Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 2 tháng 1, 2018

VÉN NẺO VÔ THƯỜNG


Vinhhuy Le - Truyện ngắn này, tôi viết hồi tháng 3-2011. Gõ một mạch, viết đến đâu nước mắt lăn dài đến đó. Xót ông bà ngoại, thương phận mẹ, và tủi cho kiếp mình. Tôi viết để tự nhắc nhở mình phải nhớ lấy lời mẹ dạy: đừng nuôi oán thù. Sống được ngày nào thì mở lòng ra yêu lấy và tận hưởng thế gian này. Kiếp người vốn ngắn ngủi như gió thoảng bên thềm, sương tan buổi sớm. Cưu mang thêm cừu hận chỉ làm chính kiếp sống mình thêm oan trái nặng nề.
Cuối thế kỷ 19, có một thanh niên Trung Hoa từ bỏ mảnh đất Phúc Kiến loạn lạc khốn khổ để sang xứ An Nam, lần xuống vùng Nam kỳ Lục Tỉnh mưu sinh. Nhờ có chút chữ nghĩa, lại biết xử dụng bàn toán, chàng Hoa kiều được một chủ chành(1) ở Trà Vinh thu nhận, cho làm “tài phú”(2). Được một thời gian, thấy người tài phú đã thật thà lại siêng năng giỏi giắn, ông bà chủ chành bèn gả con gái cho.

Đôi vợ chồng người tài phú ra riêng, chồng bắt mạch hốt thuốc, vợ buôn hàng xén, lần hồi cũng lập nên cơ nghiệp, tậu thêm ruộng vườn. Trong mười bốn người con của họ, có hai anh em sinh đôi nổi tiếng hào hiệp trượng nghĩa.

Cậu Sáu An sớm thành gia thất, còn cậu Bảy Bình tính thích bay nhảy, chưa muốn vướng vòng vợ con lẩn quẩn. Cả hai đều theo nghề thương lái để rộng cẳng giang hồ.

Một hôm, khi cho ghe đi ngang vàm Trà Cú, Bảy Bình tình cờ gặp một thiếu nữ đang giặt đồ dưới bến sông. Cậu than với anh:

– Rồi, chắc đời tui neo lại bến này thôi, anh Sáu ôi!

Chỉ nói vậy rồi cậu nhảy tót lên bờ, lần theo dò hỏi thân thế cô gái, để người anh một mình dẫn đoàn ghe thương hồ đi tiếp.

Cô gái nọ là con một chủ điền trong vùng. Cô cũng là con thứ bảy trong nhà, tên Phương. Cô đẹp người lại tốt nết, thùy mỵ đảm đang, được nhiều người ngấp nghé nhưng chưa hề để mắt tới ai.

Bảy Bình say người đẹp, liền xin vào làm thuê cho nhà nàng. Chưa đầy nửa năm sau, cậu đã được ông chủ điền tin cậy cất nhắc, giao cho việc trông coi sổ sách trong điền.

Phần ông tài phú họ Huỳnh, hay tin Bảy Bình mang thân đi làm mướn, lúc đầu ông giận lắm, nhưng sau đó nghĩ lại, cho rằng con mình đã gặp người vừa duyên phải lứa, ông đổi giận làm vui, chọn ngày lành để sang nhà ông chủ điền họ Lưu xin kết thông gia.

Hôm ấy, trong điền có con trâu nổi chứng, hễ gặp người là húc, làm náo loạn cả cánh đồng. Bảy Bình nổi hứng trổ oai, xoay trần quần nhau với trâu dữ cả buổi mới hàng phục được nó. Khi người nhà ra tìm, cho hay là hai họ đang giáp mặt bàn chuyện lứa đôi cho mình, Bảy Bình chỉ kịp nhảy tùm xuống ao, hụp đầu vài cái để rũ bùn rồi hộc tốc thay đồ chạy về. Chàng rể ra mắt nhạc gia, đầu tóc sũng nước, quần áo còn ngầy ngậy mùi bùn non ngoài đồng. Chừng bấy giờ ông bà chủ điền mới hay chàng trai mấy tháng nay làm công cho nhà mình là công tử con nhà tài phú. Cô Bảy Phương cảm động trước tấm chân tình của chàng trai, mới ưng lời vầy duyên cá nước. Họ sinh được một cô con gái, gia đình êm ấm no đủ yên vui, cho đến khi…

Đang thời ly loạn mà hai cậu Sáu An và Bảy Bình cứ đi ghe hoài, người thân can ngăn mấy cũng chẳng được. Họ có cái lý riêng: Thời buổi hiếm ai đi thương hồ mà mình dám đi thì mới được lãi nhiều. Và rồi tai họa đã xảy ra, làm tan nát cả một dòng tộc.

Ngày nọ, khi họ dẫn đoàn ghe ghé chợ Phong Thạnh thuộc huyện Cầu Kè thì nhằm ngay lúc Việt Minh rải truyền đơn trong chợ, Tây đang dẫn lính đi lùng. Thấy hai người mặt mày sáng sủa khôi ngô, viên sĩ quan Pháp ngờ là Việt Minh(3), liền ra lệnh bắt họ. Người cùng đoàn thương hồ của hai anh em nghe kinh động, vội vàng lui ghe, nên được an toàn cả nhóm. Còn hai chàng trai bị trói gô lại, quan Tây lập tức cho hành hình, không cần xét xử.

Đao phủ là một người Khmer, y không phải dân giết người chuyên nghiệp, nên chỉ biết nghiến răng nhắm mắt phạt đại mã tấu ngang thân hai người. Chừng ngó lại thấy hai cái xác đứt làm bốn, ruột gan tuôn lòng thòng, người đao phủ trợn trắng rú lên kinh hoàng, y rụng rời làm rớt thanh mã tấu. Công xá quan Tây thưởng đãi cho chỉ là lít rượu đế, người Khmer uống đến say mèm, hết biết trời trăng. Đến đêm, y đào ngũ trốn về phum sóc, từ bỏ nghiệp theo Tây. Hai anh em Sáu An, Bảy Bình trước sinh cùng năm cùng tháng cùng ngày, vậy là nay chết cũng cùng giờ cùng ngày cùng tháng cùng năm, lúc mới ngoài ba mươi tuổi. Tình huynh đệ đồng sinh đồng tử được vậy kể cũng là trọn nghĩa, nhưng chỉ thương cho những người thân ở lại phút chốc hóa bơ vơ.

Ông Huỳnh tài phú phẫn uất và đau lòng vì mất cùng lúc hai người con, quyết chí tái di cư. Được những anh em trong bang hội Hoa kiều giới thiệu, ông mang theo ít vàng bạc, dắt theo cậu con út, xuống thuyền tìm đường sang Cựu Kim Sơn, định khi quen thung thổ Hoa Kỳ sẽ dời cả dòng họ qua theo. Song dọc đường ông bị ngã bệnh rồi mất, người con út theo cha từ đấy cũng bặt tăm hơi, tuyệt không ai biết cậu mất hay còn. Bà tài phú từ đấy xuất gia, mượn câu kinh tiếng kệ để nguôi quên thế sự vô thường.

Sáu An mất đi, để lại cho đời được ba đứa con. Bảy Bình thì chỉ có mỗi mụn con gái. Cô Bảy Phương hôm ấy dắt con xuống bến sông đón ghe chồng về, tưởng đâu được mừng họp mặt, nào dè lại hay tin dữ chồng chết chẳng toàn thây. Đau thương quá độ, người quả phụ sinh trọng bệnh, mấy tháng sau cũng nối gót theo chồng. Bé Ánh – con Bảy Bình và Bảy Phương – mới vừa 8 tuổi đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, không anh chị em ruột rà, một mình cui cút giữa quê nghèo bộn bề giặc giã.

Cô bé được người dì mang về nuôi. Ông bà ta thường nói: “Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì”, nhưng bé gái sẩy cả cha lẫn mẹ nên phải tự mình cậy mình. Ở nhà quê, người ta lại càng ham công tiếc việc. Tự biết phận mình nên mới tí tuổi đầu bé đã phải quán xuyến việc nhà: giữ em, tắm heo, chăn trâu, nấu cơm, giặt giũ… Người cô thứ Mười Một của bé sang thăm, thấy đứa cháu mình ốm nhom đèo đẹt, da đen khét nắng, tóc cháy đỏ như râu bắp. Đang giữa trưa mà bé phải na từng nạm rơm đút vô lò nấu nồi cơm to đùng, cơm chín thì bơi xuồng mang ra đồng cho hơn hai chục người lớn dùng bữa.

Cô Mười Một bèn khăng khăng mang cháu bé về chăm nom, người trong nhà chủ điền họ Lưu ngại mang tiếng bạc đãi cô nhi nên xúm vào ngăn cản quyết liệt. Mười Một tuy là phận nữ nhi nhưng có lá gan hảo hán, nhà họ Huỳnh xưa kia từng nuôi võ sư Tàu để truyền võ nghệ cho 14 anh em, thì cô Mười Một là đệ tử ưng ý nhất của thầy Tàu. Bị cả đám đông hùng hổ bao vây, cô một tay dắt cháu, một tay rút dao phay chém phập dính cột nhà, buông lời thề độc:

– Mười Một này thề suốt đời không lấy chồng, quyết một dạ ở vậy nuôi con Ánh, con anh chị Bảy, cho đến ngày nó lớn khôn. Nếu sai lời thề, xin chết không đất chôn. Còn bữa nay, như người nào muốn cản tui mang cháu đi, Mười Một xin phép bửa đầu kẻ đó!

