Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 13 tháng 8, 2018

HOÀNG MINH TƯỜNG VÀ VẤN ĐỀ HÒA GIẢI, HÒA HỢP...

Đặng Văn Sinh





Hoàng Minh Tường là một trong những tác giả hàng đầu của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Sau bộ "Gia phả của đất", năm 2008, ông cho ra đời tiểu thuyết "Thời của thánh thần" gây xôn xao dư luận như một cú đột phá vào thành trì chủ nghĩa "văn học phải đạo". Đương nhiên, tác phẩm bị cấm phát hành như là một hình thức trừng phạt .
Thế nhưng, sau đó lập tức xảy ra một nghịch lý. "Thời của thánh thần" nhanh chóng được dịch sang nhiều thứ tiếng, và lần lượt xuất bản tại Pháp, Hàn Quốc, Nhật Bản và… đến giờ chót thì bản tiếng Trung Quốc bị ngừng lại ( do quan hệ 4 tốt, 16 chữ vàng “văn hóa tương đồng” của hai đảng anh em (!)..., làm rạng rỡ cho nền văn học nước nhà vốn không mấy tên tuổi với cộng đồng thế giới.
Năm 2014, Hoàng Minh Tường lại thử sức ở lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử bằng tác phẩm "Nguyên khí". Đây là cuốn sách viết về thân phận người trí thức Việt Nam thời trung đại qua vụ thảm án Lệ Chi Viên thế kỷ XV, như là sự chiêu tuyết cho vợ chồng Ức trai tiên sinh Nguyễn Trãi và Lễ nghi học sỹ Nguyễn Thị Lộ. Bản thảo cuốn sách do nhà xuất bản Tri thức cấp giấy phép. Mọi thủ tục đều suôn sẻ. Ai ngờ, đến lúc sắp vào nhà in thì có lệnh (vẫn là lệnh miệng) tạm dừng. Như thế có thể xem như số phận "Nguyên khí" đã được định đoạt. Cuối cùng, Hoàng Minh Tường phải chuyển đứa con tinh thần của mình ra nước ngoài. Nhà xuất bản Dân khí và Người Việt Books ở Hoa Kỳ tiếp nhận "Nguyên khí" một cách trân trọng, và chẳng bao lâu, cuốn sách được Công ty thương mại điện tử Amazon phát hành trên toàn thế giới.
Dù đã xấp xỉ "cổ lai hy", sức viết của Hoàng Minh Tường vẫn rất đáng nể. Chỉ trong vòng hai năm, đầu năm 2017, ông lại hoàn thành bản thảo cuốn tiểu thuyết mới với tựa đề khá lạ mắt: "Những mảnh Rồng".
Khác với "Thời của thánh thần", "Những mảnh Rồng" có bố cục mở rộng ra nhiều tuyến nhân vật, trải rộng trên nhiều vùng miền không gian khác nhau, mà trục trung tâm vừa tuyến tính vừa đan xen thủ pháp đồng hiện. Với "Những mảnh Rồng", tác giả có tham vọng bao quát khoảng thời gian già nửa thế kỷ biến động của lịch sử Việt Nam, mà một trong những chủ đề trung tâm là cuộc di tản trên quy mô lớn của hơn hai triệu người Việt, từ sau 30 tháng 4 năm 1975 cho đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX.
Vì thế, nhìn một cách tổng quát, ta có thể xem "Những mảnh Rồng" là pho tiểu thuyết, là biên niên sử về cuộc thiên di vĩ đại của cộng đồng người Việt trong lịch sử Việt Nam. Tác giả đã gửi gắm một hàm ý, có thể như một phát hiện: Tất cả những cuộc chiến tranh Giải phóng, người Việt đều hội tụ lại, quy tụ lại để đánh đuổi ngoại bang, để kiến quốc và chấn hưng đất nước. Chỉ những cuộc nội chiến, nồi da nấu thịt, người Việt mới ly tán, mới tan đàn xẻ nghé, mới bỏ quê hương đất nước ra đi. Và cùng với cuộc "biến động nhân gian" tàn khốc nhất trong lịch sử dân tộc, cuộc chiến kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, là sự hận thù, chia rẽ sâu sắc, khó có thể hàn gắn vết thương này nếu nhà cầm quyền vẫn luôn hành xử với bà con xa xứ như kẻ chiến thắng trong cuộc chiến tranh “giải phóng” mà họ ngộ nhận.
Hệ thống nhân vật trong "Những mảnh Rồng" khá đa dạng, với nhiều đẳng cấp, lứa tuổi, trình độ nhận thức, nguồn gốc xuất thân cũng như hoàn cảnh khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các nhân vật có mối quan hệ với nhau hoặc theo chiều dọc, hoặc là chiều ngang. Những nhân vật chính luôn xuất hiện với tần số cao, tham gia vào mọi sự kiện thì phải kể đến Phạm Hải Hành, Ngô Đoan Diễm, bà Bé Bẩy, David Bùi, Nhân Mục, Phạm Hoài Trung, Tôn Nữ Hương Giang, Vũ Bảo Huy, Mỹ Hằng, Ngô Bỉnh Thạc, Chín Cửu. Tuy nhiên, các nhân vật phụ, chỉ thấp thoảng ở một vài chương nhưng cũng có vai trò quan trọng trong việc hình thành diện mạo cuốn sách, đồng thời định dạng tư tưởng tác phẩm như những chỉ số tham khảo. Trong số ấy, phải kể đến nhà phong thủy Ngô Cang, Cao Trần Đoàn, Thái Đàm, Tạ Kiều Sương, Lê Sa Biền, Trịnh Minh Hoàng và giáo sư James Quinn.
Khác với những tiểu thuyết trước đây, "Những mảnh Rồng" có cấu trúc đa tuyến (bao gồm nhân vật và sự kiện), liên kết với nhau bởi những mối quan hệ phức tạp, móc xích, đan chéo nhau, tạo nên một bức tranh toàn cảnh, phản ánh hiện thực đa dạng lịch sử xã hội Việt Nam chìm ngập trong khói lửa chiến tranh. Có điều, sự đa dạng ở đây được Hoàng Minh Tường chọn lọc, kiểm soát và diễn ngôn qua nghệ thuật điển hình hóa của thi pháp tiểu thuyết truyền thống. Nói cách khác, "Những mảnh Rồng”, xét về hình thức, là một tiểu thuyết "cổ điển", nhưng những "đại tự sự" và vấn đề người viết đặt ra thì không cổ hủ, cũ kỹ chút nào. Nó là sự tồn vong của đất nước, dân tộc, mà bất ai quan tâm đến đều phải đọc một cách nghiêm túc để tìm ra câu trả lời cho mình.
Có thể xem "Những mảnh Rồng" là tiểu thuyết của những sự kiện lịch sử, được phân tích, diễn giải qua cách nhìn cấp tiến của một nhà văn từng trải, có bề dày văn hóa và ngòi bút trung thực. Phần quan trọng nhất của cuốn sách là sự kiện "Thuyền nhân" (boat people) được đưa ngay lên chương đầu, với mục đích làm cho những người Việt Nam có lương tâm, nhận diện được một giai đoạn lịch sử đen tối của dân tộc, khi mà những người cộng sản hả hê với chiến thắng, còn phía bên kia, những người thuộc phe bại trận lủi thủi bỏ Tổ quốc ra đi trên những con thuyền rách nát, phó mặc số phận cho sóng gió đại dương. Những người kém may mắn hơn, phải ở lại, thì chỗ cư trú của họ chính là những nhà tù giống như trại tập trung thời Đức Quốc xã ở nơi rừng xanh núi đỏ, giam giữ hàng triệu "tù binh" vô thời hạn không qua xét xử. Học thuyết đấu tranh giai cấp sắt máu và nền kinh tế èo uột những năm sau chiến tranh đã giết chết hàng loạt quân nhân, viên chức chính thể Việt Nam cộng hòa. Những nấm mộ sơ sài không người hương khói dần dần rơi vào quên lãng. Hồn phách họ vật vờ khắp mọi miền sơn cước thành ma đói ma khát, biết đến khi nào được đầu thai kiếp khác cho trọn một vòng luân hồi?
