Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 20 tháng 12, 2017

ÔNG ĐINH LA THĂNG BỊ TRUY TỐ VÌ NHỮNG TỘI GÌ?



Ông Đinh La Thăng bị đề nghị truy tố

VNE Thứ tư, 20/12/2017 | 17:23 GMT+7 
 
Bộ Công an đã hoàn tất kết luận điều tra, chuyển hồ sơ đề nghị VKSND Tối cao truy tố ông Đinh La Thăng và sáu đồng phạm.

Ba chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Việt Nam liên tiếp vướng lao lý

Ngày 20/12, Cơ quan Cảnh sát điều tra (Bộ Công an) ban hành kết luận điều tra, chuyển sang VKSND Tối cao đề nghị truy tố 7 người với cáo buộc gây thất thoát 800 tỷ đồng qua việc Tập đoàn Dầu khí quốc gia (PVN) góp vốn vào Ngân hàng Đại dương (OceanBank).

Trong các bị can có ông Đinh La Thăng - người giữ chức Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN vào giai đoạn năm 2006-2011. Ông bị bắt, khởi tố về tội Cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng vào ngày 8/12.

Bản kết luận xác định, năm 2006, PVN được giao thành lập mới một ngân hàng của ngành dầu khí và nắm trên 50% vốn điều lệ. Tập đoàn này đã chuẩn bị thành lập ngân hàng mang tên Hồng Việt; xúc tiến lập ban trù bị, xây dựng bộ máy, tuyển dụng nhân sự, mua sắm thiết bị… Tới năm 2008, PVN dừng việc thành lập ngân hàng riêng mà chuyển sang gốn vốn mua cổ phần của Ngân hàng Đại Dương (OceanBank) do Hà Văn Thắm là Chủ tịch HĐQT.

PVN góp 20% vốn điều lệ vào nhà băng này, chia làm ba đợt với tổng tiền 800 tỷ. Trong ba đợt này, đợt cuối cùng góp vào giữa năm 2011. Cơ quan điều tra cáo buộc, việc góp vốn đợt ba vào thời điểm Luật Các tổ chức tín dụng 2010 (có hiệu lực từ ngày 1/1/2011) quy định một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng. Do vậy, việc này là trái luật. OceanBank sau đó có nhiều sai phạm, hàng chục lãnh đạo bị xử lý hình sự. Nhà băng ngày bị Ngân hàng Nhà nước mua với giá 0 đồng.

Theo cáo buộc, dù biết rõ tình hình kinh tế, kết quả hoạt động của OceanBank nhưng Chủ tịch HĐQT PVN khi đó là ông Đinh La Thăng đã không cho thực hiện thẩm định, khảo sát OceanBank cùng phương án góp vốn cũng như tính hiệu quả, khả thi...

Ông Thăng mời ba luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị can gồm các ông: Phan Trung Hoài (Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam), Nguyễn Huy Thiệp (Đoàn Luật sư Hà Nội), Đào Hữu Đăng (Đoàn Luật sư Hà Nội). Cả ba luật sư đều được cơ quan điều tra cấp chứng nhận bào chữa. 

Bảo Hà - Phi Vũ

Phần nhận xét hiển thị trên trang

mai văn phấn, cuộc đời quyến rũ



MVP portrait
Ngôn ngữ thơ ca thức dậy mỗi ngày. Ngôn ngữ ấy nuôi dưỡng tình yêu của con người đối với thiên nhiên, sự hiểu biết và nối kết của họ, và một khả năng như thế có thể mạnh hơn những tàn phá đang xảy ra. Nhưng ngôn ngữ cũng thường trực ở dưới áp lực của thời gian, giới hạn của chiều kích trang giấy, các quy ước, của mối quan hệ giữa thấu hiểu và diễn dịch, của tính cân bằng mong manh giữa đa nghĩa và hiểu sai ý định của tác giả.
Xuân 
Ngấm đất 
Đào xuống gặp toàn năm cũ
Mai Văn Phấn nói về năm cũ hay năm mới? Anh nói về ngôn ngữ dân tộc. Ngôn ngữ không bất biến, vĩnh viễn, chúng thay đổi theo thời gian, ngày một mới. Sự phát triển của nó, không như nhiều người lầm tưởng, không phải bao giờ cũng theo hướng thăng hoa: ngôn ngữ lụi tàn. Tiếng Việt có thể rơi vào tình cảnh như vậy, nếu những điều kiện khắc nghiệt mà trong đó nó vận động không bị kiểm soát, ví dụ sự thống trị ngày càng mạnh của tiếng nước ngoài, sự tan rã của tinh thần dân tộc, suy đồi của văn hóa. Các ngôn ngữ từng thoái hóa và biến mất trên trái đất. Lịch sử chứng minh hàng ngàn ngôn ngữ của các dân tộc đã biến mất như thế, và tiếng Việt không nên tự xem là ngoại lệ. Tái cấu trúc, mở rộng các liên kết trong thơ, xóa chúng đi, làm lại, đi thêm con đường rẽ của văn phạm, là những việc mới đối với độc giả Việt Nam. Sự ngắt câu, sự vắt dòng, sự chia nhỏ các câu thơ, phân đoạn, kéo dài chúng ra, mở rộng biên độ của câu, đặt tên mới cho sự vật và cảm xúc, là những tiến hóa chủ động của ngôn ngữ.
Gom ánh sáng 
Dồn nước mắt 
Chảy qua những vết thương 
Tất cả đang trắng ra như sữa
Mai Văn Phấn theo đuổi cái bình thường, hàng ngày, nỗi lo âu đối với suy vong của xã hội, tình yêu đối với trái đất, ân huệ của cuộc sống. Chữ dùng của anh tuy vậy nhẹ nhàng, bình thản, đôi khi quá hiền lành. Nhưng cũng nhờ thế, con đường anh đi là con đường ít tiêu tốn năng lượng nhất. Anh không phải là người thích bày tỏ xúc cảm, trái lại có thói quen kiềm chế, hướng dẫn cho xúc cảm, hơn là đè nén. Đó là một thứ thơ nặng về tinh thần, thanh sạch, gần như quý phái. Thơ không quá thiên về cảm xúc, cũng không nặng lý trí, nhưng vẫn đặt ra những thách thức lớn cho người đọc.
Hôn em 
Hồi tù và song đôi 
Bay đi rất chậm
Bài thơ không suy nghĩ theo phương cách phân tích, tư duy của bài thơ là tư duy hình ảnh. Người đọc đi tìm những khả năng: thơ anh nói về những khả năng. Thế giới của anh được nhìn thấy rõ nhưng đó không phải là một thế giới thuần túy vật chất. Đó là sự kết hợp giữa thể xác và tinh thần.
Đã hơn ngàn lần đầu thai Tôi cầm lại chiếc rìu đá Chặt không đứt
Trầm tư nhưng không than thở, đề kháng nhưng không nổi loạn, đi tìm sự hòa hợp trong khi vẫn chống lại tình trạng đóng kín, tình trạng một giải pháp, chân lý độc quyền, chống lại sự kìm hãm. Đôi khi anh lặp lại, không tránh được những chữ đã được dùng nhiều lần, đôi khi có bài thơ viết còn dễ dãi, nhưng anh vẫn là một trong những thi sĩ cẩn trọng trước ngôn ngữ. Chữ của anh không gây nhiều bất ngờ, nhưng kết hợp của chúng thì lạ và thích hợp.
Công bằng là trời xanh, oan khuất đến như mây 
Chỉ có cánh hoa là nghe thấy cả. 
Nơi đất mỡ màu, cây có khi chỉ toàn ra lá 
Lá cũng lại như bài học công bằng
Đó là một thiên nhiên quyến rũ nhưng không toàn hảo. Có lẽ vì vậy mà Mai Văn Phấn thường tìm cách thay đổi bút pháp. Có một nỗi ao ước trong thơ anh được nhìn thấy thế giới như toàn thể, thiên nhiên như người mẹ. Điều ấy dẫn đến tính hiện tại, chất hiện sinh của thơ. Trong khi những người khác, cùng thời, tìm cách lý giải các xung đột, hướng tới quan tâm xã hội, thì anh chú tâm hơn đến mối quan hệ giữa con người và khung cảnh. Anh muốn mô tả; chuyển ký ức thiên nhiên thành ký ức con người. Sự kết hợp giữa một ngôn ngữ dịu dàng, đằm thắm, bình tĩnh đến ngạc nhiên và sự chú ý cao độ, đôi khi có tính phân tích, thăm dò táo bạo, là khả năng riêng của Mai Văn Phấn. Đó là một cặp thức điệu trữ tình và suy tư song đôi. Tuy vậy đừng quên anh là người viết nhiều trường ca, và đã từng dự phần vào và hiện nay vẫn chưa hoàn toàn rời bỏ chủ nghĩa hậu hiện đại. Nhờ khuynh hướng này, các bài thơ của anh giữ nguyên tính mở ngỏ và phi tuyến. Tôi tin rằng trong tương lai, thế nào anh cũng phải tìm được sự cân bằng giữa, một bên, tính bề bộn, nổi loạn, náo động của thơ đương đại và, bên kia, truyền thống tâm linh, Đông phương, tối giản, tĩnh lặng, thậm chí rỗng không.
Trong mắt có dây tơ hồng 
Rủ bóng hình em ngơ ngẩn 
Rừng cây cây mọc muôn trùng 
Lá cuốn mùa thu trải thảm 
Anh về ngủ dưới chân em 
Cơn mơ mơ lạc giữa đền
Với giọng thân mật, anh mang chúng ta tới những khoảng không gian hẹp, sự sống tươi tắn, cái đẹp im lặng: bông tường vi, con cá, ếch nhái, vũng nước, hạt cỏ, mầm cây. Và đó là một thiên nhiên Việt Nam. Thiên nhiên nhiệt đới. Vượt lên khỏi những xung đột thời sự và lịch sử, vượt lên khỏi những cách tân ngôn ngữ của chính tác giả, thơ Mai Văn Phấn trước hết là cảm xúc về đời sống hôm nay, thế giới hôm nay. Đó không phải là dòng thơ hoài niệm, đó là dòng thơ đang ở thì hiện tại.
Đi về phía cuối đường Nơi bắt đầu cơn giông Dọn lòng thanh sạch 
Chỉ vòm cây rũ bụi 
Và lá khô tơi tả mới biết
Đầu thế kỷ hai mươi, đa số người Việt sống ở nông thôn; một thế kỷ sau, họ đã di chuyển phần lớn về thành thị. Đó là sự dịch chuyển mau chóng, hỗn độn, vượt quá sự kiểm soát của các chính sách dân số; không chỉ là dịch chuyển cơ học mà còn là xáo trộn văn hóa rất lớn. Văn chương Việt, đối mặt với quá trình thành thị hóa điên cuồng, công nghiệp hóa vô tội vạ, làm giàu bằng mọi cách, tha hóa nông thôn, vắt kiệt rừng núi, biển cả, trong mấy mươi năm qua, thật ra đã làm được những gì?
Không có gì đáng kể. Mai Văn Phấn là một trường hợp khá hiếm, trong đó sự quan tâm đến sinh thái là nổi bật hơn so với nhiều nhà thơ cùng thời. Tiếng nói của anh, bao giờ cũng chừng mực, không hẳn là sự phản kháng, nhưng mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về khả năng của con người lên tiếng trước các hoàn cảnh chống lại văn hóa. Trong thơ Việt hiện nay sự phân biệt giữa khuynh hướng đô thị và khuynh hướng chống đô thị, hay khuynh hướng nông thôn, có lẽ sẽ ngày càng rõ. Tôi yêu mến những bài thơ riêng tư của Mai Văn Phấn, đụng chạm đến phần sâu xa và cá biệt, có lẽ chúng chính là đời sống riêng của anh, một đời sống tuy không náo nhiệt, bề ngoài ít sự kiện, nhưng sâu sắc và quyến rũ. Một đời sống đầy những xem xét lại và những đánh giá lại.
Cánh chim bị thương 
Lòng đất quặn thắt 
Vùng cây cỏ nhiễm độc
Trong quá khứ, các nhà thơ ít sử dụng chi tiết thật của đời sống riêng làm vật liệu sáng tác. Chỉ họa hoằn mới có người ghi lại hoàn cảnh ra đời tác phẩm, vì họ xem tác phẩm là sản phẩm của trí tưởng tượng, không phải sao chép hiện thực. Tuy nhiên ngày càng có nhiều người viết sử dụng đời sống của mình như một chất liệu nghệ thuật, biến mỗi ngày tồn tại trên trái đất như một ngày trải nghiệm. Không phải chỉ đến thời kỳ của, ví dụ trong thơ tiếng Anh, Robert Lowell, Sylvia Plath, người ta mới nói về đời sống riêng tư của mình, nhưng khuynh hướng ấy đòi hỏi thành thật, dũng cảm, khả năng tự bộc lộ. Tiểu sử của nhà thơ, theo cách như thế, trở thành một tiểu sử tâm hồn. Mai Văn Phấn lạc quan hay bi quan? Song song với, thậm chí bên dưới, một tiếng thơ điềm tĩnh, thỉnh thoảng có chất ca ngợi, hào hứng, thiết tha, là nỗi bi phẫn ngấm ngầm, đôi khi để vang lên giọng thế sự sắc như dao.
Châm biếm:
Đêm nay Rắn rết, bọ cạp tràn vào thành phố Nhưng đừng sợ! Nhà nào bây giờ cũng thiết kế kiểu lô cốt Trời tối không ai ra đường.
Trào lộng:
Vạn lý Trường Thành còn xây dở? Trên không tiếng hoạn quan truyền chỉ Bắt được kẻ nào vừa vác đá vừa làm thơ đánh hộc máu mồm Khâm thử!
Lên án:
Đồng tiền lạnh ngắt 
Buốt tận mồ sâu 
Đen bạc lừa nhau 
Đốt lên tàn bạo
Cay đắng:
Chúng bịt miệng trấn lột mọi thứ và xin tôi bộ phận sinh dục
Nỗi bi quan triết học không hề rời bỏ cách chọn đề tài và cách nói của anh. Dưới sự suy nghĩ của một nhà thơ, sự vật dần biến đổi, ra xa khỏi tầm quan sát. Sức tưởng tượng của anh là lớn trong khi biểu hiện là tối thiểu. Mai Văn Phấn có phải là người say mê phong cách hay anh thực sự không quan tâm lắm đến các chủ nghĩa, trường phái? Câu trả lời tùy thuộc vào từng giai đoạn sáng tác. Thơ anh không chỉ viết về thiên nhiên, mà còn quan tâm đến mối quan hệ giữa con người và ngoại cảnh, tác động của con người lên thế giới, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, với giọng ca tụng hoặc phê phán. Trong những bài thơ hay của anh, thiên nhiên được mô tả như một ý kiến. Những bài thơ kém hơn mô tả sự vật mà không phải quan hệ giữa con người và sự vật ấy, hoặc ngược lại, nặng về cảm xúc chủ quan mà nhẹ về mô tả hiện thực. Sự thật trong mấy thơ sau đây được dung chứa trong giọng điệu của tác giả.
Trong hội trường Con nhặng Đột nhiên cất tiếng
Vậy thì Mai Văn Phấn mới. Nhưng mới đến mức nào?
Tĩnh lặng tựa người thiền 
Tựa giọt sương dịu mát 
Trong hương thơm trái ngọt 
Và tiếng chim tìm nhau
Thì không mới. Các câu thơ thời ấy và cả bây giờ của anh hầu hết vẫn theo cấu trúc tuyến tính, phù hợp với ngữ pháp. Anh ít có những câu mất thăng bằng, cắt rời hụt hẫng, những đảo ngược văn phạm khó hiểu. Câu chuyện ít những cú va đập bất ngờ của tình huống, mặc dù vẫn có. Tuy vậy, những năm sau này, mỗi lần đọc xong một bài thơ mới viết của anh, tuy tôi vẫn ít khi giật mình trong lần đọc đầu tiên, vài hôm sau nhẩn nha đọc lại, và lần đọc thứ hai hoặc thứ ba này mở ra sự tươi mới, như khi ta bước ra bầu trời thoáng đãng.
Anh cầm trên tay hòn than nóng bỏng 
ngậm lút sâu vào lưỡi câu sắc nhọn 
nằm trên từng mũi kim nhói buốt 
uống vội vàng ngụm nước đang sôi
Là ngôn ngữ mới, hay cảm xúc mới? Là cường điệu, hay sự thật hơn cả sự thật? Tôi nghĩ, cảm giác mãnh liệt ấy nằm trong toàn bộ ý tưởng và hình ảnh của đoạn thơ, toàn bộ cảm xúc mà tác giả truyền vào nó, như khi bạn gặp người bạn thân lâu ngày không gặp, nửa cũ nửa mới, nửa an tâm, nửa lạ lẫm. Cũng như:
Tiếng sét 
Lay bông huệ 
Dịu dàng
Thơ Mai Văn Phấn làm người đọc tin rằng thế giới có một đời sống tâm linh riêng biệt, vạn vật cây cỏ có tâm hồn, tin rằng bên trong thế giới của chúng ta có một thế giới khác. Bài thơ chứa đựng trong câu chữ ít ỏi sự tưởng tượng giàu có, mà không bị chất đầy bởi các chi tiết, những chi tiết của một đời sống được xem xét thường trực.
Cái ác đã ngủ yên trong nhụy đắng 
Cho đất lành thơm mát đến rưng rưng 
Hồn tôi lung linh hạt nắng 
Rơi xuống đồng xanh không cùng
Tôi không biết buổi sáng, buổi chiều nào đã dẫn anh đến với bài thơ trên, nhưng tôi tin rằng vào giây phút ấy, một điều gì đó đã gọi anh tới, như có lần cuộc đời gọi bạn ngoài cửa sổ, khi thức giấc sớm mai, còn trẻ. Bạn nhìn thấy điều gì? Thơ ca biểu hiện một trong những mối liên kết sâu xa nhất giữa con người và thiên nhiên, giữa thiên nhiên và văn hóa, và đó là liên kết của tình yêu. Nhưng tình yêu trong thơ Mai Văn Phấn vừa là tình mẫu tử, là tình bạn, vừa là tình nam nữ pha trộn nhục cảm. Tình mẫu tử là tình yêu dành cho người yếu hơn, sự cao lớn cúi xuống, tình bạn là giữa những người bình đẳng, cả hai đều là những tình cảm có thể chia sẻ rộng rãi, duy nhất tình yêu nam nữ là không chia sẻ, có tính sở hữu. Nhục cảm là sở hữu. Sở hữu vừa là đối lập của tự do vừa là sự hòa hợp không bờ bến đối với người khác. Trong nhục cảm, ranh giới bị xóa.
quyến rũ quá 
sao mà chịu được 
bồng em lên  
và xiết chặt hơn 
tới vỉa quặng khai phá ký ức 
xa vời  
rợn ngợp chông gai 

