hội chứng ăn chực, ăn khín" nữa, mà quý ông Sigmund Freud, Carl Gustav Jung chưa tìm ra!

https://baomai.blogspot.com/   

Đàn bà, con gái khi trong nhà không có gì ăn, tối tối ra đường ăn… sương, riết thành chuyên nghiệp. Người nào lỡ mang tiếng "gái ăn sương", không được ai thương hại, mà còn bị bêu rếu. Thời đại bây giờ, phụ nữ không còn độc quyền hành nghề này nữa, cả nam giới và, buồn thay, ngay cả thiếu niên nam nữ cũng nhảy vô cạnh tranh. Còn động từ "ăn đêm", tôi nghĩ, không hẳn đồng nghĩa với "ăn sương", mà gần với "ăn khuya" hơn. Ngoài ra, còn được dùng để chỉ "hành động đi kiếm mồi trong đêm tối" của muông thú, như trong bài đồng dao ru con:

https://baomai.blogspot.com/   

Ỷ mạnh hoặc vai vế lớn, người miền Bắc nói "bắt nạt", người miền Nam dùng động từ "ăn hiếp". Chúng ta thường nghe trẻ con hài tội lẫn nhau trong lớp học:

"Thưa cô, trò A ăn hiếp con, mượn con cục gôm, con đòi không chịu trả, còn kí đầu con nữa!"

Khi có kẻ thừa cơ "chôm" của, hoặc đợi anh hùng hảo hán ra tay trước, rồi hùa theo lấy, người Việt mình nói "ăn hôi". "Ăn tàn" trong thành ngữ "theo đóm, ăn tàn" cũng có nghĩa tương tự.
"Cái thằng đó là hạng người ‘theo đóm ăn tàn’, không hiểu sao mầy ăn ở với nó tới sáu mặt con!" Nghe nhục nhã lắm! Còn "ăn mót" nghe lại thấy tội: "Vợ chồng nó chuyên môn ăn mót lúa của người ta mà sống", và chẳng có gì đáng hãnh diện. Ấy mà tục ngữ có câu:

https://baomai.blogspot.com/   

Câu đầu, người viết không biết phải hiểu sao cho đúng. Có lẽ ở đây không hẳn chỉ nói chuyện đi mót lúa đem về nấu cơm? Và cả hai câu hàm ý bóng gió, khuyên người đời nên biết chọn ý trung nhân cho đúng… tâm nguyện "ăn uống" chăng?

Còn "ăn" trong "ăn quịt" nguyên thuỷ hẳn có nguồn gốc "ăn xong, lỉnh mất, không trả tiền". Về sau được dùng chung cho mọi trường hợp, khi tiền bạc không được thanh toán sòng phẳng. Hai bà chủ nợ khuyên nhủ nhau:

"Chị coi chừng cái thằng cha X, bản mặt nó bảnh bao vậy chớ chuyên môn mượn tiền rồi ăn quịt."

Còn chuyện "ăn chận" hay "ăn chặn" có nghĩa "lấy bớt". Những chuyện "ăn" nầy thường xảy ra trong "xã hội đen": Mấy tay đầu nậu, ma cô ma cạo "ăn chặn" tiền của băng đảng ăn xin, đĩ điếm đứng đường. Hãy nghe chị Nguyễn thị X., ăn sương bất hợp pháp ở phố Tây ba-lô, bị cảnh sát bắt quả tang, van nài: "Mấy ông tha cho tui lần nầy. Tại tui cần tiền nuôi mẹ già con dại, chồng bại liệt, nên mới làm cái nghề nầy. Kiếm được mười, bị thằng bảo kê ăn chặn mất bảy. Tui hứa, từ rày về sau sẽ làm ăn lương thiện."

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Cũng là "ăn chận", nhưng hợp pháp, thường thấy trong thị trường mua bán bất động sản, gọi là "ăn huê hồng" theo phần trăm, ký kết giao kèo đàng hoàng. Những người hành nghề nầy, theo ngôn ngữ hậu hiện đại, được mang danh xưng "bác sĩ nhà đất". Ông bác sĩ nầy không có phòng mạch cũng chẳng chữa bệnh ai, mà chỉ lo kinh doanh chuyện nhà đất, hưởng tiền hoa hồng. Những khi trúng mối, bán được nhà cho Việt kiều mệnh danh "triệu phú chả giò" hay "tỷ phú bánh mì", kiếm bộn bạc chứ chẳng chơi.

Khi "ăn" cặp kè với "vạ", ngộ nghĩnh thay, "ăn" bay mất nghĩa gốc. "Ăn vạ" là tiểu xảo thường thấy ở tâm lý lì lợm của trẻ con và… cầu thủ đá banh. Nhiều bà mẹ thường than phiền:

"Thằng út nhà tôi, mỗi lần đòi gì không được là lăn ra ăn vạ, khóc lóc thảm thiết, thấy ghê lắm!"

Hoặc:

https://baomai.blogspot.com/ 
  
"Cầu thủ Y cố tình ăn vạ, thay vì được quả phạt đền, lại bị trọng tài phạt vạ thẻ vàng."

"Ăn" trong trường hợp này, có lẽ gián tiếp ngụ ý "cầu thắng, để đạt được mục đích" chăng?
Tản mạn thêm chuyện bài bạc. Tứ sắc là trò chơi bài lá thông dụng ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Người viết biết chơi bài nầy từ nhỏ, được má, dì và bà ngoại chỉ vẽ vào những dịp Tết. Thông thường, tứ sắc gồm bốn tay. Khi chơi có luật, nói theo "ngôn ngữ tứ sắc", cấm "ăn sang sông". Có nghĩa đại khái, tay bài không được phép xé đôi trong bộ tướng-sĩ-tượng, xe-pháo-mã hay bộ chốt để "ăn" bài trên tay của hai người ngồi bên phải đánh ra hoặc kéo từ trong "nọc", giành mất cơ hội của người khác. Như vậy, từ "ăn" trong trường hợp này, có nghĩa là "giành lấy" (lá bài tứ sắc) về phần mình. Ai chơi trái luật, bị bắt quả tang, sẽ bị phạt đền, bù tiền cho những người thua bàn ấy. 

Cũng chuyện đỏ đen, bài bạc. Vợ chồng Năm Chuột là dân cờ gian bạc lận, sống bằng nghề "bài ba lá". Ngày nào đi làm về, anh Năm cũng bị vợ vặn hỏi:

"Bữa nay ăn thua sao rồi?"

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Không thoát đi đâu được, "ăn" ở đây đồng nghĩa với "thắng". Giống như trong thành ngữ "ăn thua đủ", có nghĩa "so tài đọ sức cho tới lúc thắng thua minh bạch mới thôi":

"Tư Lùn là tay anh chị thuộc hạng dế ốc tiêu, vậy mà gan cùng mình, dám ăn thua đủ với dế cơm Hai Búa, không sợ sứt càng gãy gọng sao ta!"

Hoặc trong "ăn gian": Gian lận để thắng. Nhưng nhiều khi còn được sử dụng thay cho "gian dối":

"Cô hoa hậu ăn gian chiều cao, lùn xịt 1 thước 55 thôi mà dám nổ, nói cao 1 thước 70!"
Chuyện nhỏ. Còn có người "ăn gian" trí thức nữa kia! Hãy nghe chị em bạn gái tâm sự với nhau:

"Chị lấy nó về làm chồng, mới biết nó là đứa ăn gian bằng cấp, đi du học Liên-xô chỉ được bằng phó tiến sĩ thôi, mà dám khoe mình là tiến sĩ, nghe có tức không?"

Khi ai muốn dằn mặt, cảnh cáo kẻ khác, chỉ cần đeo vũ khí, đạn dược cho "ăn" là đủ:

"Nói cho mầy biết, chớ có đụng vô con nhỏ đó, chồng nó cho mầy ăn dao tức thì!"

Hoặc khi đi chung với những hành động không mấy nhẹ nhàng như "tát", "đấm", "đá", v.v… thì "ăn" có nghĩa "nhận lãnh, gánh lấy hậu quả" không mấy êm đẹp. "Con bé coi vậy mà dữ, tao chỉ mới khều mông một cái nhẹ hều, đã bị nó cho ăn tát." Đối với trẻ con, ăn gì cũng thích, chỉ không hảo mấy món "ăn đòn", "ăn roi", "ăn chổi lông gà", v.v… mà thôi.

Gặp trường hợp bà mai đưa ảnh cho anh chàng kiếm vợ coi mặt, thòng theo câu nói:

"Tại con nhỏ chụp hình không ăn ảnh, chớ ngoài đời cổ ngó coi đẹp gái lắm, chú à!" Hoặc có ai đó chặc lưỡi xuýt xoa: "Cô đào X lúc nhỏ té thùng đinh, mặt rỗ như tổ ong, vậy mà tô son dặm phấn lên sân khấu, ăn đèn dễ sợ!"

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Từ "ăn" trong những trường hợp này, bỗng dưng mất bén nghĩa gốc, mà có nghĩa "thích hợp, hoà hợp" với kỹ thuật chụp ảnh trong "ăn ảnh", hoặc với ánh đèn sân khấu trong "ăn đèn".

Nghĩa cũng gần như vậy, người Việt nói "ăn nhịp", thường được sử dụng khi đàn ca hát xướng, và "ăn khớp" để chỉ trường hợp nói năng, hành động sao cho hợp lý, không mâu thuẫn nhau. Anh dẫn em đi quán bia ôm, trước khi về nhà, thằng anh thủ thỉ dặn dò thằng em:

"Má hỏi, mày nhớ nói là mình đi ăn sinh nhật bạn cho ăn khớp, không thôi bả đánh nát đít!"
Cùng nghĩa như vậy, nhưng đi đôi với tiếng… nước ngoài, Việt ngữ có động từ "ăn rơ", với "rơ" được phiên âm từ jeu (trò chơi, cuộc chơi) của tiếng Pháp. "Trời ơi, chị em nhà Williams chơi quần vợt đôi ăn rơ với nhau hết sức." Lẽ đương nhiên, cách nói này chỉ bắt đầu thông dụng từ khi có mặt người Pháp, ở thành thị, cũng như trong giới có… ăn học, hoặc làm dáng trí thức.
Phần trên có nhắc tới động từ kép "ăn ở", ngoài ý nghĩa "đời sống vợ chồng" còn hàm ý chỉ "cách xử thế, đối đãi" với nhau, như trong trường hợp vợ Năm Chuột than thở cùng chồng:

"Lúc nào vợ chồng mình cũng ăn ở hiền lành, phước đức, mà sao nghèo hoài hổng biết!"

Nhưng khi người mẹ xẳng giọng với anh con trai đã ngoài năm mươi vẫn còn độc thân:

"Mầy cứ ăn ở keo kiết như vậy, có chó cái nó lấy mầy làm chồng."

Hoặc khi cô con gái lắc đầu nguây nguẩy:
"Con không ưng anh ấy đâu, người gì mà ăn ở dơ dáy như heo!"

Nghĩ kỹ, thấy ra "ăn ở" đổi nghĩa hoá thành "thói ăn nếp ở" hoàn toàn có tính cách cá nhân, không đụng chạm gì tới người khác.

Thành ngữ Việt Nam có vô số câu liên quan tới "ăn". "Ăn không", tiếng miền Nam, cùng nghĩa với "ăn vã", tiếng miền Bắc, ý nói, chỉ ăn món chính, không kèm theo cơm, cháo, v.v… Khi đi chung với "ngồi rồi", thành "ăn không ngồi rồi", có nghĩa "rỗi việc", nhưng không mấy tốt, gần như "vô tích sự". Hãy nghe người vợ than thở:

"Từ khi anh ấy bị muỗi voi chích tới giờ, suốt ngày ảnh ăn không ngồi rồi, bí rị một chỗ, thấy chán lắm!"

https://baomai.blogspot.com/ 
  
"Ăn xổi", với trạng từ "xổi" ("qua loa, tàm tạm", thí dụ: cà pháo muối xổi), thuần tiếng Bắc, đi chung với "ở thì" ("ở ngắn hạn, nhất thời, có giai đoạn"), thành "ăn xổi ở thì": nghĩa đen ý nói kẻ nào ăn ở với ai đó một thời gian ngắn để trục lợi, nghĩa bóng ám chỉ hạng người chỉ biết lợi dụng, bạc tình bạc nghĩa.

Truyện Kiều có đoạn, khi chàng Kim lơi lả buông lời ong bướm, ngôn ngữ hiện đại nói là "thả dê", đòi… ăn nằm, nàng Kiều bèn thỏ thẻ xổ… Nho và thành ngữ cảnh giác:
"Phải điều ăn xổi ở thì,

Tiết trăm năm, nỡ bỏ đi một ngày! "

Rõ là nàng Kiều được Vương ông Vương bà dạy cho "học ăn, học nói, học gói, học mở" khéo thì thôi! 