Gia đình Phạm Hoài Bắc, Dương Thị Nhạn và những thuyền nhân trên con tàu định mệnh bị hải tặc cướp bóc, giết người, hãm hiếp phụ nữ chỉ là một trong hàng ngàn vạn những con thuyền bất hạnh trên hành trinh đi tìm tự do mà thôi. Theo con số thống kê của Cao ủy Liên hiệp quốc về "thuyền nhân" Việt Nam bỏ mạng trên đường di tản từ sau năm 1975 đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX là khoảng 300 ngàn. Đây là bi kịch của dân tộc, cũng là vết nhơ trong lịch sử Việt Nam. Những kẻ luôn tự vỗ ngực là "đỉnh cao trí tuệ", nắm quyền trượng điều hành đất nước trong tay mà để cho mấy triệu đồng bào ly hương trong khốn cùng tuyệt vọng, hẳn là trái tim họ chai sạn, không còn chỗ cho sự cảm thông, chia sẻ. Hành vi vô nhân tính ấy, thậm chí cả Karl Marx, ông tổ của Chủ nghĩa Cộng sản, cũng phải phẫn nộ cho rằng, chỉ có loài thú mới phớt lờ đồng loại, chăm chú chải chuốt bộ lông của mình.
Sự kiện Phạm Hải Hành, một boat people tí hon lọt lòng mẹ trên con thuyền rách nát vừa qua kiếp nạn giữa trùng khơi sau khi bố và chị gái bị hải tặc bắn chết quăng xuống biển, làm người đọc thổn thức. Và cũng chính chú bé thuyền nhân may mắn sống sót, sau khi cùng mẹ và bác sĩ Tôn Nữ Hương Giang đến nơi định cư, đã trở thành nhân vật trung tâm tiểu thuyết "Thuyền nhân" của nhà văn Nhân Mục.
Tiếp sau chương "Thuyền nhân" là những chương viết một cách khái quát về cuộc sống tha hương của người Việt trên đất Hoa Kỳ. Câu chuyện Phạm Hải Hành và Bùi Lai tham gia biểu tình cùng với lá cờ hòa hợp, bị những kẻ chống cộng cực đoan đánh hội đồng, phải nhập viện, xuýt bỏ mạng, chính là tiền đề để tác giả bàn sâu về vấn đề hòa hợp dân tộc. Động thái này chủ yếu dựa trên chính kiến của các trí thức, các nhà văn hóa, nhà khoa học tên tuổi của cá hai miền Nam Bắc đang định cư ở Châu Âu hoặc Bắc Mỹ. Đây là những thành phần ưu tú, từng bị chính truyền chụp mũ, truy bức nên phải tìm cách vượt biên để tránh phải ngồi tù. Đó là nhà văn Nhân Mục, tác giả tập bút ký "Nhớ cũ" nổi tiếng một thời; là nhà báo Lê Sa Biền, có thời làm báo Cộng sản; là chính khách trẻ Phạm Đăng Sinh, danh tiếng nổi như cồn, nhưng rồi bị an ninh “chiếu tướng" là đệ tử của Trần Xuân Bách nên phải cao chạy xa bay nếu không muốn "nhập kho". Rồi còn Thái Đàm, Lưu Sơn, từng chu du cả một vòng trái đất, luôn mang trong mình những nghi án tưởng tượng, khiến tâm trạng u uất như người đi xa gánh nặng ngàn cân chẳng biết bao giờ mới thoát khỏi cảnh lưu vong. Ngoài chủ đề "Thuyền nhân", cuốn sách còn đặt ra một vấn đề rất không ổn trong cách đối xử với nhau của cộng đồng người Việt hải ngoại. Nguyên nhân là sự bất đồng chính kiến về hòa giải, hòa hợp dân tộc. Thói quen của người Việt thường không chấp nhận những ý kiến khác biệt, thiếu sự khoan dung, nên gây ra tình trạng chia rẽ. Đây chính là điểm yếu nghiêm trọng khiến cho nhà cầm quyền cộng sản lợi dụng phân hóa hàng ngũ, đồng thời vô hiệu hóa những nhà đấu tranh dân chủ bằng những ngón đòn hiểm học được từ đàn anh phương Bắc. Điển hình là cuộc hội thảo của các nhân sĩ tại trụ sở báo Phục quốc, nếu không có sự can thiệp của nhà văn Nhân Mục và nhà báo Vũ Bảo Huy, hẳn đã xảy ra xung đột.
Nhân Mục (Lương Vĩnh Nhân) là một trí thức có tầm hiểu biết sâu sắc, từng trải qua chặng đường khổ ải dưới chế độ nhà tù cộng sản hà khắc, bị đối xử như loài súc vật cho dù ông là giáo sư đại học, không trực tiếp cầm súng chống lại chính quyền miền Bắc. Nỗi đau của Lương Vĩnh Nhân là, sau khi đặt chân lên đất Mỹ mới biết người vợ thân yêu đã qua đời vì căn bệnh ung thư. Ông là người trầm tĩnh, sống nội tâm, nặng tình với quê hương, nhưng mãi đến cuối đời mới được cấp visa về thăm làng Mọc có chiếc cổng cổ kính với ba chữ "Tiểu cao đại" (小高大).Nhà văn cảm thán cho nỗi bất hạnh của đám Rồng cố quốc chẳng khác gì con tin trong một nhà ngục khổng lồ mà đám cai tù là bọn bất lương, vô nhân tính. Ông cũng ngậm ngùi chia sẻ nỗi bi thương với gia đình những nạn nhân bị bỏ mạng trên biển khơi trong hành trình vô vọng đi tìm đất dung thân. Chính vì thế, ngoài việc liên hệ với bạn bè khắp năm châu để tìm cách giải mã cuốn gia phả và chiếc trâm cổ của dòng họ Phạm, ông dành phần đời còn lại viết cuốn tiểu thuyết để đời: "Thuyền nhân".
Khác với Lương Vĩnh Nhân, Vũ Bảo Huy là nhà báo "quốc doanh". Tuy nhiên, anh thực sự nối tiếp truyền thống của giới trí thức tinh hoa, đã vượt qua nỗi sợ hãi (bởi sự giám sát chặt chẽ của hệ thống an ninh, mật vụ), dám phản biện với nhà cầm quyền (qua tác phẩm báo chí, văn chương), qua phát biểu chính kiến của mình về vấn đề hòa hợp dân tộc trong cuộc hội thảo tại California. Vũ Bảo Huy công khai tán thành việc làm đầy ấn tượng của Phạm Hải Hành và David Bùi, bên cạnh đó cũng chỉ ra những nhược điểm như là khuyết tật trong hành trang văn hóa, mà ngay khi sống ở xã hội văn minh như nước Mỹ, người Việt vẫn mang theo. Là công dân của chế độ toàn trị, họ Vũ thừa biết, bản thân nó chưa bao giờ là Cộng sản. Cộng sản chỉ là cái vỏ ngụy trang, còn thực chất là nhà nước tư bản hoang dã, hành xử như những băng đảng tội phạm, vì quyền lợi của một nhóm người mà hy sinh quyền lợi của cả một dân tộc. Tuy nhiên anh cũng chỉ ra, hành động chống cộng cực đoan của một bộ phận người Việt hải ngoại đã che mờ lý trí dẫn đến cách nhìn nhận tất cả người Việt quốc nội đều là cộng sản xấu xa, và hễ có dịp gặp nhau là buông lời thóa mạ. Sự chân thành và khả năng thuyết phục có lý lẽ của Vũ Bảo Huy đã phần nào giải tỏa được sự căng thẳng giữa các tổ chức hải ngoại bất đồng chính kiến.
Mối tình sét đánh giữa nhà doanh nghiệp Mỹ Hằng và Vũ Bảo Huy cũng là một trong những trường đoạn làm người đọc thích thú bởi phong cách lãng mạn của nó. Có thể nói, đây không phải vụ affaire có tính vụ lợi mà là một mối tình đẹp đúng với nghĩa của nó. Con mắt xanh người đẹp tỷ phú nhận ra Vũ Bảo Huy là trang nam nhi đầu đội trời chân đạp đất sẽ là chỗ dựa chắc chắc cho mình sau khi đã gá nghĩa với hai người chồng giàu có. Chính mối lương duyên nồng nàn say đắm ấy đã làm sống lại tinh thần Vũ Bảo Huy sau khi anh phát hiện ra người vợ phản bội. Khốn nạn hơn nữa, kẻ đã kéo Thùy vào cuộc phiêu lưu tình ái ấy lại chính là thằng bạn nối khố Đỗ Luân Khả ngày xưa. Khả là gã hoạt đầu, lưỡi gỗ, bằng đủ mọi mánh khóe, sau này còn leo lên đến chức vụ "Trưởng ban Lý thuyết" Trung ương.
Sau chuyến đi Mỹ, Huy bi o ép đến mức phải xin thôi việc ở tòa soạn báo. Anh vừa làm luận án tiến sĩ, vừa lập trang blog cá nhân, và, Cuội blog của anh với hàng loạt bài chỉ trích nhà nước cộng sản độc tài toàn trị đã khiến nhà chức trách nổi khùng, xuống tay hạ độc. Vũ Bảo Huy bị câu lưu, bị thẩm vấn dưới sự chỉ đạo của thứ trưởng công an Hồ Hữu Nhơn và chết trong trại tạm giam. Cái chết bất đắc kỳ tử của Vũ Bảo Huy là bằng chứng không thể chối cãi của chế độ công an trị, được nhà nước cộng sản sử dụng như một công cụ hữu hiệu để triệt hạ những nhà bất đồng chính kiến. Bi kịch của Vũ Bảo Huy cũng là bi kịch của giới trí thức tinh hoa. Chỉ có loại trí thức do Đảng đào tạo mới được trọng dụng, vì đó là loại trí thức "lùn". Tuy nhiên, trong số này, nếu có kẻ nào bỗng nhiên khôn hơn Đảng thì hãy coi chừng. Là trí thức của Đảng lúc nào cũng phả "ngu" hơn Đảng. Đó là luật bất thành văn nhưng ai cũng phải thuộc nằm lòng.
