Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 5 tháng 4, 2018

Vì sao ông Trần Phương Bình phải chi 13,4 triệu đô cho Vũ 'Nhôm'?



Hoàng Điệp 











TTO - Ông Trần Phương Bình đã chỉ đạo cấp dưới xuất chi 12 khoản tiền mua 13,9 triệu USD, trong đó có 13,4 triệu USD là "mua giùm" và cho Phan Văn Anh Vũ vay, đến nay chưa trả.

Không chỉ liên quan đến khoản tiền nộp khống vào Ngân hàng Đông Á (DAB) rồi chi khống đúng số tiền ấy để Phan Văn Anh Vũ (Vũ Nhôm) mua cổ phần của chính DAB, cơ quan điều tra kết luận nguyên tổng giám đốc Trần Phương Bình còn chỉ đạo nhân viên lấy tiền mặt của ngân hàng mua đô la Mỹ đưa cho Vũ.

5 tờ giấy tay kê hàng trăm tỉ ngoài sổ sách

Trong quá trình điều tra vụ việc sai phạm của ông Trần Phương Bình và những bị can khác tại ADB, cơ quan điều tra đã thu giữ 5 tờ giấy viết tay của ông Đỗ Thanh Hùng (nguyên thủ quỹ Hội sở DAB).

Nội dung trên các tờ giấy ghi chép lại những khoản chi sai nguyên tắc gây thiệt hại cho chính ngân hàng này. Cụ thể, Đỗ Thanh Hùng đã xuất chi 12 khoản với tổng số tiền 294,6 tỉ đồng để mua đô la Mỹ cho ông Trần Phương Bình.

Qua xác minh tại DAB cho thấy, nhân viên phòng kinh doanh chi nhánh Hà Nội đã mua hơn 13,415 triệu USD nhưng chỉ nhập quỹ gần 3,4 triệu USD. Số tiền còn lại để ngoài sổ sách là hơn 10 triệu USD. 

Đến nay, các nhân viên của ông Trần Phương Bình không nhớ được khoản tiền để ngoài sổ sách này được sử dụng vào việc gì.

Theo lời khai của ông Trần Phương Bình, trong thời gian từ giữa tháng 10-2012 đến giữa tháng 3-2015 ông đã chỉ đạo cấp dưới xuất chi 12 khoản tiền để mua 13,9 triệu USD.

Trong đó, ông Bình mua giùm Vũ nhôm (chủ tịch HĐQT Công ty CP xây dựng Bắc Nam 79) số tiền 13,4 triệu USD, tương đương 284 tỉ đồng. Số tiền 0,5 triệu USD còn lại, ông Bình khai dùng cho việc tìm kiếm đối tác mua hoặc đầu tư vào DAB.

Sau khi mua được số đô la mà Phan Văn Anh Vũ nhờ, ông Bình nhờ nhân viên DAB hoặc mình trực tiếp bàn giao cho ông Vũ. Ông Bình nói không biết Vũ nhờ mua đô la để làm gì, và ông Bình cũng không giải thích lý do mua số đô la trên giúp cho Vũ. 

Cần đô la, Vũ "Nhôm" lại gọi ông Bình!

Khai với cơ quan điều tra, Phan Văn Anh Vũ thừa nhận có nhờ ông Trần Phương Bình mua giúp đô la Mỹ hai lần với tổng số tiền là 3,2 triệu USD. Đồng thời ông Vũ vay của ông Bình bảy lần với tổng số tiền là 10,2 triệu USD.

Tất cả số tiền này, ông Vũ khai đến nay vẫn chưa trả cho ông Bình đồng nào.

Tại cơ quan điều tra, ông Vũ còn khai rằng khi cần tiền để sử dụng thì gọi điện thoại cho ông Trần Phương Bình hoặc nhờ ông Bình mua đô la giúp. Trường hợp ông Vũ nhờ mua hộ thì ông Bình sẽ chỉ đạo cấp dưới mua giúp.

Phan Văn Anh Vũ khai đã nhận từ các nhân viên của ông Bình số tiền 1 triệu USD. Số tiền còn lại do ông Bình giao trực tiếp cho Vũ , gồm 8 lần, tại phòng làm việc của ông Bình trên đường Phan Đăng Lưu, quận Phú Nhuận, TP.HCM. 

Toàn bộ số ngoại tệ trên ông Vũ khai đã sử dụng vào việc cá nhân nhưng chưa nhớ ra cụ thể dùng vào việc gì.

Cơ quan điều tra cho rằng, Phan Văn Anh Vũ là người đã nhận số tiền 13,4 triệu USD từ ông Trần Phương Bình và không biết ông Bình sử dụng nguồn tiền nào để mua số đô la Mỹ này. 

Do đó, cơ quan điều tra cho rằng không có căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự đối với Phan Văn Anh Vũ. Nhưng ông Vũ phải có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ số đô la Mỹ đã nhận cho ông Trần Phương Bình.

Cơ quan điều tra kết luận, hành vi của ông Trần Phương Bình là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gây thiệt hại cho DAB số tiền là 294,6 tỉ đồng. Đây là số tiền nhỏ trong tổng số nhiều khoản tiền khác mà cơ quan điều tra kết luận ông Bình đã chiếm đoạt.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

LÒNG TIN TƯỞNG



Anh là nhà thơ viết về kẻ khó
về những người nghèo
không yến tiệc đãi anh
anh viết về những người cùng khổ
dành cho anh tất cả chân thành
Sách đọc bằng đầu không bằng đi, bằng gặp
những oan khiên khuất tất trên đời
chả có lợi danh nào mua chuộc
khắc khoải trong tim
người sống đời
con người
Thế giới hồ nghi này bao cám dỗ
anh đã từng qua
anh không thể đứng ngoài
Anh tin tử tế luôn là điều có thật!
thế giới điêu toa này
không phải là ngày mai..