Sau khi Sáu An và Bảy Bình mất, cô Mười Một tập hợp những người thân tín, lại thay hai anh chỉ huy đoàn thương buôn len lỏi ngược xuôi kênh rạch sông hồ. Về với cô, bé Ánh được rày đây mai đó, tuy mải miết kiếp lênh đênh, thời gian sống dưới ghe nhiều hơn ở trên bờ, lại không có bạn đồng lứa tuổi, nhưng bé lấy làm sung sướng lắm, vì đã có vòng tay cô vững chãi đùm bọc.

Nhưng những ngày tươi đẹp của cô bé chẳng được bao lâu. Do lao tâm lao lực dãi nắng dầm sương quá độ, chỉ vài năm sau là cô Mười Một từ trần. Lúc lâm chung, cô cầm tay bé Ánh dặn dò:

– Mệnh trời không cho cô được chăm sóc con đến ngày khôn lớn rồi, thôi thì cô cháu mình từ đây chia tay. Con ở lại phải ráng sống sao cho khỏi thẹn là con của Bảy Bình, là cháu cưng của cô Mười Một, nghe không!

Lại một lần nữa bé Ánh quấn lên đầu vòng khăn tang, đưa tiễn người thân về cõi vĩnh hằng.

Năm 12 tuổi, có người bà con xa về quê chơi, khi trở lên Biên Hòa đã dắt Ánh theo. Từ đấy, cô bé đi ở đợ tự nuôi lấy thân. Sáng dọn hàng cho sạp vải của người bà con ở chợ Biên Hòa, xong rồi đi gánh nước, rửa bát thuê cho tiệm hủ tiếu, tối đi học nghề may.

20 tuổi, cô mở được một hiệu may ở cạnh rạp hát Biên Hùng. Con bé nhà quê đen nhẻm gày guộc khi xưa giờ đã thành cô Hai Ánh hoa khôi xứ bưởi. Các sĩ quan, danh ca, bác sĩ, kỹ sư đua nhau lượn lờ, xe hơi choáng lộn xếp hàng dài trước cửa hiệu may mong được rước người đẹp về dinh, nhưng tất thảy đều bị cô gạt phắt sang bên để đến với một anh trai Tàu cục mịch quanh năm chỉ vận độc may ô quần đùi đẩy xe nước mát bán rong.

23 tuổi, cô về làm dâu một gia đình người Hoa nhiều khuôn phép khắc nghiệt. Rồi năm sau, cô sinh ra… tôi.

Ngày tôi còn nhỏ, mẹ thường kể chuyện bên dòng họ ngoại cho tôi nghe. Mẹ kể những đau thương bằng giọng tỉnh rụi, cứ như chuyện của ai ai ấy, chẳng liên can gì đến mình. Những gian truân lầm than của đứa trẻ mồ côi một thân chèo chống xuôi ngược chợ đời khiến tôi “bức xúc”, thường giậm chân trách mẹ:

– Sao lúc đó… lúc đó… mẹ không kêu con để con giúp mẹ?

Mẹ tôi cười ngất:

– Lúc đó mày còn ở dưới mắt cá mẹ, đã chui ra đâu mà giúp với đỡ!

* * *
Ngày hòa bình thống nhất, mẹ thắp nhang vái van ông bà ngoại tôi, rằng đất nước nay đã an bình, đúng như tâm nguyện của cụ cố tôi khi xưa đặt tên cho hai người anh em sinh đôi. Mẹ vui vì từ nay các con của mẹ sẽ không phải chịu đau khổ vì tai nạn chiến tranh như đời mẹ và cha ông xưa.

Ba ngày sau đó, ba tôi gom vàng bạc trong nhà toan bắt mối đưa cả gia đình ra nước ngoài. Đời ông bà nội tôi cũng vì họa cộng sản Trung Quốc mà hóa phải mồ côi, lưu lạc sang vùng đất phương Nam này; giờ lại thấy Cộng quân nắm quyền nên sợ lắm, phải lo mà tái di cư. Nhưng đang đi nửa đường thì ba bị xe GMC do các chú bộ đội điều khiển cán phải, họ chạy xe giữa đường phố mà lại phóng loạn xạ tưởng như giữa rừng Trường Sơn nên đã cho xe nghiến lên ba tôi. Chiếc 67 của ba nát bét, sau đó chỉ có thể mang cân sắt vụn. May mà ba tôi không chết, nhờ có người qua đường sau khi vét sạch vàng bạc trong người ba, đã động lòng hảo tâm gọi điện báo tin cho mẹ tôi hay, kịp đưa ba đi bệnh viện.

Tai nạn làm gương mặt ba biến dạng ghê gớm, em gái tôi sợ hãi khóc thét khi nhìn thấy ba. Cả hàm răng trên của ba sụp xuống phải dùng niền inox gá lên; một chân ba bị gãy xương, tuy nối lại được nhưng trật khớp, từ đó ba tôi chỉ có thể đi cà nhắc chậm chạp. Gánh nặng gia đình dồn hết lên đôi vai gầy của mẹ tôi.

Một năm sau, cả nhà tôi bồng bế nhau về quê ngoại sinh sống. Với chút tư trang còn sót lại, ba mẹ tôi mua mảnh vườn và khai khẩn thêm. Mua xong mảnh vườn thì trong nhà tôi chẳng còn lại gì, cả nhẫn cưới của ba mẹ cũng không còn. Tôi và thằng em thứ nhỏ hơn tôi một tuổi phụ mẹ rà miểng bom, vỡ đất, đào mương. Cả nhà gồm ba mẹ và năm anh em tôi phải chen chúc nhau sống trong căn chòi lá tạm bợ như chuồng heo, chỉ vừa đủ chỗ kê cái giường và quây bồ đựng lúa. Những lúc gia đình lâm cơn túng đói ngặt nghèo, mẹ tôi vẫn cười hồn hậu:

– Ráng lên, nhà mình nhất định sẽ qua được đận gian lao này! Ngày xưa mẹ chỉ một mình tứ cố vô thân còn sống được, huống chi nay cả nhà có đến 7 người chung sức chung lòng…

Mùa rẫy đầu tiên, nhà tôi trồng cải bắp. Đất tốt nên cải lên xanh mượt, bắp cải nào cũng xanh mởn ngon muốn cắn, nặng trìu trịu. Ba mẹ con thuê xuồng chèo qua chợ Đại Ngãi bên Sóc Trăng bán, bị chủ vựa ép giá, mẹ quyết định mang ra đầu chợ ngồi bán lẻ từng bắp một, nhờ vậy mà có được đồng lời đủ tiền mua hạt giống mới và phân bón cho mùa sau, lại còn sắm được cặp heo con.

Đêm, mẹ thường thắp nhang, khấn vái rất lâu. Tôi hỏi mẹ vái gì, mẹ mỉm cười:

– Mẹ vái cầu ông bà ngoại phù hộ độ trì cho nhà mình…

Một hôm, mẹ mơ thấy ông ngoại tôi và ông Sáu về than, hai anh em nằm ngoài bờ bụi trơ vơ lạnh lẽo lắm, hai ông bảo mẹ tôi rước hài cốt hai người về. Trong mơ mẹ tôi hỏi làm sao mà tìm được cốt, vì mẹ nhớ ngày xưa khi ông nội mẹ – cụ tài phú họ Huỳnh – đích thân đi lãnh xác con mà không được, còn suýt bị Tây bắt. Trải qua bao khói lửa đạn bom cày xới vùng quê, biết tìm đâu được nắm xương tàn của hai ông đây! Mẹ kể:

– Ông ngoại con nói là cứ tìm người hồi xưa chém hai ông thì sẽ gặp!

Mẹ tin vào giấc mơ ấy lắm, làm tôi cũng nôn nao xốn xang trong dạ. Mẹ còn nhắc hồi xưa ông ngoại sau mỗi chuyến đi buôn về thường đặt mẹ ngồi lên vai, cõng đi khắp xóm. Trong nhà chẳng còn đồng bạc nào, mà chuyến đi tìm ông ngoại phải dài ngày họa may mới mong tìm đặng. Gần nhà có ông cán bộ xã muốn vét hồ cá tra nhưng ai nghe cũng gớm, chẳng ai chịu nhận làm. Hồ cá nhà ông ta đào cạnh lộ, người đi đường mà chột bụng chỉ cần xé lá chuối khô rồi bước vào an tọa. Đã vậy, ông ta còn xây thêm chuồng heo trên ao cá. Đứng cách ao cả công đất còn nghe mùi cuồn cuộn…

Tôi và thằng em đến đòi giá cao, ông cán bộ bấm bụng ưng thuận.

Lúc mới đặt chân xuống đáy ao, tôi gớm đến nổi rùng mình ớn lạnh, chỉ muốn lộn mửa, nhưng sau một hồi thì quen, tay gàu sục bùn lỏng xúc quăng lên lia lịa. Thứ bùn ao cá cầu tiêu nó bầy nhầy, lỏng bỏng, trơn nhớt… Lúc khom xuống múc bùn, thấy phân người phân heo xanh xanh vàng vàng còn đọng lại lợn cợn lềnh bềnh ngang mũi, tôi bật cười, nói với thằng em:

– So với anh em mình thì thằng Câu Tiễn là đồ bỏ!