Bên cạnh cặp Vũ Bảo Huy - Mỹ Hằng, Phạm Hải Hành và Ngô Đoan Diễm cũng là một mối tình đẹp. Nó vừa mang màu sắc lãng mạn của những trí thức trẻ tuổi đầy mơ mộng, vừa là biểu tượng của sự hòa hợp dân tộc sau già nửa thế kỷ phân ly. Thế nhưng cặp trai gái này, cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch bởi những toan tính của hai ông bố lúc nào cũng coi quyền lợi phe nhóm là tối thượng.
Nói một cách hình ảnh, Phạm Hải Hành được xem là biểu tượng của "Những mảnh rồng" Việt tộc, bị đẩy đến bước đường cùng phải rời cố quốc như như lời truyền ngôn của cụ tổ dòng họ Phạm có nguồn gốc từ Mạc tộc: "Tha hương tắc tồn" (他鄉則存). Thuyền Nhân được xem là thế hệ thứ hai, ra đời trên biển khơi trong những ngày cha mẹ chạy trốn nạn bạo hành của những người thắng cuộc. Cho đến lúc là sinh viên trường UC Beckerley, tham gia biểu tình, chưa một lần đặt chân về quê cha đất tổ, nhưng chàng trai trẻ đã có ý thức hòa giải, hòa hợp dân tộc qua hình ảnh lá cờ ghép biểu tượng hai thế chế chính trị từng một thời nổ súng vào nhau. Và cũng từ ý tưởng có một không hai đó, Phạm Hải Hành trở thành mục tiêu "ném đá" của những kẻ chống cộng quá khích. Thuyền Nhân như đứng giữa hai làn đạn của chiến tuyến ý thức hệ. Tuy nhiên, từ tia lửa nhỏ Phạm Hải Hành, những người có viễn kiến như Nhân Mục, Vũ Bảo Huy, Phạm Đăng Sinh,Thái Đàm, Lưu Sơn, Ngô Đoan Diễm, Mỹ Hằng..., đã nhen lên thành ngọn lửa ấm xua tan băng giá. Thái độ chân thành có tính thực tiễn này đã thức tỉnh phần lương tâm "những mảnh rồng" từ lâu vẫn ẩn tàng trong tâm khảm. Nó có hiệu quả hơn hẳn hệ thống tuyên truyền bịp bợm của những kẻ thắng cuộc bên kia đại dương.
Cũng vào thời điểm ấy, Vũ Bảo Huy và Ngô Đoan Diễm như chiếc cầu nối để Phạm Hải Hành về Việt Nam tìm nguồn cội. Thế nhưng, trên đời này, chẳng ai học hết chữ "ngờ". Cuộc tình duyên "thanh mai trúc mã" của Thuyền Nhân với Ngô Đoan Diễm bất ngờ bị kẻ thứ ba chen vào...
Sự đổ vỡ của cặp uyên ương tưởng như trong mộng này đã nằm trong kế hoạch "điệu hổ ly sơn" của những cao thủ trong nghề lừa đảo mà đầu lĩnh là Chín Cửu, một nhân vật đang lên như diều, nắm trong tay quyền sinh quyền sát, và sau đó là Ngô Bỉnh Thạc. Với Chín Cửu và viên cựu Soái Nga, tình yêu chỉ là trò chơi ô ăn quan của bọn nhóc con miệng còn hơi sữa. Quyền lực và các mối làm ăn trong guồng máy vận hành của chủ nghĩa tư bản thân hữu mới là cái đích họ nhắm đến. Và, đương nhiên, Ngô Đoan Diễm sẽ là con bài trong trò chơi quyền lực của các chính trị gia nhằm củng cố vây cánh.
Tình yêu và thân phận con người được Hoàng Minh Tường miêu tả thật sinh động với cả niềm hạnh phúc và những bi kịch của nó. Nhưng không phải là tất cả. "Những mảnh Rồng" còn có một mảng hiện thực đen tối được tác giả tái hiện qua hai nhân vật cộm cán Chín Cửu và Ngô Bỉnh Thạc như là các "bố già" đang thao túng chính trường và điều hành nền kinh tế đất nước theo phong cách Mafia. Ngô Bỉnh Thạc chính là "sân sau" của gia tộc Chín Cửu, cùng với đám chủ ngân hàng tạo thành nhóm thân hữu siêu quyền lực. Với những "ông lớn" này, hoàn toàn thiếu năng lực quản lý quốc gia vì không được đào tạo có hệ thống, nhưng lại thừa "chuyên chính vô sản" vốn là bản chất của các nhà nước độc tài theo mô hình Stalin và Mao Trạch Đông.
Trịnh Minh Hoàng chính là "hạt giống đỏ" của thể chế toàn trị. Hoàng có đầy đủ phẩm chất của một phần tử lưu manh, côn đồ, từng rút súng bắn chết con trai một quan chức chóp bu khác nhưng vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Vụ án mạng được ỉm đi, và gã "thái tử đỏ" nghiễm nhiên trở thành "thiếu úy" công an do sự dàn xếp bí mật của một viên tướng tay chân của Chín Cửu. Những hành vi hạ đẳng của Trịnh Minh Hoàng chưa dừng lại ở đây. Với sự đồng lõa của đám bạn bè, cậu ấm họ Trịnh còn tiêm thuốc mê vào quả anh đào, lừa Ngô Đoan Diễm ăn trong "dạ tiệc đế vương" ở Tuần Châu, rồi chiếm đoạt nàng. Có lẽ, bởi những "thành tích" nổi bật như vậy, chỉ ít lâu sau, cậu ấm này được cơ cấu vào Trung ương Đoàn, làm đến chức bí thư, một dạng "cán bộ nguồn" gạo cội, trong tương lai gần sẽ là nhà lãnh đạo quốc gia. Hiển nhiên, Hoàng sẽ là minh chứng tuyệt hảo cho chính sách bổ nhiệm cán bộ "đúng quy trình" con vua thì lại làm vua của những người cộng sản.
Quyền lực và lợi ích có sức hấp dẫn người cộng sản đến mức họ có thể hy sinh cả tình mẫu tử. Vì sự an toàn của bản thân, Tạ Kiều Sương sẵn sàng vứt bỏ đứa con lai không thương tiếc cho người đàn bà xa lạ. Và cũng vì là vợ một quan chức đầu tỉnh, bà ta cũng khước từ luôn đứa con trai đã trưởng thành sau nhiều lần về Việt Nam tìm mẹ. Trong khi ấy, Bùi Lai (họ tên chính thức là David Quinn Bùi), lại là biểu tượng cao đẹp cho sự hòa giải giữa hai dân tộc Việt - Mỹ. David Bùi là một hình tượng văn học giầu cá tính, tình cảm sâu nặng nhưng lại bị chính mẹ đẻ chối bỏ.
Những người cộng sản tiêu biểu là Chín Cửu, Đỗ Luân Khả, Hồ Hữu Nhơn, ngoài miệng luôn hô hào hòa hợp, hòa giải dân tộc, lại chính là những kẻ cổ xúy cho sự chia rẽ dân tộc nhiệt tình nhất với nhiều thủ đoạn tinh vi, đẩy "những mảnh rồng" văng ra khỏi tổ quốc Việt Nam. Không thể có chuyện hòa hợp, hòa giải dân tộc khi mà những người như nhà văn Nhân Mục về thăm quê luôn bị lực lượng an ninh giám sát, bị báo chí bêu riếu là "thế lực thù địch" hay "Việt Tân", còn Vũ Bảo Huy, mới chỉ viết bài phản biện một cách ôn hòa trên blog "Cuội" của mình đã bị đột tử trong trại tạm giam…
Tiểu thuyết "Những mảnh Rồng", xét đến cùng, thực chất là nỗi nhức nhối của số phận dân tộc ngày mai. Bao giờ cho đến Ngày Mai, cái ngày mà lá cờ thực sự đại diện cho nước Việt hiện đại được mỗi con Rồng cháu Tiên trên trái đất này ngưỡng vọng, hãnh diện, tự hào? Cái ngày không còn người Việt lưu vong và người Việt chính thể cộng sản; người Việt cờ vàng và người Việt cờ đỏ.
Có thể nói: tiếp theo “Gia phả của đất”, “Thời của Thánh Thần”, “Nguyên khí”, tác phẩm mới nhất “Những mảnh Rồng” tạo thành bộ tứ tiểu thuyết lịch sử - thế sự, mà nhà văn Hoàng Minh Tường muốn gửi đến bạn đọc một thông điệp về sứ mạng công dân của một nhà văn lúc nào cũng đau đáu về Đất nước, Cội nguồn.
Chí Linh, 30/4/2017
Đ.V.S.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Luật Đặc khu đã bị bỏ?

Bùi Quang Vơm



Với 423/432 đại biểu có mặt tán thành, sáng 11/6, Quốc hội Hà Nội đã quyết định loại khỏi chương trình việc thông qua dự án luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (luật Đặc khu) và được quyết định lùi lại vào kỳ họp sau, kỳ họp thứ 6, vào tháng 10/2018.
Nhưng trước khi trình QH, dự thảo sẽ phải đưa ra cho Thường vụ Quốc hội xem xét, thảo luận trước vào kỳ họp trong tháng 8, nhưng,thông cáo mới nhất từ Văn phòng Quốc hội, ngày 4/8, theo ông Nguyễn Hạnh Phúc, Tổng thư ký QH, dự án luật này “đang được xem xét thận trọng, tiếp tục lắng nghe, tiếp thu ý kiến của nhân dân. Hiện vẫn còn thời gian để Chính phủ chỉnh sửa, hoàn thiện, vì 2 tháng nữa kỳ họp thứ 6 mới diễn ra”.
Sau đó ông này thả một câu treo lửng lơ: “việc Quốc hội xem xét dự án luật vào thời điểm nào còn chờ vào kết quả quá trình tiếp thu ý kiến nhân dân thế nào, tiếp thu ý kiến cử tri thế nào...”.
Nhưng lại nói rõ: “trong dự kiến chương trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét các dự án thuộc chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cả năm 2019 và những tháng cuối năm 2018, dự luật đặc khu cũng chưa xuất hiện”.
Sợ dân rồi?
“Bộ chính trị đã quyết định, Quốc hội bàn để ra luật, chứ không thể không ra luật”. Đó là lời bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị KimNgân, nhưng Quốc hội đã không thể thông qua, phải lùi ngày bỏ phiếu lại, bây giờ lại lấp lửng rằng trong chương trình từ nay cho đến hết năm 2019, “chưa xuất hiện” Luật Đặc khu.
Chuyện như đùa! Chương trình xem gì, xét gì, phê chuẩn gì, v.v đều do Thường vụ Quốc hội cũng tức là Bộ chính trị quyết định. Không có trong chương trình là do Bộ chính trị không cho đưa vào, chứ Luật nào tự “xuất hiện”hay tự “chưa xuất hiện”được? chuyện công bố ỡm ờ này phải được hiểu rằng, Dự luật Đặc khu đã được bãi bỏ. Bộ chính trị đã quyết định không đưa dự luật ra bỏ phiếu thông qua tại Quốc hội, ít nhất từ nay tới hết năm 2019.
Như vậy, Dự luật được lẳng lặng bãi bỏ, hay lẳng lẳng thực hiện một cách vụng trộm? Tại sao phải lấp lửng?
Công khai bỏ là công khai thừa nhận Bộ chính trị thiếu trí tuệ, thiếu sáng suốt, Kết quả nghiền ngẫm suốt 20 năm của những đỉnh cao trí tuệ của đảng đã cho ra một sản phẩm không đủ tiêu chuẩn qua cửa công chúng. Bộ chính trị, mấy ông “giời con” đã không bằng trí tuệ của dân?
Chưa thông qua, mà cơn sóng phản đối đã làm ông Thủ tướng Phúc hốt hoảng kêu lên “đang có một làn sóng khủng khiếp” buộc ông ngay 8/6 phải vội vã đề nghị Quốc hội lùi ngày phê chuẩn, nhưng ngày 10/06 vẫn nổ ra Tổng biểu tình trên khắp cả nước với hàng trăm ngàn người tham gia.
Lùi, nhưng nếu Đảng, Chính phủ và Quốc hội vẫn tìm cách thông qua đúng cái Dự luật này, thì một cuộc Tổng biểu tình với quy mô và quyết tâm lớn hơn sẽ chắc chắn nổ ra.
Nếu cuộc tổng biểu tình này nổ ra, trước kỳ họp tháng 10, nhiều khả năng sẽ đi kèm với một cuộc đảo chính cướp chính quyền.
Ngày 10/6, biểu tình nổ ra đồng loạt trên gần 50 tỉnh, có “biểu hiện bạo loạn có tổ chức bởi những phần tử lạ, tại Phan Rí Cửa”. Ngày 12/6, Bộ trưởng Tô Lâm phải bay vào kiểm tra trực tiếp. Ngày 14/06 bộ Công an ra quyết định trang bị máy bay trực thăng vũ trang, tên lửa chống tăng cho cấp huyện, súng đại liên, trung liên cho cấp xã, và có hiệu lực ngay lập tức. Tiếp đến, ngày 12/07, chủ tịch nước Trần Đại Quang công bố sẽ áp dụng Thiết quân luật ở một số thành phố.
Những động thái này cho thấy, Bộ chính trị chắc chắn đã có thông tin tình báo về một kế hoạch cướp chính quyền, hoặc do chính các tổ chức quần chúng đồng loạt nổi dậy, hoặc bởi một hay vài lực lượng chống đối, lợi dụng phong trào, mượn gió bẻ măng, chẳng hạn của Tướng lĩnh Quân đội kết hợp Công an, của hệ thống tay chân ông Ba X liên kết với hệ thống đàn em của ông Lê Thanh Hải?! Thiết quân luật, cướp vũ khí và dùng trực thăng bắn tên lửa vào dân, vào quân đảo chính, dùng xe tăng cán chết dân như Tàu Cộng cán chết sinh viên năm 1989 tại Thiên An Môn?
Tại sao dân chống?
Có hai nguyên nhân chính:
1- Nguy cơ Tàu.
“Trung Quốc (Tàu Cộng) không bao giờ từ bỏ dã tâm thôn tính đất nước ta”. Đó là lời Giáo sư, nhà giáo nhân dân, Thiếu tướng công an Trương Gia Long, Tổng cục phó Tổng cục chính trị Bộ Công an.
Người Tàu đã có mặt trên suốt 10 tỉnh biên giới giáp ranh, hàng vạn người, rào làng, sinh con đẻ cái, xây trường học, dựng đền thờ, làm nhà thương, xây cầu, đổ bê tông đường, và cấm người Việt lai vãng.
Hàng vạn công nhân Tàu, phần lớn là quân nhân xuất ngũ, có mặt trên Tây Nguyên, sản xuất quặng nhôm với những bể chứa hàng triệu m3 bùn đỏ độc hại. Chỉ một hành động làm nổ các bể bùn đỏ này, hàng trăm nghìn hecta đất sẽ bị nhiễm độc nhiều đời, hàng triệu ngườisẽ chết và không còn môi trường sống.
Hàng trăm nhà máy, hàng trăm công ty do người Tàu quản lý, hàng vạn lao động được đưa sang từ Tàu lục địa rải suốt từ biên giới phía Bắc tới tận cùng bờ biển phía Nam. Như một chiến dịch tràn ngập lãnh thổ.
Bây giờ, nếu Luật Đặc khu thành hiện thực, ba khu vực yết hầu của cả ba miền đất nước có nguy cơ trở thành nhượng địa cho tư bản và dân di cư người Tàu dưới danh nghĩa nhà đầu tư, hoàn tất âm mưu thôn tính Việt Nam, thực hiện thời kỳ Bắc thuộc mới.
Cơ sở của sự lo sợ này của dân chúng là những cam kết của Hà Nội trong Hiệp ước Thành Đô, mà chính cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đã thốt lên, rằng “một thời kỳ Bắc thuộc mới bắt đầu”.
Không ai biết nội dung bí mật của Hiệp ước, nhưng báo Tàu thì lấp lửng công khai cam kết của Hà Nội xin trở thành thuộc quốc, thành một tỉnh, một khu tự trị của Cộng hoà Trung Hoa vào năm 2020, trong khi 15 điều cam kết thực thi trong Tuyên bố chung do ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký với Trung Cộng tháng 1/2017, gồm các nội dung mà nhiều chuyên gia đánh giá giống như sự tiếp tục của quá trình xoá bỏ biên giới hai nước, chuyển dần hệ thống hành chính Việt Nam hoà tan vào nền quản trị Trung Cộng.
Tổng biểu tình rầm rộ cho thấy, người Việt vĩnh viễn không chấp nhận đảng CS của ông Trọng “hữu nghị, anh em” với Tàu; bất cứ kẻ nào trong chính quyền CS quỵ luỵ Tàu, thân Tàu, kẻ đó là kẻ thù của người Việt.
Tất cả sự có mặt của người Tàu trên đất Việt hiện nay, cả di dân lẫn kinh tế, không được dân Việt thừa nhận, sẽ bị huỷ, bị quốc hữu hoá, khi chế độ đương thời bị phế truất.
Vì vậy, một khi Luật Đặc khu không có thêm điều luật chống Tàu, thì sẽ còn biểu tình.
2- Nguy cơ tham nhũng.
Nếu vẫn duy trì phương thức quản trị đang áp dụng trên cả nước hiện nay, tức là không thừa nhận quyền độc lập bất khả can thiệp của Tư pháp, cấm tự do báo chí và điều tra độc lập, cấm tự do biểu đạt và quyền tự bảo vệ lợi ích của lao động và dân chúng, đảng vẫn độc quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm quan chức, thì tham nhũng là không thể tránh khỏi, không khác gì tình trạng trên cả nước hiện nay.
Quyền hạn của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Đặc khu là quyền hạn tập trung và rất lớn, trong khi cơ quan giám sát là Hội đồng nhân dân Đặc khu chỉ không quá 15 người, vẫn được bầu ra theo cơ chế hiện tại, nghĩa là đảng cử, đảng bỏ phiếu, bịa phiếu, sẽ không có gì đảm bảo chống được lợi ích nhóm và tham nhũng khép kín.
Quyền hạn của Chủ tịch Đặc khu tập trung và rất lớn, đem lại cho vị Chủ tịch đặc lợi lớn, sẽ là nguồn gốc của việc “chạy” tham nhũng chính trị.
Dự luật quy định: Trưởng đặc khu, hay Chủ tịch Uỷ ban nhân dân đặc khu do Chủ tịch Uỷ ban tỉnh giới thiệu, Hội đồng nhân dân bầu, và Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn. Nhưng dù ai đề cử hay giới thiệu, chỉ một ý kiến của Bí thư Tỉnh uỷ đủ để được thay bằng một ứng viên khác. Để phê chuẩn, dù Thủ tướng có ý gì, một ý kiến của Tổng bí thư đủ để huỷ bỏ mọi kết quả.
Như vậy, để có vị trí trong hệ thống đặc quyền, đặc lợi của đặc khu, có thể phải chạy tất cả, từ Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Bí thư Tỉnh uỷ, tới Văn phòng Chính phủ, tới Thủ tướng, tới Văn phòng Trung ương đảng, tới Tổng bí thư, nhưng rõ ràng, điều kiện cần và đủ là chỉ “chạy” Bí thư Tỉnh uỷ và “chạy”Tổng bí thư. Đảng độc quyền quyết định công tác cán bộ.
Chống Tam quyền phân lập, vừa đá bóng vừa thổi còi, lòng tham và sự hấp dẫn của đồng tiền đã có thể biến cả Thủ tướng “Ba X”, cả Bí thư thành uỷ Đinh La Thăng, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, Trung tướng anh hùng Phan Văn Vĩnh, v.v. thành tội phạm, Bí thư Lê Thanh Hải thành một thứ “Bố già”.
Đặc khu với dự luật như vậy, sẽ chả mấy chốc sản sinh một loạt những tên ăn trộm mới, cho ra đời những tên đảng viên tỷ phú mới.
Dự luật phải như thế nào
Bộ chính trị đang âm mưu lùi vô thời hạn Luật Đặc khu để tránh một cuộc tổng biểu tình có nguy cơ phế truất chế độ. Nhưng vẫn không biết đảng quyết định bỏ hay âm thầm thực thi không cần công khai luật? Đây là một dạng “lách” Hiến pháp, thủ đoạn không nói đến, cấm nhắc đến, lờ đi giả như không biết, như kiểu “bắt cóc Trịnh Xuân Thanh”, như kiểu Luật biểu tình, một kiểu chiến thuật để “cứt trâu hoá bùn” rất quen thuộc của Bộ chính trị Đảng CS.
Không, không cần phải “tiểu nhân” như vậy. Để thỏa mãn lòng dân, Dự luật Đặc khu chỉ cần thêm hai việc:
1- Thêm điều khoản cấm mọi nhà đầu tư có nguồn gốc Tàu cộng. Luật sẽ ngăn chặn bằng mọi giá sự thâm nhập cuả Trung Cộng vào đặc khu dưới mọi hình thức có thể. Cấm mọi nhà đầu tư đến từ các quốc gia độc tài, phi dân chủ.
2- Chủ tịch Đặc khu do dân bầu trực tiếp và bãi miễn bất cứ lúc nào khi phát hiện tham nhũng.
Thử nghiệm mô hình mới.
Nếu đặc khu là nơi thí điểm các mô hình quản trị kinh tế và xã hội tiên tiến, để rút bài học và tổng kết kinh nghiệm mở rộng áp dụng cho cả nước, thì tại sao không đưa vào thử nghiệm mô hình Thị trường Tự do trên nền tảng Xã hội dân chủ đa nguyên? Trong mô hình đa nguyên, không có lực lượng chính trị nào là lãnh đạo, Tư pháp, Toà án và cảnh sát giữ vai trò trung lập, trung gian hoà giải các xung đột xã hội. Với quy mô tương đương huyện, 300.000 tới 350.000 dân, việc vận dụng thể chế Dân chủ trực tiếp là hoàn toàn khả thi và sẽ đem lại hiệu quả kinh tế xã hội rất cao. Trưởng đặc khu sẽ do dân bầu trực tiếp, mọi luật lệ, chính sách liên quan tới toàn dân sẽ do dân trực tiếp bỏ phiếu. Báo chí tự do, điều tra độc lập, mọi mâu thuẫn, xung đột đều tự do dàn xếp thông qua thương lượng ôn hoà giữa các đại diện xã hội dân sự với nhau, với doanh nghiệp, với chính quyền... Đây là mô hình Thuỵ Sĩ, tương ứng với một dạng thể chế chính trị tiên tiến của nền văn minh châu Âu hiện đại.
Ba đặc khu có thể thử nghiệm ba mô hình khác nhau.
*
Nếu Dự luật không được bổ sung để cấm người Tàu thâm nhập và không được thay đổi một cách căn bản để ngăn chặn nguy cơ tham nhũng, thì có thể khẳng định là Dự luật Đặc khu được Bộ chính trị quyết định đưa ra ép Quốc hội làm luật, có âm mưu đen tối: Hiện thực hoá những bước cuối cùng của quá trình Hán hoá lãnh thổ; Thanh toán đối thủ để tập trung quyền lực, chiếm chỗ đặc lợi, và thu gom đặc quyền vào tay phe nhóm, chuẩn bị cho một kế hoạch tham nhũng đại quy mô.
Nếu Đặc khu ra đời từ một ý tưởng trong sáng, nó phải trở thành cơ hội để áp dụng và phổ biến rộng rãi các mô hình dân chủ tiên tiến, đã được thử thách bằng lịch sử tiến hoá của nhân loại, đang tồn tại và phát triển trong phần tiến bộ nhất của Hành Tinh.
12/8/2018
B.Q.V.
Tác giả gửi BVN

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Một nghị định, 60 triệu nông dân lao đao


"Một nghị định bất hợp lý như nghị định 109 với một bên là các lợi ích “gốc to” và một bên là doanh nghiệp xuất khẩu gạo làm thật cùng 60 triệu nông dân lam lũ, chọn bên nào là việc của Bộ trưởng Bộ công thương và Thủ tướng. Ý nghĩa kiến tạo hay không phải nhìn vào thực chất của cuộc “tiêu diệt giấy phép con” mà các nhiệm kỳ trước sinh ra".
Một nghị định, 60 triệu nông dân
Nghị định 109/2010 về xuất khẩu lúa gạo đã được áp dụng 8 năm nay nhưng 60 triệu nông dân lẫn hàng nghìn doanh nghiệp lúa gạo (không phải sân sau) đều than trời. Để trở thành nhà xuất khẩu gạo đáp ứng nghị định 109, trước hết, doanh nghiệp có ít nhất 1 kho chuyên dùng với sức chứa tối thiểu 5.000 tấn thóc; có ít nhất 1 cơ sở xay, xát thóc, gạo công suất tối thiểu 10 tấn thóc/giờ; phải xuất khẩu gạo trong thời gian 12 tháng liên tục…

Thật phí lý bởi đầu tư một hạ tầng cơ sở sản xuất lớn đến như vậy rất tốn kém, hoang phí trong khi kinh tế chia sẻ hoàn toàn có thể đáp ứng yêu cầu bằng việc thuê hoặc liên kết hạ tầng sản xuất. Cứ cho là có tiền xây kho, đầu tư nơi xay xát thóc gạo nhưng do là doanh nghiệp mới nên không có “lịch sử xuất khẩu” 12 tháng như nói trên nên doanh nghiệp… bó tay.



Kể cả khi đã có giấy phép, mỗi khi ký được hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp buộc phải đăng ký với Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) trong vòng 3 ngày làm việc. Nghĩa là, doanh nghiệp phải nộp bản sao hợp đồng, trong đó có giá xuất khẩu, báo cáo về lượng thóc, gạo sẵn có của doanh nghiệp. Điều này là “vẽ rắn thêm chân” bởi doanh nghiệp lúa gạo trong nước sẽ không điên khi đặt bút ký hợp đồng với đối tác nước ngoài nếu không đáp ứng nổi.

Một trong những doanh nghiệp làm gạo xuất nhập khẩu đầu tiên tại Việt Nam (xin giấu tên) chia sẻ thế này: “Thị trường gạo xuất khẩu do Nhà nước bảo hộ đầu ra ở một số quốc gia truyền thống nhập gạo (ví dụ như Philippin) khiến doanh nghiệp gặp khó. Chúng tôi có thể bán gạo xá theo bao tải, gạo đã xử lý đóng bao bì cỡ nhỏ, các phụ phẩm của gạo. Nghĩa là chuỗi giá trị xuất khẩu sẽ cao hơn, giá bán xuất khẩu cũng cao hơn so với chỉ bán gạo xá như hiện nay.”

Gạo xá Việt Nam được bán xong, ngoài tích trữ kiểu an ninh lương thực, một lượng lớn sẽ được chế biến ra gạo thành phẩm tại quốc gia mua. Quy trình gia công ấy tạo việc làm cho quốc gia nhập khẩu, đóng thuế cho chính phủ nước đó thay vì là các doanh nghiệp gia công trong nước. Quá trình này có trước dù nghị định 109 ra đời khi ông Vũ Huy Hoàng còn làm Bộ trưởng Công thương. Nói có trước vì chính 2 tổng công ty lương thực đặt trụ sở tại Hà Nội và Tp.HCM đã đảm nhiệm xuất khẩu gạo “kiểu bao cấp” từ đầu những năm 2000.

Tôi hỏi doanh nghiệp: “Sao Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) không ý kiến?”. Họ trả lời xong tôi chỉ biết thở dài vì những cái tên “con anh Sáu, cháu chú Ba, người nhà cô Tám”. “Đáp ứng” các điều kiện như vậy chỉ có các doanh nghiệp “em cháu” có máu mặt, có “quan hệ lịch sử”. Đã có doanh nghiệp nhỏ tức giận nói xẵng: “Anh cứ hỏi bên an ninh xem có sân sau, có cổ phần trong vận chuyển, chế biến gạo hay không? Việc thao túng chính sách hay không bắt đầu từ điểm này.”

VFA với 2 trụ cột là Vinafood 1, Vinafood 2 đã làm gì để xứng với vai trò của mình trong khi Việt Nam chịu sức ép rất lớn của Campuchia, Thái Lan về xuất khẩu gạo? Kết quả báo cáo Kết thúc niên độ 2016 có ghi: “Xuất khẩu gạo của Việt Nam giảm 24,8% về khối lượng, 21,2% về giá trị so với năm 2015 và là mức giảm kỷ lục trong vòng 10 năm qua”. việc khống chế giá thu mua gạo trong nước, “khống chế quota” xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ qua các hợp đồng ủy thác có thể gọi là giấy phép con trong… giấy phép con.

Khống chế giá thu mua thì nông dân chịu thiệt. Một nông dân trồng lúa làm gạo xuất khẩu lâu năm tổng kết vầy cho dễ hiểu: “Họ ăn trên xương máu nông dân. Một ha lúa làm với thời tiết lý tưởng, không sâu bệnh, không thiên tai, không tính công của chủ ruộng thì một vụ lời 20 triệu là siêu giỏi. Chỉ cần có một biến cố nhỏ, nông dân tay trắng và gán ruộng cầm cố cho các doanh nghiệp phân bón, giống cây là thường xuyên.” (Tôi sẽ viết về mafia ngành phân bón trong bài khác.)

Nghị định 109 đã từng được sửa đổi và vẫn chưa đáp ứng được nguyện vọng tăng cơ hội xuất khẩu gạo, tăng giá trị hợp đồng xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp… không phải sân sau. Nghị định này cần tiếp tục được sửa đổi để bãi bỏ các “điều kiện tai quái” nói trên.

Chính phủ muốn tăng xuất khẩu thành phẩm thay vì chỉ là sản phẩm thô, đó là chủ trương chung. Và chủ trương này chỉ có ích khi người nông dân- nhà sản xuất tạo ra thặng dư, và nhà kinh doanh chế biến, xuất khẩu hiệu quả được đặt ở vị trí trung tâm chuỗi giá trị ở lĩnh vực lương thực.

Không biết các bộ phận tham mưu của Chính phủ nói chung và Bộ Công thương nói riêng sẽ nghĩ gì về việc rhay đổi này. Những nỗ lực mang tính minh bạch đã được doanh nghiệp tỏ bày nhiều lần song cách làm hội thảo chung chung nên các ý kiến cũng loãng đi. Nếu các chính khách chịu nghe theo từng lĩnh vực quản lý thì chỉ riêng việc nghe thôi cũng khiến các đại diện “sân sau” có mặt trong hội thảo phải đổ mồ hôi hột trong phòng máy lạnh.

Một nghị định bất hợp lý như nghị định 109 với một bên là các lợi ích “gốc to” và một bên là doanh nghiệp xuất khẩu gạo làm thật cùng 60 triệu nông dân lam lũ, chọn bên nào là việc của Bộ trưởng Bộ công thương và Thủ tướng. Ý nghĩa kiến tạo hay không phải nhìn vào thực chất của cuộc “tiêu diệt giấy phép con” mà các nhiệm kỳ trước sinh ra.
P/s: Tôi viết “các nhiệm kỳ trước” vì mục đích lập ra các Tổng công ty lương thực của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt ở giai đoạn hội hập là đúng đắn. Nhưng nó đã lỗi thời khi nghị định 109 ra đời và nay vẫn còn lỗi thời hơn nữa.

Chú thích: Nông dân- người sản xuất và tạo thặng dư cho lúa gạo- lại là người hưởng lợi ích ít nhất trong chuỗi giá trị xuất khẩu lúa gạo. Nghịch lý của một quốc gia nông nghiệp với nền kinh tế “có đuôi”.

Mai Quốc Ấn


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chẳng lẽ bây giờ xứ ta còn đi sau Campuchia cả về tư duy sử dụng mạng xã hội chăng?


Nguyễn Trường UyTheo dõi
Mấy hôm rồi nghe một quan chức xứ ta phát biểu mạng xã hội đang làm tha hoá hành vi sống của nhiều người trong xã hội chúng ta, hôm nay đọc được thông tin này ở Campuchia.
Thủ tướng Hun Sen mới tuyên bố: “Tôi ra điều kiện: Nếu bạn không biết sử dụng mạng xã hội, tôi sẽ không bổ nhiệm bạn, vì bạn không giao tiếp được với ai cả”.
Hun Sen yêu cầu quan chức chính phủ phải dùng smartphone để làm việc, ông lập ra nhóm chat để làm việc với các thành viên nội các và các quan chức địa phương thông qua mạng Telegram, WhatsApp, Viber, Facebook và Line.
Và với những ai không tham gia, Hun Sen có giải pháp đơn giản: Họ sẽ phải rời vị trí.
“Nếu ai không sử dụng mạng xã hội, chúng tôi gọi họ là người lỗi thời”, Chủ tịch tỉnh Kampong Speu – người tham gia nhóm chat với Hun Sen – nói.
Chẳng lẽ bây giờ xứ ta còn đi sau Campuchia cả về tư duy sử dụng mạng xã hội chăng?

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mất chủ quyền 1 ngày đâu có ăn nhằm gì?


Đảng và nhà nước (lần đầu tôi đòi hỏi 2 "vị" này) phải xử nghiêm khắc đám từ nhỏ tới lớn: Ban quản lý dự án đường sắt trên cao, Tổng công ty Đường sắt, Bộ Giao thông vận tải, và tay bộ trưởng Thể, về tội để cho Trung Quốc lộng hành, coi chủ quyền đất nước không ra gì.

Bọn nhà thầu Trung Quốc (đừng có ai nói với tôi là cần phải biết ơn nó, đừng bảo rằng nó đã sang làm vất vả cho ta mà lại còn vô ơn chửi nó, xin nhớ: nó đã cố tình dây dưa kéo dài, đã gây đội vốn từ hơn 500 triệu USD thành gần 1 tỉ đô, vả lại nó không làm không công, tiền trả cho nó cả núi chứ giúp giếc gì) đã không thèm giấu diếm, công bố trước 2 ngày chuyện sẽ tự cho người lên đi thử, mạng xã hội cũng phê phán rất ồn ào từ trước đó sự tự tung tự tác của nhà thầu, tuy nhiên cuối cùng chúng vẫn thực hiện trót lọt, vẫn cười vào mũi chính quyền xứ này, vậy nếu không phải sự làm ngơ, vô trách nhiệm, hoặc "tiếp tay cho giặc" của phía VN thì là cái gì?

Nay Bộ GTVT lại còn nỏ mồm chống chế, giải thích loằng ngoằng, nào là nhà thầu họp công đoàn, tiện thể cho người nhà đi thử, nào là vé chỉ có giá trị trong 1 ngày, nào là đã yêu cầu chấm dứt ngay vi phạm, không để thế lọ thế chai... 

Đèo mẹ chúng nó chứ, "vé chỉ có giá trị trong 1 ngày", mất chủ quyền 1 ngày đâu có ăn nhằm gì với chúng nó. Chúng muốn mất luôn cơ.

Hãy cách chức ngay tay Thể và đám tàn hại đất nước, không thì đảng và nhà nước cũng tự xử luôn đi.

Đúng là xứ này lắm chuyện cười ra nước mắt.

Nguyễn Thông

Phần nhận xét hiển thị trên trang

FB PHẠM ĐÌNH TRỌNG 12.08.2018:

- Những người cuối cùng của thế hệ hào hoa mà lạc bước đã ra đi

Nhà báo Bùi Tín khi còn ở trong nước. Người đội mũ nồi đứng giữa.

Cùng đang học trung học chuẩn bị thi tú tài. Người sinh tháng Chín, người sinh tháng Mười Hai, cùng năm 1927. Cùng 18 tuổi khi cuộc Cách mạng tháng Tám, 1945 nổ ra. Cùng bị cuốn hút bởi tiêu chí say đắm ngất ngây của cuộc Cách mạng tháng Tám: Đập tan xiềng xích nô lệ, giành tự do cho nhân dân, giành độc lập cho đất nước. 

Nhờ tài năng và nền tảng văn hóa của một nền giáo dục nhân văn, cả hai đều trở thành những tên tuổi, những gương mặt văn hóa sáng giá, đóng góp lớn cho cuộc cách mạng, để lại cho lịch sử và nền văn hóa đất nước những giá trị văn hóa bền vững. Hai tên tuổi đó là nhà báo Bùi Tín và nhạc sĩ Tô Hải.

Không phải chỉ có hai tên tuổi Bùi Tín, Tô Hải. Cái hồn tinh tế nhạy cảm của con người mang trong máu nền văn minh sông Hồng, cái vốn liếng của trí lự Việt Nam được tiếp nhận chương trình giáo dục nhân văn của nền văn hóa Pháp, nền văn hóa đã mở ra kỷ nguyên Ánh sáng và cuộc cách mạng Tự do – Bình đẳng – Bác ái. 

Con người và nền giáo dục đó đã tạo ra hơn một thế hệ những tài năng, những nhà văn hóa, những trí thức, những nghệ sĩ lớn Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Thanh Tịnh, Thụy An, Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử Phác, Lê Đạt, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Trần Duy, Trần Văn Cẩn, Sĩ Ngọc . . . 

Hơn một thế hệ tài năng đó đã bị cuốn hút bởi tiêu chí say đắm, ngất ngây của cuộc cách mạng mùa thu năm 1945. Họ đi vào cuộc cách mạng mùa thu và cuộc kháng chiến chống Pháp cùng những người cộng sản là để đến cái đích ước mơ từ trăm năm của cả giống nòi Việt Nam: Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giải phóng giống nòi Việt Nam. Nhưng khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang đi đến kết thúc thắng lợi, những người cộng sản lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp liền bộc lộ cái mưu đồ tội lỗi, độc ác của họ.

Đặt đảng cộng sản lên trên đất nước, lên trên dân tộc Việt Nam, những người cộng sản dẫn dắt cuộc kháng chiến chống Pháp đã vì lợi ích của đảng cộng sản Việt Nam, vì lợi ích của quốc tế cộng sản, thí bỏ lợi ích của đất nước, của dân tộc Việt Nam, vất bỏ mục tiêu độc lập của cả dân tộc Việt Nam để theo đuổi mục tiêu của những người cộng sản: mục tiêu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. 

Họ nhẫn tâm cắt đôi đất nước Việt Nam thành hai trận tuyến, cắt đôi dân tộc Việt Nam thành hai nửa hận thù. Biến đất nước Việt Nam thành biên ải của khối cộng sản thế giới, biến dân tộc Việt Nam thành đội quân gác biên ải, lấy máu dân tộc Việt Nam bảo đảm sự an toàn, bền vững và lớn mạnh cho những nhà nước cộng sản đàn anh Trung Cộng, Nga Xô. 

Đánh thắng thực dân Pháp xâm lược, những người cộng sản liền quyết liệt thực thi nền chuyên chế độc tài trên nửa nước, hăm hở lấy máu dân làm chiến tranh áp đặt chuyên chế độc tài trên cả nước. Người dân Việt Nam vừa thoát khỏi thân phận nô lệ của người dân mất nước, xiềng xích nô lệ thực dân vừa rũ bỏ trên cổ, trên chân tay, trong đầu óc người dân thì những người cộng sản lại chụp lên thân phận người dân Việt Nam ách nô lệ mới còn nặng nề, khủng khiếp hơn nhiều lần ách nô lệ thực dân: nô lệ cộng sản. 

Nặng nề, khủng khiếp nhưng nô lệ cộng sản tinh vi và giỏi lừa mị đến mức một nhà văn sắc sảo như Nguyễn Khải cũng phải đến cuối đời mới nhận ra : “Ở các chế độ toàn trị chỉ có hai cơ quan mà quyền uy bao trùm cả xã hội. Đó là cơ quan tư tưởng, tuyên truyền và cơ quan công an. Một để chăn, một để chống. Còn khi đã có chuyện bất thường xảy ra thì chỉ có một biện pháp: đàn áp, bắt giữ, lập tòa án xét xử những kẻ cầm đầu” (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất).

Trong thể chế nô lệ cộng sản, những trí thức, nghệ sĩ, tinh hoa của dân tộc, những gương mặt văn hóa của đất nước cũng chỉ là những đứa trẻ trong nhà trẻ cộng sản mà thôi: “Tám mươi triệu cái mặt không nhìn thấy mặt / Tám mươi triệu cái mmn tự nguyện bịt mồm . . . / Trí thức cụp tai / Ngòi bút trượt dài sợ hãi / . . . Trí thức cụp tai xin phiếu bé ngoan” (thơ Nguyễn Đình Chính).

Đầu năm 2006, tổng kết một đời nô lệ cầm bút của mình, nhà văn Nguyễn Khải đau đớn nhận ra cả cuộc đời đã mang cả trí tuệ, tài năng ra đóng góp cho một xã hội không có chân móng: “Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng” (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất).

Nhà báo Bùi Tín khi tị nạn chính trị ở Pháp.
Thức tỉnh về thân phận “Trí thức cụp tai xin phiếu bé ngoan”, thức tỉnh về một xã hội cộng sản không chân móng, phản con người, phản dân tộc, phản đất nước, những nhân cách trí thức Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần. . . đã lên tiếng và phải chấp nhận sự trừng trị đàn áp, bắt giữ, tù đày man rợ của nhà nước độc tài cộng sản. 

Không ném cuộc đời vào đau khổ mòn mỏi vô ích trong ngục tù cộng sản như những người đi trước, nhà báo Bùi Tín sang tị nạn chính trị ở nước Pháp của cách mạng Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Để ông viết và công bố với loài người văn minh về sự thật xã hội cộng sản Việt Nam, về sự thật cuộc đời một nhà báo trong xã hội cộng sản. Nhạc sĩ Tô Hải thì lặng lẽ viết về cuộc đời mình để kể với mai sau về thân phận ê chề, tủi nhục của người nghệ sĩ trong nhà nước cộng sản.

“Hoa Xuyên Tuyết” và “Mặt Thật” của nhà báo Bùi Tín, “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” của nhạc sĩ Tô Hải cùng với “Hoa Địa Ngục” của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, “Đêm Giữa Ban Ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên, “Đèn Cù” của nhà báo Trần Đĩnh, “Lời Ai Điếu” của nhà báo Lê Phú Khải, "Đến Già Mới Chợt Tỉnh" của nhà báo Tống Văn Công là những cung oán ngâm khúc về những thân phận đau khổ của người dân, của trí thức trong nhà nước cộng sản. 

Là thiên ký sự về nỗi thống khổ của người dân trong kiếp nô lệ cộng sản, là những trang tư liệu lịch sử chân thực, sinh động về thời cộng sản trị đau đớn của giống nòi Việt Nam, là lời thức tỉnh cho người dân, cho những trí thức đớn hèn đang còn u mê, an phận trong kiếp nô lệ cộng sản. 

Tác giả và nhạc sĩ Tô Hải (phải).
Ngoài những tác phẩm báo chí kịp thời, sắc sảo của nhà báo Bùi Tín, ngoài những nhạc phẩm còn mãi với thời gian như hợp xướng Tiếng Hát Người Chiến Sĩ Biên Thùy của nhạc sĩ Tô Hải thì Hoa Xuyên Tuyết, Mặt Thật và Hồi Ký Của Một Thằng Hèn là những đóng góp lớn lao, quí giá cho cuộc vật lộn thoát khỏi họa cộng sản của giống nòi Việt Nam.

Cùng có mặt trong cuộc đời vào năm 1927, những năm cuối cùng của kiếp nô lệ mất nước, nhà báo Bùi Tín, nhạc sĩ Tô Hải lại rời bỏ cuộc đời cùng một ngày thứ Bảy 11.8.2018, những ngày tháng cuối cùng của kiếp nô lệ cộng sản. Cả cuộc đời hơn chín mươi năm, hai tâm hồn đẹp, hai nhân cách lớn chưa có được một ngày trút bỏ nỗi niềm đau đáu về vận mệnh đất nước, chưa có một ngày thôi canh cánh về thân phận người dân. 

Nhưng nỗi niềm của hai trí thức sáng, của hai nhân cách đẹp đã thức tỉnh hàng triệu người dân Việt Nam, đã thức tỉnh thế hệ trẻ Việt Nam. Hàng triệu người đã có mặt trong hàng ngũ đấu tranh loại bỏ thảm họa cộng sản tăm tối, đưa dân tộc Việt Nam hòa nhập với loài người văn minh, hòa nhập với thời đại xán lạn của kỷ nguyên văn minh tin học. Tên tuổi Bùi Tín, Tô Hải cùng những tên tuổi Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần . . . sẽ được khắc ghi vào trang sử vượt qua đêm tối nô lệ đi tới ánh sáng độc lập tự do của giống nòi Việt Nam.

FB PHẠM ĐÌNH TRỌNG 12.08.2018

Phần nhận xét hiển thị trên trang

QUỐC HỘI $ DƯ LUẬN:


TINTUC1H.COM
Đó là thông tin do đại biểu Lê Như Tiến, Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục thanh niên thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội đưa ra tại phiên thảo luận sáng 7/11 về công tác phòng chống tội phạm và tham nhũng. Đại biểu tâm sự, m....


Bình luận
Hơp Ung He...he.. khản giọng mất rồi
Ta không nói nữa ắt thời yên thân
Quản lý
ThíchHiển thị thêm cảm xúc
Trả lời3 giờ
Bình Trần Tham nhũng là quốc nạn, tham nhũng là giặc nội xâm. Không chống được là quá tệ, không dám nói còn tệ hơn. Thế lực nào và ai đã làm cho các ông nghị hèn kém vậy? Vô cơ quan quyền lực cao nhất ấy để làm gì cho Dân, cho Nước? CT Ngân hỏi đấy; không phải tôi.

Phần nhận xét hiển thị trên trang