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Xảy ra tự sát tại Đại sứ quán Việt Nam ở Malaysia


VOA - Một phụ nữ Việt Nam vừa tự sát bằng dao ngay tại Đại sứ quán Việt Nam ở Kuala Lumpur, Malaysia, vào ngày 3/4 sau khi tới đây để làm thủ tục xin cấp giấy thông hành về nước.

Tờ Star dẫn lời đại diện cảnh sát quận Dang Wangi cho biết “Bà ấy đã nổi giận và bắt đầu la mắng nhân viên [Đại sứ quán] trước khi rút dao từ trong túi ra”.

Bà Trần Thị Mai, 37 tuổi, được cho biết đã dùng dao mang theo và tự đâm vào ngực mình. Bà đã được một người Việt có mặt tại hiện trường đưa đến bệnh viện cấp cứu nhưng không qua khỏi.

Chiều 3/4, Bộ Ngoại giao Việt Nam ra thông cáo nói: “Tại nơi làm thủ tục, khi chưa nộp hồ sơ và tiếp xúc với cán bộ lãnh sự, chị Mai có biểu hiện bất bình thường (đập bàn, la hét) và rút dao từ trong túi xách mang theo người và tự gây thương tích. Sự việc diễn ra đột ngột, nhân viên bảo vệ, cán bộ Đại sứ quán và những người có mặt không kịp can thiệp”, theo PLO.

Vụ tự sát xảy ra ngay tại Đại sứ quán đã khiến nhiều người Việt Nam ở nước ngoài phẫn nộ. Nhiều ý kiến cho rằng tệ nạn lạm thu và thái độ bàng quang, vô trách nhiệm của các cán bộ tại các đại sứ quán Việt Nam đã dẫn đến những uất ức của người dân khi buộc phải đến làm thủ tục.

Xuan Vuong Nghiem, Admin của trang Facebook “Tôi và Sứ quán” chuyên phản ánh những tiêu cực của các đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, viết:

“Đây là một minh chứng về việc “con giun xéo mãi cũng oằn”, hãy đừng khoanh tay đứng nhìn coi như không phải việc của mình mà hãy sát cánh bên nhau để đấu tranh dẹp bỏ thói hách dịch, cửa quyền, lạm thu phí lãnh sự một cách tàn nhẫn khi cái giá cao nhất phải trả không còn là tiền bạc nữa mà hôm nay đã là một mạng người”.

Malaysia là một trong những điểm đến trong khu vực của nhiều lao động Việt Nam. Rất nhiều trong số này sang Malaysia theo dạng du lịch, sau đó ở lại để làm việc chui nên thường xuyên phải đối diện với những bất an vì bị cảnh sát truy bắt.

Tháng 7 vừa qua, một đại diện của Đại sứ quán Việt Nam tại Kuala Lumpur xác nhận với báo Tuổi Trẻ về tình trạng cảnh sát Malaysia gia tăng truy quét lao động bất hợp pháp tại đây. Theo lời của cán bộ này, sứ quán Việt Nam không thể kiểm soát được số người Việt làm việc chui tại Malaysia “vì họ đi theo nhiều đường lắm”.

Vì cư trú bất hợp pháp nên nhiều lao động Việt Nam khi muốn về nước phải đến Đại sứ quán Việt Nam để làm giấy thông hành.

Nhiều người từng đến làm thủ tục tại đây cho biết họ rất “uất ức” vì những khoản lạm thu phi lý và thái độ tiêu cực của nhân viên Đại sứ quán.

Trong thông cáo chiều 3/4, Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết đã cung cấp trích xuất camera cho cảnh sát Malaysia để phục vụ việc điều tra.

Cơ quan này cũng đề nghị Bộ Công an xác minh thân nhân của bà Mai và hướng dẫn làm thủ tục cần thiết, giải quyết hậu sự.

Tin cho hay bà Trần Thị Mai qua đời để lại con nhỏ chưa đầy 1 tuổi.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Sao cứ móc tài nguyên lên bán rẻ mạt?


ĐÀO TUẤN
LĐO - Ngành than vừa “lập kỷ lục” khi nhập siêu tới 1,2 tỉ USD trong năm 2017. Trong khi đó, dù dư thừa 25 triệu tấn ximăng và giá bán “chỉ bằng một nửa Indonesia”, ngành ximăng vẫn tiếp tục sản xuất, tiếp tục bán rẻ. TS Nguyễn Đình Cung đã đặt vấn đề cực chuẩn: Có phải tài nguyên đang bị khai thác và sử dụng rẻ khi mà giá xuất khẩu chỉ bằng một nửa của Indonesia.

Nhận xét của TS Cung, một thành viên trong tổ công tác của Thủ tướng, được đưa ra trong buổi Bộ trưởng - Chủ nhiệm VPCP Mai Tiến Dũng làm việc với VICEM.

Càng nghĩ càng thấy vô lý: Vẫn dư thừa, tới 25 triệu tấn, nhưng vẫn tăng sản lượng. Giá bán chỉ rẻ bằng nửa Indonesia hay Philippines mà vẫn cứ bán?

Phải chăng vì tài nguyên là của chung nên cứ đào lên bán, bất chấp đắt rẻ, bất chấp lời lãi, bất chấp thực tế nó không phải là cái mỏ không đáy, không phải là nồi cơm Thạch Sanh (?!)