Làm chỉ hai ngày là xong cái ao cá vồ, lãnh được món tiền cũng bộn, đủ cho chuyến đi tìm rước ông ngoại. Có điều, cả tuần sau, trên người hai anh em tôi vẫn còn vương vấn mùi phân…

Bơi xuồng đến chợ Phong Thạnh hỏi thăm thì hai mẹ con càng xanh mặt rởn ốc cục vì sự linh hiển của ông ngoại: Quả nhiên, người đàn ông đao phủ Khmer khi xưa chém ông ngoại hiện vẫn còn sống! Ông lão giờ dở điên dở tỉnh, không vợ con thân thích, đang ăn xin ngoài chợ. Khi nghe mẹ tôi hỏi thăm chuyện xưa, ông vùng trợn trắng, giãy đành đạch như con cá lóc bị ai đập đầu. Mẹ tôi cạo gió, giựt tóc mai cho ông cả tiếng đồng hồ ông mới hồi tỉnh, và rồi ông tỉnh hẳn lại, đứng phắt dậy dắt hai mẹ con tôi đi vùn vụt, phăng phăng băng đồng lướt bụi. Đến một thẻo đất um tùm ô rô cóc kèn bên bờ sông Phong Thạnh, ông nhảy loi choi:

– Đây, đây, ở đây. Hai người. Đổ ruột. Giống con trùn bị ngắt làm đôi. Tui nhớ, nhớ kỹ lắm. Người bị tui giết đó.

Ông phụ chúng tôi đào lên. Bàn tay khi xưa vung mã tấu lên giờ run rẩy xắn lưỡi leng xuống. Đất mềm nên cũng dễ đào, chỉ độ hơn nửa tiếng là chúng tôi thấy hai bộ hài cốt đen thui như gỗ mun chung một chỗ nằm, lẫn lộn vào nhau. Cặp anh em sinh đôi này đến chết vẫn còn quấn quýt thâm tình ruột thịt. Lạ thay, gần 40 năm vùi trong đất bùn mà xương cốt hai ông vẫn chưa phân hủy, ý hẳn chờ người thân tìm đến rước về. Mẹ nhận ra bốn cái răng vàng của ông Sáu, còn thì chia đều ra làm hai gói. Gói có răng vàng để dành trao lại cho mấy người dì con ông Sáu, nay đã là mệnh phụ cấp huyện, dì Ba Hà còn có người con bằng tuổi tôi đang du học đâu ở xứ Bún-cà-ri.

Cuộc đi tìm di cốt ngỡ phải mười bữa nửa tháng, dè đâu chỉ hơn nửa ngày là hoàn thành. Mẹ tôi trút hết món tiền làm lộ phí cho ông lão Khmer. Phải là con mẹ mới biết món tiền đó nặng cỡ nào. Mẹ tôi tiện tặn cả đời, bòn mót được đồng nào là dành dụm để lo cho các con. Thèm ăn hủ tiếu, nhưng khi sáng đãi ông lão, vào quán mẹ chỉ gọi có hai tô. Một tô phần ông lão, tô kia sớt làm đôi mẹ con chia nhau. Chịu ảnh hưởng từ mẹ mà đến giờ tôi vẫn có thói quen ăn cơm không để rớt nửa hột; vào quán xá ăn sáng, tôi húp sạch đến cặn chẳng sót miếng nước lèo; uống cà phê là phải nhai đến cục nước đá cuối cùng, quyết không chừa lại dù chỉ hạt đường dưới đáy ly. Các chủ quán quen thường trêu tôi: Bán hàng cho tôi rất khỏe, khỏi phải rửa lại tô với chén, ly với tách chi cho mệt, vì chúng sạch boong cả rồi!…

Mà số tiền đó lại là tiền công vét phân cho người ta của hai anh em tôi, nên tôi xót lắm, trong bụng tính thầm: Lát nữa phải tìm cách để mẹ đi về trước, còn mình lộn trở lại chặn đường lão Khmer này để trấn lại phân nửa, nhiêu đó cũng là quá lắm rồi!

Nhưng ông lão ăn xin không chịu cầm lấy, ông sụp xuống lạy mẹ tôi làm hai mẹ con tôi hoảng hồn phải quỳ xuống lạy trả. Lạy qua lạy lại một hồi, tôi chịu hết xiết, xốc nách ông dậy:

– Nghiêm, đứng thẳng, đứng!

Mẹ vừa khóc vừa siết chặt đôi bàn tay từng vấy máu ông ngoại tôi:

– Bác ơi, chuyện ngày xưa cũng qua lâu rồi, giờ bác chỉ giùm cho cháu lấy được hài cốt cha cháu về thì bác là người ơn của gia đình cháu. Số tiền này bác cứ nhận đi, coi như là nhận để xóa bỏ chuyện xưa lắc xưa lơ cho nhẹ lòng, mà cha với bác của cháu ở dưới đó cũng được an dạ.

* * *
Sau đó, mẹ con tôi về bên Trà Cú cải táng cho bà ngoại, rước bà về nằm cạnh ông ngoại (và có thể, cũng có cả một phần của ông Sáu tôi nữa).

Lấy cốt ông ngoại về được hai tháng thì ông lão Khmer qua đời. Nghe nói những ngày cuối đời ông không còn điên điên khùng khùng nữa, ông cạo đầu vào chùa tu và được hỏa táng trong chùa Khmer.

Hàng năm, đến ngày giỗ ông ngoại, bao giờ mẹ tôi cũng không quên khấn ông lão Khmer về uống chung với ông ngoại và ông Sáu ly rượu. Mẹ nói:

– Chết rồi thì mấy ông gặp nhau cũng kết làm bạn bè với nhau chứ kể gì ân oán hồi còn sống chi nữa!
______________

(1) Vựa buôn lúa.
(2) Kiểu như thư ký, kế toán.
(3) Ở đây, tôi chỉ ghi lại theo lời kể của các ông già bà cả, chứ quan niệm mỗi thời mỗi có khác nhau. Thời nay thì cán bộ nào không có cái mặt… ngu ngu thì không phải thế cán bộ. Xin phép nói rõ: Sở dĩ ngu ngu là do vì quanh năm suốt tháng chỉ biết có ăn với nhậu, hê hê!
_______

VĨ THANH

Truyện ngắn này, tôi viết hồi tháng 3-2011. Gõ một mạch, viết đến đâu nước mắt lăn dài đến đó. Xót ông bà ngoại, thương phận mẹ, và tủi cho kiếp mình.

Tôi viết để tự nhắc nhở mình phải nhớ lấy lời mẹ dạy: đừng nuôi oán thù.


Sống được ngày nào thì mở lòng ra yêu lấy và tận hưởng thế gian này. Kiếp người vốn ngắn ngủi như gió thoảng bên thềm, sương tan buổi sớm. Cưu mang thêm cừu hận chỉ làm chính kiếp sống mình thêm oan trái nặng nề.

Nhưng không phải vì muốn xua đi năng lượng xấu đi mà cúi đầu cam chịu bất công, để mặc cường bạo hoành hành.
 Mẹ ơi, mẹ còn nhớ không, hồi đó ngăn sông cấm chợ, nhà mình gom tiền mua lúa đặng về quây bồ dự trữ. Miền tây này nước lành trái ngọt, chỉ cần có bồ lúa đủ ăn một năm trong nhà là đủ, còn thức ăn thì cứ nhảy xuống mương rạch, chịu khó lặn lội vài khắc là đủ soạn mâm cơm.

Vậy mà ghe lúa nhà mình bị chúng nó chặn bắt, hai mẹ con bị vu là gian thương phải bị giam trong văn phòng hợp tác xã. Nửa đêm nước lớn, mẹ con mình cởi trói, tháo ghe xuôi dòng về nhà, con chống sào đằng trước, mẹ bẻ lái đằng sau, tay lăm lăm dao bầu, nhứt định nếu chúng nó dám rượt theo là đuổi bắt là ra tay chặt phăng vài thủ cấp, cho biết dòng dõi Bảy Bình không phải thứ con sâu cái kiến cam chịu khuất nhược. Lúc đó, con đã cười sặc, sảng khoái ghê gớm khi nhìn mẹ khẳng khái huơ dao nửa vòng trước mặt:

– Mẹ bà nó, thử đi thì biết. Người chết thì lúa này mới chịu mất!

Mẹ sẵn sàng bỏ qua nhát mã tấu giết chết ông ngoại, nhưng quyết không khoan nhượng, cam để bọn  cướp đi bồ lúa nuôi sống các con mẹ. Nếu cần, mẹ con nhà mình sẵn sàng hiện nguyên hình thảo dã, chẳng ngán đứa nào...

* * *
Giờ thì mẹ đã lẫn, quên nhiều hơn nhớ. Chuyện năm bảy chục năm trước mẹ nhắc rõ rành từng chi tiết nhưng lại không biết mình sáng nay đã ăn gì chưa. Có lúc, mẹ ngỡ ngàng nhìn con chẳng biết là thằng nào, con nhà ai sao lại bóp chân cho mẹ. Gần 80, mẹ không còn thể tự tay bưng ly nước chén cơm, bước đi cũng phải tập lại từ đầu, chập chững như thuở sơ sinh đến thế gian này.

Không oán không hờn, không thương không luyến, mẹ tôi đang dựa lưng ra ghế, nhẹ nhàng ngắm mây chiều rực rỡ phía chân trời.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

GẶP GỠ CUỐI NĂM Ở THIÊN ĐÌNH


Song Hà - TÁO CHẦU TRỜI (Phần 1)
Hăm ba tháng chạp âm lịch, Nam Tào hớt hải gọi điện cho Ngọc Hoàng.
- Alo Hoàng hả!
- Ờ, mà sao gọi trống không thế, láo quá đấy!


