Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 4 tháng 4, 2018

Thủ tướng Việt cầm nhầm cờ... Campuchia

Ảnh này quá đặc biệt, nhất là khi thấy Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc giơ tay chỉ và giương mắt nghiêm khắc nhìn.
?

Ngày 29/3/2018, trong bài phát biểu tại Đại học Havana, Cu Ba, TBT Trọng nói: "Bản thân nền kinh tế thị trường không thể hủy hoại chủ nghĩa xã hội. Nhưng để xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công, cần phải phát triển nền kinh tế thị trường một cách đầy đủ và đúng đắn". Quá cao siêu. Ngay sau đó ngài được trao bằng Tiến sĩ Danh dự.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dự án của Donacoop đẩy hàng ngàn dân vào cảnh điêu tàn: Nông dân mất đất ra bờ sông dựng lều nương náu!


03/04/2018 08:02 GMT+7
Bà Thu liêu xiêu đi về “căn nhà” dựng bên dự án tỷ đô.
Bà Thu liêu xiêu đi về “căn nhà” dựng bên dự án tỷ đô.
(PLO) - Đêm đêm mò ốc bắt còng trên con sông bên “Khu đô thị kinh tế mở Long Hưng”, nhiều lúc chàng trai 25 tuổi lại ngước mặt lên thẫn thờ nhìn lên vùng đất sáng rực ánh đèn từng có ngôi nhà của mình, nay đã bị san lấp phân lô, bán nền, chỉ biết khắc khoải: “Vì sao lại thế?”. Mù chữ, bị “khủng bố tinh thần” nên sợ hãi, gia đình Tâm đành chịu mất đất, sống cảnh không chốn dung thân, nhẫn nhục chịu đựng lầm than. 
Gia đình Dương Minh Tâm (SN 1993, từng ngụ tại số nhà 559, khu 3, ấp Phước Hội) là một trong những trường hợp điển hình vì dự án “Khu đô thị sinh thái kinh tế mở Long Hưng” (tại xã Long Hưng, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, do Liên hiệp HTX Dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Đồng Nai (Donacoop) làm chủ đầu tư), mà bị đẩy vào cảnh bần cùng.
Được “đền bù” nền đất để… ngắm chơi
Tâm kể lại, sau cuộc cưỡng chế lấy đất đầu tiên với gia đình ông Phan Văn Hoa (PLVN đã phản ánh trong số báo trước), tâm lý người dân cả xã kinh hãi. “Cả trăm người tay dùi cui điện, tay xịt khói tùm lum, dân la lên cũng bị còng, ai dám ý kiến chống đối nữa”, chàng trai kể lại. 
Gia đình Tâm có năm người thì cả năm đến mặt chữ còn không rành, nói gì đến biết quy định pháp luật mà đòi hỏi những quyền lợi như đền bù hợp lý hay chưa, hỗ trợ học nghề ra sao? Giao lại căn nhà và mảnh vườn cho nhà đầu tư Donacoop, họ dắt díu ra khu nhà tạm cư ở tạm. 
Tâm kể gia đình được bồi thường một nền đất tái định cư 100m2 và số tiền bồi thường hơn 150 triệu. Phải ở nhà tạm cư, vì theo “luật” của Donacoop đưa ra, dù có đất tái định cư cũng không được tự ý xây dựng gì trên đó. Muốn ở đó, phải chi tiền cho Donacoop xây nhà. Thời điểm đó, mẫu nhà “giẻ rách” nhất của Donacoop cũng lên tới 150 triệu đồng. 
Số tiền được “bồi thường”, mẹ Tâm, bà Trần Thị Thu (SN 1961), có sáu người con, chia cho mỗi đứa một ít, vậy là chỉ còn vài chục triệu. Gia đình vốn sống bằng nghề mò ốc bắt còng, làm vườn tược, nay ruộng đồng bị san lấp cả, biết kiếm sống từ đâu. Cả xã lâm cảnh điêu tàn, có sức chẳng ai thuê. Bốn đứa con trai tuy lớn lộc ngộc nhưng ít học, cả đời chưa bước chân ra khỏi xã, biết tha phương nơi nào kiếm ăn? Bốn anh em ngày ngày rảnh rỗi ngồi không chỉ biết gầy sòng nhậu. Miệng ăn, núi lở. Từ chỗ có nhà, có vườn, có đất, có kế sinh nhai, gia đình “đổi” được cái nền đất chỉ để… ngắm chơi.
Ngày ngày say xỉn, người phụ nữ 57 tuổi lại tìm về nền đất từng có căn nhà bị thu hồi.
“Nhàn cư vi bất thiện”, bi kịch của gia đình nông dân này một phần bắt nguồn từ mất đất mà ra. Trong một cuộc nhậu, Tâm bị người anh Dương Văn Mẫn (SN 1986, anh cùng mẹ khác cha) say xỉn đánh đến vỡ tụy. Bà Thu dốc hết tiền, bán cả nền đất tái định cư được 150 triệu cứu con.
Cứu được đứa con áp út thì gia đình lâm cảnh không chốn dung thân. Vẫn theo “luật” do Donacoop đặt ra, chỉ những ai chưa nhận tiền bồi thường, hoặc đã có nền đất tái định cư mà chưa có tiền đóng cho Donacoop để xây nhà thì mới được ở nhờ khu tạm cư. Nền đất tái định cư đã bán, bị coi là chẳng còn “dây mơ rễ má gì”, người ta “phủi tay”. Cả gia đình bị đẩy ra đường, không một xu dính túi, lang thang không biết đi đâu về đâu.    
Gia cảnh khốn cùng nhà bà Thu cả xã đều biết. Một người thương tình cho hai triệu, chỉ cho họ mua lại “căn nhà nổi” của một ngư dân bỏ không. Đó là túp lều đặt trên chiếc bè kết tạm bằng khoảng 20 thùng phuy rỗng. Bà Thu cho neo tạm chiếc bè trên con sông nhỏ như dòng kênh bên dự án “tỷ đô”. Gia đình năm người sống lay lắt trong túp lều nổi rộng mươi m2, không điện, không nước, bốn bề nước đen hôi hám, muỗi mòng như vãi trấu, mỗi cơn mưa ập xuống là trong nhà ướt như ngoài trời. “Gia tài” quý nhất là tấm biển ghi số nhà 559 ở căn nhà cũ đã bị phá, bà Thu bới đống xà bần tìm thấy, mang về gắn trước cửa lều. 
Bữa cơm của mẹ con người phụ nữ cùng khổ.
Bi kịch gia đình nông dân mất đất
Cuộc sống lâm cảnh bế tắc bấp bênh như chiếc bè lên xuống mỗi cơn triều cường. Bốn thanh niên trong nhà không ai dám nghĩ đến những chuyện yêu đương, gia đình, sinh con đẻ cái, không biết đến cái gọi là “tương lai”, tiếp tục tìm quên trong men rượu. 
Đói nghèo bần cùng sinh tội ác. Vụ án “tương tàn” xảy ra một ngày cuối năm 2017. Tâm kể lại: “Sáng đó anh Mẫn và em út Trần Hữu Bình (SN 1996) ngồi nhậu trong lều, tui lúi húi bắt còng dưới sông. Nghe tiếng hai người cự cãi đánh đấm rồi kêu cái “hự”, tui chạy lên đã thấy anh Mẫn ngã gục”. Thì ra bị người anh trong cơn say đánh đập, đứa em bực tức kiếm con dao làm bếp “phản công”. Tâm kêu cứu đến hụt hơi mới có người nghe tiếng chạy đến hỗ trợ, nhưng nạn nhân đã tắt thở trước khi đến bệnh viện.
Bà Thu như hóa điên. Người phụ nữ mới 57 tuổi nhưng tóc đã bạc, dáng tiều tụy, chân tay quắt queo, da đen đúa, như già đến 20 năm so với tuổi. Vừa thương một đứa con chết tức tưởi, vừa thắt lòng nhìn công an giải một đứa vào nhà giam. Đám tang sơ sài cho con xong, người phụ nữ từ ấy tuyệt vọng tìm đến men rượu tìm quên. 
Nhà năm người, nay chỉ còn ba. Hai đứa con lầm lũi với những cuộc bắt cua bắt còng, với ngày mấy buổi đi tìm người mẹ thường say xỉn thất thểu lang thang tìm về nhà cũ. Tâm kể bắt còng ngày nhiều kiếm được 100 ngàn, ngày ít chỉ 20 – 30 ngàn, bữa đói, bữa no. Cuộc sống đã mất đi ý niệm về thời gian, chỉ lờ mờ nhớ nay đã lay lắt trên dòng kênh đen được ba cái Tết. Cái Tết vừa rồi, người chị lấy chồng ở miền Tây có ghé về, ngồi thở dài một lúc rồi lại đi. Chị cũng nghèo như em, chỉ mua được cho mẹ hai ký thịt và ít trái cây.
Tâm bị thương vỡ tụy, mẹ phải bán nền đất tái định cư chạy chữa, gia đình bị đuổi ra ngoài đường.
Chính quyền ở đâu mà để người dân sống cảnh khốn cùng? Tâm cho hay cũng có “sự hiện diện” của chính quyền địa phương, đó là 10 ký gạo hỗ trợ hàng tháng. Đó là đôi khi xuất hiện sắc phục cảnh sát giao thông đường thủy, “hăm” “kéo bè đi nơi khác”. Chàng trai lúc ấy lại lội xuống nước vác dây lên vai kéo “nhà” đi vô định cho đến lúc khuất bóng sắc phục. Địa phương có xua đuổi hay không? Tâm kể cũng có lần một số công an xã kéo đến đòi đuổi đi, nhưng dường như trước gia cảnh cùng cực như thế, dù ai ác đến mấy cũng không thể nhẫn tâm thêm. Túp lều cứ thế dập dềnh bên dự án “tỷ đô”, vô định.
Suốt một ngày chúng tôi ở lại “nhà”, không thấy bà Thu rớt một giọt nước mắt. Cùng khổ rồi, dường như người phụ nữ ấy đã không còn nước mắt để khóc nữa. Bà lao vào những cơn say. Nhưng dường như có những điều dù say đến đâu vẫn không thể quên được. Bên “mâm cơm cúng” 100 ngày con chết chỉ có bát cháo loãng và vài sợi mì nấu rối, người mẹ mất con đang rót rượu “khề khà” mời người chết, chợt quắc mắt chỉ về công trường đang xây cất: “Đô na cốp cái gì, đồ ăn cướp”.
Trưa nắng chang chang, Tâm nhăn nhó ôm vết đau vì vỡ tụy ở bụng, giọng trầm buồn: “Nếu như không có cái dự án ấy, gia đình tui đã không khổ như bây giờ”. Biết trả lời Tâm sao? Tâm đưa mắt buồn nhìn ra nơi bờ sông, nơi con chó gầy nhà Tâm cũng đang nhẫn nhục dặt dẹo ra nằm giơ xương bụng gặm quả mướp non.
Chàng trai mù chữ có lẽ không thể biết được trên lý thuyết, quyền được có một cuộc sống đúng nghĩa của mình được “bảo vệ” như thế nào. Trong quyết định của UBND tỉnh Đồng Nai phê duyệt quy hoạch chung dự án, đã hứa hẹn những lời có cánh về tính chất mục tiêu “thực hiện chuyển dịch kinh tế - xã hội địa phương từ nông nghiệp nông thôn phân tán lạc hậu sang đô thị dịch vụ…, phát triển bền vững, tạo lập môi trường sống mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Trước đó, cuối tháng 3/2010, Văn phòng Chính phủ có văn bản truyền đạt ý kiến Thủ tướng yêu cầu UBND Đồng Nai và chủ đầu tư dự án “thực hiện các cam kết về bảo đảm an sinh xã hội tại địa phương”. “An sinh xã hội”, mà những cuộc đời bị gạt ra ngoài lề xã hội, sự sống cái chết lay lắt như ngọn đèn trước gió vậy sao?
Mời bạn đọc xem tiếp kỳ sau.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chiến dịch giải cứu con tin gây tiếng vang của đặc nhiệm Liên Xô năm 1985


Tử Quỳnh
Theo VnExpress
Đội đặc nhiệm Alfa được cho là đã thi hành chính sách “ăn miếng trả miếng” với nhóm khủng bố bắt cóc con tin ở Lebanon.
Các sĩ quan đặc nhiệm Alfa dưới thời Liên Xô. Ảnh: Reddit.
Các sĩ quan đặc nhiệm Alfa dưới thời Liên Xô. Ảnh: Reddit.
Đêm 20/9/1985, các tay súng thuộc Tổ chức Giải phóng Hồi giáo (ILO) trung thành với nhóm phiến quân Hezbollah bắt cóc 4 nhà ngoại giao Liên Xô ở thủ đô Beirut của Lebanon. Để giải quyết cuộc khủng hoảng, Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB), cơ quan tình báo nổi tiếng thời Liên Xô, đã áp dụng chiến thuật đối phó mạnh tay chưa từng có, buộc nhóm khủng bố phải thả hết con tin sau thời gian rất ngắn, theo War is Boring.
ILO dọa hành quyết từng nhà ngoại giao Liên Xô một nếu Moscow không gây áp lực buộc dân quân thân Syria ngừng pháo kích khu vực phía bắc thành phố cảng Tripoli của Lebanon, vốn nằm trong tay phiến quân cực đoan thân Iran.
Ban đầu, Liên Xô mở một số kênh đàm phán với nhóm ILO với hy vọng các nhà ngoại giao sẽ được trả tự do an toàn. Nhưng mọi thứ thay đổi khi ILO hành quyết con tin đầu tiên chỉ hai ngày sau khi đưa ra yêu sách.
Đó là lúc lãnh đạo Liên Xô từ bỏ chính sách đàm phán và đưa KGB vào cuộc. KGB bắt đầu điều tra về tổ chức khủng bố đứng sau vụ bắt cóc và phát hiện ra đây là một nhóm thân Hezbollah.
Đội đặc nhiệm Alfa của KGB được đưa tới Lebanon và thi hành chính sách “không đàm phán với khủng bố”, thực hiện những hành động “ăn miếng trả miếng” quyết liệt nhất để buộc ILO phải thả con tin.
Hoạt động thực tế của nhóm Alfa tại Lebanon vẫn còn gây tranh cãi. Theo một nguồn tin, KGB đã tận dụng mạng lưới điệp viên dày đặc tại Trung Đông để xác định gia đình của những kẻ bắt con tin. Các sĩ quan Alfa sau đó bắt cóc một người thân của kẻ đứng đầu ILO, cắt tai người này và gửi tới cho ông ta. Nguồn tin khác khẳng định nhóm Alfa bắt anh trai của một kẻ bắt cóc, sau đó gửi hai ngón tay về gia đình qua đường bưu điện.
“Câu chuyện được kể nhiều nhất là nhóm Alfa bắt khoảng 12 người Shiite, trong đó có người thân của lãnh đạo Hezbollah. Đặc nhiệm KGB hành quyết một người trong số đó, nhét bộ phận sinh dục của nạn nhân vào miệng rồi gửi thi thể tới tổng hành dinh Hezbollah. Họ gửi kèm bức thư đe dọa số phận tương tự với 11 người còn lại, nếu các nhà ngoại giao Liên Xô không được thả”, nhà sử học Matthew Levitt cho biết.
Dù các câu chuyện có nhiều chi tiết khác nhau, kết quả vẫn chỉ có một. Việc ba con tin được thả nhanh chóng sau khi nhóm đặc nhiệm Alfa xuất hiện tại Lebanon là điều mà các lực lượng giải cứu con tin tinh nhuệ của Mỹ cũng chưa từng làm được.
Chính sách đối phó khủng bố để giải cứu con tin của đặc nhiệm KGB trong chiến dịch này gây tiếng vang và sức răn đe đến mức không có nhà ngoại giao Liên Xô và Nga nào bị các nhóm khủng bố bắt cóc cho tới năm 2006.
Nhóm sĩ quan Alfa Nga sau buổi huấn luyện. Ảnh: Pinterest.
Nhóm sĩ quan Alfa Nga sau buổi huấn luyện. Ảnh: Pinterest.
Lực lượng đặc nhiệm Alfa được thành lập từ năm 1974, ngày nay có tên chính thức là “Cục A thuộc Trung tâm Đặc nhiệm FSB”, là đơn vị chống khủng bố tinh nhuệ trực thuộc KGB trước đây và Cơ quan An ninh Liên bang Nga (FSB) từ năm 1995.
Nhiệm vụ chính của Alfa là ngăn ngừa và phản ứng trước các hành động bạo lực tại khu vực công cộng, cũng như tác chiến bí mật trong lãnh thổ Nga và nước ngoài. Cơ cấu tổ chức của Alfa không được công bố, nhưng đơn vị này được cho là nhận mệnh lệnh trực tiếp từ các lãnh đạo cao nhất của Nga.



Phần nhận xét hiển thị trên trang

sinh ra từ trứng



Tiểu thuyết của Nguyễn Viện

Cô ấy đã trở lại

Tôi nói với cô gái, đấu tranh chính trị phải bắt đầu từ các vấn nạn dân sinh.

Cô nói: “Trong hoàn cảnh của chúng ta, đấu tranh chính trị trước hết là vượt qua sự sợ hãi, khiếp nhược của bản thân". Cô kể: “Tối qua, trên đường về nhà, bọn chúng chặn đường đánh em như một lũ súc vật lên cơn điên, may mà có nhiều người dân đứng lại xem, bọn chúng mới bỏ đi. Em không hiểu được tại sao lại có cách hành xử như thế".

Cô bị gãy mấy cái răng và bầm một bên mắt.

Phải chăng đó là hệ quả của một xã hội đại nhảy vọt, từ phong kiến… đến hậu hiện đại? Một khoảng trống văn hóa và tâm linh?

Tôi nói để anh đưa em đi nha sĩ. Dù thế nào cũng phải đẹp. Dân oan và những người bị chà đạp đang chờ em.

Cô hỏi: “Còn anh, anh tiếp tục chờ  ai?”

Tôi nói: “Anh chờ những người sinh ra từ trứng quay lại".

Người đàn bà sinh ra từ trứng

Bà hoàn toàn tin chắc về  điều ấy. Trong tận cùng ký ức xa xăm, bà vẫn nhớ quả trứng sinh ra bà được ủ trong ổ rơm dưới căn nhà vách đất vùng trung du Bắc bộ. Bà đã dùng cả hai bàn chân nhỏ bé của mình, duỗi đạp cho đến khi vỏ trứng vỡ ra. Bà bảo đấy thực sự là một vụ nổ big-bang. Khí ém trong quả trứng đã làm cho căn nhà bị tốc mái. Và cả nhà bà gồm ông bà nội, cha mẹ đều tưởng là một cơn lốc xoáy bất chợt và họ đã nằm úp mặt xuống bám chặt lấy đất để tránh bị gió cuốn đi. Cho đến khi nghe thấy tiếng khóc, họ mới biết là có một đứa bé vừa chào đời.

Tuy mới sinh nhưng đứa bé đã đứng được và biết nói tiếng người. Câu đầu tiên nó thốt ra giống y như giọng của bà nội nó: “Giời, nằm co quắp trong quả trứng bốn ngàn năm, giờ mới đứng dậy được. Hú vía".

Ông bà nội, cha mẹ đứa bé còn hú vía hơn. Họ chưa tin đó là con cháu mình, lồm cồm đứng dậy, khi vẫn còn trong tư thế nửa ngồi nửa quì, đứa bé nói tiếp: “Con đây mà. Con là cái Ngọ mà mẹ vẫn nằm mơ thấy đấy".

Đó là thời điểm mà dân tộc sinh ra từ trứng bước vào cuộc chuyển hóa lớn lao nhất của lịch sử từ sự suy tàn của chế độ phong kiến đến các ý hệ tư sản và vô sản bắt đầu bùng phát. Đây là mệnh số của đứa bé: Tuổi Dương nữ, mệnh Lộ bàng thổ, cục Thủy lục cục, năm sinh Canh ngọ 1930.

Và như được thiên khải, con bé tên Ngọ còn được bố nó gọi là cái “Bản Lề”, không chỉ vì bố nó làm nghề thợ mộc, mà còn vì cô bé này giống như cái bản lề của buổi giao thời giữa cái cũ và cái mới, luôn gợi ra những hoài tưởng u buồn của quá khứ cũng như tạo ra niềm phấn khích cho những ước vọng về tương lai. Trong thực tế, cái Bản Lề lúc nào cũng là hiện tại, dù nó mở ra hay đóng lại cánh cửa của một gia đình mà tất cả oan khiên của lịch sử dân tộc sinh ra từ trứng đã giáng xuống. 

Trong một ngày rất dài, biết bao sự kiện đã xảy ra chỉ để giải thích vì sao cái Ngọ hay Bản Lề đã được sinh ra từ trứng như tổ tiên xưa kia, mà ngày nay huyền thoại đó vẫn còn là niềm tin cho một dân tộc khác thường đã tồn tại bên cạnh một trong những nền văn minh vĩ đại nhất của nhân loại là Trung Hoa. Nhưng tôi chỉ có thể viết hay kể về nó trong những chừng mực mà tôi biết được và nhớ lại trong lúc bản thân tôi cũng đã là hơi tàn của cái cơn lốckhi quả trứng vỡ. Một hậu duệ lai Tây.

Và người đàn ông mặc bộ đồ nỉ đỏ cũng đã đứng dậy

Ông bước ra khỏi bức tranh, cởi bỏ bộ đồ nỉ đỏ quẳng xuống đất. Ông ta nói: “Tôi không thể chờ đợi mãi".

Lần lượt, tất cả đàn ông và  đàn bà đều bước ra khỏi bức tranh của họ. Họ  đồng thanh nói: “Chúng ta phải đi thôi".

Những bức tranh trong căn phòng tầng áp mái đã hoàn toàn trống rỗng. Không một nhân vật nào để lại chiếc bóng của họ. Họ đã đi và mang theo linh hồn của mình.

Tôi không biết họ đi đâu. Chính lúc căn phòng trở nên vắng vẻ và lụi tàn, linh hồn ông họa sĩ trở lại. Ông nằm bên cạnh tôi. Nhưng quả thật, tôi không hề muốn đụng đến ông ta hay làm một điều gì đó tỏ ra thân mật. Có thể tôi vẫn ngửi thấy mùi hôi của đất trên người ông ta.

Ông họa sĩ nói: “Tôi hối tiếc với những nhân vật của mình. Tôi đã không vẽ họ như chính họ".

Tôi bảo: “Ông vẫn có thể bắt đầu lại".

Ông họa sĩ nói: “Không. Tôi đã chết rồi. Tôi cũng đã giết họ".

Tôi ngồi bật dậy. “Chính ông đã giết họ?” Tôi hỏi.

Ông họa sĩ nói: “Vâng. Chúng ta là những kẻ giết người".

Hồ sơ chuyên án

Vị cán bộ hội mỹ thuật đến gặp ông họa sĩ. Thân tình và không giấu niềm vinh hạnh trong trọng trách của mình, vị cán bộ hội hỏi: “Cấp trên muốn anh lên biên giới công tác một thời gian, anh thấy thế nào?”

Ông họa sĩ cười: “Chẳng thế nào cả. Trên giao thì tôi đi".

Vị cán bộ nói: “Vậy anh chuẩn bị ngay cho. Ngày mốt sẽ có người đến đón anh".

Ông họa sĩ hỏi: “Anh có thể cho biết nội dung công tác không?”

Vị cán bộ đắn đo nói: “Tôi không rõ lắm, nhưng sẽ là một vinh dự cho anh".

Ông họa sĩ được bố trí ở trong một ngôi làng nhỏ, vài chục mái tranh, nhưng tấp nập dân quân. Ông được tự do đi lại và ký họa mọi chân dung hay tình huống sinh hoạt. Đất trời biên giới lúc nào cảnh tượng cũng man mác. Nhưng ông tự nhủ một tâm cảm như thế sẽ không phù hợp và phải được giấu kín. Ông cần tỏ ra bám sát quần chúng và dựng lên thành hình ảnh những con người chăm chỉ, gân guốc và lạc quan cách mạng. Và ông đã làm được như thế. Các chính ủy khen ngợi ông. Những bức tranh mô tả cảnh lao động và học tập mang đậm tính giai cấp và hiện thực được trân trọng như những tuyên ngôn về một thời đại mới. Thời của chủ nghĩa tập thể.

Rồi ông được giới thiệu cho thủ lĩnh.

Hồi ức của ông họa sĩ

Đó là một người đàn ông vào tuổi tri thiên mệnh. Khi tôi đến, ông ta đang ngồi trên một tảng đá, tay cầm ống sáo. Tóc dài búi tó củ hành. Ông cho tôi ấn tượng của một đạo sĩ hơn một con người làm cách mạng. Sau này, khi nhớ lại hình ảnh ban đầu này, tôi vẫn cho rằng cảm nhận của tôi không sai. Một đạo sĩ tuyệt đối và một con người chính trị tuyệt đối đều có những phẩm cách giống nhau. Sự lãng mạn của lý tưởng và sự quả cảm trong hành động. Đôi khi cuồng.

Ông chỉ cho tôi một thân cây đổ và bảo: “Ngồi xuống đi".

Tôi cám ơn rồi ngồi xuống. Ông ta hỏi: “Chú có muốn uống trà không?”

Tôi thưa: “Dạ".

Người giao liên đi vào trong bụi mây rậm rạp và đem ra một bình trà nóng.

Ông lại bảo: “Chú hút thuốc nhé".

Tôi cũng chỉ dạ và bước tới chỗ  ông ngồi. Ông đưa cả bao thuốc cho tôi. Một bao thuốc lá ngoại còn khá đầy. Ông nói: “Chú giữ lấy luôn mà hút".

Tuyệt. Tôi nghĩ thế. Thuốc lá Mỹ là một giấc mơ trên mặt trăng.

Đợi cho tôi đốt xong điếu thuốc và tận hưởng cái hạnh phúc đặc biệt này, ông mới hỏi tôi tên tuổi, quê quán, có người yêu hay gia đình chưa.

Chưa hết ngạc nhiên về sự chiếu cố quá ân huệ này, tôi đã nhìn thấy ông đưa ống sáo trúc lên miệng và thổi, như thể đã quên sự có mặt của tôi.

Một khúc dân ca hoài hương. Tôi lặng người lắng nghe. Tại sao không phải là một khúc quân hành rộn rã như lẽ ra phải thế?

“Chú đã có ý để vẽ tôi chưa?” Ông đột ngột hỏi trong lúc tôi vẫn đang bối rối về sự ủy mị khác thường này.

Sau vài giây để sắp xếp ý tưởng, tôi nói: “Dạ, có rồi ạ".

Ông bảo nói cho ông nghe. Tôi nói: “Thưa cụ, cháu nghĩ cái ấn tượng ban đầu thường ít nhầm lẫn, vì thế, cháu sẽ vẽ cụ theo cách cháu cảm nhận được. Đó là một vị thánh mang nỗi đau nhân thế. Tuy nhiên, cụ cho phép cháu được gặp gỡ thêm và cũng không cần phải sửa soạn gì nhiều. Cụ cứ ngồi thổi sáo. Cháu tin là sẽ bắt được cái thần của nghĩa khí cao cả".

Ông cười, bảo: “Được, chú có một tuần để đến đây nghe nhạc".

Mỗi ngày, giao liên đến đón tôi vào lúc mờ sáng và đưa tôi về vào lúc mờ tối. Tất nhiên không phải lúc nào ông cũng thổi sáo. Tôi sống gần ông, ký họa một số hình ảnh bất chợt nào đó, tôi thích. Một hôm, tôi nhận ra, âm nhạc không phải chỉ thoát ra từ cây sáo, nó tràn ngập không gian. Một thứ âm nhạc có màu sắc nhưng không có đường nét. Tôi đã bị kích động và tôi vẽ một bức chân dung phóng tưởng ngoài chủ ý, cũng ngoài sở trường và quan điểm nghệ thuật của tôi.

Một tuần sau, tôi trình ông bức chân dung ông ngồi trên tảng đá, mạnh mẽ niềm tin và thanh thoát đức hạnh, cây sáo trúc đã thành củi mục. Ông nhìn tranh, rồi nhìn tôi. Ông nói: “Cám ơn chú".

Tôi không đoán được mức độ ông hài lòng đến đâu. Nhưng tôi dự cảm được trong khoảnh khắc về một con người thực. Vì thế, tôi đưa tiếp cho ông xem bức tranh phóng tưởng như một ơn tri ngộ. Ông nhìn bức tranh cũng không nói gì. Tôi tin là ông hiểu và chia sẻ được với tôi cái xuất thần nghệ thuật phi chính trị. Nhưng ông đã cầm bức tranh phóng tưởng đầy hoan lạc ấy quăng vào đống lửa mùa đông biên giới.

Ông bảo tôi về. Tôi không bao giờ gặp lại ông và cũng không bao giờ hiểu được con người và ý nghĩ thật của ông.

Đêm ấy, tôi cũng đã đốt hết mọi ký họa của tôi về ông. Tôi đủ thông minh nhận biết được ông đã cứu tôi vì sự bồng bột của tuổi trẻ.

Tôi được cho đi lao động ở một vùng quê. Hốt phân và chăn trâu hơn một năm. Thấm nhuần hiện thực xã hội và ý nghĩa con người.

Người đàn bà sinh ra từ trứng

Từ ổ rơm bước ra, cô bé sinh ra từ trứng ôm chầm lấy bà mẹ đã cưu mang mình trong bốn ngàn năm. Cô nói: “Con là con gái mẹ chờ đợi".

Bà mẹ tuy ngỡ ngàng nhưng cũng ôm chặt con vào lòng, bà bảo: “Ừ, con yêu của mẹ. Mẹ vẫn tin rằng cuối cùng thì con cũng được sinh ra. Mẹ sung sướng lắm".

Nước mắt của người mẹ lăn xuống trên tóc con. Mái tóc đen nhánh của cô bé trở nên mượt mà, óng ánh. Rồi người mẹ nâng cằm con lên, bà nhìn sâu vào khuôn mặt con. Và bà thấy tất cả quá khứ của bà, một người đàn bà lam lũ, trôi dạt trên các cánh đồng, các dòng sông… cũng có lúc bà nhìn thấy sự cam chịu của mình bên bếp lửa, ngày này qua ngày khác, ngọn lửa nung nấu mọi thứ thành sự sống, nhưng ánh lửa không hắt sáng lên cuộc đời bà. Bà chỉ thấy bóng tối trong đôi mắt long lanh của con.

Bà bồng đứa trẻ lên và trao qua tay người chồng: “Tuy nó không phải là con giai, nhưng nó vẫn là con ông và nó sẽ mang số phận của gia đình ta".

Ông chồng đỡ lấy đứa con và nói: “Tất nhiên nó là con tôi". Và cũng nhìn sâu vào mắt nó, ông thấy ngọn lửa của trái tim ông. Một tình yêu bao la với gia đình nhỏ mọn, vừa ấm áp vừa bất an. Dù thế nào, ông nghĩ, con ông phải được no đủ và hạnh phúc. Nhưng ông cũng biết rằng, cơm ăn áo mặc là nỗi lo nghìn đời ở xứ sở này và thân gái thì trong nhờ đục chịu, ông có thể lo đến đâu? Thêm một miệng ăn, có nghĩa là ông sẽ phải vất vả hơn. Ông có thể làm việc mà không cần nghỉ ngơi, nhưng để có việc làm nuôi sống gia đình không phải lúc nào cũng may mắn. Ông giời có mắt nhưng mắt nhắm mắt mở mưa nắng thất thường. Con người không thể hoàn toàn trông cậy vào sức mình mà còn cần những ơn may của trời đất. Ông ôm con âu yếm mà không thoát được nỗi lo âu về phận đời phía trước của con.

Ông bố không thể tiên đoán được những tai ương của con, nhưng tôi, chút hơi tàn trong câu chuyện, biết rằng một thế kỷ u ám đang chờ đợi cô bé được sinh ra từ trứng ấy.

Đường đi của cô gái

Làn sóng đầu tư nước ngoài vào làm thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn cũng như số phận của các cô gái quê. Họ ra khỏi các vụ mùa và hội hè làng quê để dấn bước vào mê lộ của thành thị, họ cũng biến mất khỏi các bức tranh đương đại về hiện thực xã hội. Đấy cũng là lúc các văn nghệ sĩ đắm chìm trong các cuộc nhậu triền miên, tự cho phép mình an nghỉ trên đỉnh phù vân Yên Tử cùng với các bậc giác ngộ Phật pháp.

Cô gái cởi bỏ bộ đồ nỉ đỏ nóng nực, mặc áo hai dây đi thuê phòng trọ. Để đỡ tốn kém, cô ở chung với một số cô gái khác từ ruộng vườn ra. Căn phòng mười lăm thước vuông ấy có một gác xép to bằng cái chiếu lớn, có thể ngủ được năm người. Cũng có thể là một căn phòng quá rộng, khi các cô gái vào nhà máy.

Các cô thường xuyên tăng ca làm việc ngày mười hai tiếng, ngày thứ bảy làm tám tiếng. Cuộc sống như cái cối xay. Đôi khi bị làm nhục. Nợ lương là chuyện bình thường. Và chịu đựng đến khi kiệt sức, không còn gì để ăn, không có tiền trả nhà trọ, họ bỏ cuộc và biến thành những con thiêu thân tìm ánh sáng. Họa hoằn lắm, họ mới dám phản ứng mạnh với giới chủ.

Bản thân cô cũng không tránh khỏi bị bóc lột và đối xử bất công. Những cuộc đình công lần lượt nổ ra rộng khắp ở các công ty, nhà máy. Nhưng môi trường đầu tư cần bình ổn, chẳng có số phận con người nào đáng kể cho sự phát triển quốc gia, hay làm giàu cho các nhóm lợi ích. Họ bị đàn áp.

Một ai đó nói với cô cần phải hành động và tham gia tổ chức này nọ. Một ai đó trao đổi với cô về phương thức tập hợp lực lượng. Nhưng cô không đi xa hơn việc khuyến khích mọi người chung quanh về quyền đòi hỏi những những lợi ích thiết thân của mình một cách hợp pháp như chống trừ lương, cải thiện điều kiện làm việc, đối xử nhân đạo, chăm sóc y tế và một chế độ ăn đủ no và đủ dưỡng chất…

Cô nói: “Nếu chúng ta không đòi thì bọn chủ không bao giờ cho. Nếu chúng ta không tự cứu thì chúng ta sẽ bị làm thịt".

Cô vận động một nhóm đứng ra đại diện cho anh chị em công nhân để sẵn sàng đối thoại với giới chủ. Cô giả định các tình huống có thể xảy ra và đưa ra các lập luận đấu tranh, cùng họ thảo luận phương cách hành động.

Cả nhà máy đình công. Ban giám đốc từ chối đàm phán. Chính quyền vừa thuyết phục vừa trấn áp, giải tán cuộc tụ tập. Một số công nhân bị an ninh bắt điều tra. Một số khác bị đuổi việc.

Cô phải chạy trốn. Và cô nhận ra sự đơn độc của mình. Vấn đề của cô bây giờ không chỉ là ý nghĩa hay phẩm giá cuộc sống mà còn là sự tồn tại. Làm thế nào để không bị bắt và sống được qua ngày? Khi cô hiểu ra sự cần thiết của một tổ chức trong các cuộc đấu tranh thì cô đã đứng trên một cái bẫy sập do chính cô tạo ra.

Trong căn phòng tầng áp mái

Ông họa sĩ bảo cô: “Em cứ ngồi nhìn ra cửa sổ như thể em đã ngồi như thế từ muôn thuở".

Cô hỏi: “Phải chăng chúng ta chỉ có một thế giới?”

Ông họa sĩ nói: “Nếu nhìn từ ngoài, quả thật chúng ta chỉ có một thế giới gồm những người cai trị và người bị trị. Nhưng nếu nhìn từ chính bên trong chúng ta, sẽ có vô số thế giới".

Cô hỏi: “Điều gì đang xảy ra?”

Ông họa sĩ: “Anh đang tìm cách để những thế giới khác nhau đó có thể cùng một lúc được phơi bày".

Cô nói: “Em không sợ phải bị mất đi chính mình nhưng em không chịu đựng nổi sự sỉ nhục phải câm nín bởi nỗi sợ hãi".

Ông họa sĩ bảo: “Thế giới được tạo nên bởi những lớp sơn. Vì thế, thế giới luôn thay đổi".

Tuy nói thế, nhưng ông họa sĩ đã hoàn toàn mất tự chủ. Cô gái đã ngồi cố định, nhưng ông biết là mình sẽ không thể nào nắm bắt được cô. Phản ảnh thực tại không đơn giản chỉ là vấn đề kỹ thuật, thế giới toát ra từ cô như một ảo tượng. Mâu thuẫn và hoang mang. Không phải cô chạy trốn mà ông mất khả năng truy cập. Cái thực tại giáo điều đang cắn lại ông như một con chó phản chủ. Ông bần thần nhìn cô. Cô xa lạ và liều lĩnh. Không phải thiếu nữ và hoa sen hay hoa huệ, cô ngồi đó trơ trụi. Ông chợt nghĩ đến những điều được gọi là sự thật. Và ông muốn khóc. Ông đã đi quá xa cái sự thật đơn giản của bản chất sự sống. Ông cảm thấy mình thất bại. Suy đồi.

Đám đông

Họ tràn ra đường từ mọi phía. Bừng bừng như những ngọn lửa, họ gào lên và khuấy động mọi âm thanh có thể. Nồi, niêu, xoong, chảo, còi, trống, chai thùng bằng thiếc hay nhựa… cứ thế họ gõ. Khi những âm thanh hỗn độn này chưa kịp lắng xuống, thì không gian lại được lấp đầy bằng những tiếng hô đả  đảo và các yêu sách của họ. Chúng tôi muốn được ăn no. Chúng tôi cần tiền lương đủ sống. Chúng tôi phải được nghỉ ngơi. Chúng tôi cần được chăm sóc sức khỏe. Con chúng tôi phải được đi học và nuôi dưỡng tử tế…

Không ai nghe thấy họ ngoài chính lỗ tai và sự phẫn nộ của họ.

Khi lực lượng chống bạo động xuất hiện với roi điện, dùi cui… họ bị chia cắt và trấn áp. Rồi họ tan rã. Lần nào họ cũng tan rã trước khi các yêu sách được trả lời.

Những khoảnh khắc khi con người đứng dậy phải được ghi nhớ và lưu truyền, vì thế họ đã phân công cho một số người chụp hình. Các thẻ nhớ được gỡ ra khỏi máy chụp hay điện thoại di động và gửi cho người khác giữ sau khi có được những tấm ảnh cần thiết. Họ bao giờ cũng chuẩn bị nhiều thẻ nhớ như thế. Sức mạnh của truyền thông không có đối thủ.

Họ biết rằng khi đám đông đến ngưỡng của sự bùng nổ thì bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Điều quan trọng là phải bình tĩnh và làm chủ được tình thế, nắm chắc lấy cơ hội làm thành lịch sử. Họ tin tưởng chờ đợi ngày ấy.

N.V.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

MAI VĂN PHẤN

Inrasara

Sinh năm 1955, tại Phát Diệm - Ninh Bình. Được một số giải thưởng văn học trong nước. Là tác giả của sáu tập thơ in riêng (Giọt nắng, Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai, Nghi lễ nhận tên, Vách nước, trường ca Người cùng thời),hai tập thơ công bố trên website maivanphan.com (“anhanhemem”, “Quay theo mái nhà”). Thơ Mai Văn Phấn được giới thiệu tại: New Zealand (Poetry NZ 36), Anh quốc (Poetry Kit Magazine), Hoa Kỳ (POESY Magazine, Fulcrum Magazine, Wordbridge Magazine, The Writers Post…), Canada (Grey Borders), Hàn quốc (Thi Luận), Singapore (Softblow Magazine)…
Tuyển thơ
Đúng vậy
Còn cậu hãy đứng đằng kia
Quay theo mái nhà
Kể lại giấc mơ
Biến tấu con quạ
Di chứng
MAI VĂN PHẤN, KẾT THÚC CHO MỘT KHỞI ĐẦU
Không thể hiểu hết nỗ lực của Mai Văn Phấn, nếu không đặt anh và sáng tác của anh vào môi trường xã hội và môi trường thơ hiện đại miền Bắc. Không phải trong thời gian dài sự sáng tạo và thưởng thức thơ ấy bị bó hẹp bởi khuôn phép hệ mĩ học hiện thực xã hội chủ nghĩa mà đúng hơn, bởi chính quan niệm mang tính phổ quát của người làm thơ và người đọc thơ. Thơ là thơ ca, nó đòi hỏi sự trau chuốt kĩ lưỡng ở ngôn từ, chặt chẽ của tứ thơ, ý thơ cần đẹp, thi ảnh chọn lọc, giọng điệu phải nên thơ. Phá cách tới đâu, người làm thơ cũng chỉ dừng lại ở Đặng Đình Hưng, Lê Đạt hay Dương Tường. Có vậy thôi mà cũng đã chịu bao hệ lụy.
Nghĩa là thơ vẫn cứ phải nên thơ. Và mọi người chấp nhận kêu nó là thơ.
Sự thể không có gì sai cả.
Ở miền Nam thì khác. Mười năm sau đất nước nhập một, cả khu vực rộng lớn này hầu như không nảy nòi một thi sĩ xứng danh nào. Mãi mở cửa cởi trói, các thi sĩ miền Nam mới rục rịch làm thơ trở lại, tìm mọi phương cách để đưa sản phẩm của mình đến với công chúng. Ở đó, họ đã tiếp nhận nhiều truyền thống khác lạ. Thơ tự do, đi trước họ là mấy tên tuổi lẫy lừng: Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên,... Hậu hiện đại sơ kì, họ có một Phạm Công Thiện với vô lượng từ xô đẩy nhau vỡ bờ vỡ đê, cuồn cuồn khó hiểu nhưng đẹp và lôi cuốn lạ thường; một Bùi Giáng điên chữ, xáo trộn ngôn từ cả Việt lẫn Hán Việt vào bát quái trận đồ chữ liên tu bất tận, đọc chẳng hiểu ông nói mô tê gì cả nhưng vẫn cứ thích. Làm thơ bất kể ngôn từ thông tục, thông tục đến thô tục, họ có Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Tôn Nhan ở sau lưng. Thơ huyền ảo lãng đãng sương khói, Phạm Thiên Thư đã lừng lững. Thơ Thiền, thơ siêu thực, thơ hiện sinh, thơ điên, ca từ nhạc sến, nhạc vàng, vọng cổ... Nghĩa là không thiếu bất kì thứ gì thế giới ngoài kia có. Quan trọng không kém là các bộ phận công chúng văn học khác nhau chấp nhận chúng là các sáng tạo nghệ thuật.
Người làm thơ miền Bắc trong đó có Mai Văn Phấn, có thể cũng đã ít nhiều biết đến hiện tượng này, nhưng họ không may mắn [hay rủi ro] cư ngụ trong khí quyển văn chương, thừa hưởng tinh thần nền thơ kia. Đổi mới, không thể viết như cũ, họ biết thế, nhưng bắt đầu từ đâu? Mở cửa, họ đối mặt với khoảng trắng mênh mông của sáng tạo, của ý thức và trách nhiệm của một nghệ sĩ tự do. Họ cần làm mới, thức nhận rằng mình phải khác. Nhưng mới, khác thế nào?
Đổi mới, rất nhiều nhà thơ chạy tìm náu thân chốn báo chí, và đã không ít nhà thơ đào bới hay tìm lối thoát vô vọng trong vùng đất của vài thành tựu trước đó, Mai Văn Phấn là một trong rất hiếm hoi thi sĩ tự giải thoát được mình.
Cùng thời với Nguyễn Quang Thiều; nếu Thiều tìm ra giọng điệu đặc thù từ đó trương nở, mở rộng tối đa giọng điệu tìm thấy qua mỗi tập thơ, thì Mai Văn Phấn theo lối khác hẳn. Mỗi bước đi, mỗi tập thơ của Phấn là một gẫy gập, đứt khúc. Nỗ lực cắt đứt và chối bỏ, lưỡng lự rồi vượt qua - liên tục.
Hiếm nhà thơ hôm nay dứt áo với quá khứ vừa đau đớn, nhọc nhằn vừa khó khăn như Mai Văn Phấn. Bỏ làm thơ trong thời gian dài, mãi sắp bước sang tuổi tứ thập anh mới xuất hiện trở lại. Hai mươi năm qua:
Trong hốc lặng
tôi
im trôi với bao người
(“Im trôi”, Vách nước, NXB Hải Phòng, 2003)
Bao nhiêu năm im trôi. Bao thế hệ thơ im trôi. Im trôi với tư duy thơ vốn có. Mai Văn Phấn tự thức giữa bao trì trệ và biến chuyển chậm chạp khắp xung quanh. Không phải đợi đến “tiếng kẹt cửa réo vang/ mở con đường”, Mai Văn Phấn mới dám tìm/ đối mặt thách thức, “được quyền nghĩ những điều đã ước”, vạch “nhịp điệu vẽ lối đi”, “đợi mùa”, anh “ước phục sinh” ngay ở tự thân sáng tác thơ ca.
Hàng trăm bài thơ “truyền thống”, hàng chục tập thơ “tiếp thu và sáng tạo” từ truyền thống với bao giải thưởng, liên tục từ năm 1991 đến 1995, nguy cơ đẩy anh té ngồi vào chiếu văn đầy trang trọng. Nhưng không! Nhìn lùi lại, Mai Văn Phấn vỡ ra rằng có thiếu khuyết, hụt hẫng đâu đó. Thành tựu kia vẫn còn lang thang ngoài hàng rào thơ ca. Truyền thống với hiện thực xã hội chủ nghĩa, hậu lãng mạn với siêu thực hậu thời. Anh quyết rời bỏ chúng, lên đường tìm giọng điệu khác. Đây là thái độ dũng cảm của một nghệ sĩ đích thực.
Dù Mai Văn Phấn luôn ý thức các triền phược rơi rớt từ vô thức cộng đồng; ý thức và quyết liệt “chống lại quán tính”, nhưng thơ anh cứ vướng vào quán tính. Quán tính của thế hệ, của vùng miền, của thời đại. Chúng quy định cách làm thơ của anh.
Người ta nói, dòng sông kia đã được tiệt trùng. Tôi thận trọng tắm rửa bằng những hương liệu quý. Lội xuống, nước đến đâu cơ thể tôi bầm đen đến đó, rồi mọc ra những sợi lông vũ. Thế là nửa người trong nước hóa thành chim. Nhưng tiếng hót phải thoát qua vòm họng và lưỡi. Từ đấy, miệng tôi luôn chống lại quán tính của phần bầm đen trong nước đã ngập chìm
(“Di chứng”)
Dù rất nỗ lực giải thoát thơ khỏi ẩn dụ, nhưng thế nào Mai Văn Phấn cũng rơi vào hệ lụy của vô vàn ẩn dụ. Từ ẩn dụ “Nhà thơ trú trong bóng râm/ Những con chữ bị khoét mất mắt” qua “Đàn quạ lũ lượt chui khỏi ngũ quan, lập tức sà xuống săn mồi theo bản năng của loài ăn thịt” đến ẩn dụ về “những con kiến chữ khổng lồ” hay “Cầm cuốn sách bơi ra phía biển. Cắm con dao xuống đất rồi tưới nước. Trùm chăn đi vào đám cưới. Một mình trèo lên đồi cao giơ tay phát biểu ý kiến. Thổi điệu kèn đưa ma con nhện”.
Chuyển động mạnh nhất ở Mai Văn Phấn trong những năm hậu đổi mới chính là ngôn ngữ. Hết còn thứ ngôn từ sang trọng và trịnh trọng. Ngôn ngữ thơ của Phấn đã thôi còn trau chuốt tỉ mẩn, ngày càng hướng đến sự tự phát và ngẫu hứng. Từ đó, thơ anh cũng thôi đạo mạo với đóng thùng.
Đạo mạo múa tay trong bị
...
Đạo mạo giết một con muỗi
Đạo mạo phát biểu chung chung
Đạo mạo nghiêng mình trống rỗng
Đạo mạo lấy trộm áo mưa
Đạo mạo thở mùi hôi vào miệng người khác
Đạo mạo bọc nhầm một chiếc răng sâu
Đạo mạo tiểu tiện nơi công cộng
Đạo mạo xụt xịt trong khăn mùi xoa
Đạo mạo chỉnh lại con c... trong túi quần nơi hội họp
Đạo mạo xỉ mũi vào cửa kính
Đạo mạo moi tiền của gã ăn mày
Đạo mạo nghe trộm điện thoại
Đạo mạo nhìn ngực chị em trong đám tang
Đạo mạo ký tên vào công trình khoa học
Đạo mạo làm thơ tình khi đã liệt dương...
(“Bài học”)
Quán tính đó, ẩn dụ đó, nhưng bằng thứ ngôn ngữ gần và sát thực hơn, Mai Văn Phấn đã thoải mái phô bày con người thời đại với trạng thái bi quan cùng cực trong tâm trạng mệt mỏi và bất lực giữa một thực tế cuộc sống xô bồ, ảm đạm không lối thoát. Ở đó, con người hết còn mơ mộng ngây ngô đời sống tốt đẹp, văn minh và tiến bộ, hết còn niềm tin vào tương lai tươi sáng. Mỗi người là một thế giới kín bưng bít, âm u hơn, vô vọng hơn.
Đêm nay
Rắn rết, bọ cạp tràn vào thành phố
Nhưng đừng sợ!
Nhà nào bây giờ cũng thiết kế kiểu lô cốt
Trời tối không ai ra đường
(“Còn cậu hãy đứng đằng kia“)
Trong thế giới hỗn độn và phi lí ấy, con người quay cùng với đồ vật quay. Cô độc, bất trắc và luôn tiềm ẩn nguy cơ biến thành đồ vật.
Những đồ vật quay không thể dừng lại. Thùng rác quay mắc phải khung ảnh, quạt trần, dây điện thoại. Chiếc quần lót mắc kẹt giữa tủ bát đĩa và máy tập thể hình. Chổi cùn, bình diệt muỗi, đĩa CD chui vào tủ lạnh. Con cá tắt thở trên đường gần đến cửa sổ. Lũ chuột nhắt chết đuối bơi qua chảo mỡ. Bột giặt vừa quay vừa rắc lên hoa quả, dao thớt, bàn thờ. Bát nước chấm quay cùng bìa đậu phụ. Lọ tương ớt lao đi trong tư thế lộn ngược. Và kim giây quay chậm hơn hẳn kim giờ...
(“Quay theo mái nhà”)
Cảm thức như thế, nỗ lực thay đổi liên tục liên tục lối thể hiện như thế - từ Giọt nắng (1992), Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai, Nghi lễ nhận tên, trường ca Người cùng thời cho đến tập thơ mới nhất: Vách nước (2003) và cả hàng trăm bài thơ lẻ đăng trên website các nơi, mỗi tập thơ, mỗi giai đoạn là một tìm tòi phong cách độc đáo hơn, mới và khác hơn. Có thể nói Mai Văn Phấn là một trong rất ít nhà thơ tiêu biểu nhất của thơ hiện đại Việt.
Anh sẽ còn đưa thơ đi tới đâu nữa, không biết. Cả anh cũng không biết, trong cõi sáng tạo mù mờ đầy hứng khởi ấy. Điều người đọc biết chắc chắn là, với bút lực hãy còn đầy tràn, tinh thần tìm tòi khai phá không biết mệt mỏi ấy, Mai Văn Phấn vẫn chưa thấy có dấu hiệu ngừng lại.
Sài Gòn, 14-1-2009


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trực tiếp: ĐANG CHÁY LỚN TẠI PHỐ PHAN CHU TRINH, TRUNG TÂM HN




18h Ngày 4/4/2018: Đang có đám cháy lớn tại một tòa nhà ở đường Phan Chu Trinh, Trung tâm Hà Nội.

Đám cháy xảy ra trên tầng cao nhất của một tòa nhà. Cháy và Phát Nổ.

Xe cứu hỏa đến hơi chậm và xử lý có vẻ lúng túng. 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Amazon là công ty thương mại điện tử hàng đầu thế giới.

1.Amazon là công ty thương mại điện tử hàng đầu thế giới
2. Amazon đã thay đổi ngành bán lẻ, xuất bản và phim ảnh.
3. Amazon đã tạo hơn 500,000 ngàn việc làm trên toàn cầu.
4. Amazon trả lương cho nhân viên $50k-150k, hơn mức trung bình.
5. Amazon đã giúp người Mỹ tiết kiệm hàng tỷ đô và thời gian.
6. Amazon đã là một biểu tượng của nền kinh tế Mỹ.
7. Amazon quá thành công nên bị GATO.
8. Amazon là một doanh nghiệp tư nhân, tuân thủ pháp luật đầy đủ.
9. Amazon phục vụ khách hàng quá tốt, đời sống của chúng ta sẽ trở nên tồi tệ hơn nếu không có Amazon.
10. Amazon hoạt động và phát triển vì chúng ta. Hãy bảo vệ Amazon khỏi bàn tay chính phủ.
Hãy kiểm chứng những gì Trump nói. Hãy Như Amazon.
Ku Búa @ Cafe Ku Búa



Phần nhận xét hiển thị trên trang