Hôm qua, Viện trưởng Viện Kinh tế VN - TS Trần Đình Thiên cho rằng, trong phát triển kinh tế đang có câu chuyện “đánh đổi”. “Đặc biệt là những ngành khai thác tài nguyên như VICEM chắc chắn là đánh đổi cực kỳ lớn”. Đánh đổi ở chỗ giá cực thấp nhưng vẫn buộc phải bán. Đánh đổi là vì chủ yếu xuất khẩu tài nguyên thô. Và sự đánh đổi không phải là câu chuyện riêng của VICEM.

Bài học nhãn tiền chính là ngành than. Cũng hôm qua, báo chí đưa ra một con số giật mình. Nhập siêu ngành than đã lên đến mức kỷ lục, đã vượt ngưỡng 1,2 tỉ USD. Trong khi tính từ đầu năm 2018 tới ngày 15.3.2018, đã có hơn 3 triệu tấn than, với trị giá 384 triệu USD, được nhập khẩu vào Việt Nam.

Như vậy, không còn là nguy cơ nữa, Việt Nam, một đất nước mà tài nguyên giàu có đến mức mỏ lộ thiên, giờ đã trở thành quốc gia nhập siêu. Liệu có cách giải thích nào hợp lý cho tình trạng giá than quốc tế chỉ 50-54 USD/tấn, nhưng chúng ta lại nhập từ Trung Quốc với giá 71 USD/tấn?

Huống chi trong con số 1,2 tỉ kinh khủng kia còn ẩn chứa sự bất ổn, ẩn chứa sự lãng phí kép khi lượng than nhập chủ yếu cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện, luyện gang thép và chính... ximăng.

Chính phủ không phải không nhìn thấy điều đó. Bộ trưởng Mai Tiến Dũng đã truyền đạt ý kiến của Thủ tướng, yêu cầu VICEM “phải nghĩ tới việc tiết kiệm tài nguyên của đất nước khi núi đá vôi chỉ có hạn, tài nguyên chỉ có hạn”. Mà cách tiết kiệm tốt nhất là chia sẻ nguồn lực tài nguyên cho khu vực kinh tế phi nhà nước. Bởi cũng chính Bộ trưởng Dũng đã nhìn thấy: “Để sản xuất 3,6 triệu tấn ximăng, một DN VICEM cần tới 1.500 lao động, trong khi một Cty liên doanh chỉ cần 1.000 người”.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Giao đất 99 năm: ‘Con cháu sẽ xử lý thế nào nếu có liên quan đến quốc phòng an ninh?’


Lê Nguyễn 04/04/2018 (VNF) – “Chúng ta giao đất với thời hạn rộng như vậy liệu có phải là đang thực hiện việc nhượng địa, vì ở đây có liên quan tới các dự án đầu tư của nước ngoài. Nếu giao quyền sử dụng đất tới 99 năm, sau này con cháu sẽ xử lý thế nào nếu có liên quan tới khía cạnh quốc phòng an ninh”, ông Phan Nguyễn Như Khuê (Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP. HCM) nói.

Đại biểu Quốc hội Phan Nguyễn Như Khuê
Không đánh đổi chủ quyền lấy phát triển kinh tế
Quy định thời hạn giao đất, cho thuê đất, Điều 32 dự thảo luật Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt (đặc khu) viết: "Căn cứ vào quy mô, tính chất của dự án đầu tư và đề xuất của nhà đầu tư, Chủ tịch UBND đặc khu quyết định thời hạn sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh tại đặc khu không quá 70 năm; trường hợp đặc biệt, thời hạn sử dụng đất có thể dài hơn nhưng không quá 99 năm do Thủ tướng Chính phủ quyết định".

Phát biểu góp ý về quy đinh này tại hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách hôm nay (4/4), đại biểu Phạm Thị Thu Trang (đoàn đại biểu Quốc hội Quảng Ngãi) cho rằng cần xem xét lại thời hạn sử dụng đất lên đến 99 năm đối với các dự án đầu tư trong trường hợp đặc biệt. Bởi lẽ, Điều 53, 54, Hiến pháp năm 2013 đã quy định đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, là tài sản công, thuộc sở hữu toàn dân.

Thể chế hóa quy định này, Điều 126 Luật Đất đai năm 2013 đã nêu rõ: thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với tổ chức thực hiện các dự án đầu tư không quá 50 năm; đối với dự án có vốn đầu tư lớn, nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian giao đất, cho thuê đất không quá 70 năm.

Như vậy, nếu dự thảo Luật quy định thời hạn sử dụng đất lên đến 99 năm trong trường hợp đặc biệt, thì Hiến pháp và Luật Đất đai lại không quy định trường hợp đặc biệt này. Đồng thời, dự án Luật cũng chưa xác định cụ thể trường hợp nào là đặc biệt. Do vậy, Ban soạn thảo nên cân nhắc kỹ quy định này; đồng thời có đánh giá tác động trong trường hợp áp dụng thời hạn sử dụng đất lên đến 99 năm.

Đại biểu Lê Thanh Vân, Ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, cũng không tán thành quy định thời hạn giao đất lên tới 99 năm của dự thảo luật.

Theo ông Vân, 3 đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc đều có vị trí tiền tiêu, hết sức nhạy cảm. Do vậy, cần phải xem xét tác động của dự thảo luật ở khía cạnh phòng thủ quốc gia như thế nào.

Đại biểu Phan Nguyễn Như Khuê, Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội TP. HCM, đặt ra nghi vấn giao đất với thời hạn rộng như vậy, liệu có phải là đang thực hiện việc nhượng địa vì ở đây có liên quan tới các dự án đầu tư của nước ngoài.