Hoa hậu Đại dương... Thảo nào ta thấy con này môi trề trề như con cá dọn bể!
- Khởi bẩm, tại em cứ hay nhầm anh với thằng cầu thủ Trọng Hoàng. Dạ, tình hình là đéo ổn rồi.
- Sao thế?
- Các Táo chúng nó đang dùng tiền lẻ mua vé qua cổng.

- Tiền lẻ thì tốt quá chứ sao. Hôm nọ anh đi mua bao cao su, thiếu 200 đồng con mà hiệu thuốc chúng nó còn không bán đây này. 

- Nhưng bọn nó cố tình trả thừa để đòi lại 100 đồng con.

- Thì trả cho chúng nó. Em ơi, ta giàu thì giàu rồi tiếc gì con lợn con, trả cho chúng nó đi. Sống ở trong đời cần có một tấm lòng, để làm gì Tào biết không, để gió cuốn đi, gió cuốn đi em ạ!

- Anh đúng là người giời, lấy đâu ra tờ 100 đồng trả cho chúng nó mà anh cứ sến sẩm thơ ca ở đây!

- Thế thì... dở nhỉ... À, thằng Táo nào đòi trả 100 đồng, cứ nói với nó ngân hàng địa phủ chúng nó không lưu hành đồng tiền này nữa.

- Bọn em nói rồi nhưng chúng nó đếch nghe. Mẹ, giờ xe đang tắc cứng cả cây số đây này.

- Ừ, thế thì gọi đội Thiên Lôi mang súng hoa cải đến bắt nhốt hết quân mất dạy ấy cho anh. Đứa Táo nào to mồm nhất cứ gô cổ lại.

- Anh ạ! Trần đời chưa bao giờ em thấy mang súng hoa cải đi đánh nhau với tiền lẻ cả. Như thế là hạ sách vì vừa rất trẻ con, vừa thể hiện sự bất lực. Tạm thời em đang cho xả trạm.

- Mẹ, cuối năm rồi mà lắm chuyện nhỉ. Nhưng mà ta vừa nhìn qua ống nhòm, ta thấy biển số xe với cả mấy tờ sớ của bọn Táo năm nay sao chữ nghĩa lằng nhằng như giá đỗ thế, không giống chữ mọi năm.

- Bẩm anh! Em quên chưa báo cáo, đấy là chữ quốc ngữ kiểu mới đấy ạ. Chiểu theo quy chuẩn thì tên anh năm nay sẽ được gọi là Qọk Hoàq.

- Điên à! Chúng mày làm gì làm, hãy trả lại tên cho anh! Tên anh đẹp đẽ thế, giờ đọc lên nghe như ngọc hành kinh bỏ mẹ.

- Dạ khởi bẩm, em cũng nói rồi, chúng mày cải cách toàn dân nhưng trừ tên anh tao lại, không là phạm thượng đấy, vì tên anh tao nhạy cảm.

- Ừ, tình hình xe cộ sao rồi? Thông chưa? Mà sao không di dời cổng sang chỗ khác cho các táo đỡ bức xúc?

- Dời sang nơi khác, chúng nó lẻn cmn đường nhánh anh ạ. Ta ở trên này thì bảo đi tắt đón đầu đấy, nhưng hạ giới thì gọi là né trạm, lách luật. Bây giờ làm sao anh?

- Để ta họp cái đã, không thông thì cứ tiếp tục mang Thiên Lôi đến bắt. Mẹ, cuối năm rồi mà nhức hết cả đầu... (còn nữa).
.


TÁO CHẦU TRỜI (Phần 2)

Sau khi thiên đình xả trạm BOT, các Táo tề tựu đầy đủ, khăn áo chỉnh tề, tiến vào quỳ lạy Ngọc Hoàng, chỉ thiếu mỗi Táo Văn hóa chưa đến kịp do tắc đường. Tất cả dập đầu hô vang: 

- Ngọc hoàng lệ phí, lệ phí, lại lệ phí!

Ngọc hoàng nghe xong giật mình quay sang hỏi Nam Tào.

- Năm nay bọn nó hô cái gì nghe là lạ thế?

Nam Tào ghé tai bảo "Bẩm, bọn nó đang đá xoáy vụ chúng ta rải thêm tí mây trên mặt đường cũ rồi lập trạm BOT ở cổng thiên đình, anh cứ lờ đi kệ mẹ chúng". Ngọc hoàng hấp háy mắt, gật gật, đoạn bảo.

- Thôi miễn lễ! Mà sao năm nay các ngươi lên đây im ắng thế? Mọi năm hát hò văn nghệ tưng bừng lắm kia mà.

Táo Giáo dục thưa.

- Dạ thưa anh! Trước núc nên chầu, bọn em cũng đã tập dượt một số tiết mục văn nghệ với chủ đề "Nối vòng tay nớn", nhưng núc tổng duyệt, thằng Táo Văn hóa nhảy ra tuýt còi nói bài này chưa được cấp phép biểu diễn, nàm bọn em bể hết cả sô.

Ngọc hoàng ngạc nhiên.

- Ngươi cứ lẫn lộn nờ cao, nờ thấp loạn cả lên thế, có gì hãy bình tĩnh trình bày. Mà ta nghe bảo bài ấy nổi tiếng lắm cơ mà? Thế làm tí bolero cho nó mềm mại trữ tình nhỉ. Hay là các ngươi đồng ca bài "Con đường xưa em đi" cũng được, nhạc vàng ta chỉ thuộc mỗi bài đó.

- Dạ, rất tiếc bài đấy cũng chưa được cấp phép ạ!

Bắc Đẩu nổi cáu bảo.

- Bài đó thì có gì mà cấm? Thằng nào cấm?

Táo Giao thông khúm núm thưa,

- Bẩm, con đường xưa là con đường nào? Chiến trường anh bước đi là chiến trường nào? Dạ, nghe cứ như đang ám chỉ về những con đường thời chưa lập BOT anh ạ, nó làm nhụt chí anh em đang ngày đêm kiên trung canh giữ các trạm thu phí và kích động bọn tài xế trong việc trả tiền lẻ. Cấm là đúng ạ!

Ngọc hoàng phẩy tay nói "Thôi vụ đấy để đó đã. Năm nay là năm bản lề về phát triển kinh tế, Táo Kinh tế đâu, mở hàng báo cáo trước đi".

Táo Kinh tế khệ nệ bước ra. Ngọc hoàng hỏi.

- Năm nay hạ giới mùa màng thế nào Táo Kinh tế?

- Bẩm anh, ơn Ngọc hoàng, ơn thiên đình, năm nay hạ giới trúng 2 vụ hoa rất to.

- Ờ, thế thì tốt quá! Hoa gì đấy, lại xuất khẩu sang Trung Quốc chứ?

- Dạ, vụ thu đông mới đây là hoa sữa, còn trước đó bẩm Ngọc hoàng, hạ giới trúng vụ hoa hậu ạ!

- Hoa hậu à? Ta nghe nói năm nào các ngươi cũng trúng vụ này cơ mà? Ta hỏi thật là sao chỗ các ngươi tổ chức lắm cuộc thi hoa hậu thế?

- Cái đó bệ hạ hỏi anh Táo Văn hóa mới đúng chuyên môn và thẩm quyền ạ!

Vừa lúc đó Táo Văn hóa rẽ mây cưỡi trên một con cá lạ hoắc, từ từ tiến vào.

Ngọc hoàng chau mày hỏi.

- Này, ta thấy ngươi cưỡi con cá gì lạ thế? Hình như không phải cá chép?

- Bẩm anh! Em vừa từ cuộc thi hoa hậu Đại dương về, vội quá dắt nhầm con cá to nhất của ban tổ chức ạ!

- Thảo nào ta thấy con này môi trề trề như con cá dọn bể!


Nam Tào, Bắc Đẩu nghe xong ôm bụng cười như ma làm. Bắc Đẩu quát.

- Bẩm, cho thằng này cái biên bản xử phạt lỗi cưỡi cá... không chính chủ, thưa Ngọc hoàng. Thằng này ở hạ giới hay lạm quyền xử phạt lung tung lắm đây, trong khi những thứ cần quản lý chặt chẽ như thi hoa hậu nó lại buông lỏng, ai thích thi thì thi. 

Ngọc hoàng hỏi Táo Văn hóa.

- Nãy giờ ta toàn nghe những điều không hay về nhà ngươi. Thôi được, bây giờ ngươi hãy nói cho ta nghe năm qua ngành văn hóa đã làm được những gì?

- Dạ bẩm, anh đừng nghe cái đám quần chúng nông nổi không biết gì cứ ào ào nhảy vào ném đá em. Thưa anh, trong năm qua, để gìn giữ bản sắc, gắn bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa với việc phát triển các làng nghề truyền thống, bên em đã có những mô hình được triển khai và đã mang lại hiệu quả rất tích cực cần nhân rộng!

- Tốt, cần phát huy! Ta đã nói rồi, phát triển kinh tế nhưng phải ưu tiên gắn với phát huy và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Thế mô hình ấy như thế nào nói ta nghe.

- Dạ, đó là mô hình buôn chổi đót, nấu rượu ngô kết hợp nuôi lợn! Cái này anh cứ hỏi Táo Kinh tế có khi rõ hơn, chứ bên em chủ yếu mang tính hướng nghiệp thôi.

Táo Kinh tế nghe đến đây liền ngã vật ra. Ngay lập tức Táo Y tế cầm đèn pin hớt hải chạy đến, luôn miệng hỏi.

- Muỗi đốt à? Muỗi đâu, muỗi đâu?

Cả thiên đình bỗng nhiên náo loạn.

Ps. Còn tiếp, Ngọc hoàng đi đổ rác tí đã...