books by MVP

Xóa ranh giới để cùng nhau đi tới tận nơi quá khứ ngọc ngà trầm tích. Của cá nhân, đất nước. Mai Văn Phấn làm nhiều thể thơ, từ lục bát đến tự do. Tôi lấy làm ngạc nhiên là các nhà phê bình phân biệt một cách quá rõ ràng những người làm thơ có vần và những người làm thơ tự do. Thực ra thể của bài thơ không chỉ là hình thức bên ngoài. Một bài thơ tự do, tuy không bị ràng buộc bởi số chữ trong câu, các vần quy định, vẫn bị ước thúc bởi những quy luật về nhạc điệu, ký ức, nhịp thở. Vì vậy tuy thơ tự do khác với thơ có vần, tính tương tự giữa chúng vẫn nhiều hơn, và sự dịch chuyển từ cái này đến cái kia là tiệm tiến, không đột nhiên chớp mắt. Thơ Mai Văn Phấn chứng minh điều ấy.
Thôi đừng dỗ cỏ lên trời 
Khi tan mộng mị biết ngồi với ai 
Dấu chân đừng hóa chông gai 
Nép vào bóng xế dũa mài hoàng hôn 
Ta về đổ bóng xuống vườn 
Cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng 
Ghé môi vào miệng thời gian 
Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non
Ngôn ngữ của anh không phải là ngôn ngữ trừu tượng, hình ảnh trong thơ anh cũng không hẳn là siêu thực, như nhiều người có thể lầm tưởng. Một số yếu tố trừu tượng bắt nguồn nhiều hơn từ tính triết học, một số yếu tố siêu thực bắt nguồn từ khuynh hướng tâm linh và tôn giáo. Thơ Mai Văn Phấn có tính riêng tư đặc biệt; anh có thể nói về bản thân mình, vợ hay con, nhưng vẫn là thứ nhân vật riêng tư mang tính tưởng tượng, và trong một số bài thơ thành công như bài thơ nói về việc cho con uống thuốc, người đọc thấy ở đó người cha và người con như những biểu tượng, chỉ thấy ở đó tình phụ tử. Theo khuynh hướng này, nhưng ở một bài thơ không thành công đâu đó, độc giả sẽ thấy ngập ngừng như khi bước vào một phòng ngủ không phải của mình. Ở bài thơ của anh, trái lại, tính riêng tư tạo nên sự mời gọi, vào một không khí kín đáo nhưng trầm tĩnh.
Cơn sốt thiêu con trên giàn lửa 
Cha cũng có thể thành tro nữa 
Thuốc đắng không chờ được rồi 
Giữ tay con 
Cha đổ 
Ngậm ngùi thả lòng chén vơi…
Con ơi! Tí tách sương rơi 
Nhọc nhằn vắt qua đêm lạnh 
Và những cánh hoa mỏng mảnh 
Đưa hương phải nhờ rễ cay.
Mồ hôi keo thành chai tay 
Mùa xuân tràn vào chén đắng 
Tuổi cha nước mắt lặng lặng 
Sự thật khóc òa vu vơ.
Con đang ăn gì trong mơ 
Cha để chén lên cửa sổ 
Khi lớn bằng cha bây giờ 
Đáy chén chắc còn bão tố.
Tôi mong anh viết nhiều hơn những bài như vậy. Thơ Mai Văn Phấn chứng minh rằng trong thơ, cách tân quan trọng nhất vẫn là cách tân cảm xúc và suy tưởng. Thật ra, bất kỳ bài thơ đáng đọc nào trong một xã hội nhiễu nhương sẽ là bài thơ hướng về cái tốt đẹp, luân lý, bất kỳ bài thơ thành công nào trong một xứ sở ở đó con người ra sức tàn phá đất và biển, giết hại thú rừng, sẽ là bài thơ có khuynh hướng sinh thái. Công việc của thi sĩ là mài giũa ngôn ngữ, nuôi nấng chúng, chờ đợi giây phút mà ngôn ngữ tìm được niềm hứng khởi và hoan lạc ở chủ đề và chất liệu thơ ca. Các bài thơ ngắn gần đây của Mai Văn Phấn, như thơ ba câu trong tập "thả"(*), đạt được ý nghĩa tối đa của chúng khi trở thành một tập hợp. Ngược lại, có thể xem đó là những cố gắng sắp xếp lại. Tôi lấy làm tiếc là trong từng bài thơ, anh chưa để lộ ý thức xóa bỏ quy ước về ngôn ngữ, thiếu những lắp ghép rời rạc. Có lẽ Mai Văn Phấn hãy còn ít quan tâm đến kỹ thật collage.
Con gián và tôi từ giờ sòng phẳng 
Nó chui ra. Tôi vô cảm. 
Nó gặm nhấm. Tôi ngập chìm. Nó leo tường. Tôi thù vặt. Nó bài tiết. Tôi ăn gian. Nó hôi xì. Tôi lì lợm. Nó dò xét. Tôi mở đường. Nó nghênh ngang. Tôi u muội
Buông thả. Tôi ước gì anh buông thả hơn nữa: sòng phẳng nhưng chưa bình đẳng. Có một liên kết giữa con người và ngoại cảnh, niềm vui được tái hợp của những lạc loài phân rẽ. Về mặt tâm linh, tuy thơ anh không nặng về tôn giáo, nhưng bàng bạc một niềm tin có tính nghi lễ, dân tộc, thờ phượng, như đối với Mẫu. Mang niềm tin vào thơ ca chưa bao giờ là công việc dễ dàng.
Anh phân vân không phân biệt được mưa bụi phơi phới bay 
hay lửa reo phần phật 
hơi thở ấm hơn hay tiếng chuông ngân?
Bài thơ bắt đầu bằng cái không biết, vận động qua khoảng trống, khoảng im lặng, những cái nhìn chồng lấn nhau, với giọng điệu đôi lúc già dặn, đôi lúc trẻ thơ. Tuy là một người tiếp cận nhanh các khuynh hướng hiện đại và hậu hiên đại, trước sau anh vẫn giữ nguyên giọng nói. Nếu thay đổi giọng nói là một trong những khuynh hướng hậu hiện đại, thì Mai Văn Phấn không thuộc về khuynh hướng ấy. Anh giữ cho mình sự thông suốt trong cái nhìn đối với thế giới, một thế giới ngày càng tan vỡ, anh thừa biết, nhưng, có lẽ vô thức, tìm cách chống lại kết quả của quan sát. Tôi nghĩ, có một bài thơ tiêu biểu cho sự toàn vẹn tôi vừa nói.
Tôi làm vườn để di dưỡng tinh thần tưới một cây lại uống thêm chén nước nhà tôi có năm mươi sáu cây
Hình ảnh trung tâm của bài thơ phản chiếu hình ảnh tác giả. Tuy nhiên không phải trong bài thơ nào của anh, tác giả cũng hiện ra rõ như thế, đôi khi chỉ như cái bóng, đôi khi như giấc mơ. Sự vắng mặt của Thượng đế chưa được nói đến rõ ràng, có lẽ chỉ ngụ ý. Không có chủ thể thì không có khách quan, không có thế giới bên ngoài nếu không có thi sĩ. Có vẻ như anh không dùng kỹ thuật phân mảnh, phương pháp siêu thực, bỏ qua một số thao tác thể nghiệm chẳng hạn thơ tân hình thức, tất cả những điều này làm cho con đường sáng tạo của anh sáng rõ hơn, nhưng chưa chắc đã dễ dàng hơn. Tôi có thói quen ước chừng kích thước từ vựng các nhà thơ. Mai Văn Phấn ít dùng chữ lạ, bất thường. Với một kho từ vựng không lớn, sự tránh cho chúng khỏi dẫm lên nhau là điều khó. Bạn có thể tránh được điều này, với một kỹ thuật điêu luyện và một cái giá phải trả, đó là ngay từ câu thơ đầu tiên bạn phải mở được cánh cửa và đi thẳng vào cánh cửa ấy. Bạn không đi vòng.
Tức là bạn bắt đầu một cách sáng suốt, và, do đó, sẽ phải kết thúc một cách mờ tối.
Sau tiếng quạ kêu Ra đi không cưỡng lại Gói bọc được mở ra Sự băng hoại không thể cất giấu Thày lang đốt sách cuối vườn
Thơ Mai Văn Phấn giàu liên tưởng và nhiều biểu tượng văn hóa gốc. Có thể cho rằng thơ anh xuất phát từ các nguyên mẫu văn hóa, và vì truyền thống Việt Nam là một truyền thống nhiều hòa hợp hơn xung đột, nhiều pha trộn hơn tinh khiết, nên các nguyên mẫu ấy không đồng nhất. Có thể thấy tuổi thơ của anh là tuổi thơ êm đềm, dù khó khăn hay nhọc nhằn, vì ký ức trong anh là ký ức đẹp, như mặt trời phản chiếu trong mặt nước yên tĩnh, bát ngát cô quạnh hơn là bão tố, tan vỡ. Tất nhiên những đau khổ của con người có thể mang vẻ ngoài yên tĩnh, những bi kịch nội tâm xáo trộn nhiều hơn biển cả, nhưng người đọc chờ đợi điều ấy thể hiện nhiều hơn trong thơ anh, nếu quả thực chúng đã từng chiếm giữ những khoảnh khắc quan trọng nhất của đời người.
Tôi ngủ trên giường Con chó dưới sàn cách tôi ba mét bảy mươi lăm xăng-ti. Sau này vợ tôi đo và bảo thế.
Đây là cách cấu tứ của Mai Văn phấn, kể chuyện thong thả, chi tiết nhỏ, tỉ mỉ và chính xác, giọng điệu nhẹ nhàng, nhưng ý tưởng thì lớn hơn. Thành tựu nghệ thuật trong những năm gần đây của anh có thể khó nhận ra hơn so với nhiều người khác, một phần vì thơ anh xa rời các vấn đề thời sự, mặc dù không hề xao lãng thế sự. Là người viết trường ca, càng về sau anh càng thiên về thơ ngắn. Đó là một ngôn ngữ tự bộc lộ mình, vừa mô tả vừa biểu cảm, vừa khách quan như thơ haiku vừa biểu hiện như thơ Đường, nhưng cả hai thứ ấy đều không phải là thơ anh, tất nhiên mới hơn và pha trộn nhiều hơn. Đó là một ngôn ngữ nặng về tinh thần, tâm linh, thiền, một ngôn ngữ đôi khi phảng phất hình ảnh của phép mầu nhiệm, điều rất hiếm gặp ở các nhà thơ Việt. Thơ anh cá nhân và riêng tư. Ranh giới giữa nhà thơ và người đọc ngày càng thu hẹp lại trong thơ hiện đại, trở nên tối thiểu hóa trong thơ hậu hiện đại. Một chuỗi dài những bài thơ của anh hướng về sự hồi phục sau chấn thương, trầm tĩnh trở lại sau tin buồn, sự khôi phục.
Mưa cầm tiếng phách tiếng sênh 
Cho ta buông giữa chiều chênh lệch chiều 
Tim mình một thoáng không kêu 
Lặng yên như có nhiễu điều phủ lên 
Lá rơi lên tiếng kim tiền 
Trong mưa nghe lọt cả miền âm dương 
Sen tàn chờ gió rung chuông 
Mưa như dây níu con đường vào chân 

Mai Văn Phấn ít hài hước, hiếm thấy nụ cười nhất là giễu cợt trong thơ, nhưng ngược lại cũng ít tìm thấy nỗi sầu cảm melancholy, tiếng gào thét, vết thương chảy máu. Hoặc anh không hướng về những nỗi buồn đau ấy, hoặc chúng được nén lại bằng sức mạnh tâm linh. Các đề tài của anh xoay quanh kinh nghiệm giao tiếp giữa tác giả và thiên nhiên, ít có hình bóng người thứ ba, đến từ thế giới nhộn nhịp, bụi bặm và tao loạn hôm nay. Con đường sáng tác của anh rất dài, chia làm ba: thời kỳ cổ điển trước hiện đại, thời kỳ khai phá và hậu hiện đại, thời kỳ sau hậu hiện đại, với sự trở lại, mặc dù không hoàn toàn, của thẩm mỹ cổ điển và thơ ngắn. Câu văn trong sáng, từ ngữ đẹp, ẩn chứa sức tươi trẻ lạ lùng không dễ nhận ra. Thơ anh mô tả thế giới khách quan nhưng vẫn nhuốm vị lãng mạn. Đó không phải là mô tả tỉ mỉ, chi tiết như thường thấy trong thơ phương Tây hiện nay. Sự mô tả ấy có tính giản lược và Đông phương. Mai Văn Phấn ca ngợi sự sống, ca ngợi cuộc đời bằng cách nào? Bằng cảm giác. Tình yêu và nhục cảm.
Gọi trái xanh níu cành chín rục 
mặc con dơi treo mình ngủ trong chiều muộn 
gió tràn về vi vút bông lau
Em và anh tụ thành nước mát 
mưa xuống những nụ hôn làm lại thế gian.
Thơ anh là thơ của những đồng cảm rộng rãi, hóa thân, sự trở thành người khác một cách tự nguyện, hòa vào dòng chảy êm đềm của đám đông, mà vẫn giữ riêng mình chất huyền thoại. Anh không phải là người can dự trực tiếp các vấn đề xã hội, là người đứng riêng một cõi, lặng lẽ, độc lập mà vẫn hòa đồng. Tính cách ấy không những giúp Mai Văn Phấn tạo được không khí riêng của mình trong đời sống mà còn chuyển năng lực sáng tạo vào những chủ đề quan trọng. Gieo gặt trong những mùa màng khác với người cùng hoàn cảnh, anh ý thức rõ về sự phá hủy, về hướng đi đáng báo động của một xã hội phát triển không bền vững, vội vã chạy theo hiện đại hóa. Không hẳn là một người theo chủ nghĩa sinh thái học, Mai Văn Phấn chuyên cần và tha thiết sống và viết với thiên nhiên, rừng cây, thảm cỏ, động vật. Thơ anh ít nói hơn, mặc dù vẫn có, về thảm kịch, cái chết, tuyệt vọng. Tôi không nghĩ rằng anh tránh né những đề tài ấy, có điều có thể chúng không chạm được đến cõi rung động của anh, làm anh xao xuyến, bần thần, như ở người khác. Mai Văn Phấn đi tìm những đức tin tôn giáo trong sự vật, đời sống, nhiều hơn ở các tín lý giáo điều. Sự cân bằng trong thơ anh, vẻ thanh đạm, chừng mực có lẽ là do những ảnh hưởng tâm linh, hoặc anh ý thức một cách rõ ràng hoặc do các động cơ vô thức. Tuy vậy, vẫn có những phút sáng loáng, như tia chớp, như mặc khải, những kinh nghiệm độc nhất. Và lúc ấy thơ anh tựa như loại thơ ngắn có nhiều chất ngụ ngôn ở một số nước Trung đông, như Rumi, pha chút thần bí. Lúc nào cũng tươi trẻ, vì loại thơ ấy say đắm tình yêu, say đắm ý nghĩa mới mẻ của cuộc sống.
Muốn dừng lại bên đường 
Nằm lên cỏ 
Trời cao mong leo lên cây 
Nhìn xuống tiếc nuối cát 
Thèm trộn vào cát
Chủ nghĩa tối thiểu trong thơ Mai Văn Phấn ngày càng trở thành khuynh hướng chính yếu, ít nhất những năm gần đây, nhưng không át đi hoàn toàn bút pháp trữ tình, mô tả, dàn trải, giọng tâm sự, chất tâm tình. Đó là một chủ nghĩa tối thiểu được phát triển ra ngoài khuynh hướng khách thể hóa tuyệt đối. Sự chậm lại trong thơ Mai Văn Phấn là sự chậm lại của ký ức, một ký ức của hạnh phúc, lo âu, chia sẻ, lớn lên.
Chiếc bẫy 
Con thú 
Xa nhau trong sương đục
Chúng ta dừng lại ở đây. Xa nhau cần được xem là một động từ. Phép so sánh trong thơ không phải chỉ là hình ảnh trang trí cho đẹp, như bông hoa trên ngực áo. Ẩn dụ tạo ra ý nghĩa; chính nó là ý nghĩa. Đó phương cách mà Mai Văn Phấn dùng để tạo ra sự thân mật giữa người đọc và người viết, giữa khung cảnh và nhân vật, và điều ấy đặc biệt khó khăn trong một thế giới đầy rẫy nghi kỵ và bạo lực, về tinh thần và trí tuệ, như hiện nay. Nỗi ao ước thầm kín của mỗi cá nhân là được gần gũi với cá nhân khác. Con người đến gần nhau trước hết bao giờ cũng bằng tin cậy; lòng tin là phẩm chất quan trọng bậc nhất và cũng dễ vỡ nhất trong những phẩm chất của con người. Ernest Hemingway viết rằng, cách tốt nhất để tìm ra liệu bạn có thể tin cậy vào một người hay không, là trước hết bạn tin cậy họ. Lòng tin có thể bị đánh cắp, bị đập vỡ, đánh mất. Nhưng trước hết bạn phải tin đã. Nếu không, bạn không thể đi thêm một bước nào. Nếu đã từng dự một cuộc đọc thơ, bạn biết rằng sự chú ý của người nghe, sự tập trung của họ, là cao nhất trong các sinh hoạt tinh thần, sự im lặng ấy trong khi nghe bạn đọc thơ là gần tuyệt đối. Trong sự tập trung ấy, giao tiếp giữa những con người được tối ưu hóa. Thơ tạo ra sự tồn tại ở nơi không tồn tại. Bởi vì chúng ta không tin tưởng vào cái chết, vào bạo lực, phá hủy, chúng ta không tin vào tro tàn.
Nước cuốn chiều nao nghịch phách 
Mình anh xoay bốn phương trời 
Tay nâng cây đàn lên ngực: 
"Bên tình dậu mà tình ơi…"
Nhà thơ đi qua mọi sự việc, khép lại cánh cửa của bài thơ, và người đọc đến đó để thưởng thức một sân khấu đã được tính toán kỹ, âm thanh, ánh sáng, khoảng cách, và do đó vai trò của tác giả, thậm chí của đạo diễn không còn quan trọng và hiển lộ nữa.
Soi lên ngực em biết lòng mình ngay thẳng. Chợt nhớ lần đầu ra biển, được lún vào cát, lặng im trong vô tận luênh loang. Thoáng nỗi sợ vô tình gặp cơn bão lốc, giữa đêm đen dựng dậy sóng thần. Chạm vào nước, lặn sâu vào nước, anh ước mình có thể nín thở mãi.
Trong một thời đại có nhiều thay đổi, trên một đất nước có quá nhiều thay đổi, thơ Mai Văn Phấn là tượng trưng của kinh nghiệm siêu nhiên. Đó là sự chậm lại, tập trung, sự trống rỗng. Khi bạn tập trung, thời gian trôi chậm. Khi bạn tập trung, mọi hình tượng của sự vật dần dần nhường chỗ cho trống rỗng. Vì vậy thơ anh tất phải đi vào cái bình thường, đi vào các chi tiết, tìm cách mở rộng các thí dụ của chúng trong không gian rộng lớn hơn, tìm cách đẩy xa biên giới của ẩn dụ. Mặt khác, trong không gian nhỏ hẹp, loại thơ ấy cần loại bỏ cái tôi, sự diễn dịch, cần thêm nhiều hình ảnh. Nhưng chúng ta nhớ rằng Mai Văn Phấn xuất phát từ một truyền thống khác, truyền thống trữ tình Việt Nam, trong đó tính chất biểu hiện, cái tôi trữ tình, phép biểu tượng có tính chủ quan, giọng điệu tha thiết, vốn nổi bật. Thơ Việt ngày trước chịu nhiều ảnh hưởng của thơ Trung hoa hơn là thơ Nhật bản. Vì vậy thơ anh bây giờ cần phép hỗn hợp cao tay, giữa sự mô tả khách quan và giọng điệu riêng tư. Trong khi tiết chế ngôn ngữ, giảm số lượng câu và số chữ trong câu, nhà thơ buộc sử dụng phương pháp khác. Anh phải mở rộng không gian trong việc mô tả, thay đổi khí hậu và giọng của bài thơ, xếp đặt các hình ảnh khác nhau thành chuỗi, đặt bên những câu đơn giản những câu bất ngờ hơn và phức tạp hơn.
Có khi sự dễ hiểu cũng phải bị hy sinh.
Đặt bát nước 
Cạnh con dê bằng gỗ 
Mùa hanh khô
Theo tôi, trong các đức tính của thơ, sự dễ hiểu ít quan trọng nhất. Vốn sở trường về thơ tự do, Mai Văn Phấn biến đổi văn phạm, ngắt câu và xuống hàng một cách mới mẻ, tạo ra tứ thơ ngày càng tách rời các khuôn thước ngữ pháp, mở rộng khả năng ứng dụng của ngôn ngữ. Chỉ tiếc rằng trong những giới hạn của những câu quá ngắn, cố gắng ấy của anh không phải bao giờ cũng thành công. Đễ hãm chậm tiến độ của một câu thơ, bạn phải bẻ cong chúng, hướng sự chú ý vào những chi tiết nhỏ nhưng sắc. Bạn càng đến gần, sự chú ý càng tăng, mức độ thân mật cũng tăng lên, khoảng cách giữa nhà thơ và người đọc ngắn lại, bạn dễ dàng trở thành người đứng về một phía với tác giả, hòa đồng với anh ngay cả trong tình huống gay cấn. Tuy vậy, giữa các nhà thơ cách tân, Mai Văn Phấn thuyết phục nhiều hơn là thách thức người đọc. Bài thơ của anh cần nhiều trường liên tưởng, cách đọc liên văn bản, cần sự can dự trước sự hiểu, cần sự hiểu trước sự xúc động.
Tôi ở giữa 
Nhiều hệ quy chiếu 
Những linh hồn hữu tri 
Vô tri 
Và chưa được đặt tên
Thật ra im lặng của một bài thơ là không tuyệt đối. Im lặng nào cũng sở hữu tiếng nói riêng của mình, nhiều khi chúng ta không nghe được ở nơi kết hợp giữa ngôn ngữ và phi ngôn ngữ. Đó là sự im lặng mong manh, dễ bị phá vỡ, xem kẽ ánh sáng và bóng tối, giàu nhạc điệu, nơi thế giới bên ngoài và thế giới bên trong giao hòa, nơi hạnh phúc và sự tìm kiếm không thỏa mãn giao nhau, nơi những cảm xúc xung đột tìm cách đến gần nhau mà không tan vỡ, như thế giới vật chất gặp phản vật chất. Những bài thơ ngắn đôi khi cần những giải thích bên lề. Thơ đương thời phát triển đến mức, tôi nghĩ, vượt qua sự hiểu biết và cảm nhận của người đọc trung bình. Những khái niệm như đúng sai, hay dở, tốt xấu, trước đây tưởng là không bao giờ thay đổi, cũng bị thách thức. Thế giới ngoại cảnh mang theo bóng dáng của chúng ta, ý nghĩa mà chúng ta tạo ra cho chúng. Đặc trưng của thơ Mai Văn Phấn là thấu hiểu, mang chứa, tự rời bỏ cái trung tâm, tự xóa bỏ, phá cấu trúc. Càng ngày anh càng đến gần với một thứ thẩm mỹ Đông phương đương đại hóa, càng ngày bài thơ của anh càng mở ra như một tâm trí cởi mở, hiện thực có tính toàn thể, của thăng hoa. Trong khi anh càng nghiêng về thể, thì những thay đổi tâm hồn, cảm xúc, nhận thức ngày càng có xu hướng không định hình. Để hiểu và yêu mến thơ anh, người đọc không cần những khen ngợi vội vã hay tranh cãi ồn ào, mà cần nghe được tác động chậm rãi và lâu dài của tình yêu điềm đạm, nhìn thấy được ánh sáng của những vòng sóng lan ra trên mặt nước. Sự chú ý và sự thay đổi, cả hai phẩm chất ấy trong thơ Mai Văn Phấn cùng lúc trở nên cần thiết như nhau. Quá chú ý và ít thay đổi, bạn có một thứ thơ Đông phương cổ điển, như thơ Đường, quá thay đổi và không chú ý, bạn sẽ có một thứ trình diễn sân khấu, nghệ thuật của cái thoáng qua, nhà thơ không để lại dấu chân của mình trên mặt đất. Làm thế nào một nhà thơ để lại dấu ấn sâu? Tôi cho rằng có ba cách: phải viết khác đi, không lặp lại người trước; phải viết mới, tạo ra những điều chưa từng được nói đến; hoàn toàn trung thực với cá nhân mình, vì mỗi cá nhân tự nó không lặp lại, trong vũ trụ.
Ngọn gió đổi màu 
Trườn qua cát bỏng 
Người dễ thấp hèn 
Lúc trời cao rộng 

Tính độc đáo của nhà thơ không phục vụ chính nó, đang trở nên cần thiết hơn bao giờ hết trong thời đại chúng ta, nơi các truyền thông đại chúng, kỹ nghệ đám đông, đời sống đô thị, sẵn sàng điều khiển hóa con người thành những tập hợp đồng nhất, phi cá nhân. Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ hình ảnh, quy ước, biểu tượng. Sự sáng tạo không phải chỉ là, thậm chí không hề là, khởi đi từ các ý tưởng tiền đề, hoài bão, nung nấu, như thể bài thơ là kết quả của chúng, trái lại sự sáng tạo xảy ra vào giây phút bạn ngồi xuống, viết, trong cay đắng, trong chớp mắt những chữ ấy xuất hiện. Chữ đầu tiên kéo theo những chữ khác, vượt ra ngoài sự kiểm soát của người viết. Sử dụng ngôn ngữ hay và đẹp là hành xử gần như siêu nhiên, gần với sự thật, gần như tự do.
Sấm rền 
Cá trong miệng chim săn mồi 
Hy vọng
Đuổi theo tự do chính là đuổi theo việc dùng chữ, săn đuổi một thứ mà bạn chưa bao giờ mất, tìm kiếm một phẩm chất mà bạn hằng có, vì vậy tính độc đáo của nhà thơ trước hết nằm trong vật liệu sáng tạo của người ấy, tức là sự trở lại với cội nguồn tâm linh như kẻ tha hương về cố thổ. Mối quan hệ giữa thơ trữ tình và ngôn ngữ khách quan là mối quan hệ phức tạp và tinh tế. Thơ trữ tình là tiếng nói của cái tôi, của tâm hồn, từ xưa cũng thế, sau này vẫn thế, nhưng thách thức lớn nhất của nó hiện nay là việc biến đổi từ khuynh hướng sử dụng giọng điệu đầy tính biểu hiện, tâm tình, thổ lộ, thành giọng điệu tỉnh táo, mô tả. Điều thiết yếu khi đọc chúng là khả năng xem xét chính mình, tự sống lại những kinh nghiệm bản thân, trong mối quan hệ liên văn bản với việc đọc ở người khác, nơi khác, hơn là chỉ tập trung trong những câu thơ. Nếu Mai Văn Phấn tiếp tục theo đuổi khuynh hướng cách tân trong nhiều năm tới, mà tôi chắc anh sẽ làm thế, cách đọc thơ anh phải khác đi, người đọc và các nhà phê bình cần đặt anh vào một trường quy chiếu đặc biệt, trong đó sự thẩm định giá trị nghệ thuật mới sẽ giúp người đọc tiếp nhận thơ của những người cách tân như Mai Văn Phấn đầy đủ hơn, và giúp chính tác giả triển khai sở trường của mình. Có thể anh sẽ trở lại với thơ dài, thậm chí rất dài, một phần vì anh có sở thích thơ xuôi. Một số bài thơ ngắn của anh cần được văn xuôi hóa (rephrasing), là một thao tác phê bình căn bản mà tôi thường làm, nhằm đọc và đọc lại. Ca tụng sự sống, cái thiêng liêng siêu việt, ca tụng bằng im lặng như cầu nguyện, ngôn ngữ gần duy mỹ, chạm tới triết học, là những đặc sắc của Mai Văn Phấn. Nghệ thuật im lặng là dừng lại, khoảng cách, là kẽ hở, là trống rỗng, giữa các câu thơ, giữa các chữ, giữa các chỗ ngắt dòng, sự mất tích. Sự thả. Sự im lặng trong thơ xảy ra một cách nghệ thuật chỉ khi nào có sự bất tương xứng giữa suy tư và cảm xúc của nhà thơ và khả năng biểu đạt của ngôn ngữ mà người ấy dùng. Cũng như khi một người nói năng lưu loát lạc vào chỗ đông người tranh cãi ầm ĩ, anh ta im bặt. Nhưng đó là sự im bặt có tính chuẩn bị, một thứ cân bằng động, không phải im lặng bất lực. Đó là im lặng có tính riêng tư, đi xuyên qua những chữ được kén chọn kỹ, những chữ như thế sẽ trở thành những cái mốc, điểm sáng dò đường.
Trời tối 
Con chuột và tôi 
Băng qua đường
Sự đồng nhất hóa của tác giả trong thơ Mai Văn Phấn với nhân vật hay với đối tượng mô tả, tức là những chất liệu nghệ thuật, đôi khi trở nên mạnh mẽ đến mức thành vô thức. Điều chúng ta nghĩ là hiện thực có khi chỉ là sự tái xây dựng các hình ảnh khách quan trong tâm trí. Tỉnh thức là vừa tồn tại vừa ý thức từng giây phút về tồn tại ấy như một thực thể độc lập, tự tách mình ra khỏi chủ thể, nhưng vẫn hòa nhập với chủ thể; sự phân chia và hòa nhập không tách rời. Câu chuyện mà chúng ta nói về cá nhân và dân tộc, về những điều chúng ta tin là đúng, bao giờ cũng hướng về cái tốt đẹp, và như vậy ký ức chẳng qua là quá trình thăng hoa, làm biến đổi câu chuyện; văn hóa càng thay đổi, ngôn ngữ càng phải thay đổi theo. Sự chú ý không phải là sự hiểu biết. Sự hiểu biết và sự không hiểu biết làm nên sự chú ý, sinh ra bài thơ.
Trái đất bắt đầu vòng quay khác 
Nhanh hơn
Đọc sâu, nghĩ lớn, không phán đoán vội vàng, xúc động dai dẳng, là những yếu tố quan trọng đối với một nhà thơ, anh ta phải sẵn sàng rời bỏ biên giới của hiểu biết và tìm kiếm những mảnh đất xa hơn của sự chú ý. Sáng tạo như thế bao giờ cũng là lưu vong. Để nhìn thấy thế giới từ nhiều phía, để nhìn thấy sự thật của nó, chúng ta cần một ý thức có khả năng xuyên thấu giới hạn giữa con người văn minh và con người hoang dã, giữa một xã hội thuần hóa và những khả năng bất tận của thiên nhiên, ngoài con người.
Nguyễn Đức Tùng
(trong loạt bài Đọc Thơ)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

sinh mệnh đất nước




Vào mỗi buổi sáng 
Chúng tôi uống cà phê vỉa hè và tán dóc 
Về thời tiết, việc làm, nỗi oan khuất . . . 
Có một thứ tuyệt nhiên không bao giờ chạm đến 
Đây là điều cấm kỵ, cực kỳ nguy hiểm 
Có thể làm bạn tan biến nhanh như gió 
Đó là: Sinh mệnh đất nước hiện nay.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vài suy nghĩ về Mây Chó



Mây Chó là một tuyển tập gồm mười truyện và mười chuyện của Võ Ðình, do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Ðông Hoa Kỳ xuất bản tháng 5 năm 2004.
Tôi thích những nhận xét sau đây của Nguyễn Hưng Quốc và Trần Vũ về một số truyện của Võ Ðình đã xuất bản trước Mây Chó tôi đọc được trong phần phụ lục của tác phẩm này:
[...] khác với các nhà văn hiện thực cổ điển hay hiện đại, ở Võ Ðình, giữa bức tranh hiện thực bỗng dưng, có lúc, xẹt ngang những tia chớp kỳ ảo. Nó xẹt ngang rồi nó biến mất... Cuộc đời, nhờ thế, trở thành một kết cấu phức tạp, trùng trùng điệp điệp, hết lớp này đến lớp khác, đầy bất ngờ và đầy bí ẩn. Câu chuyện, nhờ thế, trở thành thăm thẳm như không có đáy [...] (Nguyễn Hưng Quốc)
 
[...] Bước vào truyện Võ Ðình là bước vào thế giới đầy không khí, tĩnh mịch gần như không có tiếng động nào khác ngoài những tiếng động của tâm linh [...] (Trần Vũ)
Nói chung, đọc Võ Ðình từ những tác phẩm đầu tiên như Xứ Sấm Sét (1980), Sao Có Tiếng Sóng (1991), v.v..., cho đến Huyệt Tuyết (2002), tôi luôn nhận thấy ba điểm nổi bật trong văn chương của ông. Thứ nhất, ông viết bằng tất cả những rung động, hiểu biết, suy tư, kinh nghiệm của một con người toàn diện với tài năng và vốn sống rất đặc thù của ông. Ông đem tất cả vào tác phẩm một cách tự nhiên, đúng lúc, đúng chỗ, không thừa không thiếu. Qua văn ông, người đọc thấy rõ một cá tính rất mạnh, mạnh trong cả ba tính Việt, Pháp, Mỹ - phát sinh từ hoàn cảnh sống đặc biệt của ông - về cả bề dày của văn hóa cùng những thói quen trong ứng xử. Thứ hai, ông tỏ ra có một ham thích đặc biệt và đã rất thành công khi dựng chuyện hay truyện từ những sự việc hay nhân vật rất bình thường hay tầm thường trong đời sống. Chẳng hạn, chỉ từ một người chạy bộ nhìn một đám mây trên trời, ông dựng nên một truyện rất lạ và đặc sắc. Bên cạnh đó, dĩ nhiên, ông vẫn có những truyện tuyệt hay bằng những chuyện rất có “chuyện”, như “Anne” (Lầu Xép, Văn Nghệ 1997). Sau cùng, dù viết truyện hay chuyện, không khí nghệ thuật, đặc biệt không khí hội họa luôn luôn bao trùm văn chương của Võ Ðình. Ðưa eros vào truyện hay đưa một đề tài để tranh luận vào chuyện, ông đều nhằm dựng nên một tác phẩm nghệ thuật. Eros, nhiều khi rất bạo; nội dung tranh cãi thường đi tới cùng; nhưng cái cuối cùng người đọc cảm nhận sâu sắc nhất vẫn là một cảm giác bị cuốn hút vào một câu chuyện do một người làm nghệ thuật kể, rất duyên dáng và thông minh. Những yếu tố khác, như tâm lý hay tư tưởng, vẫn có, nhưng luôn luôn là yếu tố phụ. Những điểm nổi bật trên đây đã tạo cho tác phẩm củaVõ Ðình một chỗ đứng riêng biệt trong văn học Việt Nam.
Khi đọc Mây Chó, trước tiên, tôi cũng bắt gặp lại những nét đặc sắc này. Cũng có những truyện rất hay, rất hấp dẫn người đọc, dựng nên từ những vật, những chuyện rất tầm thường trong đời sống hằng ngày mà người đọc không để ý đến, cho đến khi đọc Mây Chó bỗng giật mình thấy tác giả đã biến chúng thành văn chương. Những cây nho biển “... mọc như trường thành, chen chúc rậm rạp trên bờ biển, luôn luôn xao xác vì gió thổi ngày đêm. Thân cây mảnh nhưng u nần, quằn quại từ gốc lên đọt. Lá to bản, tròn trịa, cứng và dày, màu lục xám, gân lá đỏ rực, những đường son sắc nét”. Rồi một người chạy bộ, lần này không ngước mặt lên trời nhìn mây bay, nhưng cúi nhìn xuống đất xem mình chạy tới đâu và nhìn “những thứ rau cỏ dại hèn mọn...tưng bừng nở hoa, những nhánh li ti nhỏ xíu mà màu sắc tươi rói, sáng ngời!”. Rồi một con nhái bén “nằm thu lu trong mấy cái lá vả... Có lẽ hắn biết là tôi không ham câu cá, cho nên hắn cũng chẳng cần biết đến câu ca dao nọ, nghe thật rầu: Chiều chiều bắt nhái cắm câu / Nhái kêu cái ẹo, thảm sầu nhái ơi.” Hay, những lá rau tập tàng mà “canh tập tàng, không nên ăn bữa trưa mà phải ăn vào lúc “trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn”.Bởi miếng canh tập tàng dịu ngọt như một chiều êm ả. Bảng lảng tập tàng!”. Rồi một người láng giềng, bệnh tật và bí ẩn, trong một khu chúng cư nghèo, trong truyện “Ông 30”. Hay một người láng giềng khác, trong truyện “Láng Giềng”, một hưu trí viên 65 tuổi nhưng mê... chơi xe lửa, và “chơi” thiệt. Quăng một chiếc xe cũ của con cũng thành một truyện hấp dẫn và thâm thúy, như trong truyện “Rác”. Trong Mây Chó, những vấn đề liên quan đến hội họa và cách dấn thân của một họa sĩ vẫn tràn ngập trong khá nhiều chuyện, và mỗi vấn đề đều mới, đều khích động sự suy tư của người đọc (“Gô Ganh và Noa Noa”, “Nét Bút Của Ông Nguyễn”, “Artigras”, “Xa Xỉ”, “Nghiệp”, “Ði và Ðến”, v.v...).
Tuy Mây Chó được xây dựng với những nét đặc sắc rất “Võ Ðình” đó, tôi vẫn thấy được nhiều biến đổi từ những sáng tác trước của ông đến tác phẩm này. Dĩ nhiên, mỗi chuyện hay truyện của ông bao giờ cũng mang một nội dung mới. Sự biến đổi tôi muốn nói đến ở đây là về văn phong, về cách chọn đề tài, không khí của truyện, nhân sinh quan, và cả cách kể chuyện của ông. Nói chung, những sáng tác trong Mây Chó được viết ngắn hơn, thâm trầm hơn, và nếu như Trần Vũ đã nhận xét là truyện của ông ít tiếng động thì Mây Chócàng ít tiếng động hơn. Ðề tài cho các truyện trong Mây Chó cũng dựa vào những sự việc bình thường hơn. Nói cách khác, ông chọn đi con đường khó hơn cho sáng tác, nhưng ông vẫn đi một cách đĩnh đạc, có vẻ như chậm hơn trong cách kể chuyện nhưng thật ra không phải, mà là tỉnh thức hơn. Thái độ tỉnh thức đó, ông biểu lộ một cách nhẹ nhàng, trong “Người Chạy Bộ II”, và nó bàng bạc trong suốt hầu hết những truyện của Mây Chó. Nghệ thuật và con người vẫn luôn là những ám ảnh chính trong tác phẩm của Võ Ðình, tuy nhiên, ở đây tỏa rộng hơn. Chẳng hạn, trong chuyện “Hắn”, khi đang giữa câu chuyện, ông nghĩ đến chuyện nàng Mỵ Ê và đã trách người viết sử. “Vua Lý Thái-tông ‘phạt Chiêm’, giết vua Xạ Ðẩu, bắt được vương phi Mị Ê. Trên đường về nước, vua truyền cho Mị Ê qua hầu thuyền ngự. Vương phi không chịu, ‘quấn chiên, lăn xuống sông mà tự tử’, trong Việt Nam Sử Lược, ông Trần Trọng Kim bảo vậy. Khen bà hoàng hậu Chiêm biết giữ tiết. Không thấy chê ông vua Việt đã thắng trận, giết vua người, lại còn rắp tâm chiếm vợ vua người”. Cách nhìn về con người trong Mây Chó cũng hài hòa và lắng đọng hơn. Chuyện đất nước vẫn có thể là một đề tài để viết, như truyện “Cơn Sốt 21 Ngày”, ẩn dụ cho cơn sốt 21 năm của đất nước, từ 1954 đến 1975. Nhưng ở đây, hình ảnh nổi bật nhất là của các cô gái quê và một thằng bé mà cái eros được kể ra một cách tài tình, dí dỏm, rất con người, rất có nghệ thuật, nghĩa là, rất đẹp. Tính eros được kể trong truyện “Giấc Mơ” cũng vậy, mặc dầu hai truyện này được dựng trên hai bối cảnh khác nhau và trong hai không khí khác nhau.
Nhà văn và người làm nghệ thuật chắc sẽ cảm thấy thấm thía khi đọc các chuyện “Nghiệp” và “Xa Xỉ?”. Qua các chuyện này, ông muốn đặt lại cái nhìn có thể rất sai lạc hay chủ quan của giới nghệ sĩ, văn sĩ. Ông nhắc lại một mục tiêu mà ông tin rằng đó mới chính là điểm nhắm tối hậu của nhà văn. “Phẩm chất của sự sáng tạo mới là mục tiêu tối hậu. Nói đến nghệ thuật là nói đến phẩm chất... nói đến phẩm chất là đã xem người nghệ sĩ như kẻ có bổn phận đầu tiên, và trách nhiệm cuối cùng. Bổn phận đối với bản thân, và trách nhiệm đối với tha nhân”. Ông cũng đưa ra những câu hỏi khá nhức nhối cho người thưởng ngoạn, thường rất khó tính khi cần phải dễ nhưng lại rất dễ tính khi cần phải khó. “Người ta có thể bỏ ra hàng chục ngàn đô-la mua một bộ bàn ghế sang trọng và dàn âm thanh tân kỳ cho phòng khách, nhưng trên bức tường chính chỉ treo một tấm tranh vào hạng tầm thường nhất, tầm thường hơn cả cái khung của nó. Người ta có thể mua một tủ kính bằng gỗ đẹp, thật đắt tiền, để chưng dăm ba thứ bá láp, nhưng trong nhà tuyệt nhiên vắng bóng những cuốn sách có giá trị”. Những câu hỏi này đáng ra phải là những câu hỏi thường trực của chúng ta ở hải ngoại, nơi mà những vấn đề như bảo vệ và phát huy một nền văn hóa đặc thù của người Việt xa quê hương luôn được nhắc tới. Chẳng hạn như, cộng đồng chúng ta thường hãnh diện về sự thành công vượt bực về kinh tế và nghề nghiệp, nhưng sự thành công đó có đi đôi với mức độ hiểu biết và thưởng ngoạn về văn học, nghệ thuật không?
Tác phẩm của Võ Ðình thường là tác phẩm khó đọc... với người dễ tính, và dễ đọc... với người khó tính. Mây Chó hài hòa hơn. Tuy vậy, vẫn có đôi lúc, người đọc dù không dễ tính vẫn có đôi chút vấn đề với cái khó tính của tác giả. Chẳng hạn, trong “Nghiệp”, ông có nhắc lại sự lựa chọn để sống hoàn toàn cho nghệ thuật của một nhà vật lý chuyên nghiệp kiêm họa sĩ nghiệp dư. Ông ngăn cản quyết định đó của nhà vật lý với rất nhiều lý lẽ. Tôi vẫn chưa hiểu làm sao chúng ta có thể xác định được sự tận cùng của một dấn thân và làm sao chúng ta có tiêu chuẩn chung cho một chọn lựa. Theo ông, đây là một họa sĩ nghiệp dư có tài và có đam mê, vậy thì làm sao biết được ông ta sẽ hạnh phúc hay không với quyết định đó và làm sao biết được có hay không có một ngày nào đó, do quyết định này, ông ta cống hiến cho nghệ thuật nhiều hơn? Tuy nhiên, dù có khó tính mấy đi nữa, câu chuyện Võ Ðình viết ra vẫn rất hấp dẫn và nêu lên những luận đề rất nghiêm túc, rất nên được tiếp tục để thảo luận.
Chuyện “Mây Chó” là một chiêm nghiệm của tự thân, và cũng là một chiêm nghiệm chung cho những người làm văn học nghệ thuật, hay bất cứ ai đã phấn đấu, đã đam mê, đã sôi nổi trong một khoảng đời dài. Cùng với thời gian, cuộc đời luôn luôn là một trộn lẫn của tình yêu quê hương với tình yêu những vùng đất, những con người từng sống từng gặp. Nhìn cái ngày hôm nay nghĩ đến cái hôm qua, vui với cái đã làm, ám ảnh với cái lẽ ra không làm, ám ảnh với thực tại, với tương lai. Nhưng không dằn vặt. Và nhìn thật hơn về cái khổ của mình, của dân tộc mình, và... trầm ngâm hơn. “Chúng ta thường nghĩ (và nói, với chút gì nghe như kiêu hãnh) rằng người Việt Nam chúng ta khổ vô cùng. Khổ lớn, khổ nhỏ, khổ tinh thần, khổ vật chất. Chúng ta có vẻ như quên đi cái khổ triền miên của người dân Do Thái, Palestine, Da Ðỏ, Da Ðen...”
Trong tuyển tập Mây Chó, tôi thích nhất truyện “Hoặc”. Truyện kể về một người đàn ông Việt Nam có một gia đình êm ấm, có địa vị nghề nghiệp hết sức vững vàng, và có một ngôi nhà bề thế. Nói chung, anh có đủ cả, chỉ thiếu cái phòng trống. Và, “anh quyết tâm có cho được cái phòng trống ấy”. “Ngồi trong căn phòng trống không, anh nhẹ nhõm hẳn ra”. Cuối cùng, trong căn phòng trống đó, vứt bỏ hết mọi thứ lỉnh kỉnh trong cuộc đời, anh thấy gì? Anh đã thấy hiện ra hình ảnh một người đàn bà anh chợt bắt gặp trong một giây phút rất ngắn ngủi khi dừng xe lại nơi một ngã tư đường lúc đèn đỏ. Một cái đẹp? Hay một ám ảnh đầy đam mê? Có phải tác giả muốn nói đến một vứt bỏ cần thiết cho một nhà văn hay một người làm nghệ thuật, muốn đạt được tận cùng cái đẹp, tuyệt vời, ma quái, nhưng mong manh như sương khói? Hay một người, nói chung, muốn sống thật với mình? Ở đây, chắc chắn tác giả phải có chút lấn cấn với quan điểm vứt bỏ của những nhà tu hành thứ thiệt. Với những vị này, nói đến vứt bỏ, là phải vứt bỏ... tất cả. Ðây chính là điểm khác nhau giửa một nhà tu với một người làm nghệ thuật. Dĩ nhiên, vì không phải nhà tu, tôi thích lối vứt bỏ này hơn.
Nói chung, tuyển tập Mây Chó, vẫn có đủ những nét đặc sắc của Võ Ðình, nhưng theo tôi, được viết cô đọng và thâm trầm hơn. Nó có một chỗ đứng đặc biệt trong toàn bộ những sáng tác của Võ Ðình mà cho đến nay, không thấy những tác phẩm khác của văn học Việt Nam có cùng lúc nội dung, không khí và phẩm chất tương tự. Cảm giác sau cùng, khi gấp sách lại, là muốn hình dung ra chính mình của hai mươi, ba mươi năm sau. Lúc đó, nếu nghĩ lại cái ngày hôm nay, nghĩ lại cuốn sách đã đọc, nghĩ lại những nơi đã ở, những việc đã làm, những người đã gặp, những người đã đi, chắc sẽ không làm gì khác hơn là ngâm hai câu thơ của Nguyễn Gia Thiều được ghi lại trên bìa sách:
Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương

Maryland, tháng 5/2004

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Truy tố nhóm cán bộ gây vỡ đường ống nước sông Đà 18 lần


XUÂN ÂN - THANH HÀ 

TPO - Các bị can không tuân thủ các quy định dẫn tới việc sản xuất, nghiệm thu, lắp đặt và sử dụng ống dẫn nước không đạt tiêu chuẩn. Hệ quả là đường ống nước sạch Sông Đà bị vỡ 18 lần, gây thiệt hại nghiêm trọng.

VKSND Tối cao vừa hoàn tất cáo trạng truy tố nhóm cựu cán bộ gây vỡ đường ống nước sông Đà. Trong đó, Hoàng Thế Trung (SN 1960) - nguyên Giám đốc BQL Dự án Đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước Sông Đà (BQLDA) bị truy tố về tội “Vi phạm quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng”. 

Có 8 bị can khác bị truy tố cùng tội danh gồm Nguyễn Văn Khải, Trương Trần Hiển - từng giữ chức Phó GĐ và Trưởng phòng Vật tư BQLDA; Trần Cao Bằng, Vũ Thanh Hải - nguyên GĐ và Phó GĐ Cty CP Ống sợi thủy tinh Vinaconex; Đỗ Đình Trì - nguyên Trưởng đoàn Tư vấn giám sát Cty CP Nước và Môi trường Việt Nam (Viwase); Nguyễn Biên Hùng, Hoàng Quốc Thống và Bùi Minh Quân - cán bộ của Viwase.

Theo cáo trạng, dự án nước sạch Sông Đà - Hà Nội, do Tổng công ty Vinaconex làm chủ đầu tư, xây dựng từ 2004 đến 2009, trong đó, hệ thống ống truyền tải dài 46km, được làm từ bê tông và ống gang dẻo.

Quá trình khai thác, từ tháng 2/2012 đến tháng 10/2016, tuyến ống của hệ thống cấp nước Sông Đà đã bị vỡ 18 lần với 23 cây ống composite cốt sợi thủy tinh bị hư hỏng.

Việc vỡ ống nước khiến đơn vị khai thác phải chi hơn 16,6 tỷ đồng để khắc phục hậu quả; làm 177.000 hộ dân bị mất nước sinh hoạt trong 386 giờ với lưu lượng nước bị ngừng trệ hơn 1,7 triệu m3...

Theo Bộ Xây dựng, nguyên nhân chủ yếu khiến vỡ ống do ống được sản xuất không đồng đều (có nhiều tật, rỗ, thiếu cát nhựa); nếu ống được sản xuất đúng thiết kế sẽ không thể xảy ra sự cố.

Qua điều tra, công an xác định các bị can nói trên đã không tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng công trình dẫn tới việc sản xuất, tiếp nhận, lắp đặt và nghiệm thu các sản phẩm ống không đạt chất lượng.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

MIG 21 có bắn rơi B52?


Phi công Lê Thanh Đạo (áo đỏ) bắn rơi 6 máy bay Mỹ với chủ nhà Tuấn Anh áo xanh và các bạn ở Lede. Ảnh: HM
Đây là câu hỏi không có câu trả lời chính xác. Nhưng sự kiện chống B52 dịp Giáng Sinh 1972 đáng được người Hà Nội nhắc đến một cách tự hào hơn là tìm ai đã bắn rơi 15 hay 34 chiếc B52.

Các con số và thông tin trái ngược
Trong lịch sử Không quân Việt Nam, đài báo thì MIG 21 và trên Wiki phần tiếng Việt thì MIG 21 của Việt Nam từng bắn rơi 3 máy bay B52.
Trường hợp đầu tiên do phi công Vũ Đình Rạng bắn trúng B-52 ngày 20 tháng 11 năm 1971. Chiếc này hỏng nặng, phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Nakhom-Phanom, Thái Lan.
Trường hợp thứ hai được phía Việt Nam ghi nhận là do phi công Phạm Tuân lái chiếc MIG21 bắn rơi tại chỗ B52 vào ngày 27 tháng 12 năm 1972.
Trường hợp thứ ba diễn ra ngay vào ngày hôm sau, 28 tháng 12 năm 1972, được ghi nhận do phi công Vũ Xuân Thiều sau khi đã bắn tên lửa mà không hạ được B-52, đã lao máy bay vào chiếc B-52.
Nhưng cũng Wiki phần tiếng Anh và lịch sử Không lực Hoa Kỳ thống kê số lượng B52 bị bắn rơi thì chỉ có SAM2 bắn rơi mà không có MIG 21.
WIKI tiếng Anh có nói thêm, Phạm Tuân phóng tên lửa cách mục tiêu 2KM nhưng chưa chắc đã diệt được máy bay, bởi lúc đó có tên lửa SAM2 bắn cháy một B52, nên Phạm Tuân lầm tưởng mình đã bắn trúng. Những ngày đó trên bầu trời là chảo lửa trong đêm. Chỉ cần vít cổ một B52 sẽ làm đối phương nhụt chí.
Phía Việt Nam còn nói, ngày hôm sau có máy bay của Vũ Xuân Thiều bắn B52 cháy ở mục tiêu quá gần nên đã bị nổ theo. Theo nguồn đó, hôm đó một Phantom của Mỹ đã hạ một MIG21 và được cho là của Vũ Xuân Thiều. Nếu có băng ghi âm trao đổi giữa phi công Vũ Xuân Thiều và mặt đất sẽ rõ hơn.
Ngoài ra, 12 ngày đêm có nhiều tin khác nhau về số lượng B52 bị bắn hạ. Phía Việt Nam nói có 34 chiếc bị SAM2 và MIG21 bắn cháy, nhưng phía Mỹ chỉ công nhận có 15 chiếc.
Như vậy Wiki tiếng Việt do người Việt viết, rất có thể bên chiến thắng biên tập theo hướng có lợi cho mình. Phần tiếng Anh do người Mỹ biên tập, dẫn nguồn khác nên đưa đến sự khác biệt.
Nguồn Wiki mở chỉ mang tính tham khảo nên người viết cần hết sức thận trọng.
Gặp phi công Lê Thanh Đạo ở Lede (Belgium)
Hồi năm ngoái (5-2016) tá túc ở nhà bạn Tuấn Anh IT sinh đúng năm 1972 làm cho WB ở Brussels (Bỉ) có cuộc chiêu đãi mà phi công Lê Thanh Đạo có con làm việc bên đó nên ông sang chơi. Ông được cho là đã bắn rơi 6 máy bay Mỹ, đứng thứ 4 trong số các phi công hàng đầu của Việt Nam.
Phi công với nhiều vết thương nhưng vẫn khỏe mạnh. Ảnh: HM
Dù đã ngoài 70, bị thương gẫy cả hai chân do máy bay MIG của bác bị bắn rơi, nhảy dù, nhưng bác Đạo rất khỏe mạnh, giọng vang xa, và nói chuyện rất cởi mở.
Ngoài chuyện bia bọt và cuộc đời, tôi tò mò hỏi, anh Phạm Tuân có bắn rơi B52 không ạ? Hòa bình, phi công Lê Thanh Đạo từng giữ chức Viện trưởng Viện Kiểm sát ND Tối cao nên ông rất thận trọng và khôn khéo trong trả lời.
Ông kể từng lái máy bay MIG nên hiểu thế nào là bắn trúng mục tiêu. Nếu như MIG 17 bắn bằng súng canon (liên thanh) thì phải tiếp cận khá gần máy bay đối phương bằng bám đuôi và bắn. Nếu trúng là … biết liền.
Nhưng MIG 21 có 2 quả tên lửa tìm nhiệt gọi là fire and forget (bắn và quên luôn). Muốn bắn phải bám đuôi đối phương vì tên lửa sẽ tìm phần nhiệt phát ra từ đuôi máy bay.
Về lý thuyết, nếu máy bay bị bám đuôi với tên lửa tầm nhiệt thì coi như toi. Tuy nhiên trong chiến đấu, có phi công lộn nhào rất siêu, biết có thể bị bắn liền hạ độ cao đột ngột rồi vọt lên, tên lửa mất hướng.
Với MIG 21 cũng thế. Ông Đạo kể đã bắn kha khá tên lửa. Khi bám đuôi đối phương, tín hiệu trong máy bay báo có thể fire (bắn), phi công chỉ nhấn nút và vọt ngang rồi quay hình chữ U và chạy trốn thật nhanh vì nếu tên lửa trúng đối phương, máy bay mình có thể bị lây do tốc độ máy bay quá nhanh.
Duy nhất có một lần ông liều, nhấn nút tên lửa còn cố bay ngược lại thêm vài chục giây để xem máy bay Mỹ có cháy không và ông chứng kiến nó nổ tung trên không.
Tất cá các phi công được huấn luyện và thực hành, nhấn nút và chuồn thật nhanh để không bị bám đuôi. Không chiến gọi là đuổi nhau quần đảo trên trời cho oai, thực ra gặp nhau và nếu có bắn tên lửa chỉ xảy ra chục giây, nên không ai biết tên lửa của mình có trúng đối phương.
Việc máy bay bị cháy do mặt đất xác nhận, nhìn bằng mắt thường, bằng radar do tín hiệu máy bay theo dõi bị mất trên màn hình, hoặc do máy bay đi kèm nhìn thấy, còn tác giả chính không còn có thời gian để ngắm thành quả.
Vụ Phạm Tuân thì ông nói, đêm 27 tháng 12 năm 1972 Phạm Tuân có cất cánh, có bắn tên lửa, có B52 rơi. Nhưng không thể khẳng định do Phạm Tuân bắn và Phạm Tuân chưa chắc đã biết. Do SAM 2 hay MIG 21 chỉ có trời biết. Nhưng một B52 cháy là có thật và Mỹ xác nhận.
Bác Đạo kể, trong những năm chống máy bay đánh phá miền Bắc thì việc động viên các lực lượng phòng không và không quân là vô cùng quan trọng. Có máy bay do phi công bắn nhưng vì nhiệm vụ chính trị nên chiến công đó dành cho đội nữ cao xạ Thanh Hóa hay các cụ già bắn rơi máy bay bằng súng trường.
Các máy bay rơi ở con số chẵn như 500, 1000, 1500, 2000 hay 3000 muốn dành cho đơn vị sắp thành anh hùng. Bác còn cười vui bảo, có khi trong số 6 cái bác bắn rơi lại do đồng đội lập công nhưng san bớt cho bác vì bay mãi mà không bắn được cái nào.
Không quân Việt Nam có trách nhiệm bắn rơi chiếc thứ 3000 dù số bắn rơi trong thực tế do Việt Nam công bố đã là hơn 3000 mấy chục cái. Không quân thì phải bắn rơi thật chứ không thể nhận công của các cụ già.
Trong một lần cố đạt chiến công chiếc thứ 3000 vào năm 1972, bác Đạo cất cánh được vài phút  và bị bám đuôi. Bác bị gẫy cả hai chân sau vụ đó.
Việc B52 rơi được cho là chiến công của Phạm Tuân là như thế, khó được làm sáng tỏ hơn. Nếu Không quân Việt Nam còn các băng ghi âm, hành trình bay, lịch sử bay, các số liệu trên radar như Hoa Kỳ có đối với máy bay của họ thì sẽ dễ xác minh Phạm Tuân bắn rơi hay Vũ Quang Thiều lao MIG 21 vào B52 hay không.
Tuy nhiên, việc Việt Nam hạ B52 trên bầu trời Hà Nội là có thật, thế giới phải ngạc nhiên. Mình đi máy bay hành khách ngồi khoang thương gia mà hơi chòng chành chút đã tái mặt. Phi công cất cánh lên đối đầu với đủ loại máy bay và tên lửa hiện đại của Mỹ là anh hùng, tìm pháo đài B52 trong đêm tối có đáng ngưỡng mộ hay không.
Các phi công Phạm Tuân, Vũ Xuân Thiều và Lê Thanh Đạo mà tôi gặp ở Lede năm ngoái đều xứng đáng ghi vào sổ vàng của không quân Việt Nam.
Cậu bé đỏ hỏn Chu Tuấn Anh sinh năm 1972 vào những ngày bom đạn nay đã là đàn ông 45 tuổi. Cho dù thế nào thì đối với anh, sự kiện Christmas Bombing – Việt Nam chống trả ném bom B52 dịp Giáng Sinh 1972 đáng được nhắc đến một cách tự hào.
Hãy để việc tìm ai đã bắn rơi 15 chiếc hay mấy chục B52 cho các nhà làm sử chân chính.
HM. 20-12-2017 (45 năm Christmas Bombing Hà Nội)
Xem thêm HM Blog từng viết về sự kiện này.

Phần nhận xét hiển thị trên trang