“Nếu giao quyền sử dụng đất tới 99 năm, sau này con cháu sẽ xử lý thế nào nếu có liên quan tới khía cạnh quốc phòng an ninh”, ông Khuê nêu câu hỏi.

Theo ông Khuê, cần phải có chính sách phân biệt nhà đầu tư trong và ngoài nước, thậm chí có lĩnh vực không cho phép đầu tư nước ngoài tham gia.

“Chúng ta không thể đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế, vậy cũng nên khẳng định quan điểm không đánh đổi chủ quyền để phát triển kinh tế?”, ông Khuê nhấn mạnh.

Góp ý thêm về các quy định đất đai tại đặc khu, Trưởng ban Dân nguyện Nguyễn Thanh Hải lưu ý dự thảo Luật đang thiếu các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất, định mức hỗ trợ, đền bù. Đây là những vấn đề mấu chốt gây nên bức xúc trong nhân dân liên quan đến vấn đề đất đai. Ban soạn thảo nên rà soát, bổ sung các quy định này, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Băn khoăn về mô hình chính quyền đặc khu

Mô hình tổ chức chính quyền địa phương đặc khu là một trong những vấn đề được các đại biểu đặc biệt quan tâm.

Dự thảo Luật mới nhất đã không còn phương án tổ chức chính quyền đặc khu với trưởng đặc khu, không tổ chức HĐND như trước đây. Thay vào đó, dự luật quy định: "Chính quyền địa phương ở đặc khu là cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND đặc khu và UBND đặc khu". Trong đó, HĐND đặc khu không quá 15 đại biểu, UBND có chủ tịch và hai phó chủ tịch.

Bày tỏ đồng ý với phương án này, tuy nhiên đại biểu Tô Văn Tám (đoàn đại biểu Quốc hội Kon Tum) vẫn băn khoăn trước việc dự thảo quy định đặc khu có Văn phòng HĐND và Văn phòng UBND. Ông Tám cho rằng quy định này không phù hợp với chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XII.

Ngoài ông Tám, có đại biểu cũng cho rằng: “Quy định ‘đại biểu HĐND cấp đặc khu là 15 người, trong đó đa số là chuyên trách’ là chưa rõ ràng. Vì vậy đề nghị quy định cụ thể tỷ lệ phần trăm hoặc quy định rõ số lượng bao nhiêu đại biểu chuyên trách để dễ thực hiện, khỏi lúng túng”.

Cũng bàn về mô hình tổ chức chính quyền địa phương đặc khu, đại biểu Phạm Trí Thức (Ủy viên Thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội) cho rằng: “Dự thảo nêu nguyên tắc rất hay là bảo đảm tính tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với điều kiện đặc khu nhưng khi thiết kế chính quyền thì lại rất cồng kềnh so với hiện nay”.

Còn đại biểu Đỗ Thị Lan (đoàn đại biểu Quốc hội Quảng Ninh) cho rằng việc tổ chức Ban Tư vấn hỗ trợ phát triển đặc khu ngay trong đặc khu là chưa phù hợp với chủ trương của Trung ương về tinh gọn tổ chức bộ máy cũng như chưa tạo điều kiện phát huy hiệu lực hiệu quả của UBND và Chủ tịch UBND đặc khu.

Đi xa hơn trong các nhận định, đại biểu Bùi Văn Phương cho rằng: Đã nói "đặc biệt" thì phải có kinh tế đặc biệt và hành chính đặc biệt. Hôm trước chúng ta sợ giao quá nhiều quyền cho trưởng đặc khu thì sợ lạm quyền, nay chúng ta lại quay lại mô hình có cả HĐND và UBND, trở lại với mô hình thông thường, thì chẳng có gì đặc biệt.

"Tôi đề nghị không tổ chức HĐND ở đặc khu. Cái gốc của lạm quyền không chỉ là thiếu giám sát mà là thiếu công khai, minh bạch. Vừa qua chính sự lạm dụng dấu ‘mật’ để bưng bít các quyết định, bưng bít hồ sơ các dự án nên dân không giám sát được. Đây mới là cái gốc", ông Phương nói.
Cần xem xét về ngân sách đặc khu

Về ngân sách đặc khu, dự luật quy định ngân sách đặc khu là một cấp ngân sách thuộc hệ thống ngân sách nhà nước, tương đương ngân sách cấp huyện để xác định nguồn thu, nhiệm vụ chi, việc lập dự toán, chấp hành và quyết toán ngân sách đặc khu theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và luật này, đồng thời tạo cơ sở cho việc áp dụng các quy định của pháp luật liên quan đối với ngân sách đặc khu.

Cho ý kiến về vấn đề này, đại biểu Hoàng Quang Hàm (đoàn đại biểu Quốc hội Phú Thọ) nhận định quy định trên sẽ dẫn đến khó triển khai trong thực tiễn, bởi theo Luật Ngân sách nhà nước, với ngân sách tương đương cấp huyện thì toàn bộ việc giao nhiệm vụ thu chi sẽ do UBND, HĐND cấp tỉnh quyết định nhưng định mức tiêu chuẩn chi từ chi thường xuyên, đầu tư, khoa học công nghệ … lại giao đặc khu quyết định.

“Một ông quyết định nguồn, một ông quyết tiêu thế nào thì tiêu thì không thể khớp được bài toán. Tính cân đối tính thế nào khi đặc khu tính toán toàn bộ định mức chi tiêu, quy mô ngân sách của mình rồi bên trên lại giao xuống?”, đại biểu Hoàng Quang Hàm nói và đề nghị cần cân nhắc, quy định rất rõ trong luật mối quan hệ giữa ngân sách đặc khu với ngân sách tỉnh, ngân sách Trung ương.


Lê Nguyễn
http://vietnamfinance.vn/giao-dat-99-nam-con-chau-se-xu-ly-the-nao-neu-co-lien-quan-den-quoc-phong-an-ninh-2018040415191853.htm

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Phạm Chí Dũng viết về tranh cháp hiện nay ở biển đông:

VN sẽ ‘cùng hợp tác khai thác’ hay chiến tranh dầu khí với TQ?
Phép thử liên tục đối với tinh thần trên đã được Trung Quốc tung ra suốt từ năm 2011 đến nay - chiến thuật huy động số đông tàu cá được bảo vệ bởi tàu hải giám lao vào vùng hải phận Việt Nam; và chiến thuật vừa khiêu khích vừa tấn công, đâm chìm tàu Việt, hành hung và bắn giết ngư dân Việt. Trong khi đó ở Việt Nam, những thước phim lịch sử “ngư dân bám biển, hải quân bám bờ” vẫn được nhăn nhở chiếu lại. 

Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh dẫn đầu cuộc 
tập trận của hải quân Trung Quốc trên Biển Đông
Câu chuyện mang tên “Cá Rồng Đỏ” và thực tồn trần trụi về việc chóp bu Việt Nam mất ăn ngay trên “biển nhà” của mình còn lâu mới kết thúc tính cổ tích đến mất ngủ của nó.

“Đái ra quần”

Đến tháng Tư năm 2018, tình hình có vẻ tạm an ủi là hàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc chưa có dấu hiệu nào sẽ “giao lưu quốc phòng” với hải quân Việt Nam ở Đà Nẵng hay Cam Ranh, sau khi Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson của Mỹ cập cảng Đà Nẵng vào đầu tháng Ba và thủy thủ đoàn Mỹ còn đồng ca bài “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Một số nguồn tin cho biết trong vài năm qua, phía Trung Quốc đã liên tục gợi ý với Việt Nam để tàu sân bay Trung Quốc, cụ thể là hàng không mẫu hạm Liêu Ninh, được chào đón ở Việt Nam. Cũng có tin cho biết Hà Nội đã cân nhắc cơ chế đón tiếp cả hai hàng không mẫu hạm của Trung Quốc và Hoa Kỳ theo truyền thống “Trung trước, Mỹ sau”. Tuy nhiên sau vụ hải quân Trung Quốc gây sức ép ở quần đảo Trường Sa và Bãi Tư Chính khiến Việt Nam phải muối mặt yêu cầu Repsol - một công ty Tây Ban Nha liên doanh với PetroVietnam - câm lặng rút khỏi dự án Cá Rồng Đỏ ở khu vực mà luôn được Bộ Ngoại giao Việt Nam chiến đấu võ miệng “thuộc vùng chủ quyền không tranh cãi của Việt Nam”, Tổng bí thư Trọng cùng Bộ trưởng quốc phòng Ngô Xuân Lịch và một số ủy viên bộ chính trị có vẻ đã thất vọng sâu sắc trước tham vọng “được đằng chân lân đằng đầu” của Bắc Kinh, mà từ đó đã dẫn tới quyết định cử tướng Lịch cấp tốc sang Mỹ vào tháng Bảy năm 2018 để cầu viện, cùng một chút chuyển đổi tư thế “dựa Mỹ đối Trung” của Việt Nam.

Nhưng tin tức khá xấu xảy đến vào cuối tháng Ba là sự hiện diện của USS Carl Vinson ở Đà Nẵng vào đầu tháng Ba đó đã chẳng mấy có tác dụng răn đe Trung Quốc, trong lúc “bản lĩnh Việt Nam” - một lối tuyên giáo không còn giới hạn liêm sỉ nào - đã tiến đến thời kỳ mà bị Trung Quốc dọa nạt một chút về chính trị, kinh tế hoặc quân sự là đã “đái ra quần” - như một cách ví von rất lịch sử ngàn năm Bắc thuộc của dân gian đương đại.

9 tháng sau “nỗi nhục Bãi Tư Chính” lần đầu, nỗi nhục lần thứ hai đã xảy ra ở cùng địa điểm. Một lần nữa, Repsol vội vàng tháo chạy khỏi mỏ dầu khí Cá Rồng Đỏ. Và đương nhiên vẫn không phải hệ thống chính trị hay báo chí nhà nước Việt Nam, mà lại là từ giới truyền thông quốc tế - vào lần này là cây bút Bill Hayton của đài BBC - đã phát hiện ra vụ “giương cờ trắng” không còn đất mà chui xuống như thế.

“Bản lĩnh Việt Nam” tiếp tục thể hiện bằng cơ chế “tự xử”: nếu ở “nỗi nhục Bãi Tư Chính” lần đầu, Petro Vietnam có thể phải bồi thường cho Repsol khoảng 36 triệu USD - kinh phí mà Repsol đã phải bỏ ra để thăm dò dầu khí, thì đến tháng Ba, con số bồi thường nghe nói lên đến 200 triệu USD.

Nhưng vẫn chưa hết, và còn lâu mới hết câu chuyện vừa hài hước vừa cay đắng này.

Tiếp theo màn “giương cờ trắng” lần 2 và thay cho sự hiện diện của hàng không mẫu hạm Liêu Ninh, Vương Nghị đã xuất hiện.

Tối hậu thư từ Vương Nghị

Chuyến đi Hà Nội của Vương Nghị diễn ra vào cuối tháng Ba năm 2018, chỉ khoảng một tuần sau “nỗi nhục Bãi tư Chính lần 2”.

Chuyến công du Việt Nam gần nhất của Vương Nghị là vào tháng 11/2017, nhưng không phải để “hai bên không làm phức tạp thêm tình hình” như cách nói của hai kẻ đồng đảng không cùng miếng ăn, mà là để chuẩn bị cho chuyến công du của Tập Cận Bình đến Hội nghị thượng đỉnh kinh tế APEC Đà Nẵng và sau đó có cuộc gặp “trà Trung Quốc ngon hơn trà việt Nam” với Nguyễn Phú Trọng.

Từ năm 2011 khi xảy ra vụ tàu hải giám Trung Quốc ngang ngược cắt cáp của tàu Bình Minh II của Việt Nam cho đến nay, Vương Nghị là một khuôn mặt xuất hiện thường xuyên ở Hà Nội và thường ngay sau các vụ Trung Quốc gây hấn với Việt Nam. Chiến thuật “vừa đánh vừa đàm” của Bắc Kinh là rất rõ, trong đó vai trò đe dọa và đàm phán của Bộ Ngoại giao Trung Quốc luôn tỏ ra có tác dụng đối với tinh thần bạc nhược của giới chóp bu Việt Nam.

Vào lần này, Vương Nghị đã lần lượt có các cuộc gặp với Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Phạm Bình Minh và sau đó là Trần Đại Quang - Chủ tịch nước, Nguyễn Phú Trọng - Tổng bí thư, với chủ đề chung “kêu gọi kiềm chế trong việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông”.

Nhưng cũng như nhiều lần đối thoại song phương trước đây, giới quan chức Việt Nam vẫn chỉ “đọc bài”: “Chúng tôi đề xuất rằng đôi bên trong thời gian tới nghiêm túc triển khai nhận thức chung của lãnh đạo hai nước, kiểm soát tốt tranh chấp, không có các hành động làm phức tạp và mở rộng tranh chấp, tôn trọng quyền và quyền lợi chính đáng của mỗi nước theo luật pháp quốc tế”.

Trong khi đó, Vương Nghị đã nói trắng ra: “Đôi bên không nên tiến hành các hoạt động đơn phương làm phức tạp tình hình và nên củng cố hợp tác hàng hải để xây dựng một môi trường lành mạnh nhằm đạt được một thỏa thuận chung cuộc về giải quyết tranh chấp trên biển”.

Kết hợp với những tin tức trong vòng một năm qua về “hợp tác hàng hải” giữa Việt Nam và Trung Quốc, bản chất của những va chạm giữa hai chế độ “anh em” này chỉ là dầu khí và quyền được khai thác dầu khí.

Vào năm 2017, khoảng gần 2 tháng sau khi nổ ra vụ Bãi Tư Chính lần đầu tiên, một viên tướng Trung Quốc là Phạm Trường Long - Phó chủ tịch Quân ủy trung ương - đã đến Hà Nội. Khi đó, tin tức từ giới truyền thông quốc tế tiết lộ là Phạm Trường Long đã đòi Việt Nam hủy bỏ hoạt động dò tìm dầu khí tại các lô 118 (ngoài khơi Quảng Nam -Quảng Ngãi) và lô 136-3 (đông nam Vũng Tàu 200 hải lý). Những lô dầu khí này hoàn toàn nằm trong vùng thềm lục địa đặc quyền kinh tế của Việt Nam nhưng lại bị vạch chủ quyền hình “Lưỡi Bò” của Trung Quốc vắt chéo qua. Nhưng sau khi bị giới chóp bu Việt Nam phản đối, tướng Phạm Trường Long đã bỏ về thẳng mà không ở lại dự “giao lưu quân đội Việt - Trung”.

Không chỉ Cá Rồng Đỏ mà cả Cá Voi Xanh…

Một thực trạng trần trụi là mỏ khí đốt Cá Rồng Đỏ ở lô 136/03 thuộc Bãi Tư Chính và mỏ Cá Voi Xanh ở ngoài khơi Quảng Nam, Quảng Ngãi là vài tiềm năng cuối cùng có thể cứu vãn ngân sách Việt Nam đang cạn kiệt. Nếu Repsol và ExxonMobil khai thác thành công thì ngân sách cùng chế độ Việt Nam sẽ được chia phần không ít.

Riêng mỏ Cá Voi Xanh là dự án dầu khí lớn nhất của Việt Nam mà dự kiến khai thác khí ở mỏ này sẽ đóng góp gần 20 tỷ đô la vào ngân sách Việt Nam. Vào tháng Giêng năm 2017, Tập đoàn dầu khí ExxonMobil của Mỹ đã trở thành nhà khai thác khí đốt lớn nhất của Việt Nam sau khi ký kết một hợp đồng trị giá 10 tỷ đô la để khai thác dầu khí trên Biển Đông với PetroVietnam.

Thế nhưng sau khi nhận được giấy phép khai thác, đã có một sự cố xảy ra: ngày 7/11/2017, ExxonMobil đã mang lại nỗi thất vọng lớn lao cho giới chóp bu Việt Nam khi Chủ tịch Liam Mallon của Công ty Phát triển ExxonMobil đã tuyên bố sẽ hoãn dự án hợp tác với Việt Nam trên Biển Đông tới năm 2019.

Khi đó, một số đánh giá đã giả thiết về nguyên nhân chủ yếu và có thể là duy nhất của việc phải hoãn dự án có thể là Trung Quốc gây sức ép mà đã khiến Việt Nam có thể phải điều đình để ExxonMobil tạm ngừng khai thác mỏ Cá Voi Xanh.

Nhưng đến tháng Ba năm 218 khi xảy ra vụ Repsol phải lần thứ hai liên tiếp rút khỏi mỏ Cá Rồng Đỏ, giả thiết đã biến thành thực tế được xác nghiệm một cách sống sượng: vẫn là “đối tác chiến lược toàn diện lớn nhất của Việt Nam” là Trung Quốc đã nhảy bổ vào nhà của giới chóp bu Việt Nam để đòi không được hợp tác với Mỹ mà phải hợp tác với Trung Quốc để khai thác dầu khí.

Chắc chắn là để đưa ra yêu sách trên, các chuyên gia phân tích tâm lý chính trị ở Bắc Kinh đã nắm rất rõ tinh thần “văn dốt võ nhát” và “chưa đánh đã chạy” của một số quan chức cao cấp Việt Nam.

“Cùng hợp tác khai thác” hay chiến tranh dầu khí?

Phép thử liên tục đối với tinh thần trên đã được Trung Quốc tung ra suốt từ năm 2011 đến nay - chiến thuật huy động số đông tàu cá được bảo vệ bởi tàu hải giám lao vào vùng hải phận Việt Nam; và chiến thuật vừa khiêu khích vừa tấn công, đâm chìm tàu Việt, hành hung và bắn giết ngư dân Việt.

Trong khi đó ở Việt Nam, những thước phim lịch sử “ngư dân bám biển, hải quân bám bờ” vẫn được nhăn nhở chiếu lại. Từ nhiều năm qua, đã không có bất cứ trường hợp ngư dân Việt nào bị tàu Trung Quốc bắn giết được Bộ Quốc phòng Việt Nam công bố kết quả điều tra, bất chấp cơ quan bộ này hàng năm chi xài đến 5 tỷ USD tiền do dân phải è cổ đóng thuế.

Giờ đây, kịch bản thất bại đến mất ngủ ở Bãi Tư Chính đang lặp lại, khiến giới chóp bu Việt Nam mất ăn dầu khí ngay trên vùng lãnh hải của mình và càng bế tắc trong cơn ác mộng những khoản nợ nước ngoài đang ập đến như sóng thần Biển Đông.

Phương trình Biển Đông cứ mỗi tháng trôi qua lại sinh sôi thêm nhiều ẩn số. Có quá nhiều lý do để Bộ Chính trị đảng cùng cơn lạm phát gần 500 tướng quân đội phải đau đầu đến thống phong. Nếu chấp nhận “hợp tác cùng khai thác dầu khí” với Trung Quốc theo lối nói không thèm úp mở của Vương Nghị, Việt Nam sẽ đồng thời phải thừa nhận một tiền lệ chưa từng có về việc phải cho kẻ cướp chung sống trong nhà mình và một cách chính thức bắt đầu chấp nhận ách đô hộ của “Hoàng đế Tập Cận Bình”.

Còn nếu không chấp nhận cách chia bôi lợi nhuận dầu khí với kẻ cướp, tương lai có thể sẽ là một cuộc xung đột quân sự.

Năm 2018 tiềm ẩn tính kích nổ. Lồng trong khung cảnh Tổng thống Trump đang khởi động cuộc chiến tranh thương mại với nước Nga, Trung Quốc và một phần Tây Âu, tương lai chiến tranh quân sự Việt - Trung về thực chất có thể đã được khởi sự từ cuộc “chiến tranh dầu khí” ở Bãi Tư Chính vào hai năm 2017 và 2018.