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Câu chuyện Đào Minh Quân là có thật!

XÉT XỬ CÁC ĐỐI TƯỢNG TRONG TỔ CHỨC PHẢN ĐỘNG “CHÍNH PHỦ QUỐC GIA VIỆT NAM LÂM THỜI”


HY VĂN
Ngày 29/12/2017 vừa qua, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã tiến hành xét xử sơ thẩm 9 bị cáo về hành vi phạm vào các tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” quy định tại Điều 79 - Bộ luật Hình sự và “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại Điều 88 - Bộ luật Hình sự. Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, sáng 16/2/2017, đối tượng Huỳnh Hữu Đạt đã tiến hành móc nối với tổ chức phản động ở nước ngoài cùng các đối tượng đã in và phân công nhau rải nhiều tờ truyền đơn ở một số nơi đông người, khu vực công cộng trên địa bàn tỉnh Bình Định với nội dung kêu gọi ủng hộ cho cái gọi là “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” do Đào Minh Quân cầm đầu ở hải ngoại và nói xấu lãnh tụ, tuyên truyền kích động nhân dân lật đổ chính quyền.
Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời
Các đối tượng tại phiên tòa sơ thẩm ngày 29/12/2017, ảnh: internet
Ngay sau khi sự việc diễn ra, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Bình Định đã triển khai lực lượng truy xét, tiến hành các công tác điều tra, làm rõ hành vi phạm tội và bắt giữ các đối tượng có liên quan trong tổ chức phản động “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” do Đạt cầm đầu chi nhánh ở một số ở các tỉnh, thành phố trong đó có tỉnh Bình Định, thu giữ nhiều chứng cứ phạm tội. Các đối tượng bị bắt giữ trong vụ án bao gồm: Tạ Tấn Lộc (sinh năm 1975, trú tại Quận 1, TP Hồ Chí Minh), Nguyễn Quang Thanh (sinh năm 1983, trú tại huyện Tiên Phước, Quảng Nam), Nguyễn Văn Nghĩa (sinh năm 1978, trú tại TP Mỹ Tho, Tiền Giang), Nguyễn Văn Tuấn (sinh năm 1984, trú huyện Thái Thụy, Thái Bình); Huỳnh Hữu Đạt (sinh năm 1970), Đoàn Thị Bích Thủy (sinh năm 1972) Trương Thị Bích Ngọc (sinh năm 1994), Trương Thị Thu Hằng (sinh năm 1984, cùng trú TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) và Phạm Long Đại (sinh năm 1996, trú thị xã Ayunpa, Gia Lai); trong đó, cầm đầu là 3 đối tượng: Tạ Tấn Lộc, Nguyễn Quang Thanh và Huỳnh Hữu Đạt.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt: Tạ Tấn Lộc, Nguyễn Quang Thanh cùng chịu mức án 14 năm tù giam; Huỳnh Hữu Đạt 13 năm tù giam; Nguyễn Văn Nghĩa và Nguyễn Văn Tuấn cùng chịu án 12 năm tù giam; các bị cáo còn lại chịu mức án từ 3 năm đến 6 năm tù giam. Có thể khẳng định, hình phạt mà Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đưa ra là rất nghiêm khắc đối với các đối tượng chủ mưu, cầm đầu, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với những kẻ trót “lầm đường, lạc lối”, Hội đồng xét xử đã có sự phân loại bị cáo hết sức rõ ràng về hành vi phạm tội cũng như hậu quả của nó đối với xã hội để có những bản án công minh và nhân văn nhất. Đây chính là hình phạt cho những đối tượng có hành vi tuyên truyền, xuyên tạc, thành lập và gia nhập tổ chức phản động tiến tới lật đổ chính quyền hiện nay của Việt Nam.
Không chỉ giới hạn ở tỉnh Bình Định, trước đó, ngày 26/12/2017, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã phiên tòa xét xử 14 đối tượng thuộc tổ chức phản động “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” vì đã có hành vi Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân. Như vậy, có thể thấy rằng, hành vi phạm tội của các đối tượng trong tổ chức phản động này tại Việt Nam là hết sức nguy hiểm, đã gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng, không chỉ ở một địa phương mà tầm ảnh hưởng của nó lan rộng ra nhiều tỉnh, thành trên cả nước. Do đó, cần phải xử lý nghiêm các đối tượng này để răn đe cho kẻ khác.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bầy cừu chọn nên sống với Sói hay Sư tử ?


Ai cũng phải chịu trách nhiệm cho quyết định của mình, và phải vượt qua những rào cản sinh ra từ bản thân mới có thể tiếp tục tiến lên để đón nhận những điều tốt đẹp hơn. Bầy cừu phải chọn sống chung với một loại thiên địch của mình, chúng có hai lựa chọn: Sống chung với sói hay sống chung với sư tử? Và kết quả thực sự khiến chúng ta phải suy ngẫm.

Trên một vùng thảo nguyên có hai bầy cừu, Thượng đế đã an bài một bầy sống ở phía Nam, một bầy sống ở phía Bắc. Thượng đế còn cho hai bầy cừu tự tìm kiếm hai loại kẻ thù tự nhiên (thiên địch), một là sư tử, một nữa là sói. 
Thượng đế nói với bầy cừu rằng:“Nếu như các ngươi chọn sói thì ta sẽ cấp cho các ngươi một con và nó có thể tùy ý cắn giết các ngươi. Còn nếu như các ngươi chọn sư tử thì sẽ cấp cho các ngươi hai con, các ngươi có quyền lựa chọn sống cùng một con trong chúng và tùy thời điểm mà hoán đổi”. 