- Nếp ở:

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Bàn thêm chuyện ăn uống. Ở miền Trung, miền Nam, những khi giỗ quải người ta thường làm bánh ít để cúng. Bánh được làm bằng bột nếp, nhưn đậu hay dừa, gói bằng lá lùn và lá chuối, rồi đem hấp. Nhưng cũng có loại bánh ít không lông không lá gì hết, mang tên bánh ít trần. Cổ tích dân gian có truyện "Trần Minh khố chuối". Nhân vật chính tên Trần Minh, con nhà nghèo, nghèo mạt rệp, không có áo để mặc, phải xé lá chuối làm khố. Viết tới đây, người viết băn khoăn, bật ra thắc mắc, không rõ cái họ Trần trong tên Trần Minh có phải dùng ám chỉ người con trai tên Minh không mặc áo? Người viết không dám võ đoán, chỉ biết chắc một điều, "ở trần" có nghĩa "không mặc áo". Còn "ở truồng" là "không mặc quần". Ở Việt Nam, trời nóng, đàn ông con trai ở nhà thường "ở trần" cho mát. Còn phụ nữ, đôi khi có người đãng trí chín mươi chín phần trăm, mặc áo dài, nhưng quên mặc quần, cũng gọi là "ở truồng". Ai đó, liều mình xếch-xy trăm phần trăm trước công chúng, gọi là "trần truồng". Có điều, chưa nghe ai nói "ở trần truồng" bao giờ!

Có chuyện tiếu lâm: Người múa được gọi là "vũ công", người dạy khiêu vũ là "vũ sư". Còn cảnh hai người đàn bà nhào vô "ăn thua đủ" trong màn đánh ghen gọi là gì? Câu trả lời hợp lý nhất: "Vũ xếch-xy".

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Khi đứng trơ trọi một mình, "ở" có nhiều nghĩa, và không phải chỉ đóng vai trò động từ: "Anh ở lại đây với em tối nay nghen! Ở một mình, em sợ ma quá hà!", mà cũng có thể là giới từ chỉ định xuất xứ, vị trí: "Cô ấy ở quê mới lên, nên ưa đi chân không ở trong nhà."

Khi "ở" kết bạn với "đậu", "trọ" hoặc "ké", có nghĩa "sống nhờ, sống cậy" vào người khác một khoảng thời gian ngắn. Đi chung với "đợ", hoặc với "người" thành "người ở": "tới sống chung để giúp việc nhà có lãnh lương".

"Con nhỏ đó ở dưới quê lên Sài gòn ở đậu nhà bà con, chờ kiếm ra chỗ ở đợ."

Cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có sáng tác bài hát tựa đề "Ở trọ", nội dung không dính líu gì tới mấy chuyện cậy nhờ đợ đậu vừa nói ở trên, mà hoàn toàn khác. Thử nghe lại vài câu:

"Con chim ở đậu cành tre Con cá ở trọ trong khe nước nguồn Tôi nay ở trọ trần gian Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời ..."

https://baomai.blogspot.com/ 
  
Hẳn là người nhạc sĩ muốn mượn triết lý Phật giáo, ví von trần gian, còn gọi là cõi ta-bà theo ngôn ngữ nhà Phật, là chỗ trọ của chúng sinh. Đời người ngắn ngủi như một sát-na, thoảng qua như chớp mắt, tựa hồ quãng thời gian ở tạm trong chuỗi luân hồi dằng dặc.

Với "ở vậy", theo người viết, có hai nghĩa: "ở vá": độc thân, không lập gia đình (có tự điển ghi thêm, "vá" cũng còn có nghĩa như "goá"). Hoặc, "ở goá": sau khi vợ hoặc chồng chết, không lấy người nào khác. V.v… và v.v… Tựu trung, trong tất cả những trường hợp nêu trên, "ở" có nghĩa "hoàn cảnh gia đình".

Ở trên có nhắc tới "ăn không", với "ở" ta có "ở không": rảnh rỗi, không làm gì cả. "Nhân lúc vợ ở cữ, thi sĩ ở không, bèn lấy giấy viết tí toáy làm thơ tình gởi đăng nhật trình." Tới đây, ta có thêm "ở cữ": hoàn cảnh, thời gian sau khi sinh nở, cần kiêng cữ.

Thời trước, thi sĩ trào phúng Tú Mỡ có làm bài thơ tựa đề: "Sư cô ở cữ".

https://baomai.blogspot.com/   

"Ăn" với "ở", tóm lại, thường đi đôi với nhau như hình với bóng, như đũa có đôi, như môi răng, miệng lưỡi đặc thù hương vị ngôn ngữ của người Việt. Người viết xin được kết thúc bài tiểu luận ở đây với câu ca dao "hậu hiện đại" tự biên tự chế:

https://baomai.blogspot.com/   



Richard Lam

https://baomai.blogspot.com/

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ngô Nhân Dụng - Putin và Tập Cận Bình cùng thao diễn quân sự



Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (trái) và Tổng Thống Nga Vladimir Putin cùng nâng ly trong một Hội Đàm Kinh Tế Đông Phương ở Vladivostok, Nga, hôm Thứ Ba, 11 Tháng Chín, 2018. (Hình: Sergei Bobylev/TASS News Agency Pool Photo via AP)

(NgườiViệt 11/09/2018) Quân đội khối NATO đang thao dượt tại vùng Lviv, phía Tây nước Ukraine. Bốn ngày trước khi cuộc tập dượt chấm dứt, hôm Thứ Ba, 11 Tháng Chín, Nga bắt đầu một cuộc thao diễn quân sự lớn ở Siberia. Quân đội Trung Quốc và Mongolia cũng tham dự.

Cuộc tập trận Rapid Trident 2018 của NATO rất khiêm tốn, chỉ có 2.200 quân tham dự, mặc dù gồm 14 nước, kể cả Mỹ. Cuộc thao diễn Vostok 2018 của Nga có thể nói là “vĩ đại,” với 300.000 quân (một phần ba quân số), 36.000 xe thiết giáp, hàng ngàn phi cơ chiến đấu trên bốn căn cứ không quân, 80 chiến hạm biểu dương trong ba vùng, biển Nhật Bản, biển Okhotsk và eo biển Bering.

NATO nói thẳng mục đích của cuộc tập trận là bảo vệ an ninh và chủ quyền của Ukraine, một nước trước đây thuộc Liên Bang Xô Viết, mới bị Nga chiếm mất vùng Crimea năm 2014.

Bộ Quốc Phòng Nga thì công bố mục đích của Vostok 2018 hoàn toàn có tính cách “phòng ngự.” Họ muốn quân đội “sẵn sàng chống cự mọi cuộc xâm lăng.” Bộ Quốc Phòng Nga công nhận đây là cuộc thao diễn lớn nhất, kể từ cuộc tập trận Zapad 1981 ở vùng biên giới cạnh các Đông Âu nước ở phía Bắc. Trong tiếng Nga Vostok là hướng Đông, Zapad là Tây.

Trung Cộng gởi hơn 3.000 quân sĩ, sáu phi cơ, 26 trực thăng trong đó có những chiếc Mi-171, Z-9 và Z-19 mua của Nga; cùng 900 thiết giáp và thiết vận xa tham dự Vostok 2018. Quân đội Cộng Hòa Mông Cổ cũng có mặt, để gọi đây là một cuộc thao diễn quốc tế.

Hai ông Vladimir Putin và Tập Cận Bình sẽ cùng đến quan sát một phần cuộc thao diễn. Điều này cho thấy một mục tiêu ông Putin nhắm tới là: Cho cả thế giới thấy Nga và Trung Cộng đang sáp lại gần nhau.

Trong những cuộc tập trận Vostok trước đây quân đội Nga cũng được điều động để chống một đạo quân xâm lăng giả tưởng, mà ai cũng suy diễn quân xâm lăng đến từ Trung Quốc. Nhưng năm nay, hiển nhiên “quân địch”không phải là quân Tàu nữa! Chắc cũng không phải là Nhật Bản, vì Thủ Tướng Nhật Shinzo Abe sắp đến họp mặt với Tổng Thống Vladimir Putin và Chủ Tịch Tập Cận Bình ở Vladivostok trong một Hội Đàm Kinh Tế Đông Phương, trong thời gian cuộc tập trận diễn ra. Cuối cùng, chỉ có thể đoán“quân địch giả tưởng” trong cuộc tập trận của Nga là quân Mỹ!

Trung Cộng và Nga đã từng đối nghịch nhau từ thời Stalin và Mao Trạch Đông; cuộc tranh hùng lên điểm cao nhất vào năm 1969, khi hai bên bắn nhau bên dòng sông Áp Lục. Nhân cơ hội đó, Tổng Thống Mỹ Richard Nixon đã mở đường giao thiệp với Chủ Tịch Mao, đánh dấu bằng cuộc gặp gỡ lịch sử năm 1972.

Ông Nixon đã “đánh lá bài Trung Quốc” trong chiến lược cô lập hóa Liên Xô, làm cho khối Cộng Sản tách đôi và không bao giờ ráp lại được nữa cho đến khi Liên Bang Xô Viết tan hàng.

Bây giờ đến lượt Putin, cũng muốn dùng Trung Cộng như một quân bài lập mặt trận chống Mỹ. Năm 1989, Mikhail Gorbachev đã nối lại tình hữu nghị với Trung Cộng trước khi đế quốc Liên Xô sụp đổ, và sau đó Boris Yeltsin, Vladimir Putin vẫn tiếp tục.

Ông Putin có lý do để thắt chặt bang giao với nước láng giềng phía Nam; vì Nga đang bị cả khối Tây phương phong tỏa kinh tế sau khi cưỡng chiếm Crimea. Nga đã ký những hợp đồng cung cấp dầu, khí cho Trung Quốc, và hoan nghênh tiền vốn của Bắc Kinh đem đầu tư vào công nghiệp năng lượng. Mặc dù giá dầu lửa đã tăng lên gần đây, nhưng kinh tế Nga còn trì trệ vì vẫn nằm trong tay những đại gia thân cận với ông Putin. Hành động can thiệp của Nga vào Syria, kết thân với Iran chống các nước Á Rập theo phái Sun Ni Hồi Giáo khiến Nga sẽ còn bị tẩy chay. Trước viễn tượng bị cô lập trong hàng chục năm tới, Putin muốn chứng tỏ cho các nước Tây phương biết rằng ông ta còn có nhiều cơ hội khác.

Nga đã phát triển lực lượng tàu ngầm, mở đường đi vào vùng Bắc Cực, đe dọa thế giới với các loại chiến đấu cơ và bom hạch tâm mới. Trong tuần này, hai chiếc tàu chở dầu lớn của Nga, với dung tích 172,000 mét khối đã tới Giang Tô trong vòng 19 ngày nhờ đi đường tắt qua Bắc Cực, thay vì thường đi qua kênh Suez mất 35 ngày. Trung Cộng gọi con đường biển mới này là Đường Tơ Lụa Bắc Cực.

Màn tập trận “đại bàng” đang bắt đầu cũng nhằm biểu diễn sức mạnh quân sự của Nga, để làm nản lòng các nước đang duy trì cuộc cấm vận vì vụ Crimea năm 2014 và Nga dùng tay sai âm mưu lật đổ chính quyền Ukraine. Nếu phong tỏa kinh tế không làm cho Nga yếu đi về quân sự thì tiếp tục để làm gì? Tiếp tục cấm vận Nga thì sẽ chỉ đẩy nước Nga vào tay Trung Cộng, lợi hơn hay hại hơn? Đó là những thông điệp ông Putin muốn gửi đi!

Đối nội, Putin muốn dùng sức mạnh quân sự khích động tinh thần dân tộc tự tôn của dân Nga để củng cố chế độ độc tài phe đảng của ông. Ông đã cho tái lập các cuộc duyệt binh ở Quảng Trường Đỏ vì mục đích đó.

Trung Cộng đến tham dự cuộc tập trận Vostok 2018 cũng nhằm học tập kỹ thuật điều động quân đội của Nga trong một chiến dịch rộng lớn. Từ hơn nửa thế kỷ nay, quân đội Trung Cộng chưa thực sự tham dự một cuộc chiến lớn nào. Họ thiếu “kinh nghiệm chiến trường” trong việc điều phối hàng trăm ngàn quân, trong kỹ thuật thông tin ngoài mặt trận, sử dụng các khí giới mới, đối đầu với các vũ khí mới của quân địch.

Trong Vostok 2018, Không Quân Nga thao dượt cả hệ thống chống loại hỏa tiễn Cruise bay thấp là mặt đất, mà quân đội Mỹ đã sử dụng nhiều lần ở Iraq, Lybia và Syria. Quân Trung Cộng đã được trang bị với loại hỏa tiễn nhắm mục tiêu này nhưng chưa từng được đem thử trên mặt trận.

