Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 2 tháng 5, 2018

Tính chấp chới giữa thiên đàng/địa ngục trong thơ Như Quỳnh de Prelle


Nhà thơ Du Tử Lê
Nguoi mang nuoc-Ad

Gần đây, nhiều người trẻ làm thơ tỏ ra chú ý tới sự xuất hiện của tiếng thơ Như Quỳnh de Prelle, với thi phẩm “Song Tử”, bìa của họa sĩ Lê Thiết Cương, do nhà Thuận Hóa ấn hành tháng 2-2017.

“Song Tử” gây được sự chú ý đặc biệt, một phần vì tiếng thơ trừu tượng có được cho nó những cách diễn tả khác, không theo nếp cũ. Tác giả lại là một người nữ, hiện cư ngụ tại Brussels, Vương quốc Bỉ. Có lẽ cũng nên nói thêm rằng, Như Quỳnh tìm đến với văn chương thế giới khi còn rất trẻ, đồng thời cũng có nhiều năm sống ở ngoại quốc. Vì thế, với những người biết qua tiểu sử của tác giả “Song Tử” cho rằng, phong cách văn chương của Như Quỳnh de Prelle, ít nhiều, khó tránh khỏi ảnh hưởng phong cách văn chương tây phương hiện đại. Phong cách văn chương tây phương hiện đại, cho thấy xu hướng văn chương, không nhất thiết phải chuyển tải một đề tài to lớn, hay một triết lý nhân sinh, mới lạ nào. Mà văn chương là nỗ lực không ngừng nghỉ thể hiện chính mình, hoặc đi tìm “cái tôi” như một thất lạc, bị “mất tích” trong xã hội, ngày một toàn cầu hóa này.

Tuy nhiên, qua thi phẩm “Song Tử” mới ấn hành và, nội dung của thi phẩm thứ hai, đang trên bệ phóng, có tên “Người mang nước” – cho thấy Như Quỳnh de Prelle, ở tầng sâu khuất lấp nào đó, vẫn còn tính gắn bó giữa con người và nơi chốn được sinh ra. (Ngay cả khi nơi chốn đó, thật đáng xấu hổ hay đáng nguyền rủa - qua thơ của tác giả trẻ, độc lập này, hiện ra như một hiện tượng phức tạp; đồng thời một thách đố).

Nơi phần tiểu sử sơ lược, Như Quỳnh de Prelle cho biết, trong quá khứ, Như Quỳnh từng làm việc ở lãnh vực truyền thông, sản xuất phim độc lập, viết kịch bản, viết báo tại Việt Nam. Như Quỳnh cũng từng được học bổng của Quỹ Ford tại Việt Nam về Viết kịch bản phim và, sản xuất phim.

Tôi không biết những năm, tháng viết truyện, sản xuất phim ảnh thì, kỹ thuật ở lãnh vực này, có ảnh hưởng nhiều đến thế giới thi ca của Như Quỳnh không? Riêng tôi thấy, trong phần thứ nhất của thi phẩm “Người mang nước”, có tiểu tựa là “Nỗi buồn trên cây”, có những “sequence” (hình ảnh xen kẽ) bất ngờ khiến người đọc dễ bị rối rắm, lạc lối khi dõi theo lộ trình biến động tình cảm, suy tư của Như Quỳnh.

Điển hình, trong thi phẩm thứ hai này, phần một, tựa đề “Nỗi buồn trên cây” có tất cả 32 bài thì, tựa đề “Nỗi Buồn Trên Cây” chiếm hai bài. Theo thứ tự, bài thứ nhất có tên“Nỗi Buồn Trên Cây 20n7”và, bài thứ hai“Nỗi buồn trên cây 15”… Cách đặt thêm một con số “bí hiểm” tựa như đánh đố người đọc – hoặc đó là những “ám số” dành riêng cho ai đó, hay cho chính tác giả. Theo tôi, không nên có nơi nhan đề những bài thơ được chọn để phổ biến cho đám đông. Nếu cần thiết, thì chỉ nên là một ký hiệu nhỏ, riêng giữa hai người hay, với chính tác giả mà thôi…

Phần nội dung, tôi thực sự không thể đoán biết version nào của một trong 2 bài “Nỗi Buồn Trên Cây” là linh hồn của đoạn phim ngắn, được chuyển thể với tên mới“Tôi 30” đã được chọn để trình chiếu trong nhiều Liên hoan phim(1), theo tiết lộ của chính tác giả. Tôi không có nhu cầu “giải mã” ký hiệu“20n7” trong bài thơ “Nỗi Buồn Trên Cây”(một) là con số 20 cộng 7 hay “n” là con số phiếm định ứng với bất cứ một con số ngày tháng kế tiếp nào khác. Tôi cũng không bận tâm về con số 15, nơi “Nỗi buồn trên cây 15”(Hai)-Có phải là nỗi buồn của cây 15 tuổi? Tôi nghĩ, một khi tác giả cố tình “chơi chữ” hoặc “đánh đố” người đọc thì, chúng ta chỉ nên bận tâm về nội dung thi-bản mà thôi.

Ở “Nỗi Buồn Trên Cây” (Một), Như Quỳnh viết:

“Người đàn ông nói với nàng
anh đã đánh mất em
mất em thật rồi
khi anh đi trên đường băng
không có đôi bàn tay của em níu anh”

Từ đó, bi kịch tình yêu này, với những sợi xích vô hình của nó, đã xỏ vào chân người đàn ông đôi hia bảy dặm, để người đàn ông đi từ “rừng sâu thẳm” bay lên tới “…thiên đàng địa ngục” và luôn cả:

“…những phản trắc bội tàn
hoang phế
sự quay lưng và những căm thù

một mùa vọng của nỗi buồn trên cây”

… Là sức mạnh và hệ quả của tình yêu, mang lại. Nhưng cụm từ “những phản trắc bội tàn / hoang phế” tôi cho là sự “dồn dập” của nhiều “sequence” hình ảnh gần nhau, có phần dư thừa, không cần thiết… Tuy nhiên, khi chọn nhan đề chung cho thi phẩm thứ hai của mình, là “Người mang nước”, hiển nhiên tác giả muốn cho thấy sự gắn bó của một cá thể nhỏ bé, tên Như Quỳnh de Prelle với nhân gian lồng lộng chờ được khám phá và, cũng lồng lộng nguy nàn, phản trắc.

Trong phần “dẫn nhập” ngắn, trước khi mời độc giả bước vào phần 1,“Nỗi Buồn Trên Cây”, Như Quỳnh viết:

“Tôi đã tưởng rằng, thời 20 tôi cô độc nhất, nhiều buồn bã nhất. Thì ra, thời thanh xuân rực rỡ ấy, tôi buồn vì tự do của tôi, của cái riêng tư. Lúc này đây, có đầy đủ hạnh phúc riêng tư, tôi trưởng thành, và có một lịch sử về chính mình và tình yêu quê hương xứ xở, với con người trên mặt đất này, tôi cô độc ở những hoang mang về sự rạn nứt, sự khó khăn trong những hàn gắn, sự chênh vênh của kết nối. Nỗi buồn trên cây như một định mệnh từ thời thanh xuân, nó sẽ hết khi tôi nằm xuống hay đến chết có hết buồn không, tôi không hề biết, chưa được biết.” Người mang nước.

Tôi nghĩ chúng ta không có nhiều những người nữ băn khoăn về thanh xuân 20 tuổi của mình, là:

“Nỗi buồn trên cây như một định mệnh từ thời thanh xuân, nó sẽ hết khi tôi nằm xuống hay đến chết có hết buồn không, tôi không hề biết, chưa được biết…”

Theo tôi, có thể phần nào, nó phóng lớn bi kịch tưởng tượng(?) của thời mới lớn của một nữ thi sĩ? Nhưng trước nhất, vẫn theo tôi, đó là cá tính, là phía khuất lấp nhất của tâm-thái một người nữ làm thơ không chỉ trước và, trong đời sống mà còn trước và, trong cả cái nghĩa tử / sinh nữa:

“…mưa của mùa thu đầy bão giông
sấm chớp
sự tận cùng của lá chín
của sự về với cái chết kiệt cùng
trên những hàng cây khô
của những tâm trạng không hứng thú
ngưng lại thành giọt buồn
giọt chia ly

“mưa của mùa thu như nước mắt loài người
tan biến
mặn mòi
trên những khổ đau
trên những ngày buồn
vô tận”
(Trích “Tôi là người khác ở xứ sở này”)

Mặc dù Như Quỳnh de Prelle đã cho người đọc, quan niệm riêng của cô về“cá tính”, khi viết:

“cá tính chỉ là một thứ trang sức vô nghĩa
cho những khát vọng lấp đầy trên gương mặt, con chữ
và hình hài thoát khỏi sự cô đơn
không thể chịu đựng hơn…”

Nhưng, từ vô thức, bản chất người nữ vẫn đem phù sa “niềm tin không lý giải” đến cho Như Quỳnh:

“…và tôi sẽ trở thành một cái xác chết khi tôi nằm xuống
bên cạnh người đàn ông vĩnh hằng của tôi
tình yêu tồn tại
tưởng như đã hết khi chết
tôi tin
chúng tôi có thêm một cuộc đời khác
lặng im
cùng trái đất nghiêng
ở đâu đó

“xác chết là tôi
trong tương lai
gần xa
tôi nhìn thấy
tro tàn
trong bình gốm
tôi mỉm cười
xin chào tạm biệt thế giới sống của loài người
tôi đi về cõi khác…”

Trong nỗ lực tìm cho thơ một cách nói riêng, thay vì nói tới kiếp khác, hay tình yêu thiên thu… thì, Như Quỳnh viết chết đi là được “… nằm xuống bên cạnh người đàn ông vĩnh hằng của tôi”

Đó là một trong những “niềm tin không lý giải” có khá nhiều trong “Người mang nước” – một trong những điểm mạnh của tiếng thơ này.

Tôi không biết Như Quỳnh de Prelle đang ở độ tuổi nào? Chỉ hiểu, đi giữa lộ trình chấp thiên đàng / địa ngục, thơ của Như Quỳnh de Prelle cho thấy là kết tinh kinh nghiệm sống đời thường, trước những thành / bại, cùng những ám ảnh tử / sinh, bất toàn của con người –  sinh vật những tưởng là “chúa tể” muôn loài… Nhưng thật ra, con người vốn yếu đối, bất lực như chiếc lá, lúc lìa cành, trôi theo dòng sống…

Phải chăng, chính vì tính độc lập mạnh mẽ (đôi khi trở thành hôn ám) của một người nữ quá mẫn cảm mà, thơ Như Quỳnh bị nhìn là phức tạp, khó đọc? Hay vì đó là những “ghi chú” của tác giả khi khẳng định “cái tôi” một cách quyết liệt, để rồi có thể sau đó, “cái tôi” lại bị phủ nhận, hoặc được treo lên đỉnh cao, cho những tia mặt trời chói chang, tra khảo sự hiện hữu thật / giả của nó!?!
____________
Chú thích:
(1) Như Quỳnh de Prelle cho biết… “Bài thơ Nỗi buồn trên cây được chuyển thể thành kịch bản phim ngắn của đạo diễn Minh Đức Hoàng Trần, sau đổi tên thành “Tôi 30”, được chọn trình chiếu tại Liên hoan phim Cannes 2014 và nhiều Liên hoan phim khác…”

Như Quỳnh de Prelle tố giác tệ trạng xã hội không khoan nhượng

Như đã nói, “Người mang nước” có ba phần. Mở đầu mỗi phần đã “dẫn nhập” ngắn của tác giả, trước khi bước vào nội dung. Phần hai, của thơ phẩm “Người mang nước”, tựa đề “Nhiệt đới buồn”, Như Quỳnh de Prelle viết:

“Tôi sinh ra, lớn lên ở Đất Mẹ, 30 năm. Những ký ức về tuổi thơ, về quê ngoại, về những trang sách. Sự hiện diện của gia đình. Sự cập nhật của các sự kiện bằng tin tức, mạng xã hội. Khi tôi đã ý thức trở thành một công dân, một con người xã hội, một con người khác ngoài cái tôi và riêng tư, tôi mạnh mẽ và tự tin, tôi độc lập và lặng lẽ. Suốt 30 năm ấy và sau đó, khi tôi đi học, khi tôi làm việc, khi tôi dịch chuyển từ nơi này nơi kia, vượt qua đại dương, trên những chuyến bay, chuyến tàu xa lạ, đến những vùng đất mới, tôi choàng tỉnh đón nhận một buổi sáng đầy hương hoa giữa rừng, tôi nhận ra, tôi còn thiếu bao điều mới lạ khác mà gần gũi hơn với chính tôi, với ký ức của tôi. Và tôi tiếp tục viết. Nhiệt đới buồn. Để tìm tiếng nói tự do, tình yêu trắc ẩn, để tìm quyền sống trong những rung cảm ly ti của những xung động, cảm xúc, để tìm tiếng nói, sự thấu hiểu trong sự khác biệt của nhiều ngôn ngữ và văn hoá khác nhau. Dòng chảy đó liên tiếp liên tiếp, và sẽ không ngưng lại, dù tôi ở đâu, trở thành ai khác. Thi ca đã trở thành sự hiểu biết và nhận thức”  Người mang nước.

Tuy chưa một lần trực tiếp tiếp xúc với Như Quỳnh, nhưng tôi tin, “quyền sống trong những rung cảm” vi tế và, dòng chảy đó sẽ “không bao giờ ngưng lại”dù ở hoàn cảnh hay với “lý lịch nhân thân” nào, thì, chúng cũng vẫn sẽ mãi mãi sinh động trong thơ Quỳnh.

Ở phần 2, “Nhiệt đới buồn”, trước khi người đọc gặp được những thao thức, băn khoăn, trăn trở của tác giả về một đất nước, ở xa, Như Quỳnh đã tự nói về mình, về “cái tôi” chân thật, “như một kẻ tự kỷ của thời đại”:

“…Cái Tôi thuộc về thế giới
nơi nào đó được sinh ra
lớn lên
trưởng thành
và rời bỏ
nhưng chả có nơi nào thuộc về cái Tôi
nó chỉ là một bản thể
1 cá nhân
được tự do trên cánh đồng của người An Nam
bằng ngôn ngữ tiếng Việt
tiếng mẹ sinh ra
cái Tôi được tự do tung tẩy
sống trên những hạt mầm…”
(Trích “Câu chuyện về cái tôi”)

Và, không chút ngập ngừng, không chút khoan nhượng, ở bài thơ thứ hai của “Nhiệt đới buồn”, Như Quỳnh đã chỉ đích danh một số nhân vật thuộc loại “quyền uy xã hội” chỉ là những anh… hề. Cũng trong bài thơ này, lần đầu tiên, người ta thấy những “anh hề” chính trị được cho “đồng sàng” với nhà văn mà tác giả gọi là “anh hề chữ nghĩa”:

“… trong giấc ngủ tôi nhìn thấy một anh hề
anh hề nói về những thân phận con người
ở mọi nơi anh ta đến và đi
những mặc cảm
tự ti

“anh hề cũng tự biết mình hèn nhát
quay sang nói về đám đông
mộng mị

(…)
chàng nói cho tôi về một anh hề khác
y chang
tôi nghi ngờ
thì ra anh hề như thế rất nhiều trong máu từng người
có chữ có mề đai

“nhảy nhót
làm trò
trí thức vừa ngủ vừa mê
làm trò chơi hoà hợp
giả dối lấp liếm

“anh hề và nhà văn thân nhau
họ muốn có nhiều độc giả
nhiều fan
sự ảnh hưởng
nhà văn thì toàn chụp hình thời trang
thích bàn chuyện thị phi phân biệt
rêu rao trí trá…”
(Trích “Anh hề trong giấc ngủ”)

Với tham vọng nói lên được tiếng nói phản ảnh thế hệ của mình, Như Quỳnh đã ghi lại những biến chuyển tâm lý, từ giai đoạn vô thức, ý thức rồi từ tro bụi tới lòng biết ơn:

“tôi nói với bạn về đám cháy của tinh thần
của thế hệ tôi
những lý tưởng mù loà sáng chói
đam mê chạy theo
mải miết cả tuổi thơ mình
cho đến lúc trưởng thành
ra ngoài thế giới
nhận ra
đám cháy trong mình lạnh ngắt
có khi lụi tàn
thành tro bụi
(…)

“tôi biết ơn loài người
nhân loại
biết ơn đám cháy tinh thần
thế hệ tôi
tuổi thơ tôi…”
(Trích “Đám cháy tinh thần của tôi”)

Từ sự biết ơn đó, Như Quỳnh nhìn nói về đất nước với tất cả nồng nàn, chân chất của một đứa con xa quê hương:

“... Tôi nhớ sự giản dị của những món ăn, những ngôi làng, những cái chợ
Tôi sống ở đó
30 năm
tôi khóc, tôi cười, có lúc tôi đau
dường như tôi lạc lõng ở nơi đất Mẹ
Tôi sống ở đó
30 năm
tôi học, tôi làm, tôi trưởng thành như một công dân thế giới

(…)
Và tôi lớn lên ở đó cùng với 80 triệu người
Buồn tột cùng
Chia sẻ tột cùng để tìm hạnh phúc
Và tôi yêu những gì thuộc về nguồn cội của tôi, đất Việt.”
(Trích “Đất nước 1”)

Là thế hệ sinh ra khi đất nước đã chấm dứt chiến tranh. Nhưng sự chấm dứt một cuộc chiến, thông qua cái nhìn, cảm nhận của Như Quỳnh, không có nghĩa là tai ương, đau khổ, bất hạnh, tang chế… đã không còn chỗ để tung hoành, tấn công những con người bần hàn, khốn khổ. Mà trái lại:

“Tôi lớn lên không biết khói đạn bom rơi
Như ba tôi và những người đã nằm xuống
Tôi chỉ nhìn thấy nước mắt rơi
Của nhiều bà mẹ
Của những em thơ đói nghèo
Của những căn nhà dột nát
Của những căn bệnh từ chiến tranh
(Trích “Dữ dội”)

Ba đoạn trích trong Người mang nước


Như Quỳnh de Prelle

Người mang nước gồm ba phần Nỗi buồn trên cây, Nhiệt đới buồn và Babel như một tuyển tập thơ của Như Quỳnh de Prelle suốt từ thời thanh xuân 20 cho đến thời điểm hiện tại. Từ cái tôi và sự riêng tư cho đến những cảm thức vượt ra khỏi bản thân mình để dấn thân vào các sự kiện xã hội, các câu chuyện thế sự bằng cảm quan, sự xung động có lúc mạnh mẽ, có lúc thờ ơ, hoang mang, sợ hãi. Tiếp tục những câu chuyện khác ở thời gian khác, không gian khác về những trải nghiệm và sự khám phá từ chính bản thân với công việc sáng tác như một nghệ thuật của đời thường hiện sinh. Đây không chỉ là câu chuyện của riêng Quỳnh mà là câu chuyện của thế hệ. Thế hệ sinh ra từ những năm 80 của thế kỷ trước, thế hệ của sự dịch chuyển. Dịch chuyển từ bên trong cá nhân đến những không gian bên ngoài, bên ngoài cả đất Mẹ, trưởng thành và luôn dõi theo những sự kiện cũng như những đổi thay trong đời sống xã hội để khát vọng, mong ước dành cho những giá trị phố quát và ý nghĩa hơn không chỉ quê hương mình mà hơn cả là không gian toàn cầu trên khắp các lục địa của trái đất và sự đa dạng văn hoá. Babel không chỉ còn là biểu tượng trong kinh thánh, sự đổ vỡ mà còn chính là sự đang dạng toàn cầu giữa những ngôn ngữ khác nhau, sự đan xen nhiều giá trị để hướng tới tính nhân bản và thống nhất.

Hà Nội-Sài Gòn- Brusels
Mùa Bảo Bình 2007-2018



Nỗi buồn trên cây

Tôi đã tưởng rằng, thời 20 tôi cô độc nhất, nhiều buồn bã nhất. Thì ra, thời thanh xuân rực rỡ ấy, tôi buồn vì tự do của tôi, của cái riêng tư. Lúc này đây, có đầy đủ hạnh phúc riêng tư, tôi trưởng thành, và có một lịch sử về chính mình và tình yêu quê hương xứ sở, với con người trên mặt đất này, tôi cô độc ở những hoang mang về sự rạn nứt, sự khó khăn trong những hàn gắn, sự chênh vênh của kết nối. Nỗi buồn trên cây như một định mệnh từ thời thanh xuân, nó sẽ hết khi tôi nằm xuống hay đến chết có hết buồn không, tôi không hề biết, chưa được biết.                                                                                                                        

Nhiệt đới buồn

Tôi sinh ra, lớn lên ở Đất Mẹ, 30 năm. Những ký ức về tuổi thơ, về quê ngoại, về những trang sách. Sự hiện diện của gia đình. Sự cập nhật của các sự kiện bằng tin tức, mạng xã hội. Khi tôi đã ý thức trở thành một công dân, một con người xã hội, một con người khác ngoài cái tôi và riêng tư, tôi mạnh mẽ và tự tin, tôi độc lập và lặng lẽ. Suốt 30 năm ấy và sau đó, khi tôi đi học, khi tôi làm việc, khi tôi dịch chuyển từ nơi này nơi kia, vượt qua đại dương, trên những chuyến bay, chuyến tàu xa lạ, đến những vùng đất mới, tôi choàng tỉnh đón nhận một buổi sáng đầy hương hoa giữa rừng, tôi nhận ra, tôi còn thiếu bao điều mới lạ khác mà gần gũi hơn với chính tôi, với ký ức của tôi. Và tôi tiếp tục viết. Nhiệt đới buồn. Để tìm tiếng nói tự do, tình yêu trắc ẩn, để tìm quyền sống trong những rung cảm ly ti của những xung động, cảm xúc, để tìm tiếng nói, sự thấu hiểu trong sự khác biệt của nhiều ngôn ngữ và văn hoá khác nhau. Dòng chảy đó liên tiếp liên tiếp, và sẽ không ngưng lại, dù tôi ở đâu, trở thành ai khác. Thi ca đã trở thành sự hiểu biết và nhận thức trong các sáng tác và con đường sáng tạo của Như Quỳnh de Prelle.


Babel

Tiếng Việt là ngôn ngữ tôi viết và sáng tác khi tôi không còn thường xuyên ở quê hương Đất Mẹ. Ngôn ngữ ấy cho tôi khám phá và hiểu biết hơn về những địa lý khác nhau trên trái đất này giữa những giọng nói khác nhau, giữa những ngôn ngữ khác… Ngôn ngữ ấy cho tôi kiệt cùng của chữ, của tình, của những tan biến, mất mát, trong sự vô vọng có khi hy vọng chỉ như một tia nắng, hay một mầm non. Tôi đã hiểu hơn đời sống thường ngày, hiểu hơn con người không xa lạ, dù bất kể nơi nào, ở đâu, những nơi tôi dừng lại, tôi đi qua. Nghệ thuật thường ngày trở thành luồng dẫn điện truyền cảm hứng cho những nhận thức, cảm quan cuả qua những sự sống đơn giản, bình thường mà thành thi ca.
Như Quỳnh de Prelle 


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thơ Việt từ hiện đại đến hậu hiện đại



Inrasara
NGUYỄN HOÀNG NAM
Quê ở Biên Hoà. Thuộc thế hệ ăn độn, vượt biên. Sống ở Mỹ từ năm 1980.
Năm 1994, trong ban chủ trương và sáng lập Tạp chí Thơ. Đã làm nhiều nghề.
Thơ và bài viết đã đăng trên nhiều báo và tạp chí Việt ngữ và Anh ngữ ở Mỹ. Viết kịch bản phim Oan Hồn (2005) và Chuyện Tình Xa Xứ (2008).
Tuyển thơ
Trâm anh
Baggage y2k
Một bàn chưn
Niết bàn hành
Gia tài
Nắng Chia Nửa Bãi Chiều Rồi
Trả tiền
TỪ CHỐI LIẾM HẠT TRO QUÁ KHỨ,
NGUYỄN HOÀNG NAM LÀM ĐƯỢC GÌ CHO THƠ?
Năm 1996, loạt bài thơ graphic của vài tác giả tiền vệ xuất hiện lần đầu trên tạp chí Thơ như một bước đột phá quan trọng. “TV Ký” của Khế Iêm xài đúng ba âm đính kèm chỉ định cách sử dụng. Nguyễn Đăng Thường dùng nguyên “Bưu ảnh của người Anh ở Mỹ” có ba dòng chữ OK/SPEDISCI/QUALITA, là nhãn hiệu nhà in in tạm trên bưu thiếp, rồi dấu niêm phong. Một phong kín ý nghĩa như chính bản thân tấm bưu thiếp bị niêm phong. Phần sáng tạo tháo gút mở ý nghĩa bài thơ chủ yếu nằm ở “chú thích”. Nhà thơ mời độc giả tham dự để làm đầy ý nghĩa bài thơ, từ đó nhiều ý nghĩa khác nhau phát sinh qua tâm thức, trải nghiệm riêng tư của người tiếp nhận. Ở “Những ngày vô cảm” của Nguyễn Hoàng Nam, một bàn cờ tướng lạ lẫm gồm toàn con tốt áp đảo mỗi quân mã lui lại trấn giữ một quân lu mờ không ra hình thù nằm án ngữ tại vị trí quân tướng. Chớ nghĩ đây là một vị tướng hay ngôi sao bị vây bủa trong thế mạt vận, mà là cá nhân với cá tính và cuộc sống riêng tư bị áp đảo bởi số đông trong cuộc sống hiện đại; ở thế mất hoàn toàn cá tính đó có thể là bản thân ta hoặc cũng có thể lắm chính ta góp phần mình làm thành số đông áp chế cá nhân khác. Bàn cờ gợi mở những liên tưởng đặc thù về cuộc sống con người thời đại. Vậy thôi, bài thơ đã tạo cảm xúc đặc biệt nơi ta, nếu cứ muốn thơ ca phải xúc động lòng người!(1)
Đây là các bài thơ graphic hay.
Đáng nói hơn, nó khả năng khởi động làm cuộc thay đổi cách viết và cách đọc thơ. Bởi ngay cả khi nó dở, nó cũng dở trên lối đi khác lạ. Khác lạ với dòng chảy của thơ Việt đương thời. Là điều cần thiết. Nhìn từ góc độ này, quan niệm của Nguyễn Hoàng Nam về quyền làm thơ dở, đã tạo bước chuyển đầy ý nghĩa trong tiến trình thơ Việt:
Đối với thi sĩ, quyền tự do tối thượng là quyền làm thơ dở. Có nó mới vượt qua được cái khớp của tên tuổi, của lập trường, của tuyên ngôn, của áp lực từ độc giả trông đợi cái đã quen. Có nó mới vượt qua được chính mình, và vượt qua nhiều lần(2)
Nguyễn Hoàng Nam đùa nghịch lịch sử để vượt qua các ám ảnh của lịch sử. Nhất là ám ảnh về bóng ma quá khứ đang ám hiện tại.
bệnh chiến tranh dày vò sâu xương tủy
nắng thời bình không xuyên nổi nắp hầm
kinh nghiệm giết nhau có đéo gì là dinh hạnh
mà lải nhải quààài thời năm mươi sáu mươi sáu mươi bẩy mươi
tôi quạt con đạm tiên một tràng ak nát mặt
những đời sau không cần biết tới mày
“Baggage y2k”
Chỉ khi nào vượt bỏ đại tự sự như thế, ta mới từ bỏ nỗi ăn bám kéo dài thành quả của lịch sử, ngay cả đó là lịch sử do chính ta lập nên và diễn ngôn. Qua đó, ta mới hi vọng làm ra và làm thêm cái mới, cái khác.
chiến tranh đả chết.
sao thời bình chưa tới
lửa đả tắt.
sao còn quỳ liếm từng hạt tro
“Không quỳ liếm hạt tro”. Đã có nhiều chuyên gia liếm hạt tro, quá nhiều nữa là đằng khác. Nguyễn Hoàng Nam nói không! Hãy để quá khứ được là quá khứ. Không biến chúng thành gánh nặng đè lên tâm hồn và thân xác bạn, những kẻ sáng tạo. “Baggage” được đánh số theo vài thế hệ, và mỗi đoạn là giọng của một người khác. “Baggage” như một thứ gánh nặng đeo bám các thế hệ người Việt. Đoạn cuối “Baggage y2k” là của cô giáo Việt kiều nói tiếng Việt, người của thế hệ mới. Nguyễn Hoàng Nam thuộc thế hệ một rưỡi, cây cầu bắc giữa hai thế hệ. Có thể hiểu già, biết trẻ; hiểu Việt, biết Mỹ. Thế hệ độn giữa chiến tranh và hậu chiến, giằng co cũ mới, vui nhiều nhưng khổ lụy cũng lắm. Nhưng đó chính là thế hệ khả năng hóa giải và hòa giải mọi mâu thuẫn và xung đột.
Nếu bạn biết khởi đầu.
Hãy đặt truyền thống ở dưới nịt chứ không trên lưng, bắt chước lối nói của John Barth. Đó là cách thanh toán với quá khứ, sòng phẳng. Trên nền tảng đó, ta mới hi vọng trút bỏ sau lưng bao ám ảnh tệ hại của những tên tuổi nghệ thuật lớn, trong nước và thế giới, các trào lưu hay trường phái, các tuyên ngôn và các cuộc cách mạng,... Để cuối cùng ta vượt bỏ điều khó vượt bỏ nhất: tác phẩm người đọc chờ đợi. Nhưng, vượt bỏ thế nào, đó là câu hỏi lớn? Chả ngán! Nguyễn Hoàng Nam quyết công phá vào chính tầm mong đợi, những tầm mong đợi horizon of expectations của người đọc. Trước hết, anh bỡn cợt thói quen thơ đang rất được ưu ái là mĩ học lãng mạn.
“Nắng chia nửa bãi chiều rồi”
cái lo
nó lãng mạn thôi
nhẹ nhàng
cái lười
nó cố lấn
cái dâm
cái dâm
nó bự gấp trăm cái lười
(không thấy trong sách “học làm người
bắc thang lên hỏi ông trời ổng cũng chịu thua)
yêu rồi mà
khỏi phân bua
nửa đêm vui vẻ chạy đi mua condoms
Thường thì tên một bài thơ có thể thay đổi mà không/ ít ảnh hưởng tới nội dung thơ. Ở đây ngược lại, nó làm một với bài thơ, không thể khác. Đọc tên “Nắng chia nửa bãi chiều rồi”, người đọc không thể không liên tưởng đến“Ngậm ngùi” của Huy Cận. Nhà thơ buộc độc giả luôn đọc thơ mình trong thế đối chiếu với văn bản của Huy Cận mà họ biết trước đó. Xưa, lãng mạn là thay mực xanh bằng mực tím viết vào sổ lưu bút học trò, là nón lá nghiêng che hay là hầu quạt ru nhau ngủ giấc ngon. Lãng mạn của thời hậu hiện đại đã rất khác. Tình cảm ủy mị, ướt át từng có mặt ở thơ của nhà thơ Tiền chiến hoàn toàn biến mất. Thay vào đó, em có thể chiều chàng bằng nửa đêm tung chăn chạy ra phố mua về cái condoms. Tha thiết lắm chứ! Bằng thi ảnh mới và cách xử lí nghệ thuật mới, Nguyễn Hoàng Nam tước bỏ cơ sở mĩ học của bài thơ gốc. Bên cạnh, anh cởi lớp áo lót cảm thức cũ cuối cùng bằng cấu trúc nghịch âm ở dòng bát câu thơ cuối, qua đó lục bát truyền thống đánh rơi nốt sự nhịp nhàng, êm mượt như nó vốn có(3).
Đây là bài thơ hậu hiện đại hay!
Nhưng Nguyễn Hoàng Nam có theo đóm ăn tàn chính hạt tro của mình không? Câu trả lời là, không! Anh vượt bỏ chính mình, và vượt nhiều lần.
Từ bỏ hạt tro thơ mậu dịch quốc doanh, thơ lãng mạn hậu thời, thơ tự do siêu thực hậu thời hay hiện sinh với bao tên tuổi to đùng tưởng không thể vượt qua, anh đi tìm vùng đất mới. Hầu như cứ vài ba bài là anh thay đổi cách viết. Nguyễn Hoàng Nam thơ graphic rồi thơ hình họa kết hợp với con âm để tạo hiệu quả thơ không thuần qua mắt đọc mà còn cả qua tai nghe (“Xem múa lân”, “Táo xọn”); rồi Nguyễn Hoàng Nam thơ “phân thân” kì tuyệt nữa. Ở “Trả tiền”, không có chủ thể mà chỉ có mỗi bàn tay với cả chuỗi hành động khách quan chuyển động qua từng cảm xúc của một sự việc cụ thể. “Một bàn chưn” giải tán cơ thể thành các bộ phận độc lập, để nó tự tách ra khỏi con người toàn thể để làm cuộc phiêu lưu riêng lẻ. Đó là các nỗ lực làm mới thơ, loại thơ chưa có tiền lệ. Nhưng khi cần, Nguyễn Hoàng Nam vẫn khả năng gây xúc động, những xúc động rất cổ điển.
Từ thơ tự do:
hôm nào mày tới tao chơi
mang theo bộ mặt thật nào cũng được
... hôm nào mày tới tao chơi
mang theo gương mặt cũ nào cũng được
mày cứ tới tao chơi
như một người bạn
như một người bạn quên tên
dù tất cả đều tê dại
dù có tới cũng chẳng để làm gì
dù biết không có ai ở nhà
dù tụi mình đã chết từ lâu
(“Niết bàn hành”)
Cho đến thơ văn xuôi:
ờ người thi sĩ năm xưa, ai rảnh đâu mà nhớ tới anh, bạn bè đã về an phận trong nhà thương điên, những đóa hoa ném xuống huyệt đã thành cỏ dại, những con dòi đã bị quạ đớp sạch, lũ quạ đã bay trở vào vòm trời đen ngòm, hôm nay anh đứng một mình trong nghĩa địa đọc lại bài thơ trên mộ bia lấp xấp cỏ và sình
(“Niết bàn hành”)
Đây là tâm sự thật của một tài năng thật sự. Một tài năng không cần các cử chỉ và dáng điệu để tuyên bố khệnh khạng, to tát.
Tôi đã chọn thơ để chia sẻ những kinh nghiệm của tôi, mà qua đó phản ảnh phần nào đời sống của thế hệ tôi, một thế hệ có câu chuyện để kể, nhiều điều để nói, chỉ cần lên tiếng một cách bình thường thôi đã là mới, đã là đầy thích thú so với những gì còn cố kéo dài từ thế hệ trước. Nhu cầu kể khiến tôi chuộng nội dung hơn hình thức, và sử dụng ngôn ngữ của thường ngày. Thơ là phương tiện hữu hiệu nhất và ít tốn kém nhất. Một cây bút, một tờ giấy, và nhiều nhất là vài mươi hàng chữ.
Tôi là một người làm, như người ta làm những công việc khác, thơ.
Làm thơ, chứ không phải làm nhà thơ(4).
Nguyễn Hoàng Nam sử dụng ngôn ngữ thường nhật, phương ngôn hay cách phát âm địa phương, để kể chuyện đương thời của con người cùng thời. Để giải thiêng hay giải hoặc. Muốn đạt hiệu quả tối đa của sự giải, không gì hơn sử dụng chất bỡn cợt của giọng, giọng ngọng, nhịu, nhái của con trẻ để nói về vấn đề to lớn.
kác em đừnkg lo
kô bảo đảm là
sử viêẹt dzễ lám mà
kác em khhỏi tốn dzấy vẽ dzồng vẽ dzắn
khhỏi tốn nuoớc miếng hô khảu hịu
khhỏi baận chtrí ngày này naăm đó ônkg nọ ônkg kia...
(“Baggage y2k”)
Anh sẵn sàng đặt một từ bị cho là “tục tĩu” nhất vào trong một hoàn cảnh trang trọng nhất của đời người mà đùa cợt vào chính cái nghiêm trọng để qua đó, giải tán sự đạo mạo đầy giả tạo của sự thể kéo dài không biết đâu là cùng. “Những giây phút cuối cùng của con cặc tôi/ cũng khá cảm động” (“Gia tài”). Chỉ có Nguyễn Hoàng Nam mới làm được chuyện đó. Và làm từ khá sớm. Trước và độc đáo hơn rất nhiều nhà thơ tự nhận hậu hiện đại cứ ném cơ man từ cứt đái, cặc lồn vào thơ một cách vô tội vạ.
Chối từ liếm hạt tro quá khứ, Nguyễn Hoàng Nam đã làm được gì cho thơ? Nhiều, khá nhiều. Dù anh chưa in tập thơ riêng. Chối từ áp lực từ độc giả trông đợi cái quen thuộc, thơ Nguyễn Hoàng Nam hướng đến bộ phận độc giả mới và khác, độc giả tiềm năng. Hơn mười năm qua. Và không phải nó đã không tìm thấy được độc giả của mình.
Sài Gòn, 27-1-2009
_______________________________
(1) Ba bài thơ đăng trên Tạp chí Thơ, số Mùa Thu 1996. Xem thêm lời bình của Phan Tấn Hải: “Thơ chụp bắt”, Tạp chí Thơ, số Mùa Xuân 1997.
(2) Nguyễn Hoàng Nam, “Cuộc đời mới lạ như bài thơ dở”, Tạp chí Thơ,
(3) Nguyễn Hoàng Nam, Tạp chí Thơ, Hoa Kì, số 7, Mùa Thu 1996. Xem thêm lời bình của Nguyễn Ngọc Tuấn:“Mỗi kì một bài thơ: Nắng chia nửa bãi chiều rồi”, Tạp chí Việt, số 2, 1998.
(4) Nguyễn Hoàng Nam, “Tiểu sử”, 26 nhà thơ Việt nam đương đại, NXB Tân Thư, Hoa Kì, tr. 173.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

‘Thiên nga đen’ Triều Tiên và cuộc khủng hoảng hạt nhân cuối cùng

Tác giả: Sơ Nguyên, Việt Phương, Khang Vũ
Các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa hội tụ, cả thế giới hồi hộp theo dõi thượng đỉnh Mỹ – Triều sắp diễn ra với hy vọng về một nền hòa bình mong manh.
Những tháng vừa qua là giai đoạn khủng hoảng tâm lý đối với những ai nghiên cứu lâu năm về Triều Tiên. Sự giảm nhiệt nhanh chóng của cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo này đang diễn ra với những logic rất khó lý giải.
Câu chuyện bán đảo Triều Tiên hiện nay là tiêu biểu cho hiện tượng “thiên nga đen” – sự kiện với xác suất rất nhỏ, nhưng có tác động rất lớn và phá vỡ những nhận thức cố hữu trước đó. Sau hàng thập kỷ thà chịu đói nghèo chứ không chịu từ bỏ vũ khí hạt nhân và sau bao nhiêu lời lẽ đanh thép đe dọa chiến tranh, không ai nghĩ rằng Triều Tiên cuối cùng cũng sẽ xuống nước.
Thế nhưng đến nay những dấu hiệu cho thấy điều đó đang trở thành hiện thực. Cuộc gặp liên Triều hôm 27/4 đã đạt những kết quả khả quan, dù không mới. Nó tạo nền tảng hết sức thuận lợi cho cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ – Triều lần đầu tiên trong lịch sử vào cuối tháng 5, đầu tháng 6 tới đây giữa Tổng thống Donald Trump và nhà lãnh đạo Kim Jong Un.

BƯỚC TIẾN LỚN TRONG NĂM THẬP KỶ HẠT NHÂN

Nhìn lại lịch sử, cuộc khủng hoảng hạt nhân đã kéo dài hơn năm thập kỷ qua. Thập niên 1970 là giai đoạn bước ngoặt của Đông Á: chiến tranh Việt Nam kết thúc, rạn nứt sâu sắc giữa Trung Quốc và Liên Xô, cái bắt tay lịch sử giữa Mỹ và Trung Quốc, sự phát triển thần tốc của con hổ châu Á Hàn Quốc, hàng chục nghìn lính Mỹ vẫn đóng quân ở thủ đô Seoul…
Triều Tiên khi đó là quốc gia tương đối nhỏ bé, đối đầu với một Hàn Quốc đang lên về cả sức mạnh kinh tế lẫn quân sự cũng như bị “kẹt” giữa 4 cường quốc lớn đầy mâu thuẫn: Trung Quốc, Liên Xô, Nhật Bản và Mỹ. Họ hiểu rằng một nước nhỏ ở vị trí địa chiến lược “hiểm” như thế thì rất dễ trở thành địa bàn cạnh tranh của nước lớn. Triều Tiên đã quyết định đi nước cờ táo bạo – phát triển vũ khí hạt nhân.
Suốt năm thập kỷ qua, Triều Tiên là quốc gia đi ngược dòng trong vấn đề vũ khí hạt nhân. Khi thế giới giải trừ quân bị thì họ tăng cường năng lực hạt nhân bằng mọi giá và là nước duy nhất rút ra khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân NPT.
Đất nước này đã trải qua ba đời lãnh tụ và đạt được những bước tiến rất xa về công nghệ, từ chỗ gần như không có gì. Thứ nhất, họ đã hoàn toàn làm chủ chu trình nhiên liệu hạt nhân: từ sở hữu mỏ uran tự nhiên đến các năng lực làm giàu, sản xuất nhiên liệu, tái chế và các lò nghiên cứu. Thứ hai, Triều Tiên tự chủ hoàn toàn về công nghệ sản xuất và thu nhỏ đầu đạn. Thứ ba, để tấn công hạt nhân thì một quốc gia có thể sử dụng ba phương thức: phóng tên lửa từ tàu ngầm (SLBM), phóng tên lửa đạn đạo từ xa (ICBM) và máy bay ném bom chiến lược. Triều Tiên đã sở hữu hai phương thức đầu tiên.
Như vậy, cùng với việc đã làm chủ được khả năng sản xuất, thu nhỏ đầu đạn và tấn công, Triều Tiên thực tế đã trở thành một quốc gia hạt nhân – dù chưa được công nhận chính thức.
Và tất nhiên cái giá phải trả là không hề nhỏ. Đó cũng là giai đoạn trường kỳ nhịn ăn nhịn mặc, trải qua nạn đói kéo dài 4 năm 1994-1998 và sau đó là những đợt siết chặt cấm vận của phương Tây. Đến nay, quy mô GDP của Triều Tiên chỉ bằng 1/40 so với Hàn Quốc. Sự chênh lệch đó lớn hơn rất nhiều nếu so sánh Đông Đức và Tây Đức khi sáp nhập là 1/6.
Cả về chính trị, văn hóa, hay giao lưu nhân dân, Triều Tiên bị cô lập gần như hoàn toàn với thế giới bên ngoài, trở thành nỗi bí ẩn và cả sự bêu riếu cho báo chí phương Tây. Trong đời sống chính trị quốc tế, khi bạn bí ẩn khó đoán, sở hữu vũ khí nguy hiểm, bị cô lập và không có giá trị chiến lược hay sức hấp dẫn về kinh tế, thì sẽ chẳng mấy ai chơi với bạn.

NHỮNG BƯỚC GÂY HẤN VÀ KHỦNG HOẢNG

Tuy nhiên, cũng cần phải nói công bằng rằng lỗi ở đây không hoàn toàn chỉ nằm ở Triều Tiên. Một phần lớn nữa còn nằm ở nước Mỹ tự coi mình là quá mạnh sau Chiến tranh Lạnh và thiếu tôn trọng lợi ích các nước nhỏ.
Cuộc khủng hoảng đầu tiên nổ ra vào năm 1994 khi Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế IAEA phát hiện những dấu hiệu “đi đêm” phát triển hạt nhân của Triều Tiên. Thỏa thuận Hiệp định khung sau đó được ký kết với nỗ lực của cựu tổng thống Jimmy Carter đã xoa dịu tình hình những năm sau đó, nhưng không khiến hai bên thấy hài lòng.
Câu chuyện tiếp tục cho đến năm 2001 khi chính quyền Bush “con” đưa Triều Tiên vào danh sách “trục ma quỷ”, gián tiếp kích động nước này rời bỏ Hiệp ước NPT vào năm 2003. Cuộc đàm phán 6 bên vào năm 2005 đưa ra được bản tuyên bố nguyên tắc, làm dấy lên những niềm hi vọng mới, nhưng sau đó cũng không đi đến đâu.
Kể từ đó, đàm phán ngoại giao về vấn đề Triều Tiên gần như bị bỏ rơi. Mỹ và phương Tây tập trung vào cuộc vật lộn với khủng hoảng kinh tế toàn cầu, với bất ổn ở Trung Đông. Điều duy nhất họ làm đó là thực hiện cấm vận với hy vọng Triều Tiên sẽ xuống nước và yêu cầu Trung Quốc đưa ra hành động cụ thể.
Triều Tiên kể từ đó đã tiến hành 6 cuộc thử hạt nhân, đạt những bước tiến xa và vẫn tồn tại bất chấp cấm vận. Vấn đề bán đảo Triều Tiên liên tục là một điểm nóng được nêu trên bàn nghị sự về tình hình thế giới hơn 20 năm qua, nhưng nỗ lực thực sự để giải quyết thì chưa có gì ngoài lời nói.
Câu chuyện bán đảo Triều Tiên tưởng chừng sẽ tiếp tục “nóng và để đó” cho đến khi thay đổi lớn xuất hiện từ nước Mỹ. Ông Donald Trump bất ngờ đắc cử tổng thống Mỹ vào cuối năm 2016, thể hiện lập trường vô cùng cứng rắn với Triều Tiên và coi đó là mối quan tâm khẩn thiết trong nhiệm kỳ của mình.

NHÂN TỐ DONALD TRUMP

Trong thông điệp liên bang cuối tháng 1, Tổng thống Trump đã nhắc đến Triều Tiên tổng cộng 4 lần, trong khi chỉ nhắc đến Trung Quốc 3 lần và Nga 1 lần. Điều đó phần nào cho thấy mối quan tâm của Mỹ đối với vấn đề này.
Thực tế sau đó, Mỹ có những bước đi rất mạnh để gây sức ép với Triều Tiên, cả qua kênh ngoại giao thông qua nghị quyết cấm vận của Liên Hợp Quốc và bằng các biện pháp quân sự như điều tàu sân bay đến gần bán đảo để thị uy. Song song với đó những lời lẽ đe dọa bên bờ vực chiến tranh – đúng như con bài mà Triều Tiên hay sử dụng trước đấy.
Điều đặc biệt là ông Trump nhận được sự ủng hộ gần như tuyệt đối của các phe: cái gật đầu đồng tình của Quốc hội và cả giới chuyên gia cũng như người dân, kể cả những người khó tính và “chống Trump” nhất. Mặc dù không ủng hộ chiến tranh, nhận định chung đều cho rằng, những chính quyền trước của Tổng thống Bush và Obama đều không làm được gì, thậm chí còn gây nguy hại thêm cho an ninh của nước Mỹ.
Một nước Mỹ với đặc điểm địa lý trời cho, hai bên là biển, với các láng giềng hiền hòa, cùng sức mạnh quân sự bậc nhất thế giới, thì mối đe dọa an ninh thường trực nhất chỉ đến từ vũ khí hạt nhân xuyên lục địa. Kể từ khủng hoảng 1994, Mỹ đã để cho Triều Tiên đạt được những tiến bộ vượt bậc trong cả phát triển đầu đạn hạt nhân lẫn năng lực tên lửa xuyên lục địa.
Sau gần 25 năm, Mỹ giật mình nhận ra kẻ thù không đội trời chung đã bất ngờ trở nên quá nguy hiểm: từ chỗ không một quả pháo, nay họ đã sở hữu một quả bom; và trước đây không thể bắn qua “ao” Biển Nhật Bản, thì bây giờ sắp có thể bắn vào tận phòng ngủ nhà mình. Họ hiểu rằng nếu không hành động vào lúc này thì sẽ chẳng còn lúc nào khác.
Bản thân ông Trump cũng mong muốn trở thành tổng thống Mỹ đầu tiên xử lý dứt điểm được vấn đề Triều Tiên. Nếu làm được như vậy, người ta sẽ quên hết những scandal nội bộ mà ông đang đối mặt, uy tín của ông sẽ lên rất cao và thậm chí có thể được nhận giải Nobel về Hòa Bình như ông Obama tiền nhiệm.
'Thien nga den' Trieu Tien va cuoc khung hoang hat nhan cuoi cung? hinh anh 6
Quan điểm của các nước đối với các vấn đề Triều Tiên. Đồ họa: South China Morning Post.

CÂN BẰNG MỚI, BÌNH THƯỜNG MỚI

Tuy nhiên, sẽ hơi thái quá nếu nói rằng ông Trump một tay giải quyết được hết vấn đề này thông qua bao vây cấm vận. Vốn dĩ trước ông thì Triều Tiên vẫn luôn đứng vững trước các đòn trừng phạt, kể cả đó là nạn đói lịch sử.
Thực tế, cuộc khủng hoảng hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên đang hướng về hòa dịu bởi lẽ nó đang đạt tới một cân bằng mới. Phát triển vũ khí hạt nhân đã giúp Bình Nhưỡng tái lập cân bằng cán cân về sức mạnh quân sự vốn đã ngày càng nghiêng về phía liên minh Mỹ – Hàn do ưu thế vượt trội về vũ khí thông thường.
Nhưng đến nay, câu chuyện đã sang một giai đoạn mới khi thực tế Triều Tiên trải qua trường kỳ nằm gai nếm mật đã có bước chuyển mới về chất và trở thành quốc gia hạt nhân. Dù muốn hay không, thế giới sẽ phải chấp nhận sự bình thường mới này.
Trái ngược với các tuyên bố hùng hồn, Triều Tiên không có tham vọng “đánh thắng Mỹ”. Vài quả tên lửa hạt nhân của họ chỉ có thể làm Mỹ bị thương nhưng sau đó kết quả là sự hủy diệt toàn bộ. Triều Tiên gần như đã đạt được mục đích của mình là hoàn thành vũ khí hạt nhân, bây giờ việc họ cần chỉ là làm sao để sử dụng hiệu quả nhằm bảo vệ chế độ.
Bước tiếp theo là họ sẽ tìm kiếm sự công nhận của cộng đồng quốc tế, viện trợ và hợp tác kinh tế. Từng có những năm tháng tuổi trẻ ở Thụy Sỹ, ông Kim Jong Un biết rõ nước mình cần mở cửa ở một mức nhất định, tiếp tục duy trì sự ủng hộ của Trung Quốc và tránh một cuộc tấn công phủ đầu từ bên ngoài.
Mấu chốt ở đây là một khi Mỹ đồng ý đàm phán hòa dịu, thì sẽ mở ra cánh cửa cho tất cả những điều còn lại. Mỹ hiểu rõ điều này và họ đang giữ những con bài của mình lúc úp, lúc mở. Những người quan sát sẽ thầm thán phục sự vượt lên nghịch cảnh ngoạn mục của ông Kim Jong Un. Từ chỗ bị cô lập tới đường cùng, ông liên tiếp có những động thái phá thế vây, và sau đó là gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình rồi Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae In, đưa Triều Tiên vào vị thế rất tốt để hướng tới thượng đỉnh Mỹ – Triều sau đó.

THIÊN THỜI, ĐỊA LỢI, NHÂN HÒA

Điều quan trọng nữa là các bên liên quan trong câu chuyện này đều có quan điểm tạo thuận lợi.  Vốn dĩ không phải lúc nào cũng thế. Cuộc đàm phán 6 bên cách đây 10 năm không đem lại kết quả gì vì khi đó năng lực hạt nhân của Triều Tiên không mạnh như giờ và đàm phán không đáp ứng được lợi ích của từng nước. Nhưng tình thế nay đã khác.
Trung Quốc trước đây vốn muốn giữ Triều Tiên như vùng đệm an ninh trước Mỹ, Nhật và Hàn Quốc. Mối liên hệ đan xen, chặt chẽ giữa các tỉnh biên giới của Trung Quốc với Triều Tiên vừa khiến Bắc Kinh khó thực hiện triệt để lệnh cấm vận của Liên Hợp Quốc, vừa tạo ra mối lo bất ổn biên giới lớn một khi chiến tranh Triều Tiên xảy ra. Bởi thế nên những thập kỷ qua Trung Quốc luôn có thái độ thận trọng đối với các đề xuất của phương Tây trong gây sức ép lên Triều Tiên.
Nhưng bản thân họ cũng không mong muốn vấn đề hạt nhân Triều Tiêu vượt khỏi tầm kiểm soát. Kể từ khi ông Kim Jong Un lên nắm quyền thì mối quan hệ Trung – Triều không còn nồng ấm như trước. Và bản thân Trung Quốc đang nỗ lực thể hiện hình ảnh cường quốc lãnh đạo ở khu vực và trên thế giới thì họ không muốn bị coi là bảo trợ cho một “quốc gia bất hảo” (rogue state) như cách nói của phương Tây. Vì lẽ đó, việc Trung Quốc không phủ quyết nghị quyết cấm vận mới đây của Liên Hợp Quốc là bước chuyển lớn đối với diễn biến khu vực.
Nhân tố không kém phần quan trọng nữa đến từ Hàn Quốc. Tổng thống mới Moon Jae In có nguồn gốc gia đình di cư từ Triều Tiên. Ông ủng hộ “chính sách ánh dương 2.0” thân thiện với Bình Nhưỡng và cũng mong muốn tạo dấu ấn khi mới nhậm chức.
Vị tổng thống này hiểu rằng trong mọi tình huống xấu thì kẻ chịu thiệt nhất là những người đồng bào của mình, đất nước của mình lâm vào cảnh huynh đệ tương tàn. Nếu Mỹ và Triều Tiên có rơi vào chiến tranh thì điều chắc chắn đầu tiên là thủ đô Seoul sẽ thành đống đổ nát. Còn nếu vũ khí hạt nhân có được kích hoạt thì Hàn Quốc tất nhiên sẽ bị ảnh hưởng vì ở ngay bên cạnh.
Ông Moon Jae In cũng có quan điểm về một nước Hàn Quốc độc lập hơn, không quá phụ thuộc vào sự đảm bảo an ninh quân sự của Mỹ. Điều này lại rất phù hợp với cách làm mới của chính quyền Trump về việc “cân bằng từ xa”: các đồng minh của Mỹ phải mạnh, tự chủ, Mỹ chỉ đứng ở phía sau hỗ trợ.
Trong khi đó, tại Nhật Bản, Thủ tướng Shinzo Abe đang chứng kiến mức tín nhiệm của mình sụt giảm và cũng đang tìm kiếm một thành tích đối ngoại. Mối lo ngại của Nhật Bản là bị gạt ra ngoài bàn đàm phán và những lợi ích an ninh của mình bị bỏ qua. Chính vì thế, ông Abe đã sang Mỹ và mới đây đánh tiếng về cuộc gặp thượng đỉnh Triều – Nhật. Nhật chưa thể cung cấp nhiều về quân sự nhưng về kinh tế thì họ có thứ để đặt lên bàn đàm phán.
Và như thế cục diện bán đảo Triều Tiên tích tụ được những nhân tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Những việc ông Trump và ông Kim Jong Un làm đã kích hoạt những bước chuyển theo hiệu ứng domino về ngoại giao giữa Triều – Hàn – Trung – Nhật dẫn tới sự hòa dịu nhanh chóng như hiện nay.
Bắt đầu sự giảm thiểu các tuyên bố cực đoan của các bên, sau đó là Thế vận hội Olympic mùa đông tại Hàn Quốc, các cuộc gặp song phương, sự xuống nước mạnh mẽ của lãnh tụ Kim Jong Un và mới đây nhất là thượng đỉnh liên Triều với hình ảnh hai nhà lãnh đạo dắt tay nhau qua biên giới. Người ta có thể thấy trong bản tuyên bố chung liên Triều bóng dáng của sự ngầm chấp thuận của hai cường quốc là Trung Quốc và Mỹ và sự chuẩn bị nền tảng cho cuộc gặp thượng đỉnh Mỹ – Triều vào cuối tháng 5, đầu tháng 6 tới.

NẮM TAY LIÊN TRIỀU CHO NỀN HÒA BÌNH MONG MANH?

Bản tuyên bố Bàn Môn Điếm và cái nắm tay đầy cảm xúc giữa ông Moon và ông Kim đã mang lại hy vọng khi Seoul và Bình Nhưỡng tuyên bố chấm dứt các hành động thù địch và cam kết xây dựng ổn định trên bán đảo Triều Tiên dựa trên một hiệp định hoà bình thay thế cho hiệp định đình chiến như hiện nay.
Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu Hàn Quốc và Triều Tiên đồng thuận về một bản cam kết như vậy. Các cuộc gặp cấp cao giữa hai bên vào năm 2000 và năm 2007 cũng đạt những thoả thuận được coi là “đột phá” về xây dựng hoà bình cũng như phi hạt nhân hoá bán đảo.
Nếu đọc kỹ những văn bản thỏa thuận từ 1994, 2000, 2007 và bây giờ, đều thấy có những nét tương đồng: hướng tới thống nhất bán đảo Triều Tiên, thúc đẩy trao đổi kinh tế và chính trị, xây dựng lòng tin, cam kết không sử dụng vũ lực để giải quyết bất đồng, nỗ lực phi hạt nhân hoá trong hoà bình, hướng tới việc bình thường hoá quan hệ giữa Mỹ, Nhật Bản và Triều Tiên,…
Và những cái “ngày xưa” ấy cũng từng khiến cho thế giới hy vọng về hòa bình. Olympic 2018 không phải là lần đầu tiên hai đội tuyển Hàn – Triều nắm tay diễu hành chung với nhau. Thực tế là sau mỗi kỳ khủng hoảng là sự hòa dịu, là nỗ lực ngoại giao, là hy vọng. Nhưng sau đó vài năm thì căng thẳng dần quay trở lại, với cấm vận, với thử vũ khí, với những lời đe dọa, và cả những hành động thực sự như nã pháo hay đánh chìm tàu ngầm…
Hội nghị thượng đỉnh liên Triều tuy mang lại hiệu quả rất tích cực về mặt truyền thông, giúp tăng uy tín của cả ông Moon Jae In và Donald Trump, nhưng thực sự không mới về mặt nội dung, đặc biệt là về điều khoản liên quan tới chương trình hạt nhân và tên lửa của Bình Nhưỡng – vấn đề nóng bỏng nhất trong chiến lược đối phó với Triều Tiên của chính quyền Trump.
Do đó, kết quả của cuộc gặp Trump – Kim sắp tới mới là thứ sẽ quyết định tương lai của bán đảo Triều Tiên. Những sự chuẩn bị và các bước đi hòa giải từ trước đến nay sẽ là vô nghĩa nếu cuộc gặp này đổ vỡ.

NHỮNG RÀO CẢN QUÁ LỚN: THẾ LƯỠNG NAN, NIỀM TIN

Đàm phán hòa bình không phải cứ ký là xong, mà để đạt được thỏa thuận bền vững thì phải có sự đổi chác để các bên cùng hài lòng và lòng tin phải được xây dựng.
Điều thú vị là khái niệm “phi hạt nhân hóa” được nhắc lại nhiều lần và các bên đồng ý, nhưng không ai giải thích định nghĩa và quan điểm của mình về vấn đề này. Với Mỹ, đó là Bình Nhưỡng phải dỡ bỏ hoàn toàn, chứ không chỉ đơn thuần là dừng chương trình hạt nhân. Với Triều Tiên, họ tuyên bố phải thực hiện trên cả bán đảo Triều Tiên, và nói rằng sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Hàn Quốc là “đe dọa hạt nhân”. Nếu họ không tìm được điểm chung thì đàm phán sẽ đi vào bế tắc.
Về mặt kĩ thuật, Mỹ luôn nhấn mạnh việc phi hạt nhân hóa Triều Tiên phải đảm bảo 3 yếu tố, đó là toàn diện, kiểm chứng được, và không thể đảo ngược (CVID: complete, verifiable, and irreversible denuclearization). Để tạo điều kiện, Triều Tiên đã ngỏ ý chấp thuận cho chuyên gia Mỹ vào giám sát việc đóng cửa bãi thử hạt nhân là dấu hiệu hết sức tích cực. Nhưng theo cách nhìn của Mỹ, để đảm bảo 3 yếu tố nói trên là chưa đủ. Ngay cả khi cuộc gặp thượng đỉnh không bàn tới các yếu tố này, thì ông Trump sẽ phải yêu cầu ông Kim Jong Un thiết lập các cơ chế cần thiết để đảm bảo triển khai CVID.
Sự việc không chỉ dừng lại ở vấn đề hạt nhân, ông Trump phải đối diện với sức ép từ trong nước và việc Nhật Bản vận động để đưa vào thêm các điều khoản về nhân quyền, về người Nhật bị bắt cóc vào quá trình đàm phán để tiến tới gỡ bỏ cấm vận. Trong khi đó, vấn đề Triều Tiên quan tâm nhất là an ninh và lộ trình tiến tới gỡ bỏ cấm vận. Nên nếu ông Trump bỏ qua sức ép trong nước và hứa hẹn với ông Kim về vấn đề này (mà không kèm theo các điều khoản về nhân quyền) thì việc thực thi các điều khoản sẽ rất khó thông qua với quốc hội Mỹ. Cái thế lưỡng nan của ông Trump là vậy.
Về lòng tin, câu chuyện còn phức tạp hơn rất nhiều. Mỹ sẽ nhìn vào những hành xử của Triều Tiên trong những thập kỷ qua và chẳng có lý do gì để họ tin rằng những thỏa thuận sẽ được Triều Tiên tuân thủ tuyệt đối mà không “đi đêm” như trước.
Mối nghi ngờ lớn nhất của Mỹ là Triều Tiên sẽ chỉ giả vờ đàm phán, thậm chí ký thỏa thuận để được rút cấm vận, rồi mọi chuyện đâu lại hoàn đó. Thái độ của Triều Tiên tại các diễn đàn đa phương và những việc họ dám làm như nã pháo vào đảo Yeonpyong và đánh chìm tàu chiến Hàn Quốc, vụ tù nhân sinh viên người Mỹ Warmbier hay việc ám sát người được cho là Kim Jong Nam ngay trên đất Malaysia càng khiến Mỹ khó tin nổi vào lời nói và hành động của họ.
Ở chiều ngược lại, Triều Tiên không hẳn vô lý khi không tin vào Mỹ. Mỹ đã đơn phương không thực hiện những cam kết hỗ trợ Triều Tiên trong thỏa thuận năm 1994, sau đó thì đưa họ vào danh sách “trục ma quỷ”. Ông Kim Jong Un và cả người cha của ông sẽ không quên “lời hứa Mỹ” với số phận của Gaddafi tại Lybia hay Saddam Hussein tại Iraq sau khi từ bỏ vũ khí hạt nhân.
Triều Tiên cũng sẽ nhìn vào trường hợp Ukraine bị mất Crimea vì quá tin tưởng vào sự che chở an ninh của phương Tây và Nga mà từ bỏ chương trình hạt nhân thừa hưởng từ Liên Xô. Đó là chưa nói đến những tuyên bố của ông Trump đòi xé bỏ thỏa thuận hạt nhân JCPOA được ký bởi chính quyền trước sau khi Iran đã đồng ý dừng chương trình hạt nhân của mình.
Một nước nhỏ, nghèo, bị cô lập thì không có lý do gì bắt họ tin tưởng hoàn toàn vào lời hứa của các nước lớn. Vũ khí hạt nhân gần như là thứ duy nhất cho phép một nước bé phần nào có tiếng nói ngang cơ với những siêu cường khác trong bàn cờ quốc tế. Bỏ nó, tức là đặt cược số phận của mình vào việc nước lớn giữ lời.

CHỜ ĐỢI GÌ Ở CUỘC GẶP TRUMP – KIM

Những diễn biến gần đây về tình hình bán đảo Triều Tiên là rất khả quan, và cũng có những cơ sở để tin rằng lần này mọi thứ sẽ khác. Chí ít, nó có thể là cuộc gặp mang tính “phá băng” cho quan hệ Mỹ – Triều đang căng thẳng nhất kể từ thời Clinton. Nhưng để “đầu xuôi đuôi lọt”, mà không phải là “đầu voi đuôi chuột” thì còn quá nhiều thách thức ở phía trước và quá nhiều việc phải làm.
Thời gian đến cuộc gặp thượng đỉnh chỉ còn một tháng, không nên quá hy vọng cuộc gặp này sẽ giải quyết được mọi vấn đề. Nhiều khả năng  hai bên sẽ chỉ thống nhất về mặt nguyên tắc ở một số điểm lớn như các bước xây dựng lòng tin, mở cửa để giám sát viên vào, đảm bảo an ninh cho nhau và tầm nhìn về mức độ phi hạt nhân hóa. Như vậy là đủ để ông Trump có thể giữ thể diện, vừa ghi điểm đối với quốc hội. Sau đó cấp dưới của ông Trump và ông Kim sẽ làm việc với nhau tiếp.
Nếu hai bên giữ kỳ vọng ở mức độ vừa phải như vậy thì cuộc gặp Mỹ – Triều sẽ thành công, còn nếu một bên cứng rắn và đòi hỏi quá cao thì cuộc gặp sẽ đổ vỡ và sẽ ảnh hưởng lớn tới nỗ lực bình thường hóa quan hệ hai miền Liên Triều.
Nhiều báo chí nhấn mạnh việc đàm phán Trump – Kim đổ vỡ sẽ đẩy hai nước tiến gần hơn tới bờ vực chiến tranh. Đây là nhận xét có phần hơi cực đoan vì bối cảnh an ninh hiện tại không đủ nguy hiểm để hai nước, nhất là Mỹ, tính tới khả năng dùng vũ lực. Trong trường hợp với Syria, Trump cũng chỉ giơ cao đánh khẽ, và khi so với các thời điểm khác trong quá khứ thì cũng như vậy.
Các cộng sự dưới quyền ông Trump và ông Kim sẽ còn nhiều việc phải làm để đạt được những thỏa thuận đằng sau. Việc ngoại trưởng mới được bổ nhiệm Mike Pompeo bí mật đến Bình Nhưỡng cho thấy những tín hiệu rất tốt. Đến khi lãnh đạo hai nước gặp nhau thì mọi sự đã an bài, câu chuyện chỉ còn là nghi thức ngoại giao. Hai bên sẽ không gặp nếu như chưa đàm phán xong.
Những người lạc quan nhất có thể hình dung về một bán đảo Triều Tiên không có vũ khí hạt nhân, và Triều Tiên mở cửa với hội nhập với thế giới. Đó cũng có thể là nền tảng ban đầu để hai miền Nam Bắc Triều hòa hợp dân tộc, xóa đi di sản cuối cùng của Chiến tranh Lạnh và phân chia ý thức hệ.
Cách đây 30 năm, có lẽ cũng ít ai đoán được rằng bức tường Berlin sẽ sụp đổ, Đông Tây Đức sẽ tái hợp. Nếu thành hiện thực, đây có lẽ sẽ là một trong những điều kỳ diệu nhất của thế kỷ 21, đặc biệt trong bối cảnh bức tranh chính trị thế giới có phần u ám như hiện nay.
Đó là điều kỳ diệu về một cuộc khủng hoảng hạt nhân cuối cùng.
* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của các tác giả hiện làm nghiên cứu ở Hà Nội.
Nguồn: Zing News

Phần nhận xét hiển thị trên trang