Nếu như là bạn, thì bạn sẽ chọn sói hay chọn sư tử? Rất dễ dàng để lựa chọn phải không nào? Lựa chọn xong rồi, bạn hãy nhớ kỹ lựa chọn của mình và theo dõi tiếp để biết lựa chọn của bầy cừu. 
Bầy cừu ở phía Nam nghĩ rằng, sư tử thì hung mãnh hơn sói rất nhiều, hay là chúng ta chọn sói đi! Thế là, chúng chọn một con sói. 
Bầy cừu ở phía Bắc nghĩ rằng, mặc dù sư tử hung mãnh hơn sói rất nhiều, nhưng chúng ta lại có quyền hoán đổi một trong hai con sư tử nên chúng ta chọn sư tử đi! Thế là chúng chọn hai con sư tử.
Ở phía Nam, sau khi sói tiến vào bầy cừu, nó liền bắt đầu ăn thịt chúng.
Thân thể sói nhỏ, sức ăn cũng nhỏ, cho nên một con cừu cũng đủ cho nó ăn mấy ngày. Và như thế, bầy cừu vài ngày mới bị truy đuổi một lần.
Đàn cừu phía Nam đã quyết định chọn sói do thân thể sói nhỏ, sức ăn cũng nhỏ, cho nên một con cừu cũng đủ cho nó ăn mấy ngày. (Ảnh: americanliterature)
Bầy cừu ở phía Bắc chọn một con sư tử, con sư tử còn lại được lưu lại ở nơi của Thượng đế. Sư tử sau khi tiến vào bầy cừu, nó cũng bắt đầu ăn chúng. Sư tử không những hung mãnh hơn sói, mà sức ăn của nó cũng kinh người. Mỗi ngày nó đều phải ăn một con cừu. Như vậy, bầy cừu ngày ngày bị truy sát nên cũng vô cùng hoảng loạn.
Bầy cừu phía Bắc đã vội vã xin Thượng đế đổi con sư tử kia. Nhưng thật không ngờ rằng, con sư tử kia khi lưu lại chỗ Thượng đế đã không hề được ăn gì, đói khát không chịu được, nên đã nhào vào bầy cừu mà cắn giết còn điên cuồng hơn con lúc trước.
Bầy cừu phía Bắc suốt ngày chỉ lo trốn chạy để khỏi chết, ngay cả cỏ cũng không kịp ăn.
Bầy cừu phía Nam may mắn khi đã lựa chọn đúng kẻ thù thiên địch, lại cười nhạo bầy cừu phía Bắc không có con mắt tinh tường khi lựa chọn.
Bầy cừu phía Bắc thấy hối hận vô cùng và thống thiết kể khổ với Thượng đế, cầu mong được thay đổi thiên địch – đổi thành sói.
Thượng đế nói:“Một khi đã lựa chọn thiên địch rồi thì không thể thay đổi được, nhiều đời sau cũng phải tuân theo, các ngươi chỉ có quyền lợi duy nhất là ở cùng hai con sư tử đã lựa chọn đó mà thôi”.
Bầy cừu phương Bắc đành phải không ngừng hoán đổi chung sống với hai con sư tử.
Nhưng hai con sư tử đều hung tàn như nhau, hoán đổi con nào thì cũng bị thê thảm hơn bầy cừu phương Nam rất nhiều. Chúng dứt khoát không hoán đổi nữa, khiến cho một con ăn đến béo mập, cơ thể cường tráng, con còn lại thì bị đói bụng đến gầy còm.
Khi con sư tử gầy đói kia sắp chết, bầy cừu liền lên Thượng đế xin đổi sang ở cùng với nó.
Con sư tử gầy trải qua thời gian dài đói khát dần dần hiểu ra một đạo lý: dù cho là kẻ mạnh thế nào cũng không thể chiến thắng số mệnh. (Ảnh: wikipedia.org)
Con sư tử gầy trải qua thời gian dài đói khát dần dần hiểu ra một đạo lý: Bản thân tuy hung mãnh phi thường, 100 con cừu cũng không là đối thủ, nhưng vận mệnh của nó là nằm trong tay bầy cừu điều khiển. Bầy cừu bất cứ lúc nào cũng có thể đưa nó trở về chỗ Thượng đế, cho nó chịu đủ sự dày vò, hành hạ của đói khát, thậm chí có thể bị chết đói.
Sau khi nghĩ thông suốt đạo lý đó, con sư tử gầy gò đối xử với bầy cừu rất khiêm nhường, nó chỉ ăn con cừu chết hoặc con cừu bị bệnh, mà không ăn con cừu khỏe mạnh nào nữa.
Bầy cừu mừng rỡ, có mấy con cừu nhỏ muốn đề nghị ở cố định với con sư tử gầy, không muốn con sư tử mập kia nữa.
Một cừu già liền nhắc nhở:“Con sư tử gầy này là sợ chúng ta trả nó lại nơi Thượng đế để nó chịu đói chịu khát nên mới đối tốt với chúng ta như thế. Nhưng ngộ nhỡ con sử tử mập kia chẳng may chết đói thì chúng ta sẽ không có sự lựa chọn nào nữa, vì con sư tử gầy này sẽ rất nhanh chóng khôi phục lại bản tính hung tàn của nó”. 
Bầy cừu cảm thấy con cừu già nói rất có lý, vì không muốn cho con sư tử mập kia chết đói, chúng vội vàng đổi nó về sống cùng.
Con sư tử béo tốt trước kia bây giờ cũng đã đói bụng đến nỗi chỉ còn lại da bọc xương, hơn nữa cũng hiểu được đạo lý rằng số mệnh của mình là nằm trong sự điều khiển của bầy cừu. Để có thể sống trên thảo nguyên lâu hơn nữa, nó lại tìm mọi cách để nịnh nọt bầy cừu. Còn con sư tử bị trả về nơi Thượng đế kia khổ sở đến chảy nước mắt.
Bầy cừu phía Bắc sau khi đã trải qua trùng trùng điệp điệp những trắc trở, cuối cùng chúng đã vượt qua và sinh sống tự do tự tại.
Tình cảnh của bầy cừu phía Nam thì càng ngày càng bi thảm, con sói kia vì không có đối thủ cạnh tranh, bầy cừu lại không có cách gì thay thế nó, nó lại được thể làm xằng làm bậy. Mỗi ngày đều muốn cắn chết mấy chục con cừu, con sói từ sớm đã không thèm ăn thịt cừu nữa, nó chỉ uống máu của cừu, còn không cho phép con cừu nào được kêu. Con cừu nào mà kêu thì sẽ bị nó cắn chết ngay lập tức.
Bầy cừu phía Nam lúc này chỉ có thể than thở trong lòng:“Sớm biết như thế này, chi bằng lựa chọn hai con sư tử còn hơn!“
Bầy cừu phía Nam lúc này chỉ có thể than thở trong lòng và chấp nhận số mệnh của mình sống chung với con sói. (Ảnh: jofogas.hu)
Đại Kỷ Nguyên bàn:
Câu chuyện nhỏ nhưng mang lại cho chúng ta thật nhiều bài học sâu sắc.
Bạn muốn được sống một cuộc đời vui vẻ thoải mái, thì ngoài khả năng mạnh yếu bên ngoài, còn cần tự mình “nắm giữ quyền quyết định”. Cuộc đời mỗi người đôi khi phải đứng trước nhiều sự lựa chọn, vì vậy chúng ta phải chọn phương án giúp nắm chắc vận mệnh của mình. Cuộc sống có thể vui vẻ, khổ đau nhưng hãy để tự mình quyết định mang đến những điều chúng ta khao khát.
Nếu không nắm trong tay quyền quyết định, thì dù bạn có mạnh đến đâu cũng không thắng được số phận. Bầy cừu phương Nam chọn sói vì nghĩ nó bớt hung hãn hơn, và với sức ăn của sói chúng ngỡ rằng mình sẽ không bị ăn thịt nhanh chóng. Thế nhưng, quyền làm chủ thuộc về sói nên bầy cừu phương Nam phải chịu một kết cục thương tâm. Tương tự, hai chú sư tử tưởng mạnh mẽ, dữ dằn, có thể điều khiển được bầy cừu phương Bắc, nhưng cuối cùng, khi nhận ra nó không điều khiển được số phận của mình, nó đã phải nhượng bộ.  
Có nhiều người nghĩ mình tài giỏi, và chỉ cần có sức mạnh là có thể làm được mọi thứ, nhưng khi quyền quyết định không nằm ở bạn, thì mọi “vật ngoại thân” ấy đều không có nghĩa lý gì.
Khi đối diện với kẻ địch rất mạnh, trí tuệ luôn là vũ khí sắc bén để vượt qua những nghịch cảnh tưởng như khó vượt qua nhất. Bầy cừu phương Bắc khi lâm vào đường cùng chúng đã tìm được con đường sống cho mình. Giống như chiến thuật “Đưa vào nơi mất để mà còn, rơi vào chỗ chết để mà sống” trong “Binh pháp Tôn Tử”, bầy cừu đã chọn 2 con sư tử rất hung dữ, như đặt mình vào chỗ chết vậy, nhưng chính đường cùng này đã mở ra ánh sáng và cuộc đời cho chúng.
Mọi quyết định đã xảy ra đều không thể lấy lại, con đường nào đã đi cũng không thể quay đầu. Bầy cừu phương Bắc khi thấy sự hung dữ của sư tử đã muốn cầu xin Thượng đế đổi thiên địch, thế nhưng, đó không phải là bài học mà Thượng đế muốn chúng hiểu ra. Ai cũng phải chịu trách nhiệm cho quyết định của mình, và phải vượt qua những rào cản sinh ra từ bản thân mới có thể tiếp tục tiến lên để đón nhận những điều tốt đẹp hơn.
Chân Tâm

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dân trí và vận mệnh quốc gia


Albert Einstein (nói cách đây gần một thế kỷ), “Chúng ta không thể giải quyết được vấn đề với cùng một cách tư duy mà chúng ta đã dùng để tạo ra chúng” (We can't solve problems by using the same kind of thinking we used when we created them).
Năm mới chuyện cũ: 
“Dân hai nhăm triệu ai người lớn / Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con” (Trích bài “Bính thìn Xuân Cảm” của Tản Đà (1916) trong tập thơ “Khối Tình Con”).
Với trái tim nhạy cảm của một thi sỹ lớn nặng tình với đất nước, trong bài thơ thất ngôn bát cú cố tình viết dang dở (thiếu hai câu kết), cụ Tản Đà đã đau lòng nhận xét về dân trí quốc gia bằng mấy vần thơ cô đọng như lời sấm truyền. Và với bộ óc nhạy cảm của một nhân sĩ lớn có tầm nhìn xa, cụ Phan Châu Trinh đã tâm huyết đề xuất giải pháp chấn hưng quốc gia bằng “khai dân trí” (enlightened wisdom) và “chấn dân khí” (heightened morale). Ngày nay các nhà khoa học gọi sự nhạy cảm đó là “trí tuệ cảm xúc” (emotional intelligence).