Hai ông Tập Cận Bình và Vladimir Putin cũng chia sẻ một mối lo chung là luôn luôn phải đề phòng một cuộc nổi dậy của người dân bị trị trong nước họ. Không một chế độ độc tài nào có thể ngủ yên vì họ biết dân chúng chỉ chịu đựng nhất thời, chứ không bao giờ bị khuất phục hoàn toàn. Cuộc tập trận Vostok 2018 sẽ cho thấy khi cần điều động quân đội dẹp tan những cuộc cách mạng thì phải làm gì.

Để ve vãn ông Tập Cận Bình, ông Putin đã cho bán những vũ khí tối tân nhất như hỏa tiễn S-400 và phi cơ SU-35 loại mới nhất. Trong chuyến công du vào Tháng Tư năm nay tới Matskơva, một người thân cận của ông Tập Cận Bình là Tướng Ngụy Phong Hòa (Wei Fenghe, 魏凤和), nguyên chỉ huy trưởng lực lượng hỏa tiễn của TQCG, đã tuyên bố rõ ràng: “Trung Quốc muốn cho nước Mỹ thấy mối giao hảo của quân đội mình với quân đội Nga.”

Nhưng tình hữu hảo giữa hai nước Nga, Hoa có thực sự chặt chẽ và bền vững hay không?

Về mặt kỹ thuật và kinh tế Trung Quốc không thể học hỏi (hoặc ăn trộm) được điều gì từ nước Nga để giúp họ phát triển cho bằng Mỹ và Châu Âu trong vài chục năm tới, như ông Tập Cận Bình đang nuôi tham vọng.

Di sản lịch sử cho thấy hai nước Nga, Trung không bao giờ tin nhau. Cuộc bang giao hoàn toàn dựa trên những tính toán vụ lợi mà không chia sẻ những giá trị cao hơn, cũng không được đặt trên những quy tắc bền vững như luật pháp quốc tế. Khi nào thấy bớt lợi lộc thì hai bên sẵn sàng chia tay.

Mà nước Nga không thể mang lợi cho nước Tàu, không có những thị trường tiêu thụ lớn, cũng không có tư bản và kỹ thuật mạnh để trao đổi. Ông Tập Cận Bình đã lợi dụng thế yếu của ông Putin để ký những hợp đồng về năng lượng với giá rẻ, nhưng ngay cả vai trò của dầu lửa và khí đốt cũng mất tầm quan trọng trong nền kinh tế hiện đại!

Một điều ai cũng thấy trước mắt, là bọn đầu sỏ cầm đầu guồng máy nhà nước và các đại gia Nga không gửi tiền hoặc gửi con cái du học sang Bắc Kinh hay Thượng Hải mà vẫn gửi qua London hay New York!

Nhưng nước Mỹ vẫn nên rút ra một bài học khi chứng kiến cuộc bắt tay thân thiện giữa Vladimir Putin và Tập Cận Bình. Thời 1970, Mỹ đóng vai chủ động trong kế hoạch ly gián Liên Xô và Trung Cộng. Hiện nay Mỹ đã mất vai trò cầm chịch. Thời 1970, trong ba nước thì Trung Cộng yếu nhất. Ngày nay, Nga là nước yếu nhất, còn Trung Quốc đang lên. Trung Cộng không những đang tiến vào Châu Phi, Châu Âu và vùng Trung Đông, mà có thể sẽ bao vây Nga với vòng đai các nước Trung Á trước đây thuộc Liên Bang Xô Viết.

Đối thủ của Mỹ trong thời gian tới không phải Nga mà là Trung Cộng. Để đối phó với chế độ độc tài đảng trị và âm mưu bành trướng của Trung Cộng, nước Mỹ phải thắt chặt thêm quan hệ với những quốc gia tự do dân chủ dựa trên quyền lợi hỗ tương và chia sẻ các giá trị chung. Mỹ không thể đứng cô lập mà phải đóng vai tích cực bảo vệ những lý tưởng dân chủ tự do, tôn trọng luật pháp, củng cố những định chế quốc tế duy trì những giá trị đó.


NGÔ NHÂN DỤNG

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Giáo viên lão thành TQ sụp đổ niềm tin sau chuyến đi khảo sát ở Mỹ


http://trithucvn.net/ Mới đây, một giáo viên trung học có kinh nghiệm giảng dạy mấy chục năm ở Bắc Kinh sau một lần đến Mỹ khảo sát, đã cảm thán rằng: “Tôi còn đáng sợ hơn cả những kẻ hối lộ, tham ô hủ bại”. Vì sao ông lại có sự thay đổi lớn đến vậy về nhận thức của mình? Cùng xem câu chuyện của người thầy này.
(Ảnh: americanwebdream.com)
1. Biếu quà giáo viên hàng trăm nghìn tệ, cuối cùng vẫn cho con ra nước ngoài
Ông kể: Trong 30 năm làm giáo viên ở Bắc Kinh tôi đã tiếp xúc với rất nhiều phụ huynh học sinh, người mà tôi có ấn tượng sâu sắc nhất là một phụ huynh hay biếu quà, có lẽ có rất nhiều người nghĩ rằng chắc hẳn là phụ huynh này biếu quà rất long trọng khiến tôi vui mừng, nhưng hoàn toàn không phải thế.

Tuy tôi cũng chẳng phải là cao thượng gì, nhưng ít nhất thì bao nhiêu năm qua, tôi vẫn kiên trì không nhận quà của phụ huynh học sinh, đây là nguyên tắc. Xuất phát từ sự lịch sự nên tôi không từ chối ngay, mà lắng nghe ông ấy nói về nỗi khổ của mình. Ông ấy nói, “Khó! Không ngờ muốn chuyển trường cho con lại khó đến vậy.”

Vốn dĩ gia đình họ đã có thẻ xanh của Mỹ rồi, con họ cũng có thể đi Mỹ học, nhưng việc kinh doanh đều ở Trung Quốc, con còn nhỏ, họ không muốn để con đi xa một mình. Nhưng đi học ở Bắc Kinh còn khó khăn hơn cả việc lấy thẻ xanh của Mỹ nữa. Ông ấy đã tìm 3 người trung gian rồi, mỗi người ông ấy đều trả 50.000 tệ mà đến bây giờ vẫn chưa làm xong thủ tục cho ông ấy, mà dù có làm được hay không cũng không trả lại tiền.

Tôi nói với ông ấy, thứ nhất, ông ấy tìm tôi cũng vô dụng thôi, quyền chiêu sinh là của nhà trường; thứ hai, tôi không nhận quà, đây là nguyên tắc. Ông ấy có hơi không tin, nhưng cũng vui vẻ nói không ngờ vẫn còn một giáo viên tốt như tôi rồi bỏ đi.

Đây chính là ấn tượng đầu tiên của tôi về ông ấy, nói thật thì là rất tệ, giống hệt như những phụ huynh có tiền trong suy nghĩ của tôi trước đó, họ nghĩ rằng tiền giải quyết được mọi thứ. Vài tháng sau trong một buổi họp phụ huynh, tôi bất ngờ khi nhìn thấy ông ấy, mà con của ông ấy lại chính là học sinh mới chuyển vào lớp tôi vài tháng trước.

Ông ấy thấy tôi bất ngờ nên cười ngại ngùng, sau đó ông ấy hẹn riêng tôi ra nói thật rằng cuối cùng có một người trung gian làm xong cho ông ấy rồi, họ tìm được cơ hội mời hiệu trưởng dùng bữa, còn về việc đã biếu hiệu trưởng bao nhiêu tiền thì ông ấy không nói, hơn nữa ông ấy còn cười nói mình cố ý nhờ hiệu trưởng nếu được vào học thì gửi vào lớp của tôi, tôi là một giáo viên tốt, nếu con được học với tôi thì sẽ thành tài.

Mọi người có biết tôi cảm thấy thế nào không? Khi đó tôi thật sự là dở khóc dở cười. Trong lòng nghĩ các ông bà phụ huynh này vì đạt được mục đích của mình mà đi là những việc không có nguyên tắc này, nhưng lại nghĩ trăm phương ngàn kế để con mình theo học một giáo viên có nguyên tắc, các vị không thấy mâu thuẫn sao?

Sau này khi con của ông ấy lên lớp 12 thì được đưa đi Mỹ. Tôi cũng đã dự đoán trước được điều này, đây chẳng phải là cái gì cũng muốn sao? Cơ sở giáo dục của Trung Quốc tốt, còn trường đại học ở Mỹ chất lượng cao, đây là điều mà các vị đã lên kế hoạch sẵn rồi đúng chứ? Khi ông ấy gửi con đi còn nói với tôi giáo dục ở Mỹ tốt đến mức nào, tôi chỉ lạnh nhạt nói, đúng vậy, Mỹ phát triển hơn ở đây những mấy chục năm mà.

2. Không ngờ người “làm giáo dục” lại bị “giáo dục dạy”

Vài năm sau, tôi cùng trường đi khảo sát, chúng tôi dùng danh nghĩa giao lưu học thuật để đến nước Mỹ “phát triển hơn mấy chục năm” ấy. Khi thật sự nhìn thấy “nền giáo dục trong truyền thuyết” của Mỹ, tôi hoàn toàn không chấp nhận. Đúng vậy, ở một số phương diện nào đó, lớp học của Mỹ sôi nổi hơn chúng ta, cách dạy học cũng cởi mở hơn, nhưng những sự “náo nhiệt” này là để cho người ngoài xem, còn những người trong nghề thì chỉ thấy là “làm trò” thôi.

Suy cho cùng thì bất cứ nền giáo dục nào cũng đều phải xem kết quả, ở Trung Quốc kết quả này là điểm số, còn ở Mỹ thì lại là các kỹ năng, bản chất là giống nhau. Để đạt được kết quả này, các em học sinh vẫn phải học hết sức, tôi nhận thấy áp lực của học sinh ở Mỹ cũng không kém hơn học sinh Trung Quốc là bao.

Sự chứng minh rõ ràng nhất là ở Mỹ người ta cũng dùng chia cấp lớp thành lớp nhanh và lớp chậm. Sau khi nghe giáo viên ở Mỹ giới thiệu chế độ này với chúng tôi, tôi đã hỏi vấn đề khiến mình hối hận đến tận bây giờ. Tôi hỏi, nếu học sinh chỉ ở mức “lớp chậm”, phụ huynh liệu có bỏ tiền để con vào “lớp nhanh” không?

Giáo viên Mỹ kia nghe xong liền nhìn tôi như thể người sao Hỏa vậy, cô ấy không thể hiểu nổi: “Vì sao phải cho trẻ không đủ trình độ vào lớp nhanh chứ? Phụ huynh trả tiền? Chẳng lẽ trường học ở Trung Quốc thường hay như vậy sao?” Khi đó tôi đỏ mặt xấu hổ, bèn nói: “Ở chỗ chúng tôi đây cũng chỉ là chuyện ngẫu nhiên thôi”. Thật ra thì trong lòng tôi biết rõ là những việc như thế này không hề ngẫu nhiên, mà là thường xuyên, tôi đã nói dối.

Tiếp sau đó, giáo viên Mỹ nọ giải thích cho chúng tôi về nguồn gốc của chế độ chia lớp. Tư chất của mỗi em học sinh là khác nhau, vì vậy nếu dùng phương pháp dạy học giống nhau thì hiển nhiên là không phù hợp. Vì thế họ chia các em học sinh có khả năng hiểu tốt, học hành tiến bộ vào một lớp, những em bình thường vào lớp khác.

Nếu các em trong lớp nhanh học nhanh thì thậm chí có thể học được những môn ở đại học ngay từ cấp ba. Các em thuộc lớp chậm nếu cảm thấy mình đủ sức thì hoàn toàn có thể tự xin vào lớp nhanh. Chứ giáo viên ở Mỹ hoàn toàn không thể hiểu nổi những trường hợp chạy tiền để vào lớp nhanh.


Cuộc trò chuyện này khiến tôi rất lâu không thể bình tĩnh lại được, dù sau khi về nước, tôi vẫn cứ suy nghĩ. Ở Mỹ, giáo dục và biếu quà là hai điều không thể có liên quan đến nhau được, nếu phụ huynh và giáo viên không làm gương được cho con trẻ, dù có học ở trường tốt đến mấy cũng để làm gì chứ?

Tuy tôi không nhận quà, nhưng tôi lại không thể từ chối nhận các em học sinh được gửi vào lớp nhờ biếu quà hiệu trưởng, thân là giáo viên, tôi vừa dạy cho học sinh đạo lý là người, vừa không thể không tham gia vào những cuộc giao dịch không sạch sẽ như vậy, tôi lại chưa từng cảm thấy hổ thẹn, mà ngược lại còn tự xem mình là thanh cao. Có lẽ nguyên tắc của tôi cũng chỉ là do bản thân tôi yếu đuối nhát gan không dám nhận quà mà thôi.

Tôi cứ nghĩ mãi về câu nói “Bạn cho rằng mình đang làm giáo dục, thật ra bạn đang bị giáo dục dạy”. Trước đây tôi chỉ cười cho qua, còn tự cho rằng mình là người làm giáo dục hơn nửa đời rồi, bây giờ xem ra chẳng qua cũng chỉ là bị giáo dục dạy cho mà thôi.

3. Điều đáng sợ hơn cả hối lộ


Tôi lại nghĩ đến phụ huynh muốn biếu quà cho tôi. Tôi bắt đầu hiểu ông ấy, tuy tôi không đồng ý với việc ông ấy làm, nhưng đều là do nền giáo dục của chúng ta ép ông ấy thành ra như thế. Mà sự giáo dục này không chỉ đơn thuần là của nhà trường, mà là của cả xã hội. Còn nhớ có một chuyên gia giáo dục Trung Quốc từng nói: “Người xấu trong xã hội này đều từng là học trò của chúng ta”.

Là một người làm giáo dục, tôi từng có lý tưởng, cũng từng có mong muốn mình sẽ có rất nhiều học trò, nhưng tôi lại ngày càng không biết bản thân mình nên tin vào cái gì nữa rồi… ngoại trừ việc có thể kiên trì không nhận quà. Mỗi khi nhìn thấy các quan chức tham ô khóc lóc xin lỗi người dân trên TV, tôi đều không thể không cảm thấy đáng tiếc.

Có lẽ trong số họ thật sự có người cũng có niềm tin cao thượng, muốn làm quan chức, muốn tạo phúc cho dân, nhưng cuối cùng đều không tránh được cám dỗ. Sự sụp đổ niềm tin chỉ nằm ở chỗ tiền nhiều hay ít mà thôi. Điều đáng sợ là những việc như thế này đã truyền nhiễm vào cả nhà trường rồi, bên cạnh tôi có không ít những trường hợp biếu quà giáo viên với các lý do lên lớp, chuyển trường, chuyển chỗ ngồi, chẳng có việc gì mà không dùng đến tiền để mở đường cả.

Tôi từng đọc được trên mạng về một cô giáo trẻ la mắng học sinh cả một tiết học vì không tặng quà vào Ngày Nhà giáo. Những người làm giáo viên như chúng tôi không thể tưởng tượng nổi người như vậy sao có thể làm giáo viên được? Hoàn toàn chỉ biết đến lợi ích chứ nào có sự tôn nghiêm của người làm giáo viên.

Tôi cảm thấy rất may mắn khi mình chưa trở thành người như thế, nhưng suy nghĩ “tự mình trong sạch” của tôi chẳng phải cũng là một sự “sụp đổ niềm tin” hay sao? Tôi biết rõ có những học sinh vào lớp nhờ biếu tiền, tôi có từng ngăn cản chưa? Ngay cả một câu chống đối tôi cũng không dám nói với hiệu trưởng. Khi đối diện với tập thể quá mạnh, tôi lựa chọn thuận theo, lý tưởng “làm gương cho người khác” của tôi đâu rồi?

Kiểu người như tôi còn đáng sợ hơn cả những kẻ tham ô lũng đoạn. Chẳng những không tạo nên bất cứ sự tác động nào đối với sự thay đổi của xã hội, mà còn tự có cảm giác đạo đức to lớn nữa, khả năng phân biệt đúng sai không dùng để phán đoán tốt xấu mà lại dùng để tự tán thưởng mình.

Khi tôi nghỉ hưu, người khác có hỏi trước đây tôi đã làm gì cho sự thay đổi của nền giáo dục, tôi chỉ có thể nói là chẳng làm gì cả, mà ngược lại còn là một phần trong sự xấu đi của giáo dục, không làm gì cả chính là sự chối bỏ trách nhiệm ghê gớm nhất.

Ngọc Trúc

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tư cách trí thức Việt Nam


FB Phạm Thị Hoài:

 Bài nói chuyện này tôi không muốn phổ biến rộng hơn phạm vi của buổi toạ đàm tháng Mười 2000 tại Berlin, và đương nhiên đã không cho phép sử dụng và đăng tải tại bất cứ nơi nào. Song vì những hiểu lầm nhất định, tạp chí Cánh Én đã đăng bài này tháng 4/2001 và tổ chức thảo luận trên diễn đàn liên mạng Trí thức Việt Nam. Vì bản chuyển từ băng ghi âm do Cánh Én thực hiện và không hề thông qua tác giả có vô số sai sót, tôi đành tự ghi lại bài nói chuyện này để có một tư liệu đúng. Ðó là lí do duy nhất về phía tôi cho việc đăng tải mà trước sau tôi vẫn không muốn…Image result for trí thức cục phân
Vấn đề tôi muốn đặt ra ở đây rất đơn giản, xin những vị có ý chờ đợi ở một nhà văn những tư tưởng cao siêu, phức tạp thể tất cho. Tất nhiên là mọi vấn đề của hiện thực Việt Nam đều rất phức tạp. Nhưng tôi nghĩ rằng, cái cách dễ dàng nhất, láu lỉnh nhất để khỏi phải đối mặt với cái hiện thực này chính là làm cho nó phức tạp hơn bản thân nó. Mà văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam có một căn bệnh trầm kha là, khi sự vật dường như không thể giải quyết nổi theo các tiêu chí của nho sĩ, hiệp sĩ hay chiến sĩ thì nó lập tức được nhìn theo nhãn quang của phương sĩ, hay đạo sĩ. 


Ðấy là một thứ nhãn quan tất nhiên rất thú vị và vô cùng phức tạp, thú vị và phức tạp tới mức cho phép người ta có thể mải mê trong chính nó, và bản thân hiện thực chỉ còn là cái cớ rất phụ mà thôi. Nhưng chúng ta sẽ trở lại cái hiện thực này ở một đoạn sau. Bây giờ tôi chỉ xin nói trước là, trong buổi hôm nay chúng ta sẽ cố gắng giản dị và sáng tỏ trong suy nghĩ của mình.

Xuất phát điểm của vấn đề mà tôi muốn đặt ra cũng rất giản dị

Sau ít nhất là hai ngàn năm có một cộng đồng Việt, một dân tộc Việt, một văn hoá Việt, một quốc gia Việt, và sau ít nhất là hai trăm năm có một lãnh thổ Việt như ngày nay, chúng ta vẫn là một nước nghèo và lạc hậu vào hạng nhất thế giới. Nhưng vấn đề không phải chỉ ở chỗ nghèo và lạc hậu. Nếu chỉ như vậy thì tôi còn chưa thấy có gì đáng sợ lắm.

Vấn đề một là ở chỗ: chưa bao giờ chúng ta không như thế. Từ khi tôi sinh ra đã như vậy. Từ khi cha mẹ, ông bà tôi sinh ra đã như vậy. Từ khi các cụ tôi sinh ra cũng như vậy. Khi các kỵ tôi sinh ra thì thế giới lúc đó chỉ là Trung Hoa và Ấn Ðộ, nhưng bảng xếp hạng thì vẫn thế, không có gì thay đổi. Nước Hy Lạp chẳng hạn là một nước hiện nay đang nghèo nhất cộng đồng Châu Âu, nhưng không phải bao giờ cũng thế. Nước Nga cũng đang vô cùng bê bối, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Chỉ có nước Việt là chưa bao giờ không như thế mà thôi. Tôi thậm chí không dám nghĩ tiếp rằng, khi cháu tôi, hoặc chắt tôi sinh ra, chúng ta vẫn không thoát được cái kiếp đội sổ như vậy. Sở dĩ tôi phải nói hơi dài về vấn đề này, vì nó là một yếu tố quan trọng trong việc hình thành tính cách và tư cách của người Việt nói chung và người trí thức Việt nói riêng. Ta hãy hình dung, nếu một anh học trò trong suốt cuộc đời đi học của mình không bao giờ không đứng cuối lớp, như một cái dớp không thay đổi, thì đến một lúc nào đó ý chí phấn đấu của anh ta, nếu anh ta có một ý chí, cũng phải tiêu tan.

Hai là, nếu câu chuyện chỉ dừng ở chỗ chúng ta là một nước nghèo và lạc hậu mà thôi thì tất nhiên vẫn là một câu chuyện buồn, nhưng chưa đến nỗi bi đát và vô vọng. Bởi lẽ – chỗ này tôi cũng phải nói thẳng, vì chúng ta đang sống ở một nước không nghèo và không lạc hậu tí nào là nước Ðức – có thể nói rằng sự giàu có và văn minh tiến bộ cũng đẻ ra những nỗi buồn rất đặc trưng của nó, cũng đẻ ra sự bi đát của nó, chứ không phải chỉ riêng nghèo và lạc hậu mới buồn và bi đát. 

Ta vẫn thường xuyên thấy những công dân của cái thế giới văn minh và giầu có này tìm cách giải toả những nỗi buồn của họ, giải toả những bi kịch của sự thừa thãi vật chất cũng như của sự tiến bộ với tốc độ rất nhanh chóng của cái xã hội hiện đại của họ bằng cách tìm về những xã hội còn mông muội, còn bán khai, còn nghèo khó, và coi đó là một câu trả lời nhất định, một alternative. Tất nhiên chúng ta có thể mỉm cười và coi đó là một thứ lãng mạn, một căn bệnh quí phái, nhưng không thể bác bỏ nó được. 

Chỉ có điều, hiện thực Việt Nam thậm chí không phải là chỗ thích hợp để cái thế giới thứ nhất đó chữa chạy những cái căn bệnh quí phái của mình. Bởi vì ngoài cái nghèo và lạc hậu, thì đến đầu thế kỷ 21 này xã hội Việt Nam còn là chỗ hội tụ của những dịch bệnh dường như vô phương cứu chữa khác mà bao trùm lên tất cả là một khái niệm, tôi đặt tên khái niệm đó là sự bất an. Với một nhà văn thì đương nhiên sự bất an trong tinh thần và tâm hồn là mối quan tâm chính. Theo cách nhìn của tôi, thì sức mạnh của một xã hội là khả năng đem lại cho các thành viên của nó cảm giác an toàn và yên tâm nhất định. Người ta có thể nghèo, nhưng nếu người ta có được một cảm giác an toàn nhất định, điều đó quan trọng hơn. Nếu không có cảm giác ấy thì người ta chỉ có thể miễn cưỡng sống tạm cuộc đời của mình và đương nhiên không có một động cơ nào đủ mạnh để sống tiếp cuộc đời của những thế hệ trước, sống trước cuộc đời của những thế hệ sau và sống chung cuộc đời của những kẻ cùng thời. Nói như thế thì xã hội Việt Nam là một tập hợp tạm bợ, rời rạc và hoàn toàn không hữu cơ của những cá nhân hoang mang và bất ổn.

Về xuất phát điểm là như vậy, vấn đề đặt ra là trong cái số phận dường như là vĩnh viễn hẩm hiu đó của dân tộc ta thì người trí thức tham dự như thế nào ?Nói một cách khoa trương và có lẽ tương đối sáo thì người trí thức Việt Nam chịu trách nhiệm gì về cái số phận chung ấy của cả một dân tộc ? Cho đến nay, chúng ta đã nghe, có thể là đã nghe đến thuộc lòng, những lời đáp vô cùng rõ ràng về việc này. Việc vì ai, do ai mà nước ta đáng buồn như vậy. Có hai câu trả lời rõ như ban ngày: một là do khách quan, hai là do chủ quan.

“Thằng khách quan”, tôi xin lỗi là phải dùng một từ như vậy, bởi vì trong tiếng Việt thì kẻ có tội rất to như thế phải bị gọi là thằng. Thằng khách quan nó có vô số hoá thân và đều được gọi tên rất rành mạch: lúc thì đó là thằng lịch sử, lúc thì đó là thằng bối cảnh, thằng hoàn cảnh, thằng tình hình chung, lúc thì đó là thằng ngoại xâm, thằng thế lực thù địch, thằng thực dân đế quốc, thằng thiên tai địch họa … Nếu nghe như vậy thì người ta có cảm giác là: bao nhiêu thằng khách quan đểu cáng nhất đều hùa nhau vào ám dân tộc ta cả. Như vậy thì chẳng có lý do gì hy vọng và chẳng có một cuộc toạ đàm nào, một cuộc hội thảo nào cần thiết nữa. Và nếu ai tin vào lời tiên đoán của ông giáo sư Harvard là ông Huntington trong cuốn sách cách đây mấy năm rầm rộ, cuốn Cuộc Chiến Văn Hóa, rằng Việt Nam sẽ là địa bàn xung đột để chiến tranh thế giới lần thứ ba giữa Mỹ và Trung Quốc xảy ra, thì quả nhiên là chúng ta đáng tuyệt vọng hoàn toàn.

Về chủ quan, người Việt Nam không có truyền thống đem cả một dân tộc ra mà tự phê bình. Một trong những lý do vì sao như vậy cũng là ở chỗ, khi người ta đã suốt cả một số phận luôn luôn đội sổ thì lòng tự tin thực sự chẳng còn gì lớn lắm. Ðấy là tôi muốn nói đến một lòng tự tin thực sự, chứ không phải cái thứ tự tin theo kiểu vừa đánh võ mồm vừa run trong lòng, hoặc là thứ tự tin lưu manh, cứ kích nhau lên để hòng vụ lợi cho mình. Rõ ràng là tự phê bình đòi hỏi một lòng tự tin lớn. 

Tôi cứ nhìn cái cách tự tra vấn mình, tự hành hạ, tự truy tội, tự xỉ vả mình của một dân tộc như dân tộc Ðức này mà phải nhận ra rằng: phải là một dân tộc đã đạt được nhiều thành tựu đến mức nào mới dám làm cái việc cũng rất ư quí phái là tự phê bình mình như vậy… Vậy dân tộc Việt trọn gói thì không có lỗi gì đáng kể, nhưng một bộ phận, bộ phận đầu sỏ của nó thì bao giờ cũng luôn luôn là đầu mối của mọi tai họa. Bộ phận đó, như chúng ta thường xuyên được nghe nói, bao giờ cũng là chính quyền, là lực lượng thống trị… 

Lúc thì chính quyền Bắc thuộc, lúc thì là vua quan nhà Nguyễn chịu trách nhiệm, lúc thì chính quyền thực dân Pháp chịu trách nhiệm, lúc thì bè lũ Mỹ-ngụy. Và bây giờ, không có chính quyền nào khác hơn là chính quyền cộng sản, thì chính quyền cộng sản chịu trách nhiệm. Bảo đúng thì tất nhiên là đúng. Nhưng như vậy có kỳ cục lắm không? Chẳng lẽ trước năm 1945 nạn đói xảy ra là do phong kiến thực dân, còn bây giờ nạn đói xẩy ra là do cộng sản hay sao? Chẳng lẽ cái thói chạy chọt, vây cánh, cửa quan, cửa quyền, bợ đỡ… rất nổi tiếng từ thời cụ Ngô Tất Tố cũng tại cộng sản hay sao? Chẳng lẽ văn chương Việt Nam cả một thế kỷ 15 chỉ được một ông Nguyễn Trãi, cả một thế kỷ 16 hầu như cũng toàn nhạt nhẽo và trung bình cả thì cũng tại cộng sản hay sao? 

Một trong những nhà phê bình văn học sắc sảo nhất của Việt Nam ở hải ngoại, anh Nguyễn Hưng Quốc, hiện là giảng viên của trường Ðại học Victoria tại Úc, cách đây 10 năm có viết một cuốn sách nhan đề Văn Học Việt Nam Dưới Chế Ðộ Cộng Sản. Trong đó anh đi tìm câu giải thích cho tình trạng kém cỏi tẻ nhạt của văn học miền Bắc trong những vấn đề của chế độ xã hội chủ nghĩa và hệ thống lý luận mác-xít. Ðiều đó tất nhiên có nhiều phần đúng, nhưng chưa đủ. Những năm sau này anh Nguyễn Hưng Quốc đi đến một nhận xét hết sức khổ tâm là văn học Việt Nam ở hải ngoại tồn tại ở các chế độ dân chủ, tự do, hoàn toàn không phải dính líu đến hệ lý luận mác-xít, hệ kiểm duyệt cộng sản, hoàn toàn không liên quan đến bộ máy tuyên truyền chính trị chính thống, nhưng cái văn học ấy cũng không khá gì hơn, cũng trì trệ, lạc hậu, bảo thủ và tẻ nhạt. Tất nhiên là tẻ nhạt theo một kiểu khác. Vậy lời đáp nằm ở đâu?

Việc phê phán cái xã hội nghèo đói, loạn tặc, nhiễu nhương, tạm bợ, không có phương hướng ở Việt Nam, tất nhiên có thể gắn với việc phê bình chính quyền lãnh đạo. Thế cái xã hội của người Việt ở ngoài nước, tại cộng đồng hải ngoại, không có mặt sự lãnh đạo của chính quyền cộng sản mà cũng đủ những phẩm tính tương tự thì chúng ta biết phê phán trên cơ sở nào? Rõ ràng có những vấn đề thuộc về văn hoá Việt Nam, những vấn đề nghiêm trọng, không thể qui vào một chính thể, tập đoàn hay đảng phái thống trị nào, nó là những hằng số xuyên suốt cả số phận dân tộc Việt Nam, bắt đầu thậm chí từ Lạc Long Quân, nếu như có ông ấy và bà Ấu Cơ. Và nếu đã mở hồ sơ văn hoá Việt Nam ra mà xét thì có thể nói là ở ngay trang đầu chúng ta đã gặp một thành phần không thể không gặp, đó là trí thức Việt Nam.

Bản thân tôi không dám làm cái việc là điều tra số phận dân tộc bằng cách đi truy tìm phần dính líu của từng cá nhân người Việt, trí thức hay không trí thức thì cũng thế. Nói chung nhiệm vụ nhà văn của tôi không nằm ở chỗ đi qui trách nhiệm cho ai. Vả lại, trong rất nhiều tình huống thì câu hỏi ai có tội, ai có lỗi, là không thể giải đáp trọn vẹn được. Nhưng việc tất yếu mà một nhà văn phải làm ở thời nào cũng thế là quan sát, và nếu có thể thì khám phá những khía cạnh mà anh ta cho rằng còn mờ khuất của con người và cuộc đời. Nhưng không một nhà văn nào khi làm việc đó có thể ôm đồm cả thế gian mà quan sát và khám phá được. 

Bản thân tôi, do hoàn cảnh gia đình cũng như môi trường đào tạo, môi trường sống, môi trường sáng tác và làm việc, tôi không thể làm một việc gì khác hơn là quan sát và khám phá giới trí thức. Tôi không có thẩm quyền gì để có thể phát biểu, chẳng hạn về tư cách của người nông dân hay thợ thuyền Việt Nam. Tôi không có một hiểu biết gì đáng kể về những điều đó. Song trí thức Việt Nam là chủ đề của hầu hết các sáng tác của tôi. Vì vậy mà có một buổi nói chuyện như thế này. Tôi không nghĩ rằng mình có thể vạch ra được một đường hướng nào. Việc duy nhất mà tôi có thể thử làm là khắc hoạ diện mạo của trí thức Việt Nam. Bản thân việc này là một đề tài mà một cá nhân không kham nổi. Hôm nay tôi thử trình bày về hai tư cách mà theo tôi là đáng để ý, đó là: “tư cách chính thống” và “tư cách học trò”.

Bây giờ phải xin nói trước để chúng ta dễ đồng ý với nhau về khái niệm là: một định nghĩa hoàn hảo về trí thức rõ ràng không thể có được, ngay cả đối với hoàn cảnh còn tương đối dễ bao quát như hoàn cảnh Việt Nam. Chúng ta tạm quy ước với nhau là khi nói tới trí thức Việt Nam ở đây là nói tới những người mà do học thức, trình độ, môi trường sống, thói quen, hoặc thậm chí do ngẫu nhiên cũng được, mà hoạt động trí tuệ và tinh thần là thường trực, hoặc chủ yếu, hoặc đóng một vai trò đáng kể.

Bây giờ tôi xin nói về tư cách chính thống của trí thức Việt Nam


Một người bạn vong niên của tôi ở Hà Nội, ông Nguyễn Kiến Giang, gần đây có đưa ra một khái niệm là “tính cách phò chính thống của trí thức Việt Nam”. Tôi thì gọi đó là tư cách quan văn, theo cái mô hình trị nước là một ông vua có thể u mê, có thể anh minh, hai bên tả hữu là quan văn và quan võ. Tôi gọi tư cách chính thống của trí thức Việt Nam này là “tư cách quan văn”.

Chúng ta hãy xem lại lịch sử. Nếu như bỏ qua cái thời kỳ mông muội, khi người săn bắn giỏi nhất, bắt cá khéo nhất, thắng nhiều cuộc vật nhất và có thể cũng có nhiều con nhất vì được nhiều đàn bà ái mộ nhất, một người như thế được đứng đầu một cộng đồng Việt, nếu bỏ qua thời kỳ đó thì chúng ta có ngay mười mấy thế kỷ toàn trị của giới có học. Khi đó là giới sĩ, một thời gian dài là giới tu sĩ, sau đó tuyệt đối là giới nho sĩ. Chế độ khoa cử với chức năng là một hệ thống đào tạo và tuyển chọn cán bộ và nhân viên nhà nước, đã tự động ghép học thức, tri thức và quyền lực thành một cặp bài trùng. Tri thức vừa là con đường dẫn đến quyền lực, vừa là cách thực hiện quyền lực. Không có gì để nghi ngờ nữa, giới sĩ phu Việt Nam trong lịch sử là giới cầm quyền, hay ít nhất cũng là giới thừa hành quyền lực. Nói theo từ hiện đại thì toàn bộ guồng máy nhà nước Việt Nam trong lịch sử nằm trong tay các trí thức nho giáo. 

Nhân đây cũng xin nói ngoài lề là cái tinh thần rất nổi tiếng và thường xuyên được ca ngợi rằng, người Việt hiếu học, cha mẹ muốn con hay chữ, yêu thầy, theo tôi một phần cũng rất đáng kể xuất phát từ tinh thần yêu địa vị và trọng quyền lực. Nếu chữ nghĩa không mở ra được một triển vọng thơm tho như vậy, một người đi học thi đỗ làm quan thì cả họ được nhờ, tôi tin rằng cái sự hiếu học kia chắc chắn là giảm đi đáng kể.

Song câu chuyện “phò chính thống”, câu chuyện “quan văn” không chỉ dừng lại khi nho học thất thế. Công bằng mà nói thì ở một giai đoạn ngắn của lịch sử, tức là ở đầu thế kỷ 20 trong cả nước, và từ năm 1954 đến năm 1975 ở miền Nam, đã có một cơ hội để cặp bài trùng trí thức và quyền lực có thể tách nhau ra được, và quả thực cũng có tách nhau ra phần nào. Nhưng đấy là một khoá học tiếc thay rất ngắn, quá ngắn để trí thức Việt Nam vượt ra khỏi cái vòng kiềm toả và tự kiềm toả bằng quyền lực chính trị để trở thành một lực lượng độc lập như giới trí thức ở các xã hội dân chủ hiện đại. Chúng ta có thể coi những vận động cải cách xã hội và dân trí ở Việt Nam đầu thế kỷ 20 là độc lập với chính quyền nửa phong kiến nửa thực dân đương thời. Và quả nhiên có một tầng lớp trí thức văn nghệ sĩ tự do, tức là không ăn lương của nhà nước, không hưởng bổng lộc của chính quyền, không phải là các công chức, viên chức, cán bộ trong bộ máy cai trị, một tầng lớp như vậy quả nhiên là có xuất hiện, điều này cũng lặp lại ở miền Nam trong khoảng thời gian 1954-1975. 

Thế nhưng lịch sử đã quyết định diễn ra theo chiều hướng là tự lặp lại. Bi kịch của một người như Phạm Quỳnh là bi kịch của một trí thức xuất thân hoàn toàn độc lập, có đủ mọi cơ hội và đủ uy tín để tồn tại như một tiếng nói, một uy tín tinh thần, một trọng lượng xã hội độc lập hẳn hoi, nhưng cuối cùng cũng không vượt qua nổi sự mê hoặc của quyền lực chính thống. Tất nhiên Phạm Quỳnh trở thành thượng thư Bộ Lại trong triều Nguyễn với một hy vọng là mượn những phương tiện chính trị mà hành cái đạo của mình. 

Thế nhưng, ông Tây học Phạm Quỳnh vậy là cũng hành động không khác gì ông Khổng Tử. Khổng Tử chẳng làm được điều gì khi còn đang tại chức. Khổng Tử chỉ có đánh xe đi bát phố, nghe nhạc và bình phẩm về đàn bà, về cái hoạ đàn bà thì đúng hơn, khi tại chức. Và Phạm Quỳnh cũng chẳng làm được gì cho cái đạo của mình trong suốt thời gian làm bộ trưởng như vậy, và Phạm Quỳnh có lẽ còn lâu mới là người trí thức Việt Nam cuối cùng vừa ghét quyền lực, vừa mong được phục vụ quyền lực như vậy.

Từ năm 1945 ở miền Bắc Việt Nam và từ năm 1975 ở toàn đất nước, có thể nói rằng câu chuyện của cặp bài trùng trí thức và quyền lực lại được kể tiếp với những tình tiết thực ra là giống hệt như trong lịch sử. Chỉ có pha thêm những màn gay cấn đặc trưng cho cái thời đại này mà thôi. Tôi cho rằng chỉ có những người rất ưa sơ đồ hóa các hiện thực mới kết luận rằng trong xã hội cộng sản hay xã hội chủ nghĩa không có chỗ cho trí thức. Không phải như vậy. Nó chỉ không có chỗ cho các trí thức bất đồng quan điểm, bất đồng tư duy mà thôi. Một xã hội của đồng chí tất nhiên không trải chiếu hoa cho những kẻ bất đồng chí. Song điều đó không có gì là mới mẻ, không phải là đặc sản riêng của chuyên chính vô sản, mà của bất kỳ một nền chuyên chính nào. Một trí thức từng là đồng chí như Nguyễn Trãi khi thành bất đồng chí tất nhiên cũng phải chịu cái hoạ tru di tam tộc. 

Và một nhà văn tài hoa từng được coi là thần tượng của sự ngông nghêng, thách thức như Nguyễn Tuân thực ra cũng có thể so với Nguyễn Du: bất mãn thì có bất mãn, bất đồng thì có bất đồng, nhưng cả hai dù miễn cưỡng hay tự nguyện, cuối cùng cũng để cho chính quyền trọng dụng mình. Nguyễn Du đóng vai đại sứ đi công cán ở nước ngoài, một chức vụ thực sự là không thấp hèn gì. Nguyễn Tuân cũng vậy. Hồi sinh viên tôi thường tự hỏi: Tại sao lại như thế? Phải tay tôi thì không bao giờ chịu để mình ở cái thế há miệng mắc quai như vậy. Nhưng khi đó tôi còn chưa hiểu gì về cái thế phò chính thống, cái thế quan văn của trí thức Việt Nam, một cái thế quả nhiên là rất há miệng mắc quai.

Cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam thực ra là một cuộc cách mạng hoàn toàn do giới trí thức lãnh đạo, còn quần chúng cách mạng thì thời nào cũng vậy, là đám đông, và đám đông trong một nước nông nghiệp tất nhiên là nông dân. Cách mạng vô sản ở Việt Nam là một cuộc cách mạng do một nhóm trí thức lãnh đạo một đám đông nông dân tranh đấu cho quyền lợi của một giai cấp khác, đó là giai cấp công nhân. Nếu chúng ta nói như vậy thì việc các quyền lợi dẫm lên nhau, sự không đồng bộ của nhân sự và khả năng phản bội lẫn nhau của những bên tham gia đã được định trước.

Song ở đây tôi chỉ muốn nói về sự tham gia của trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam ở buổi ban đầu của cuộc cách mạng, rồi khi cách mạng quay ra ăn thịt những đứa con đẻ của mình, và bây giờ, khi rõ ràng là cách mạng đã về hưu. Mối tình giữa chủ nghĩa cộng sản và trí thức, nhất là trí thức cánh tả trên toàn thế giới, là một mối tình phức tạp, đẫm nước mắt và đẫm máu. Nhưng tôi dám nói rằng chính cái cuộc tình hết sức nồng nhiệt và lãng mạn với lực lượng trí thức và văn nghệ sĩ Việt Nam thuở ấy đã chắp cánh cho cách mạng, khiến cho nó không chỉ là một cuộc khởi nghĩa của nông dân, hay một cuộc bạo động của thợ thuyền.

Ðiều gì diễn ra khi cách mạng không chỉ còn là một ý tưởng và một lí tưởng, mà đã trở thành một hiện thực, một chế độ, một guồng máy khổng lồ? Tôi xin trích ra ở đây một vài dòng trong nhật ký của Trần Dần năm 1958, vào cái thời điểm mà người ngoài tưởng là cuộc nổi dậy trong văn giới Việt Nam, được biết đến dưới cái tên Nhân Văn Giai Phẩm còn rất là sôi sục. Ông ghi ngày 08-01-1958 như sau:

Tin chạy xì xầm xung quanh rất ghê gớm. Rằng báo Văn là một cái rớt của Nhân Văn, rằng nhà xuất bản hội nhà văn bị lái, rằng Câu Lạc Bộ thành nơi hoạt động của bọn Nhân Văn. Tóm lại, bọn Nhân Văn ấy lọt vào tổ chức của Hội Nhà Văn, chúng ra tay chèo lái một cách “tinh vi”… Sự thật ra, bọn Nhân Văn ấy, non năm nay họ đã theo một cái chính sách gì? Có thể tóm chính sách của họ là: sợ, cầu an, cố đi gần lãnh đạo, dao động, chán nản… Một ngón tay Nhân Văn cũng không có. Non năm nay họ đã nằm bẹp cả xuống, vắt tay lên trán, suy nghĩ như các nhà hiền triết cả rồi. Họ có còn cái khao khát chiến thắng của những người tiến bộ nữa đâu ? Nói đúng ra, họ vẫn mong sự tiến bộ sẽ thắng. Song họ mong nó sẽ thắng bằng một cách ích kỷ, tức là bằng bàn tay thúc đẩy của kẻ khác hơn là bàn tay họ… Vậy đỡ nguy hiểm hơn… Giá lãnh đạo thuyết phục, họ sẽ có cơ giác ngộ, trở nên con nhà nết na nữa cũng nên. Ðằng này lãnh đạo cứ cái chính sách ục, thụi vô lý mãi! Họ càng tủi thân và thất vọng… Tôi biết họ chỉ mong nhất một điều là: “mong thánh đế hồi tâm?”.

Những dòng ấy được viết ra do một trong những người được coi là cứng cổ nhất trong Nhân Văn Giai Phẩm là Trần Dần. Tôi xin lưu ý những khái niệm như “cố đi gần lãnh đạo”, “giá lãnh đạo thuyết phục”, “mong thánh đế hồi tâm”. Tôi cho rằng không cần phải nhiều lời nữa để mô tả cái tính cách phò chính thống này của văn nghệ sĩ trí thức Việt Nam. Nếu có một trí thức thực sự li khai với quyền lực, li khai với quyền lực không lấy gì làm đẹp đẽ lắm của chế độ cộng sản, thì phải có mười trí thức đang nằm chờ ngày “thánh đế hồi tâm” và sẽ có một trăm trí thức không làm gì khác hơn là để cho cái chính quyền ấy trọng dụng mình.

Mao Trạch Ðông trong bài nói chuyện nổi tiếng ở Thiên An có tuyên bố thẳng thừng: “trí thức là cục phân”, song người am hiểu hiện thực của chủ nghĩa xã hội phải nói rằng, trí thức cũng là cục vàng. Những cục vàng ấy là báu vật nằm trong tay những nhà cầm quyền. Ở một địa vị như vậy thì có lí do gì mà mong thay đổi! Người ta có thể gọi đó là cái hèn, cái nhu nhược, cái cầu an. Tôi gọi đó là cái nghiện. Nghiện chính thống. Nghiện suốt cả một lịch sử thì không dễ gì một vài ngày mà cai ngay được. Người nghiện thì ít khi trách cái sự nghiện của mình mà có chăng chỉ đổ tội cho cái làm mình nghiện. Chúng ta phải buộc lòng đi đến một kết luận: khi tự đồng nhất mình ở mức độ cao như vậy với giai cấp thống trị, bất kể là giai cấp nào, thì cái bộ phận ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam là trí thức Việt Nam mặc nhiên phải đánh mất cái thôi thúc cải thiện, thay đổi và cải cách xã hội. 

Một ông trí thức nho giáo làm quan tất nhiên là không bao giờ nảy ra sáng kiến chống nạn mù chữ trong đám dân đen. Bởi lẽ ông ta chỉ hơn họ và được làm quan nhờ có mấy trăm chữ ở trong bụng. Một ông nhà thơ phụ trách Ban văn hoá văn nghệ tất nhiên không khuyến khích những thứ thơ văn mới lạ, bởi lẽ nếu thiên hạ đi say mê thứ văn thơ mới lạ đó thì thơ ông ta ai đọc? Kinh nghiệm của chính bản thân tôi ở trong nước, với tư cách là một nhà văn hiện nay không được phép công bố tác phẩm ở trong nước, là: Chưa có một ông Ðảng hay một ông công an nào có cơ hội đọc duyệt tác phẩm của tôi cả. Bởi vì trước khi các vị đó sờ được đến bản thảo của tôi thì các đồng nghiệp của tôi ngồi ở những vị trí rất nhiều quyền lực đã kiểm duyệt hộ chính quyền từ khuya rồi!

Bây giờ tôi xin nói đến tư cách học trò của trí thức Việt.

Thực ra dân tộc Việt không toàn phải tiếp xúc với những kẻ đến từ một nền văn minh cao và mạnh hơn hẳn. Láng giềng của nước Việt một thuở, như chúng ta đã biết, là Chiêm Thành, Ai Lao, Phù Nam, Khơme, Xiêm La, Chà Và, Nhật Bản… Ðương nhiên người Việt cũng tiếp thu điều này, điều nọ trong quá trình giao lưu văn hoá với họ… Trong tiếng Việt ta có thể tìm thấy những dấu tích đó. Thế nhưng, chúng ta có thể lấy hẳn của người Chiêm Thành một giống lúa, lúa chiêm, mà chả buồn học hỏi gì nhiều ở văn hoá và ngôn ngữ của họ… Chúng ta lấy biết bao nhiêu điệu nhạc buồn của họ vào chính cái quan họ Bắc Ninh nổi tiếng của chúng ta, khiến cho cái làn điệu dân ca đó trở nên có thể nói là buồn nhất trong các làn điệu dân ca của miền Bắc nói chung, lúc đó miền Bắc là cái nôi văn hoá Việt và lúc đó Việt Nam chỉ dừng lại ở miền Bắc. Chúng ta lấy của họ như vậy mà chả buồn học hỏi điều gì ở họ, không buồn nghiên cứu gì về họ và thậm chí dường như chúng ta chôn phắt họ đi mà không tiếc nuối gì hết.

Như vậy, ở cái thế của kẻ mạnh, hoặc ít nhất ở cái thế của kẻ bằng vai, thì người Việt chẳng buồn học ai cả, chẳng buồn ngưỡng mộ ai cả. Thế nhưng, khi ở cái thế của kẻ yếu, của kẻ bị chinh phục, bị khinh bỉ, bị nhục nhã, thì sự học của chúng ta mới vội vã bắt đầu. Tôi có viết trong một tác phẩm về việc hầu như chẳng người Việt nào buồn biết tiếng Nhật như sau: “… người Nhật chiếm nước này chưa đủ dài để người nước này thèm tiếng Nhật. Nỗi nhục chưa kịp ngả thành lòng yêu”.

Cái sự học của trí thức chúng ta trong thế giằng xé giữa một bên là nỗi nhục, một bên là lòng yêu, là một sự học đầy mâu thuẫn, thậm chí có thể nói là bệnh hoạn, đầy những đau khổ mà bản thân tôi có thể chia sẻ nhiều phần. Ta hãy lấy ví dụ về việc học này qua cách sáng tạo chữ viết. Cả người Việt lẫn người Nhật vốn đều có tiếng nói riêng mà không có chữ viết riêng. Trung Hoa thì ngược lại, có chữ viết. Nhưng Trung Hoa không băng qua biển để đi sang Nhật mà mang chữ viết cho người Nhật. Và nói chung thì Trung Hoa là một dân tộc lục địa, họ tin ở con ngựa hơn con thuyền. Cái từ mà chúng ta dùng để chỉ họ là người “Tầu” thật ra chẳng đúng tý nào, họ là dân tộc không liên quan đến tầu bè. 

Trung Hoa rõ ràng không băng qua biển để cưỡng bách người Nhật phải học sách Tầu và viết chữ Tầu, mà chính là người Nhật đã tự động ngồi lên thuyền, băng qua biển đến Trung Hoa, rồi khuân một ít văn hóa Trung Hoa, trong đó có chữ viết, về nhà họ để dùng tạm trong lúc còn thiếu thốn. Cái thái độ đi học của người Nhật như vậy là một thái độ chủ động, tích cực và có sự sòng phẳng của nó. Cần thì học, thích thì học, hoàn toàn tự nguyện. Và một khi người Nhật đã mất công lặn lội như vậy để khuân về nhà từng ấy bộ chữ Trung Quốc thì họ cũng dùng hết, không vứt đi đâu bộ nào. Tất nhiên, không phải ngày một ngày hai, nhưng sau trên dưới khoảng chục thế kỷ, sau nhiều thất bại thì người Nhật cũng dùng được bộ chữ Trung Quốc trong việc ghi lại tiếng Nhật. Chữ Nhật ra đời và trụ được cho đến ngày nay trên cơ sở bộ chữ Tầu giản tiện. Một người Nhật nếu biết tiếng Tầu thì rất quý, thế nhưng nếu không biết thì họ vẫn có khả năng dùng tốt chữ Nhật của họ… Họ đã thành công trong việc đi học ở bên ngoài và làm ra được cái mà họ chưa có. Họ là hạng học trò ngoại lệ…

Còn việc sáng tạo chữ viết của người Việt diễn ra như thế nào? Người Việt chẳng cần lặn lội sang Tầu đi học, mà chính là người Tầu mang một núi khí giới, một rừng người đến trước, rồi sau đó khuân một hòm sách sang sau. Dĩ nhiên là người Việt vừa học vừa chửi, giống hệt như vừa học vừa chửi Pháp, vừa học vừa chửi Liên Xô, và bây giờ vừa học vừa chửi Mỹ. Cái sự vừa học vừa chửi này biến thiên qua nhiều cấp độ và tuỳ vào diễn biến hay triển vọng trong mối quan hệ giữa thầy và trò. 

Ở trong dân gian, thái độ lưỡng phân này thường bùng nổ chỉ ở thời gian đầu, sau đó có thể nói là cái gì của ta sẵn có, cái gì mà nó bắt ta phải học, dần dần cũng đồng hoá vào nhau, ở cấp độ dân dã, đôi khi không phân biệt nổi xuất xứ nữa. Thí dụ như nói dến ông bụt chẳng hạn, nào ai còn rạch ròi mà bảo rằng đấy là một ngoại kiều Ần Ðộ, mà tên thực ra phải là buddha cơ, nào có ai phải rạch ròi đến thế đâu. Nhưng trong giới trí thức thì cái thái độ lưỡng phân kia là cả một tấn bi hài kịch, trong đó có những pha đầy phi lý, những pha trái khoáy, những pha nực cười và tất nhiên là rất nhiều pha vô cùng vô duyên. Với giới trí thức Việt Nam thì chỗ này có sự rạch ròi của nó. Cái học thuyết của ông bụt không mang tên là bụt giáo mà mang tên là Phật giáo, bởi lẽ giữa chữ bụt và chữ Phật có một khoảng trống, và ngồi trong khoảng trống ấy chính là ông thầy Trung Hoa.

Việc người Việt luôn có những kẻ thù mạnh và giỏi hơn mình, và kết quả là người Việt luôn phải tiếp thu nền văn minh của kẻ thù, việc ấy vừa là một bất hạnh vừa là một diễm phúc. Rõ ràng là trên đời chẳng có cái gì không có ít nhất hai mặt của nó, chỉ có điều, sức mạnh và tầm vóc của một nền văn hoá biểu hiện ra ở chính cái chỗ nó vận động như thế nào trong sự phức tạp đa chiều đó. Nó có đủ khả năng khống chế sự bất hạnh và khuyếch trương cái diễm phúc kia lên không, hay là ngược lại. Hay là nó chẳng có một chủ trương chiến lược nào cả, cứ tiện lúc nào sướng cái hay của Tây của Tầu thì khen lấy được, học lấy được, lúc nào cáu lên thì vứt hết, dẹp hết, quay về trâu ta ăn cỏ đồng ta. Và tôi ngờ rằng sự tuỳ tiện này chính là cách ứng xử của chúng ta. Người ta có thể cho sự tuỳ tiện này một cái tên quan trọng hơn, “sự linh hoạt” chẳng hạn. Nhưng tên có hay như thế nào cũng không thể kéo cái hiện thực dở đi theo được.

Kẻ bị buộc phải đi học trong tình thế lưỡng phân mà lại tùy tiện như vậy thì đến hệ quả gì? Một trong những hệ quả là: hắn không bao giờ học cho hết chữ của thầy. Mới học được nửa trang, mới đọc được nửa trang, học đến nửa quyển sách thì cái phanh của lòng yêu nước, lòng căm thù ngoại xâm – tất nhiên đấy là một tình cảm rất chính đáng – đã chặn đứng tất cả lại và hắn nhất quyết quay ra với khẩu hiệu “tự lực cánh sinh”, hoặc phương châm “sáng tạo, ứng dụng vào hoàn cảnh Việt Nam”. Nghiên cứu đối phương chẳng hạn, khi người ta có một kẻ thù thì nghiên cứu kẻ thù để chiến thắng nó là một động cơ đáng kể để học hỏi nền văn minh của kẻ thù. Chỉ có điều tôi có cảm giác rằng sự nghiên cứu của chúng ta chỉ dừng lại ở cái mức tin tức tình báo, đại loại như cái thông tin rằng quân Nguyên Mông không thạo đường thuỷ, hay đại quân hậu cần của giặc hiện đang tắc ở đoạn nào. Chắc là cái sự học và sự nghiên cứu của chúng ta nó dừng lại ở chỗ ấy, nó khác hẳn sự nghiên cứu của cả người Tầu, người Pháp, và người Mỹ về chúng ta. 

Có một thực tế là các học giả Việt Nam ngày nay muốn thực sự nghiên cứu về Việt Nam thì không thể không sang Trung Quốc, Pháp và Mỹ để ngồi đọc tài liệu Việt Nam mà những nước đó đem về giữ trong các thư viện và văn khố của họ… Tôi có một người bạn, hiện nay đang lang thang ở các trường đại học Mỹ để nghiên cứu về Phan Khôi. Một hành trình hết sức vòng vo. Vì sao? Ðể nghiên cứu về Phan Khôi, anh phải đọc báo Việt Nam của những năm 30. Những báo đó, chúng ta không giữ lại đầy đủ, chúng ta không giữ lại, theo đúng tinh thần của người Việt là thời nào biết chuyện của thời đó, thời nào khoanh lại thời đó, thế hệ nào khoanh lại thế hệ đó, không dính líu gì đến thế hệ sau nữa. Nhưng người Pháp thì khuân những báo đó về Pháp, không phải chỉ khuân một bản mà khuân nhiều bản. Cái bản thừa, bản đúp, thì họ bán lại cho người Mỹ và bây giờ thì Bộ văn hoá Pháp cấp cho một nhà nghiên cứu Việt Nam một khoản tài trợ để nhà nghiên cứu Việt Nam sang Mỹ mua số báo Việt Nam đã được Pháp bán lại cho Mỹ, để nghiên cứu về một nhân vật Việt Nam đầu thế kỷ. Ðối với giới sử học Việt Nam, các công trình của cơ quan nghiên cứu Pháp, Viễn Ðông Bác Cổ, là một chỗ dựa không thể thay thế nổi. Rõ ràng là thực dân Pháp muốn chinh phục và bám trụ ở Ðông Dương và điều đó không có gì để bàn cãi cả. Ðể làm điều ấy, họ cần hiểu biết về cái xứ sở mà họ muốn chiếm giữ, hiểu biết tường tận về văn hoá, một nền văn hoá xa lạ với họ, chứ không phải chỉ là thu thập những tin tức tình báo. Chắc chắn là hoạt động của Viễn Ðông Bác Cổ được Bộ thuộc địa Pháp tài trợ … Các học giả và trí thức Pháp có thể đã là công cụ cho một mục đích không lấy gì làm đẹp đẽ lắm, song bản thân công việc nghiên cứu của họ diễn ra nghiêm túc và thấu đáo. Còn các học giả Việt Nam có thể là công cụ cho một mục đích chính đáng, song kết quả công việc của họ lại tạm bợ và nửa vời.

Xét về phương diện này thì người trí thức VN ngoại lệ nhất là Nguyễn Trường Tộ, và bản thân Tự Ðức cũng là một bậc trí thức không đến nỗi ngu đần như trong sách sử chính thống mô tả. Song như chúng ta đã biết, chương trình canh tân được Nguyễn Trường Tộ đề nghị và rất nhiều điểm cũng được Tự Ðức tán đồng không hề được đem ra thực hiện. Ða số giới cầm quyền đương thời cũng là các bậc học giả hiểu cao, biết rộng, họ có đủ lí do cần thiết để cản trở chương trình canh tân đó, mà cái lí do rằng Nguyễn Trường Tộ là người theo đạo Tây chỉ là một cái cớ.

Một mặt thì chưa học đến nơi đã sốt sắng sáng tạo, để rồi toàn đi đến những kết quả nửa vời như vậy. Mặt khác, khi chỉ còn một mình với cái đống sáng tạo dở dang không dùng được đó thì người trí thức Việt Nam mới lại thành một học trò ngoan, thậm chí rất ngoan. Ngoan tới mức thành một kẻ nô lệ, thành bảo hoàng hơn vua. Thậm chí Khổng Tử hơn cả Khổng Tử, ga-lăng hơn cả người Pháp, mác-xít hơn cả cha đẻ của mác-xít. Lúc bấy giờ cái người học trò thích sáng tạo ấy mới tự phong cho mình những danh hiệu, chẳng hạn là đại diện xứng đáng nhất của những trường phái gì gì đó, của những ông thầy gì gì đó … Khi Trung Hoa đã là Trung Hoa dân quốc, và trí thức Trung Hoa đã miệt mài ngồi dịch sách của những bậc như Rousseau, Montesquieu, thì trí thức Việt lúc đó vẫn còn chết chìm trong cái mớ “thi vân tử viết” của mình, và triều Nguyễn khi đó trưng ra những lễ nghi nho giáo còn chặt chẽ hơn cả triều đình Bắc Kinh một thuở. Ta có thể lấy chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam tiền chiến làm ví dụ cho việc nay.

Tất nhiên phong trào Thơ Mới và văn xuôi 1930-1945 là một bước tiến khổng lồ cho văn học Việt Nam, song thần tượng của nó, nguồn ảnh hưởng của nó từ văn học Pháp là những thứ đã diễn ra trước đó có khi cả vài thế kỷ. Cái mà ông thầy Pháp đã bỏ ra khỏi giáo trình của mình từ mấy đời thì anh học trò Việt vẫn còn nghiền ngẫm say sưa lắm, còn cái mà ông thầy ấy đang dạy ở trên lớp thì anh học trò ấy chỉ nghe có một nửa tai rồi bảo: “Cái đoạn này thì ta nên tự lực cánh sinh”. Cho đến bây giờ cái tinh thần của lãng mạn tiền chiến vẫn chế ngự trong văn chương Việt Nam hiện đại. Nếu có ai phê bình thì các vị ấy vênh mặt lên bảo rằng: “Văn chương Pháp cũng thế, dám chê cả văn chương Pháp à !?” Song những điều đang diễn ra trong văn học Pháp hiện đại thì chẳng có ai buồn học, có bảo là phải học thì các vị ấy lại bảo: “Biết cả rồi, xoàng cả thôi, cũng chả hơn gì ta đâu, mình làm có khi còn hay hơn !”. Như thế thì hỏi làm sao văn chương nghệ thuật nước ta không luôn luôn đi lạc một bước, ít nhất là một bước sau thế giới? Năm mươi năm nữa chẳng hạn, các học trò Việt lại đi mở những thứ sách của thế giới bây giờ ra, thế giới bây giờ, để học lấy học để. Ðã học như thế thì lấy đâu ra thời gian để học chính những thứ đang cùng thời với mình? Hỏi làm sao cái học đó không phải là cái học viển vông?

Thí dụ rõ rệt cho cái lẫn lộn lung tung giữa chủ động nô lệ và chủ động sáng tạo ta có thể quan sát ở các trí thức Việt khi họ đi ra nước ngoài để học hỏi. Chẳng hạn, khi ra nước ngoài học về khoa học quản lí, là thứ mà chúng ta chưa bao giờ có. Rõ ràng trước khi một nước phương Tây quyết định đầu tư vào một chỗ nào đó ở Việt Nam thì họ đành phải làm cái việc không đừng được là đào tạo, cũng như muốn bán cho ta một cái máy bay thì họ phải làm cái việc là đào tạo hộ một anh phi công, đấy là chuyện họ không đừng được. Như vậy là trí thức Việt cắp cặp đi học khoa học quản lí hiện đại. Chữ thầy được mười thì học trò nghe được một, thôi thế thì cũng là may rồi. Nhưng cái mà tôi thường xuyên chứng kiến ở những người đó là họ sẵn sàng vứt tất cả một phần đó đi, mà bảo rằng: “Úi trời, cái kiểu quản lí này không thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam !” Cũng là có lí chứ không phải không có lí, tất nhiên là không ai đi bệ nguyên xi nước ngoài về mà dùng được, nhưng chuyện đó tôi không bàn. Tinh thần sáng tạo thì bao giờ cũng muôn năm cả. Thế nhưng cũng chính những người đó, khi trở về nước, đối mặt với những lề lối quản lí rất Việt Nam, nghĩa là rất cẩu thả, rất tạm bợ, rất mông muội, rất trung cổ, thì lại giương cái sở học của mình trong các chuyến đào tạo ở nước ngoài như vậy ra mà bảo rằng: “Tây nó làm như thế, Tây nó khác, Tây nó phải như thế … Không được thế này, không được thế kia …” Nhưng Tây nó làm như thế nào thì không còn nhớ, thế là lại đi học nữa! Xã hội Việt Nam sinh ra một tầng lớp trí thức không làm điều gì khác hơn là suốt đời đi học như vậy. Cứ đến lớp thì chê thầy, cứ về nhà thì lại nhớ thầy, xin cắp cặp theo học lại. Suốt đời đi học như vậy. Như thế thì hỏi làm sao được như người Nhật, tự làm ra chữ viết dùng được cho mình?

Chữ Nôm Việt Nam được làm ra, về xuất phát điểm thực ra không khác gì chữ Nhật, chỉ có điểm khác là nó không thành công. Muốn dùng chữ Nôm, người ta phải biết chữ Hán trước đã, rồi sau đó lại phải học thêm quy tắc cấu trúc cái chữ Hán, vốn đã rất phức tạp như vậy, vào với nhau như thế nào để nó ra cái gọi là chữ Nôm. Tôi lấy một ví dụ: muốn viết chữ “trờí” chẳng hạn, muốn viết cái tiếng ta ấy ra mặt giấy thì phải viết thế nào ?. Người ta phải biết hai chữ Hán là chữ “thiên” và chữ “thượng”, phải biết cách ghép hai chữ này vào nhau để thành một chữ “trờí”. Quả nhiên là một cái lô gích vô cùng kinh hoàng đối với hình dung của tôi, cứ làm như còn một cái “thiên” nào khác, ngoài cái “thượng” đó. Mà đã thế sao không dùng luôn tiếng Hán, chỉ có một chữ “thiên” là xong, tại sao lại hai lần tiếng Hán như thế, gộp vào nhau để ra chữ “trờí”? Trong cái công trình sáng tạo chữ Nôm ấy, rõ ràng sáng tạo là gì? – Là ghép hai cái rập khuôn vào nhau! Tôi chưa bao giờ dám tự hào về cái chữ Nôm mà theo tôi, xin lỗi quý vị ở đây, là điển hình cho tinh thần khổ dâm. Phải học cái chữ của kẻ thù thì chỉ đơn giản là khổ, nhưng học cái chữ của mình bằng cách hai lần đi qua chữ của kẻ thù thì lại bỗng nhiên sướng? Như thế chẳng phải khổ dâm thì là cái gì? Song kết cục của công trình làm ra chữ viết của ta như thế nào lại là bất ngờ lớn cho chúng ta. Chữ quốc ngữ là tác phẩm của một số cha cố Dòng Tên. Cái may của chúng ta trong câu chuyện này là những người truyền giáo có mặt ở Việt Nam một thời gian dài, có ảnh hưởng quan trọng, là các vị Dòng Tên, nổi tiếng là những trí thức tu sĩ uyên bác, có năng khiếu ngoại ngữ và có một lòng khoan thứ nhất định đối với những tín ngưỡng khác, chứ không phải là các vị của Dòng Dominique như trong trường hợp của Trung Quốc chẳng hạn.

Những căn bệnh khác của “người học trò Việt Nam” trong tình thế lưỡng phân này chúng ta có thể kể ra: Học như vậy thì không thể không mặc cảm. Ðương nhiên là phải thấy mình bé nhỏ, kém cỏi trước cái khổng lồ, phong phú và cái ưu thế của những thành tựu văn hoá khác. Tôi thực sự chưa hề được chứng kiến một trí thức hoặc văn nghệ sĩ Việt Nam nào có một lòng tự hào và tự tin đáng thuyết phục khi họ đi ra nước ngoài. Tất nhiên trong chuyện này có nhiều bên tham gia. Không thể có kẻ đại diện cho một văn hoá nhược tiểu nếu như không có kẻ đại diện cho một cường quốc văn hoá. Tất nhiên như vậy, nhưng đấy không phải là đề tài của chúng ta hôm nay. Ðã mặc cảm như vậy thì không thể không chán nản, mà ỳ ra và ăn sẵn. Dường như trí thức Việt Nam có thể rất yên tâm mà nghĩ rằng: “Không có chúng ta thì thế giới vẫn tiến bộ ầm ầm”. Thế thì đợi người ta tiến bộ mà ăn nhờ có phải đỡ mất công hay không ?. Mà đằng nào, nếu mình làm thì có ra gì mà làm ?. Thế nhưng ăn sẵn cũng có rất nhiều cách ăn sẵn. Cái cách ăn sẵn của trí thức chúng ta cũng chẳng giống ai, còn chọn chán, còn chê chán, còn chặt miếng ra, miếng nào vừa mồm mình thì mới dùng, vừa khẩu vị mình, dễ cho cái bụng mình tiêu hoá. Tất nhiên điều đó cũng có cái hợp lí của nó, song vì sao không thử xem lại cái miệng mình có nhỏ quá hay không, khẩu vị của mình có cần thay đổi đi hay không, và bụng dạ mình có còn đủ tốt để tiêu hoá cái gì đó hay không?

Tóm lại, khi cái học của một tầng lớp có học của chúng ta như thế thì cái học ấy có hơn gì sự vô học của một đám đông hay không ? Hỏi làm sao mà cái học ấy không giúp gì được ai.

Phạm Thị Hoài

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thư ngỏ: Đôi chút trả lời Hữu Ước!

Vụ việc của ông, tôi chưa bao giờ lên tiếng trước để trả lời ngôn luận, hoặc làm đơn tố cáo ông đến các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, hoặc các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Mọi việc do chính ông la rống lên trên các phương tiện thông tin báo chí; buộc tôi phải trả lời để anh chị em có thông tin hai chiều; đồng thời chính ông là người làm đơn tố cáo tôi vu khống ông. Mặt khác ông còn viết truyện mà ai đọc cũng hiểu rằng ông đã kích tôi; “buồn cưới” hơn thế nữa là ông cho rằng tôi nấp danh ông để đánh bóng tên tuổi; ông chửi tục, chửi bậy không còn một ngôn ngữ nào bẩn thỉu hơn…


Trung tướng Nguyễn Hữu Ước gửi đơn kiến nghị tố cáo việc bị luật sư Trần Đình Triển (Đoàn luật sư TP Hà Nội) "vu khống".

Tôi không thù oán gì ông, vả lại vụ việc của ông cũng chỉ là việc hết sức tầm thường trong các vụ việc mà tôi đã – đang và sẽ làm vì Đảng, vì nước, vì dân. Tôi không có động cơ mục đích gì hơn là góp phần: bảo vệ Đảng, bảo vệ nhà nước, bảo vệ nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ sự trong sáng và nghiêm minh của pháp luật,… đấu tranh phòng chống tham nhũng, lợi ích nhóm, những kẻ mang danh Đảng và nhà nước để hại nước hại dân.

Chính ông, tôi đã đủ chứng cứ dấu hiệu, là một trong những kẻ đó. Với tư cách một công dân; căn cứ Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Tố cáo,… tôi phải có nghĩa vụ tố cáo ông đến các cơ quan của Đảng và nhà nước để điều tra xác minh làm rõ, xử lý đúng pháp luật. Tôi sẵn sàng và buộc phải chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu tôi vu khống ông.

Qua 2 giai đoạn vừa qua (năm 2016 và hiện tại), tôi thấy ông trình độ chuyên môn quá bình thường (nếu như không muốn dùng từ thấp kém); nhưng thủ đoạn luồn lách, chui sâu, leo cao thì quá uyên thâm. Ông định đánh lừa dư luận, gầm rú lên là ông trong sáng, còn tôi là người đưa thông tin vu khống ông. Tôi đề nghị ông tỉnh ngộ lại đi, giải quyết cho đúng pháp luật, cụ thể là:

Thứ nhất: Năm 2016, tôi làm luật sư tư vấn miễn phí 100% cho Trung tá Lê Kim Chi (hưởng lương Thượng tá) phóng viên nguyên trực thuộc ông quản lý. Tôi thấy vụ việc có dấu hiệu mất bình thường, nên tôi gửi văn bản đến Thượng tướng Tô Lâm (Bộ trưởng Bộ CA) với ý thức và tinh thần trách nhiệm của tôi là để giải quyết vụ việc thật khách quan, thấu tình đạt lý.
Từ việc này, chính ông là người làm ầm ỷ lên, và tố cáo tôi.

Tôi đã trả lời Bộ Tư Pháp, Sở Tư pháp, Liên Đoàn luật sư VN và Đoàn Luật sư TP. Hà Nội (xin gửi văn bản kèm theo dưới đây để ông đọc lại). Vụ việc của ông và nhà báo Kim Chi: ông đã cam kết hỗ trợ 1,5 tỷ đồng để nhà báo Kim Chi giải quyết khỏi sự kiện tụng trước lãnh đạo Tổng cục Chính trị Bộ CA. Như vậy, với tư cách luật sư tư vấn cho anh Kim Chi về vụ việc này đã kết thúc cuối năm 2016.

Thứ 2: Vụ việc vừa qua, một số anh em cán bộ Báo CA được tiêu chuẩn mua căn hộ chung cư của Báo CA ở Đường Nguyễn Xiển, gọi điện thoại cho tôi nhờ tư vấn với tư cách như một người anh có hiểu biết pháp luật (không có đơn mời, không có hợp đồng, không thu phí,…với VP luật sư Vì Dân). Tôi lên tiếng vụ việc của ông trên FB cá nhân, tôi đã nói rõ là tư cách công dân.

Vậy mà, ông còn nghèo sang tôi là luật sư, gửi đơn tố cáo đến các cơ quan quản lý luật sư để xử lý. Ông nên nhớ, tôi ôm vợ tôi ngủ như thế nào là việc của tôi nhé, đó là quyền riêng tư của công dân, không liên quan đến hoạt động nghề nghiệp luật sư, đừng làm rối lên mất thời gian ông Ước nhé. Tui nói, ông có hiểu không?

Tôi đang rất bận công việc, tôi cố gắng thu xếp thời gian, khoảng đầu tháng 10/2018, tôi sẽ chính thức gửi đơn tố cáo Nguyễn Hữu Ước có dấu hiệu tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng đến các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và nhà nước để điều tra xác minh xử lý đúng pháp luật.

Ngoài những chứng cứ đã rõ, thì một số vụ việc khác cần phải được cơ quan có thẩm quyền kết luận như: Có hay không liệc ông tham mưu cho lãnh đạo Bộ liên doanh giữa An ninh TV với AVG?

Việc kêu gọi các doanh nghiệp tài trợ,… cho ANTV là bao nhiêu? Số tiền đó hiện ở đâu? Chi tiêu thế nào? Gồm những doanh nghiệp và cá nhân nào?…

Việc ”tranh con chuột” do ông vẽ, có chữ ký của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thông qua một chương trình từ thiện, bán đấu giá đưa vào quỹ từ thiện 9 tỷ đồng, cần được làm sáng tỏ là: doanh nghiệp mua tranh con chuột này đã thanh toán 9 tỷ chưa? Nếu đã thanh toán thì số tiền đó ở đâu, chi tiêu thế nào? 1200 con trâu mua giúp đỡ đồng bào các tỉnh miền núi lấy từ tiền này hay lấy tiền từ các tổ chức và cá nhân đóng góp mua 1200 con trâu ủng hộ tại chương trình?

Nói về những dấu hiệu tiêu cực của ông thì nhiều vô kể. Chỉ riêng việc làm sáng tỏ ông tố cáo cán bộ công an bức cung, tra tấn, nhục hình đối với ông cũng đã tốn không ít thời gian, mà trong đơn tố cáo của tôi cũng sẽ đề cập đến vấn đề này: nếu ông vu khống thì xử lý ông để bảo vệ uy tín cho ngành công an, nếu ông tố cáo đúng thì xử lý nghiêm khắc cán bộ CA vi phạm.

Tôi nói thật với ông Ước nhé, ông nên im lặng để “cô thương”; nếu tôi có thẩm quyền thì tôi đã chỉ đạo khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam ông từ lâu rồi; như Bộ trưởng Phạm Hùng chỉ đạo bắt ông trong việc tiết lộ bí mật về đổi tiền năm 1985.

Chào ông! Và mong ông chấp hành nếu có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền khi tôi gửi đơn tố cáo về những dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng pháp luật của ông. Tôi xin nhắc lại: đương nhiên tôi phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung đơn và chứng cứ kèm theo; nếu ông không làm sai, không tham nhũng, tài sản hợp pháp, ông trong sáng,… thì tôi phải chịu trách nhiệm về hành vi vu khống đối với ông.

(Ghi chú: thư này tôi trả lời ông trên FB; tôi sẽ không đưa bất cứ một thông tin nào về vụ việc này trên FB nữa. Vì để bảo đảm nguyên tắc giữ bí mật thông tin, tài liệu trong quá trình thanh tra, kiểm tra, xác minh,… đơn tố cáo hoặc tố giác tội phạm).















Trần Đình Triển
FB Trần Đình Triển

Phần nhận xét hiển thị trên trang