Phạm Chí Dũng



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Tư, 4 tháng 4, 2018

CHIỀU THỨ TƯ

Phạm Lưu Vũ


Chúng ta sẽ trở lại bàn về “nguyên lý vị nhân” của khoa học, nó nằm trong Duy Thức của đạo Phật như thế nào. Giờ hãy bàn về cái gọi là “không thời gian” (không gian bốn chiều) của A. Einstein (và cả S. Hawking…), trong đó thời gian đóng vai trò là chiều thứ tư. Quan niệm sai lầm này chính là chướng ngại khủng khiếp, khiến cho khoa học không thể tiếp cận tới Thật tướng của vạn vật. Không có chuyện thời gian là chiều thứ tư, bởi con người vẫn nhận thức được thời gian một cách rõ ràng, y như 3 chiều không gian kia vậy. Nếu thời gian đến từ chiều thứ 4, thì con người đã không thể hiểu, giống như những sinh vật sống ở không gian 2 chiều cũng không thể hiểu những gì đến từ chiều thứ 3 vậy.
Con người nhận thức được thời gian, nghĩa là thời gian cũng đến từ không gian 3 chiều này. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật đã giải thích rõ điều đó như sau: “Đã cho là có pháp sở hữu, thì những khái niệm hư vọng về phần, về đoạn, về giới vực phát sinh; vì thế khái niệm “không gian” được thành lập. Do cái “nhân” (hình thành không gian) không phải là nhân chân thật, cho nên không có năng trụ và sở trụ, (khiến cho) mọi hiện tượng (không gian) đều trôi chảy dời đổi, không bao giờ đứng yên; vì thế khái niệm “thời gian” được thành lập…” Đức Phật nói rõ ràng như thế. Rằng thời gian sở dĩ sinh ra, bởi có sự “trôi chảy dời đổi, không bao giờ đứng yên” của vạn vật. Nghĩa là thời gian cũng đến từ chính không gian 3 chiều, chứ không phải đến từ chiều thứ 4, và thời gian chẳng phải chiều thứ 4.
Vậy cái gì đến từ chiều thứ 4, khiến con người không thể hiểu nổi, cho đó là thần thoại, siêu hình…? Chiều thứ 4 ấy nếu không phải thời gian, thì thực ra nó là cái gì?
Thực ra không gian 3 chiều, và cả yếu tố thời gian do nó sinh ra, đều từ “Tâm thức” của con người mà biến hiện ra (“nhất thiết duy tâm tạo”). Sở dĩ con người nhận thức được, vì nó nằm trong “nghiệp cảm” của con người. Cái đó gọi là “nội cảm”. Những gì nằm ngoài “nghiệp” người, khiến con người không thể nhận thức được gọi là “ngoại cảm”.
Nghĩa là chiều thứ 4 là những chiều nằm ngoài “nghiệp” người. Nhưng nó cũng từ “Tâm thức” mà sinh ra. Nó không ra ngoài “Tâm thức”.
Đến từ không gian 3 chiều (sinh), con người hoàn toàn nhận thức được, thì đi khỏi trong không gian 3 chiều (diệt), con người cũng có thể nhận thức được.
Nhưng đến từ những chiều thứ 4 (nằm ngoài “nghiệp” người), con người không thể nhận thức được nên gọi là “hiện ra”. Và đi khỏi không gian 3 chiều bằng những chiều thứ 4… con người cũng không thể nhận thức được, gọi là “biến mất”.
Cả ma quỷ cũng như các vị thiện thần, chư Phật, Bồ Tát… đều từ trong Tâm thức của chúng ta mà đến (hiện ra), và đi (biến mất) cũng bằng những cách tương tự.
Trong khoa học, A. Einstein là người đầu tiên phát hiện ra thời gian là tương đối. Nó phụ thuộc vào “hệ quy chiếu” của người quan sát. Nhưng giải thích tại sao thì thực là chưa đến nơi đến chốn, bởi vẫn “chấp” rằng thời gian là chiều thứ 4. Đạo Phật mô tả rốt ráo điều này từ lâu, có vô vàn ví dụ, câu chuyện và những con số cụ thể. Như đoạn kinh đã dẫn, thời gian “đến” từ không gian, mà không gian vốn đã tương đối, thì thời gian, tất nhiên, cũng là tương đối.
Con người nhận thức thế giới bằng cái “nghiệp” của mình. Thế giới ấy không phải hằng số. Nếu “nghiệp” thay đổi, thì thế giới cũng thay đổi, nó to hay nhỏ, rộng hay hẹp, đẹp hay xấu, thơm hay thối, êm ái hay xù xì, tử tế hay đểu cáng… tất cả đều phụ thuộc vào “nghiệp” của kẻ quan sát. Chúng ta nhìn thấy một nấm mộ nhỏ bé, xấu xí, nhưng chủ nhân của nấm mộ ấy thấy mình đang ngự trong một lâu đài lộng lẫy nếu phước báo của ngài lớn. Ngược lại, một lăng mộ hoành tráng sẽ chỉ là nấm mộ thảm hại nếu kẻ nằm trong đó có phước báo nhỏ…
Khả năng nhận thức vũ trụ, thế giới… phụ thuộc vào “nghiệp”. Thế nhưng nó có cố định, chỉ có thể như thế mà không thay đổi được hay không? Không! Nó vẫn tồn tại những khả năng chuyển đổi, để con người có thể vượt qua khỏi “nghiệp” người. Vượt khỏi “nghiệp” người, sẽ lại sa vào nhận thức của các “nghiệp” khác, ví dụ trời, ma… tuy có mở rộng hơn, song vẫn là hư vọng. Tuy nhiên, có để ngỏ một “cửa” để nhận thức được Thật tướng của vũ trụ. Với điều kiện phải theo đúng chánh đạo.
Thế nào là chánh đạo? Là hướng tới giải thoát, giác ngộ, tức là hướng tới sự tiến hóa trí tuệ. Tuyệt đối không quay trở lại (tà đạo), hay rẽ ngang rẽ ngửa (ngoại đạo)…
Theo con đường chánh đạo sẽ vấp ngay vào Ngã (cái ta hay “tự tính” của vạn vật). Tất cả đều phụ thuộc vào sự đối xử với cái Ngã.
Chuyển nghiệp là một quá trình biến dịch sinh tử. Đầu tiên tin vào chánh đạo thì ở địa vị thập tín. Nhàm chán cái Ta thì lên địa vị tam hiền. Chứng được vô Ngã thì nhập vào vị thánh. Chứng được vô sinh thì thành Bồ Tát (quả), Tùy thuận Viên Giác thì thành Như Lai.
Vậy những A. Einstein và S. Hawking… kia thì ở địa vị nào của biến dịch sinh tử? Chưa vào đâu cả, bởi họ chưa mảy may ra khỏi “nghiệp” người. Dẫu họ có đo đạc được cả vũ trụ, thì cũng vẫn là hư vọng mà thôi.
Gần đây, một số nhà khoa học ở nước ta xuất hiện 1 thuật ngữ rất… thời thượng, đó là “cận tâm lý”. Thực chất các ngài muốn kéo dài khả năng nhận thức, vượt ra khỏi “nghiệp” người. Chính xác hơn thì phải gọi là “cận nghiệp” mới đúng. Gọi là “cận tâm lý” thì quá xoàng, chưa nói là sai lầm vớ vẩn và chẳng đi đến đâu. Môn “cận tâm lý” thực chất là muốn mon men ra biên giới của cái nghiệp con người. Có biết đâu rằng nếu (chẳng may) ra khỏi được cái biên giới ấy, thì các nghiệp… ma đã chờ sẵn.

Phần nhận xét hiển thị trên trang