Nhiệm vụ bất khả thi 
Không phải ngẫu nhiên mà tổng thống Obama đánh giá cao tư tưởng của cụ Phan Châu Trinh như một “triết lý” (philosophy) khi ông đến thăm Việt Nam (23/5/2016). Phải chăng ông Obama muốn nói rằng tư tưởng đó của cụ Phan Châu Trinh vẫn còn nguyên giá trị, và người Việt lúc này vẫn cần “khai dân trí”? Cũng không phải ngẫu nhiên mà tổng thống Trump ca ngợi Hai Bà Trưng khi ông đến thăm Việt Nam (10/11/2017). Phải chăng ông Trump cũng muốn nói rằng người Việt đang cần “chấn dân khí”? Không biết điều đó có phải là dấu hiệu của “Đông Tây hội ngộ” hay không, nhưng chắc chắn nó càng khẳng định những gì các cụ Tản Đà và Phan Châu Trinh nói cách đây gần một thế kỷ đáng để hậu thế suy ngẫm. 
Một điều nữa cũng đáng suy ngẫm là vào thời Minh Trị (Meiji era), các nhân sĩ Nhật như ông Fukuzawa Yukichi đã giúp nước Nhật khởi nghiệp quốc gia, trở thành một đế quốc hùng mạnh khi phương Đông còn chìm đắm trong đêm dài lạc hậu. Sau chiến tranh, giới trí thức Nhật một lần nữa lại giúp nước Nhật bại trận chấn hưng, trở thành một cường quốc dân chủ. Người Nhật đã làm được điều đó vì họ trọng dụng trí thức và mở cửa để học hỏi phương Tây. Người Việt không làm được điều đó vì coi thường trí thức và đóng cửa để “bế quan tỏa cảng” với phương Tây, mà họ chỉ coi trọng khổng giáo (nay đã thành hủ nho). Gần đây, Việt Nam phát động “định nghĩa trí thức” thì e rằng đã quá muộn (too little too late). 
Việt Nam hiện nay có hàng chục vạn giáo sư tiến sĩ, nhưng chắc chỉ có vài trăm người là trí thức thực sự có tư duy độc lập và sáng tạo. Thói háo danh, thích xu nịnh và trọng bằng cấp (dù bằng giả và đạo văn), làm nhiều người ngộ nhận mình là trí thức. Hệ quả không định trước của chính sách cai trị độc đoán và ngu dân làm cho quan trí ngày càng thấp. Có người gọi đó là “định luật trên dưới cùng ngu”. Dân trí thấp kéo theo mọi cái đều thấp, dẫn đến vô cảm và vô minh, làm cho ý tưởng khai dân trí trở thành “nhiệm vụ bất khả thi”.
Cách đây một thế kỷ, cụ Phan Châu Trinh hô hào “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” như một triết lý để chấn hưng quốc gia. Nhưng đến nay, người Việt vẫn dậm chân tại chỗ ở ngã ba đường, chưa thoát khỏi bãi lầy ý thức hệ đã lỗi thời. Trong khi người Nhật đã khởi nghiệp quốc gia (từ thời Minh Trị) và chấn hưng đất nước (từ sau chiến tranh thế giới hai) thì người Việt vẫn loay hoay “định nghĩa trí thức”. Trong khi người ta hô hào “công nghệ 4.0”, thì các quan cũng như dân vẫn còn đồng bóng, tin vào bói toán và cúng bái, cầu xin người chết thuộc thế giới âm làm thay việc của người sống ở thế giới dương (như “xin cho”).    
Khai dân trí thế nào
Khai dân trí được hiểu là mở cửa trí tuệ để đưa dân trí từ chỗ tối ra chỗ sáng, như một cuộc cách mạng về tư tưởng và văn hóa, nhằm giải phóng trí tuệ con người khỏi vô minh và ngộ nhận do theo đuổi một ý thức hệ đã lỗi thời. Ý nghĩa của Khai dân trí tương tự như Enlightenment trong tiếng Anh. Còn Dân khí thường dùng để chỉ sức mạnh tinh thần, không chỉ dựa trên lý trí mà còn bao gồm cả cảm xúc (EQ). Chấn dân khí chính là nhằm khôi phục và tăng cường sức mạnh tinh thần và nhuệ khí của dân tộc. Một khi dân trí thấp kém và dân khí yếu hèn thì giới trí thức phải giúp nhau và giúp người dân khaimở trí tuệ để đổi mới tư duy, góp phần chấn hưng quốc gia và hội nhập cùng với trào lưu chung của nhân loại tiến bộ.  
Có nhiều khái niệm liên quan đến người dân như “của dân, do dân, vì dân” (of the people, by the people, for the people) của tổng thống Mỹ Abraham Lincoln (1863), hoặc “tam dân chủ nghĩa” (three principles of people) của ông Tôn Trung Sơn (1924) bao gồm “dân tộc” (nationalism), “dân quyền” (civil rights), “dân sinh” (people’s livelihood)… Sinh thời, cụ Phan Châu Trinh và các nhân sĩ khác đều quan tâm vận dụng những tư tưởng này. Nhưng các cụ không biết rằng một thế kỷ sau, những tư tưởng cấp tiến đó vẫn còn là khẩu hiệu. 
Không phải chỉ có giới cầm quyền, mà cả người dân với tư duy truyền thống, cũng tin rằng “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”. Có lẽ vì vậy mà sau khi quốc gia khởi nghiệp bằng bạo lực do “cướp chính quyền” (năm 1945), Việt Nam đã “khai dân trí” bằng hệ thống “bình dân học vụ”, và sau chiến tranh (năm 1954) bằng hệ thống “bổ túc công nông”. Điều đó không sai về công bằng xã hội, nhưng là thảm họa nếu phủ nhận vai trò của trí thức khi người Việt muốn khởi nghiệp hay chấn hưng quốc gia. Nó lý giải tại sao Việt Nam vẫn tụt hậu và chính phủ “kiến tạo” còn gặp khó khăn khi xây dựng một nền kinh tế tri thức.  Đó là sự khác biệt cơ bản giữa Việt Nam với Nhật Bản (và các nước khác). 
Nhưng làm sao có dân trí cao khi người Việt Nam bắt chước người Trung Quốc đấu tranh giai cấp cực đoan bằng bạo lực (với khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ”). Thời “cách mạng văn hóa”, Mao Trach Đông đã nói thẳng “trí thức không bằng cục phân” và đuổi họ về nông thôn để “cải tạo lao động” (trong đó có cả Tập Cận Bình). Nhiều người vẫn chưa quên những bài học kinh hoàng về “cải cách ruộng đất” và những màn đấu tố đầy bạo lực. Những gì diễn ra ở Trung Quốc thường lặp lại tại Việt Nam, tuy quy mô, mức độ và thời gian có khác nhau, nhưng mô hình và phương thức gần giống nhau (đến tận bây giờ). Việt Nam chống tham nhũng là rất đúng và cần thiết, nhưng vẫn bắt chước Trung Quốc.
Không phải ngẫu nhiên mà chính quyền hành xử cực đoan và thiếu dân chủ. Theo khảo sát của Trung tâm Nghiên cứu PEW (Mỹ), 79% người Việt trả lời là họ ủng hộ dân chủ “vừa phải”, 29% coi chính quyền là thể chế “rất tốt”, 41% coi là “hơi tốt” và chỉ có 3% coi là “rất xấu”. Nhiều người dân vẫn thích chuyên chính (đối với kẻ khác). Cực đoan và thù hận, vô cảm và vô minh là những căn bệnh nan y mãn tính của người Việt (cả trong nước lẫn ngoài nước). Ai đã khủng bố và giết hại năm nhà báo người Việt tại Mỹ (giai đoạn 1981-1990)?  Cái gì đã làm người Việt (cả hai phía) khó hòa giải dân tộc để chấn hưng quốc gia?  
Một số người phê phán cách dùng chữ “người Việt” là không đúng (mà theo họ phải gọi là chính quyền cộng sản). Phải chăng họ chỉ muốn áp đặt ý của mình cho người khác, và quen đổ lỗi cho người khác, còn mình thì vô can. Chẳng có ai thực sự vô can hay “ngoại phạm” vì người ta hay nói “dân nào thì chính phủ ấy” và “quan tham vì dân gian”. Chính quyền tham nhũng vì người dân hay hối lộ. Có vấn nạn thực phẩm độc hại vì dân gian và tham. Có vấn nạn chạy bằng cấp vì người dân hám danh và thích bằng cấp (do dân trí thấp).
Đánh tráo khái niệm và tụt hậu
Trong bối cảnh Việt Nam, hai chữ “nhân dân” được sử dụng quá nhiều như lạm phát. Từ “ủy ban nhân dân, hội đồng nhân dân, chính quyền nhân dân, đến công an nhân dân, tòa án nhân dân, quân đội nhân dân, và chiến tranh nhân dân…Hầu như cái gì cũng gắn với “nhân dân” như khẩu hiệu dân vận. Người Việt thích vay mượn khái niệm “của dân, do dân, vì dân” của người Mỹ và mặc nhiên coi đó là của mình. Thực ra của ai không quan trọng, nhưng họ có thực sự tin vào điều đó không và lời nói có đi đôi với việc làm không. Gần đây, bộ trưởng Chủ nhiệm văn phòng chính phủ Mai Tiến Dũng có nói một câu làm bộc lộ bản chất, “Nếu ta sai, ta sẽ xin lỗi dân. Nếu dân sai, dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Trong khi đó, chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh chia sẻ một kinh nghiệm thu thuế thật ấn tượng, “Thu thuế phải như vặt lông vịt, vặt sao cho sạch nhưng đừng quá vội để vịt nó kêu toáng lên”.
Tại Việt Nam có rất nhiều khẩu hiệu dân túy như “thực hiện quyền làm chủ của nhân dân” với “dân chủ cơ sở”, theo nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên tinh thần “dân chủ tập trung” trong nền “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nhằm thực hiện các mục tiêu cơ bản “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhưng các ý tưởng dân chủ đã bị đánh tráo không còn như ban đầu, giống một đoàn tàu bị bắt cóc (hijacked) và người cầm lái bẻ ghi đoàn tàu chạy theo hướng khác. Người ta chỉ giữ lại cái vỏ và những khẩu hiệu mỵ dân để che đậy bản chất mới. Đó chính là “diễn biến” và “suy thoái”. 
Trong Hiến pháp 1946, lời nói đầu đã khẳng định ba nguyên tắc cơ bản là: (1) Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo; (2) Đảm bảo các quyền tự do dân chủ; (3) Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Đó là một hiến pháp tiến bộ, được lòng dân. Trong thời kỳ hậu chiến (1975-1988), tại Việt Nam vẫn tồn tại ba đảng là Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, và Đảng Dân chủ. Nhưng từ năm 1988, Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam đã buộc phải “tự giải thể”, chỉ còn một đảng duy nhất lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Hiến pháp mới, đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất lãnh đạo toàn diện đất nước. Đó là một bước tụt hậu về dân chủ.
Cụ Hồ đã từng định nghĩa dân chủ một cách dễ hiểu: “Dân chủ là để làm sao cho dân được mở miệng ra. Đừng để dân sợ không dám mở miệng, nhưng còn nguy hại hơn là khi người dân không thiết mở miệng nữa” Nhưng thời thế thay đổi, khi dân chủ và tự do báo chí ngày càng bị thu hẹp. Theo xếp hạng của tạp chí Economist (2012) về chỉ số dân chủ, Việt Nam đứng thứ 144 trên tổng số 167 quốc gia được xếp hạng và nằm trong nhóm các nước độc tài thiếu dân chủ, được bộ ngoại giao Mỹ xếp vào nhóm nước “chưa có dân chủ, hạn chế tự do báo chí, tôn giáo. Nhưng để lý giải sự suy thoái và tụt hậu hiện nay, không nên chỉ đổ lỗi cho những người cầm lái đoàn tàu, mà còn phải xem lại dân trí của hành khách đi trên tàu.   

Năm ngoái, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã mượn câu đó của cụ Hồ để nói về tự do ngôn luận, tự do báo chí của người dân trong luật báo chí sửa đổi (GDVN, 18/2/2016). Trong bối cảnh đó, ông Hùng nhấn mạnh: “Ta mà hiểu rằng quản lý là siết lò so lại không cho làm là không được đâu, là vi phạm Hiến pháp”. Theo “quy trình”, Luật Báo chí điều chỉnh các loại hình báo chí và không cho tư nhân hóa báo chí, còn quản lý thông tin trên mạng được điều chỉnh theo Nghị định 72. Ông Hùng lý giải, “Hiến pháp nói về quyền tự do và chỉ hạn chế bằng luật, thế thì bây giờ các đồng chí định hạn chế cái gì, cấm cái gì thì phải đưa vào luật chứ để trong nghị định là không được đâu… Quản lý bằng nghị định cũng được, nhưng nghị định mà đụng đến quyền tự do dân chủ thì không được”.  Nhưng sang năm 2017, việc kiểm soát báo chí và mạng xã hội còn bị “siết lò so” mạnh hơn, như một bước thụt lùi.

Thực trạng về dân trí
Dân trí về quản trị đất nước chưa trưởng thành (immature). Tuy kinh tế Việt Nam tiếp tục tụt hậu (một số lĩnh vực thua cả Campuchia), nhưng đất nước vẫn đi theo một mô hình “không giống ai” (mà chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan gọi là “không chịu phát triển”). Tuy chiến tranh lạnh đã chấm dứt gần ba thập kỷ, nhưng Việt Nam vẫn hồn nhiên cử đặc vụ sang Berlin bắt cóc Trịnh Xuân Thanh, vi phạm luật quốc tế và chủ quyền quốc gia Đức, gây khủng hoảng ngoại giao Đức-Việt, làm chính phủ Đức nổi giận, đình chỉ quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam (và có thể phủ quyết EVFTA). Trong khi nhà nước hô hào về “chủ quyền quốc gia” và “an ninh quốc phòng”, thì người Trung Quốc được thuê dài hạn rừng đầu nguồn và chiếm các vị trí hiểm yếu làm dự án. Gần đây, chính phủ do túng tiền đã quyết định bán các doanh nghiệp hàng đầu (Vinamilk và Sabeco) cho nước ngoài kiểm soát. Phải chăng đó là biểu hiện của dân trí thấp như “khôn nhà dại chợ” và “tham bát bỏ mâm” (nên lợi bất cập hại?).
Dân trí về hợp tác và hội nhập còn kém. Người ta nói rằng người Việt làm việc gấp 3 lần người Nhật, nhưng khi hợp lực lại thì 3 người Việt mới bằng một người Nhật. Theo tiến sĩ Lê Thẩm Dương, người Nhật biết cách quản lý thời gian và làm việc nhóm hiệu quả, còn người Việt thì không. Giám đốc VJCC tại Hà nội nhận xét, “Người Việt Nam làm việc rất thông minh, cần cù, khi được các chuyên gia hướng dẫn thì họ biết phải làm gì và học hỏi rất nhanh. Thực tế là các bạn làm việc tốt hơn 3 lần so với người Nhật nhưng chỉ khi các bạn làm một mình. Tuy nhiên, khi các bạn làm việc tập thể thì các bạn làm không tốt bằng người Nhật chúng tôi vì khả năng làm việc nhóm (teamwork) của các bạn không tốt bằng người Nhật, và tôi có thể khẳng định rằng khi làm việc tập thể thì 3 người Việt mới bằng một người Nhật”. 
Dân trí về văn hóa ứng xử xuống cấp nghiêm trọng, dẫn đến bạo hành gia đình, bạo lực học đường và bạo lực xã hội (ngay trong các lễ hội văn hóa truyền thống). Trong khi nhiều cô “bảo mẫu” bạo hành với trẻ em mẫu giáo (hết vụ này tới vụ khác), thì Bộ giáo dục và các địa phương vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu để chấm dứt tình trạng đó, mà chỉ rút kinh nghiệm và đổ trách nhiệm cho nhau. Dân trí về lịch sử và ngôn ngữ cũng có vấn đề, khi một số “trí thức” lúc thì đề xuất “bỏ môn lịch sử”, lúc khác lại đề xuất “cải cách chữ viết tiếng Việt”, như một trò đùa vô minh về “cải cách giáo dục”, làm cho dư luận cả nước bức xúc.
Dân trí về bảo vệ sức khỏe của người dân còn lạc hậu, đa số thiếu ý thức “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Họ thường không kiểm tra định kỳ để phát hiện bệnh sớm, vừa do hoàn cảnh vừa do dân trí thấp. Nhiều người mắc bệnh vì thực phẩm độc hại hay ô nhiễm môi trường (do nhân họa) trong khi đó một số “không nhỏ” các quan chức y tế và bác sỹ (thoái hóa) lại tiếp tay cho các công ty dược như VN Pharma nhập thuốc ung thư dổm về bán cho bệnh nhân. Việt Nam đang trở thành tâm điểm của ung thư, mỗi năm có hơn 126.000 ca mắc bệnh ung thư mới, và khoảng 94.000 người tử vong vì ung thư. Xu hướng này ngày càng gia tăng, không những gây tổn thất lớn cho nền kinh tế mà còn làm cho biết bao gia đình điêu đứng. 
Dân trí và tham nhũng
Chống tham nhũng “giai đoạn 2.0” quyết liệt hơn với hình tượng “lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy” mà TBT Nguyễn Phú Trọng đã cao hứng mô tả. Sau khi Trịnh Xuân Thanh bị bắt tại Berlin (23/7/2017), Đinh La Thăng cũng bị bắt tại Hà Nội (8/12/2017). Nhưng chống tham nhũng chắc không dừng lại ở “đại án PVN” mà còn tiếp diễn nhằm chiếu tướng (tuy chưa rõ là chiếu tướng ai). Trong khi nhiều người tin rằng đánh ông Đinh La Thăng là để chiếu tướng ông X (cầm đầu “bên thua cuộc”), những một số khác cho rằng đánh “Vũ Nhôm” là để chiếu tướng ông Y (đối thủ số một đang cầm quyền). Đây là trò chơi vương quyền (game of thrones) có nhiều ẩn số. Nhưng việc khám nhà và truy nã “Vũ Nhôm” sau khi thả rông để đương sự thoái vốn và bỏ trốn, là một vở kịch vụng về. Dân trí cao hay thấp khi công tác an ninh, tình báo của quốc gia cũng bị “thương mại hóa” và biến thành bi hài kịch.    

Gần đây, nhiều người bức xúc hỏi tại sao người ta lại để những người “vi phạm đặc biệt nghiêm trọng” tiếp tục vào Trung ương và Bộ Chính trị… Ông Trần Quốc Hương (nguyên phó chủ nhiệm Ban Tổ chức TW) hỏi lúc đó “các cơ quan kiểm tra, tổ chức của Đảng có ý kiến gì không trước những vi phạm của Đinh La Thăng?” Luật sư Trần Quốc Thuận nói: “Đó là một ẩn số cần làm rõ”. (Tiền Phong, 18/12/2017). Phải chăng vì vậy mà TBT Nguyễn Phú Trọng phải dự họp chính phủ (28/12/2017) để triển khai chủ trương “nhất thể hóa”. Không biết ông Nguyễn Phú Trọng có ý gì khi nói “Từ bé đến giờ mới được dự họp chính phủ”.  
Chiến dịch chống tham nhũng nhắm vào hai nhóm đối tượng chính là một số “thái tử đảng” và quan chức địa phương (để đánh “từ vòng ngoài vào vòng trong”). Sau khi xử lý Vũ Huy Hoàng và Trầm Bê, ngày 8/1/2017 sẽ xét xử Đinh La Thăng và Trịnh Xuân Thanh. Dường như vòng vây đang gấp rút khép lại để chiếu tướng ông X, nhưng vụ khám xét và truy nã “Vũ Nhôm” ở Đà nẵng (21/12/2017) lại mở ra một hướng khác như để chiếu tướng ông Y. Nhưng dù chiếu tướng ông nào thì đất nước cũng là “bên thua cuộc” và nhân dân vẫn là nạn nhân của “trò chơi vương quyền” đang làm đất nước phân hóa và kiệt quệ, đứng trước những rủi ro tiềm ẩn về kinh tế và những hiểm họa khôn lường về an ninh và chủ quyền quốc gia.
Thay lời kết
Đã gần một thế kỷ trôi qua kể từ khi cụ Phan Châu Trinh kêu gọi “khai dân trí và chấn dân khí”, nhưng Việt Nam vẫn còn loanh quanh tại ngã ba đường, chưa thoát khỏi hệ tư tưởng đã làm đất nước tụt hậu so với Nhật Bản hàng trăm năm. Muốn “khai dân trí”, Việt Nam phải thay đổi hệ quy chiếu đã lỗi thời, và phải đổi mới thể chế toàn diện. Nếu không thực sự đổi mới thể chế thì việc chống tham nhũng cũng giống như trò “hàn soong hàn nồi”. Để thay cho câu kết, xin mượn lời Albert Einstein (nói cách đây gần một thế kỷ), “Chúng ta không thể giải quyết được vấn đề với cùng một cách tư duy mà chúng ta đã dùng để tạo ra chúng” (We can't solve problems by using the same kind of thinking we used when we created them).
NQD. 01/01/2018
http://www.viet-studies.net/kinhte/NQuangDy_NamMoiChuyenCu.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang