Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 15 tháng 12, 2017

Ông LS lại nói trái khoáy rùi:

Luân Lê
15-12-2017

NHÂN DÂN MỚI LÀ TẤT CẢ

Đây là lời ông Tổng bí thư đảng nói chuyện với Hội cựu chiến binh, những người đã đứng trong hàng ngũ chiến đấu dưới sự dẫn dắt của Đảng cộng sản trong những năm chiến tranh, nên Ông ấy mới nói câu “mất đảng, mất chế độ là mất tất cả”. Bởi những người này đang có sổ hưu và hưởng chế độ quân nhân, cựu binh hậu chiến, tức được nhà nước đãi ngộ.

Còn nếu Ông ấy nói với người dân tại một quảng trường thì hẳn câu nói ấy, mang tính cảnh báo cho những người cùng lợi ích, thì chắc hẳn nó không thể nào phù hợp và cũng thật là chuyện hài hước. Vì nhân dân và tổ quốc thì luôn còn, đảng phái hay chế độ thì chỉ là một nhóm người nắm quyền điều hành trong một giai đoạn.


Trước đây vị vua nào cũng nhân danh thiên tử để trị vì đất nước và gây dựng vương triều bằng mọi giá, dù đó có là sinh mệnh của hàng ngàn, hàng vạn, thậm chí hàng triệu dân chúng. Và họ vẫn bắt thần dân hô vang “vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế” mỗi khi vua, chúa xuất cung hay sau khi tiếp nhận xong thánh chỉ từ “con trời”. Nhưng rồi cuối cùng thì chế độ ấy cũng suy vong và sụp đổ như một lẽ tất yếu. Và nhân dân, tổ quốc vẫn tiếp tục hành trình của mình trên lãnh thổ và chủ quyền đó. Nhân dân lại thiết lập nên nhà nước khác phù hợp với nhu cầu và mong muốn của họ hơn. Đó là quy luật của sự vận động đi lên, không ai phủ định được tất yếu đó, chính những học trò của Marx và Lenin phải hiểu rõ điều này nhất trong những luận điểm triết học chính trị và xã hội của các vị này.

Chỉ có những người có quyền và lợi ích liên quan đến chế độ mới lo sợ “mất tất cả”. Nhưng rõ ràng rằng, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, thì mọi sự tan rã của thể chế đều đưa quyền lực trở về với chủ nhân thực sự của nó, và chủ nhân ấy sẽ lại tiếp tục trao cho những (nhóm) người đại diện phù hợp nhất mà họ tin tưởng trong tiến trình tiếp theo.

Tuy vậy, việc thay đổi chế độ chỉ là chuyển giao quyền lực, không nhất thiết và không thể có câu chuyện như cải cách ruộng đất hay nhân văn giai phẩm đã từng trong lịch sử. Mà ở đó thực sự lợi ích quốc gia được đặt lên hàng đầu và việc hoà hợp, hoà giải dân tộc là điều kiện bắt buộc phải thực hiện tiên quyết để đất nước có thể xây dựng được những giá trị nền tảng cơ bản để quốc gia có thể phát triển cho kịp với nhân loại. Trong cùng tổ quốc, không ai là chiến thắng nếu có bất kỳ biến cố hay chia rẽ nào xảy đến.

Người trong cùng một quốc gia, dù ở vị trí chính trị nào cũng đừng tự phân định giai cấp và lợi ích tầng lớp ra như thế. Đó chính là tư duy đã hết thời và không được phép tồn tại, nhất là người đứng trong hàng ngũ quyền lực, nắm quyền điều hành nhà nước và xã hội.

Nếu yêu nước thì chỉ có tổ quốc và nhân dân. Sẽ không ai là mất tất cả nếu thay đổi, mà là chúng ta sẽ trả giá thế nào nếu không chịu thay đổi mới là điều đáng và phải đặt ra hơn tất thảy mọi điều lúc này.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

ĐIỂM MẶT CHẤT LƯỢNG VÀI CÔNG TRÌNH CỦA TÌNH HỮU NGHỊ DÀI LÂU TRUNG QUỐC - VIỆT NAM, XƯA NAY:



Ảnh: Cảnh Formosa Hà Tĩnh

Bùi Quang Minh


Qua những gì mình nghe được thì đây là những công trình, dự án lớn biểu tượng của tình hữu nghị dài lâu giữa quốc gia và nhân dân hai nước:

1. Khu gang thép Thái Nguyên: chỉ làm ra gang, không làm ra thép

2. Phân đạm Hà Bắc: ra đạm nước không đạm hạt, đất đai quanh vùng ô nhiễm, lúa ra bông nhưng không ra hạt

3. Cầu Thăng Long: do Trung Quốc thi công lấy thiết kế cầu Trường Giang do Nga làm, làm từ 1976 đến 1978 được 9 trụ cầu thì bỏ, rút công nhân về nước.


4. Nhà máy điện Ninh Bình chạy bằng than, khói tạt khu dân cư

5. Nhà máy đạm Ninh Bình mỗi năm thua lỗ 30 - 50 tỷ VNĐ

6. Khu liên hiệp công nghiệp giấy Việt Trì: chỉ làm được giấy bổi bao bì, không làm được giấy kẻ ca rô học sinh, càng không làm được giấy báo.

7. Nhà máy mì chính miến Việt Trì: chỉ lên được mầm đậu xanh, không ra được miến dong, không sản xuất được mì chính

8. Nhà máy sơ sợi Đình Vũ (Trung Quốc thực hiện) nay đã đặp chiếu, không có công nghệ xơ sợi tiên tiến nào được thực chuyển giao. Gần 8000 tỷ đồng đã bay theo mưa gió (tương đương khoảng 400 triệu đô).

9. Dự án Nhôm Boxit Tây Nguyên: đã được nhân sĩ trí thức các nhà khoa phản đối, mọi thông số đều không khả thi và thiệt hại lâu dài nhãn tiền. Và đến nay mọi hậu quả đã thấy rõ ràng, ngắn gọn là về kinh tế thì tính toán ban đầu sai bét, lỗ vốn 3.700 tỷ, sập bẫy nhà thầu Trung Quốc và "âm mưu" nhiều bề về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng.

10. Cụm nhà máy nhiệt điện Bình Thuận (5 nhà máy dùng than) chủ thầu Trung Quốc, sử dụng công nghệ lạc hậu của Trung Quốc mà chính thế giới và Trung Quốc đã không sử dụng. Vấn đề xả thải, ô nhiễm môi trường biển hết sức nghiêm trọng

11. Dự án đường sắt trên cao Hà Nội: chậm kinh niên, vay thêm 250 triệu đôla, đội tiền vay mỗi tháng hơn 30 tỷ đồng mà ngày nào xong thì vẫn mịt mùng như "đêm đen chị Dậu"...

12. Trụ sở Bộ Công An, đường Phạm Văn Đồng: lắm rệp bọ nghe trộm, bỏ thì thương, vương thì tội...

13. Dự án liên hợp Gang thép và cảng nước sâu Formosa (đăng ký dự án là chi nhánh của Tập đoàn nhựa Formosa, Đài Loan, nghi ngờ có mối liên hệ với Trung Quốc): nay đã rõ là khối ung thu di căn, có ảnh hưởng cực kỳ xấu đến môi trường biển, đời sống kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng của mảnh đất miền Trung. 1000 năm tù cho các kẻ có liên quan không cứu vớt được tội ác đã gây ra từ trước đến nay.

(các bạn tự liệt kê thêm)

Tôi cho rằng, chả dự án gì ra cái gì, có những dự án để lại những hậu quả không gì bù đắp được. Dự án chậm thì Việt Nam còn bị phạt ngược, tính lãi.



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chính sách ngu dân trong lịch sử Trung Quốc


Tác giả Li Zhongqin, Lâm Duyên dịch
Chỉ cần thể chế toàn trị còn tồn tại, trên dưới cùng ngu là không thể tránh khỏi. Chỉ có xây dựng được cơ chế ràng buộc quyền lực hiệu quả, nhân dân có đủ tự do ngôn luận, mới có thể hy vọng đánh bật gốc quy luật “trên dưới cùng ngu”.
Từng có tổng kết cho rằng lịch sử Trung Quốc có “mười định luật lớn”, bao gồm: đũa ngà voi, thỏ chết chó hầm, bao vây xu nịnh, dè chừng kẻ thù, kéo kết bè đảng, Hoàng Tôn, xử trảm năm đời, quyền lớn hiếp chủ, da lông, chính quyền từ báng súng [1]; những định luật này không sai, nhưng tôi cảm thấy chưa đủ, ít nhất cần thêm vào một định luật: “Định luật trên dưới cùng ngu”.

Cái gọi là “Định luật trên dưới cùng ngu”, là chỉ trong xã hội chuyên chế, kẻ thống trị thực hành chính sách ngu dân; có “chính sách ngu dân” tất sẽ xuất hiện “đối sách ngu quân” trong triều đình và dân chúng. Đây gọi là “trên dưới cùng ngu”. Hệ quả của “trên dưới cùng ngu” là trên có hôn quân, dưới có ngu dân, xấu thắng tốt thua, luân lý hao mất, xã hội đen tối, giả dối lên ngôi, hủ bại lạc hậu, hèn hạ bạc nhược.

“Chính sách ngu dân” của kẻ thống trị tự cho mình thông minh

Có hiện tượng kỳ quái trong lịch sử [TQ], đó là có một số phần tử trí thức không cầm quyền, không phải thành viên lớp hạt nhân chuyên chế, nhưng lại nhiệt thành bỏ hết tinh lực giúp kẻ thống trị bày vẽ mưu kế. Từ khá sớm, vị chuyên gia đã vô tư dâng hiến tuyệt chiêu “chính sách ngu dân” phải kể là Lão Tử Lý Đam. Ông ấy nói: “Ngày trước, kẻ khéo hành đạo thì không cho dân sáng suốt, phải làm cho họ ngu muội. Khó trị được dân khi họ có nhiều trí tuệ” [2], “Trí tuệ của thánh nhân [là làm cho dân]: Lòng rỗng, bụng no, chí hèn, xương cứng, làm cho dân không biết không ham” [3]. Khổng Tử thánh nhân cũng theo chủ trương này, ông ấy nói: “Muốn sai bảo dân, không để cho họ hiểu biết” [4]. Hậu thế “vì nể người hiền”, cho rằng lời của Lão Tử và Khổng Tử cần có cách giải thích khác, ví như giải thích “trí, 智” mà Lão Tử nói có nghĩa là “xảo trá”, còn “ngu, 愚” là “chất phác”; làm mới lại lời của Khổng Tử… kỳ thực chỉ là trò chơi chữ mà thôi.

Theo quan điểm của Lão Tử, khó quản dân khi dân hiểu biết. Nhà chính trị cao minh không nên để cho dân có hiểu biết, cần làm cho dân ngu xuẩn. Nếu mọi người dân đều đần độn, nhận thức kém và không có dục vọng, như vậy thiên hạ sẽ ổn định.

Lý luận thường lạc hậu so với thực tiễn. Thực tế, từ khi Lão Tử còn chưa ra đời, các vua nhà Tây Chu đã biết thực hiện “chính sách ngu dân”. Nhiều người quá quen câu chuyện Chu Lệ Vương (890 Tr.CN – 828 Tr.CN) “dẹp lời bài báng”. Khi đó, để ngăn chặn dân chúng tranh luận việc triều chính, Chu Lệ Vương thực hiện chính sách chính trị hà khắc, nhân dân không còn bất cứ tự do ngôn luận nào, đến cả việc chào hỏi khi gặp nhau trên đường cũng không dám, chỉ có thể dùng ánh mắt ra hiệu. Khi mọi người im lặng, Chu Lệ Vương tự cho rằng thiên hạ ổn định, dương dương tự đắc khoe khoang với đại thần Thiệu Công. Nhưng không bao lâu sau thì xảy ra bạo loạn khắp nước, Chu Lệ Vương bị lưu đày.


Khổng Tử, ông trùm của chính sách ngu dân

Trong lịch sử Trung Quốc, vị hoàng đế chính thức đẩy mạnh chính sách ngu dân là Tần Thủy Hoàng (259 Tr.CN – 210 Tr.CN) với chính sách tàn bạo “diệt trăm nhà”. Về sau, các hoàng đế và triều đại đều xem chính sách ngu dân là phép màu của sức mạnh chính trị. Có ba cách thực hiện chính sách này:

Một là áp chế dư luận, phong tỏa thông tin, đàn áp văn nhân, thiêu hủy sách vở. Như Tần Thủy Hoàng và Lý Tư “đốt sách chôn nho” chính là cách phong tỏa thông tin, kiềm chế tư tưởng, biến mọi người thành người điếc, người mù; chúng còn đẩy mạnh chính trị KB [5], tước đoạt quyền tự do ngôn luận của nhân dân, biến mọi người thành như người câm. Nhân dân có mắt không được thấy, có tai không được nghe, có miệng không dám nói, biến thành người mù, điếc, câm, như thế kẻ độc tài có thể tùy tiện tự tung tự tác. Tù ngục tắm máu chữ nghĩa trong lịch sử Trung Quốc càng ngày càng tàn khốc, như phong trào kiểm duyệt thư tịch phạm húy trên quy mô rộng của triều đình nhà Thanh là một dẫn chứng kinh điển của “chính sách ngu dân”.

Hai là gạt bỏ trăm nhà, độc tôn Nho gia; cấm cản hết thảy tự do tư tưởng, ngôn luận. Ngoài bạo lực khủng bố, kẻ thống trị còn tìm đến thứ lý luận có lợi mà vô hại đối với kẻ thống trị chuyên chế, xem đó là tư tưởng chỉ đạo để thuần hóa nhân dân. Đề xuất chủ ý này là một bậc thầy và chuyên gia, tên là Đổng Trọng Thư (179 Tr.CN – 104 Tr.CN). Ông ta chủ trương dùng học thuyết Nho gia làm tư tưởng cầm quyền nhằm “giáo hóa” nhân dân. Trong sớ dâng Hán Võ Đế (156 Tr.CN – 87 Tr.CN), ông ấy ghi: “Kẻ không học Lục nghệ (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân, Thu), tư tưởng của Khổng Tử, phải cắt đường thăng tiến, chớ nên tuyển chọn” (Chư bất tại lục nghệ chi khoa Khổng Tử chi thuật giả, tất tuyệt kỳ đạo, vật sử tính tiến). Từ đây, Hán Võ Đế “loại bỏ trăm nhà, độc tôn Nho gia”. Tư tưởng này gây ra nền chính trị tàn bạo, làm cho người Trung Quốc bị mất năng lực sáng tạo và tư duy độc lập về các phương diện văn hóa và khoa học, sau này xã hội Trung Quốc không còn xuất hiện trường hợp như “trăm nhà đua tiếng” nữa.

Ba là tự thần thánh hóa bản thân, mượn danh lừa đời, đặt chuyện hoang đường, tô vẽ cảnh thái bình. Những kẻ độc tài muốn chứng minh bản thân “phụng mệnh Trời”, “duy ngã độc tôn”, “Trời trao anh minh”, “Trời trao năng lực phi phàm”, tự tạo dựng thần thoại dối trá, nào là khi Thái hậu mang thai “giao long quấn lấy”, “mơ Mặt trời nhập thai”; nào là khi Hoàng đế chào đời “gian phòng tỏa hào quang”, “ngoài sân mây tía”… chứng minh Hoàng đế khác người phàm, là “con Trời”, là thánh nhân siêu phàm, được thần thánh trao ngôi báu, có quyền ban quan tước, “khắp gầm trời đâu cũng là đất của vua, người sống trên đó đều là thần dân của vua”. Phàm những lời vua nói đều là lời vàng ngọc, một câu trên cả vạn câu; phàm việc vua làm toàn là vĩ đại anh minh, mãi mãi không có sai lầm. Đồng thời, những kẻ thống trị còn không ngừng tạo dựng những tấm gương giả tạo, bài học giả tạo cho toàn dân học tập, dùng lời hoang đường mê hoặc dân chúng, dùng lời suông trị nước, tô vẽ cảnh thái bình, lừa mình lừa người.

Tóm lại, tinh túy của “chính sách ngu dân” là nhờ vào che giấu, lừa lọc và khủng bố, biến nhân dân thành khờ khạo và ngớ ngẩn. Như thế, kẻ thống trị được hiện thân như vị anh hùng vĩ đại, nhằm củng cố quyền thống trị chuyên chế.

“Đối sách ngu quân” làm kẻ độc tài thành đần độn

Tục ngữ có câu: “Trên có chính sách, dưới có đối sách.” Ở trên thực hiện “chính sách ngu dân”, ở dưới tự nhiên có “đối sách ngu quân”.

Lỗ Tấn (1881 – 1936) tiên sinh từng kể câu chuyện “Vẹt xanh mỏ đỏ”, tổng kết rằng: “Vì hoàng đế và đại thần có ‘chính sách ngu dân’, bách tính cũng tự có ‘đối sách ngu quân’.” Nói phương pháp mà bách tính lừa hoàng đế là “chính sách” thì không chuẩn xác. Câu chuyện “Vẹt xanh mỏ đỏ” chưa hẳn có thật, nhưng lại phản ánh trí tuệ mà bách tính dùng để lừa gạt hoàng đế, một câu chuyện rất điển hình.


Lỗ Tấn, ảnh chụp gần cuối đời.


Trong sách “Hàn Phi Tử” cũng ghi chép lại câu chuyện ngu quân. Tề Tuyên Vương (trị vì 342 Tr.CN-323 Tr.CN) rất thích bắn cung, có thể kéo được cây cung tam thạch. Những kẻ xu nịnh bên cạnh Tề Tuyên Vương khi kéo thử đều giả bộ gắng hết sức nhưng không thể kéo nổi, nói rằng cây cung này có đến cửu thạch. Tề Tuyên Vương nghe thế thì đắc ý, tưởng rằng bản thân là đại lực sĩ, “thứ chưa đến tam thạch, nhưng cả đời tưởng rằng mình có sức kéo cung cửu thạch.” [6]

Loại “ngu quân” tâng bốc này rất phổ biến. Đặc biệt là khi biết cấp trên có hứng thú, sở trường đối với một vấn đề nào đó, cấp dưới sẽ tìm mọi cách dùng nó vào mục đích nịnh hót. Vậy là cái tôi của kẻ độc tài càng lúc càng được bay bổng, dần dần không còn năng lực phán đoán và tư duy chính xác, ngày càng ngu muội. Như câu chuyện thiếu nhi “Áo mới của Hoàng đế” có kể, rõ ràng Hoàng đế đang cởi truồng, nhưng vì những lời xu nịnh của các đại thần mà tưởng rằng mình đang mặc bộ đồ đẹp nhất thế gian. Thậm chí, khi kẻ độc tài nói lời vô nghĩa, kẻ xu nịnh cũng nói rằng “lời vàng thước ngọc”, “nhận định sáng suốt”, cùng tổ chức học theo triệt để, toàn diện. Khắp cả nước đều nhất loạt lấy làm gương để học tập. Thôn lừa xã, xã lừa huyện, cứ thế bên dưới lừa bên trên, lừa lên đến cung điện. Loại hôn quân này chỉ thích được tâng bốc, tưởng đâu thế là vô hại, thực tế nó như thuốc độc mãn tính, làm cho cấp trên ngày càng ngu đần, cởi chuồng chạy khắp nơi đến chết vẫn không nhận ra.

Một cách “ngu quân” nữa là che giấu, lừa dối. Hoàng đế Càn Long (1711 – 1799) có thể xem là vị vua thông minh trong các triều đại, một lần ông ấy hỏi đại học sĩ Uông Do Đội (1692-1758): “Trời chưa sáng mà ông đã thượng triều, đã dùng bữa ở nhà chưa?” Uông Do Đội đáp: “Nhà thần nghèo, bữa sáng chỉ dùng bốn trứng gà.” Càn Long giật mình, nói: “Một trứng gà giá 12 lượng bạc, bốn trứng là 40 lượng. Trẫm không dám xa xỉ như thế, sao khanh có thể nói nhà mình nghèo?” Uông Do Đội bị dọa chỉ biết nói úp mở, ậm ờ cho qua. Nhưng câu chuyện không phải duy nhất. Vốn là mỗi ngày Hoàng đế Quang Tự (1871 – 1908) ăn bốn trứng gà, trong sổ ở ngự thiện phòng ghi lại chi phí là 34 lạng bạc, như vậy giá mỗi trứng gà hơn 8 lạng bạc. Một lần ông ta hỏi thầy dạy mình là Ông Đồng Hòa (翁同龢, 1830 – 1904): “Thứ quý giá này thầy đã dùng chưa?” Ông Đồng Hòa nghe hỏi thì biết thái giám giở trò, nhưng nghĩ nếu nói thật thì đắc tội với các thái giám, bèn đáp: “Thứ quý này, khi thờ cúng vào ngày lễ lớn thì thần thỉnh thoảng mới dùng một chút, bình thường không dùng đến.” Có lẽ các Hoàng đế triều Thanh đều cho rằng trứng gà là đồ ăn quý giá!

Trường hợp nhiều hơn là cấp dưới buộc phải lừa cấp trên, không dám nói sự thật cho cấp trên. Thích nghe lời ngọt là thiên tính của con người. Đặc biệt là kẻ độc tài, ngày ngày bị bọn xu nịnh vây quanh, luôn tưởng rằng mình thông minh biết nhiều, anh minh uy phong. Quen nghe lời xu nịnh, họ không còn nghe được lời không vừa ý nhưng chân thật. Dẫn chứng có vô số trong lịch sử. Vì mọi người đều học cách ngoan ngoãn nghe lời, cấp trên thích nghe gì thì nói vậy. Đây gọi là “bị ép ngu quân”. Như Tần Nhị Thế (229 Tr.CN – 207 Tr.CN) rơi vào nghiện ngập trụy lạc, bị Thừa tướng Triệu Cao (258 Tr.CN – 207 Tr.CN) giấu giếm thông tin. Tần Nhị Thế lờ mờ biết nghĩa quân nổi dậy nhiều như ong, thiên hạ đại loạn, nhưng khi hỏi Triệu Cao, Triệu Cao chỉ thưa: “Chẳng qua là vài tên giặc cỏ, không làm nên trò trống gì.” Bỏ mặc Tần Nhị Thế an tâm hưởng lạc trong cung điện. Cho đến khi Triệu Cao phái con rể vào cung giết Tần Nhị Thế, lúc này Tần Nhị Thế mới vỡ ra, liền trách mắng tên thái giám bên cạnh: “Tại sao ngươi không sớm nói cho ta sự thật?” Thái giám nói: “Tiện nhân không dám nói. Nếu nói sự thật thì sớm đã bị ngài giết chết rồi, sao có thể sống đến giờ?” Câu chuyện về Tùy Dạng Đế cũng có thể xem là điển hình. Ông ta thích nghe lời ngon ngọt, vì thế quần thần chỉ dám báo chuyện vui không dám báo chuyện buồn. Có cung nữ báo lại rằng, bên ngoài có người tạo phản. Tùy Dạng Đế lại cho rằng cô cung nữ có mưu đồ mê hoặc làm loạn, bèn mang giết đi. Vậy là không còn ai dám nói lời thật trước mặt ông ta. Khi thiên hạ đại loạn, ông ta bị khốn trong cung Dương Châu, nhưng vẫn không ai dám nói thật cho ông ta. Điều lạ là, bên ngoài cung, các tướng lĩnh ngự lâm quân cứ điềm nhiên mở hội bàn việc phản loạn mà không phải lo lắng có ai vào cung mật báo; trong cung, các cung nữ đều biết tình thế bên ngoài đã đến mức không thể dẹp nổi, nhưng không một ai dám nói sự thật cho Tùy Dạng Đế. Vậy là chỉ còn mình ông ta chìm trong u mê.

Trên dưới làm nhau cùng ngu

Trong lịch sử, bất kể “chính sách ngu dân” hay “đối sách ngu quân” đều có được “thành công” nhất định. Loại “thành công” này quả là nỗi đau xót của nước, nỗi xót xa của dân.

Lỗ Tấn tiên sinh từng nói: “Xảy ra ngu dân là hệ quả của chính sách ngu dân.” “Chính sách ngu dân” sinh ra ra hàng loạt dân ngu, họ không thể biết được sự thật, trong tình trạng thông tin không có ứng đối, ngày ngày chỉ nghe được những lời dối trá, lời nói dối lặp đi lặp lại mãi được xem thành sự thật. Sự xuất hiện của vô số dân ngu, ở mức độ nhất định giúp gia cố quyền lực của kẻ thống trị độc tài, nhưng đồng thời lại làm cho toàn xã hội bao phủ trong không khí giả dối, bạo ngược, ngu muội, bạo lực, dễ tạo thành thảm họa mang tính toàn quốc.

Cuối đời nhà Thanh, do ảnh hưởng của chính sách bài ngoại mù quáng của triều đình nhà Thanh, các dân ngu thành lập Nghĩa Hòa Đoàn, mê tín vào công phu Trung Quốc, cho là vũ khí [nước ngoài] không làm gì được, rêu rao giúp Thanh diệt ngoại bang, ngăn chặn văn minh bên ngoài. Điều này cũng tương tự cảnh người dân Iraq thề bảo vệ Saddam Hussein, quyết chiến đến cùng với quân Anh và Mỹ. Từ Hy Thái Hậu (1835 – 1908) cũng bị dân ngu lừa gạt, cứ thế tin theo, ngang tàng tuyên chiến với 11 nước mạnh nhất thế giới, mong ngóng Nghĩa Hòa Đoàn diệt ngoại bang, trừ đại nạn. Nhưng rồi chỉ cần tám nước liên kết tổ chức đội quân có 20.000 người, đổ bộ lên từ Thiên Tân, không bao lâu đã đánh đến Bắc Kinh, Từ Hy Thái Hậu và Hoàng đế Quang Tự phải tháo chạy. Đây gọi là “quốc nạn Canh Tý” nhục nhã trong lịch sử Trung Quốc. Quân nhà Thanh cùng hàng trăm ngàn người của Nghĩa Hòa Đoàn đầy hào hùng oai khí nhưng hoàn toàn bất lực, câu chuyện không khác gì cảnh cuộc chiến ở Iraq khi liên quân Anh Mỹ tiến thẳng vào Baghdad.

Từ Hy Thái Hậu chạy thoát thân sang phương Tây mới hiểu rằng đã bị Nghĩa Hòa Đoàn làm cho u mê; khi Saddam bị lính Mỹ lôi ra khỏi hầm, có lẽ mới nhận ra bản thân đã bị người dân của ông ta làm cho mụ mị.

Nhưng khi kẻ độc tài nắm đại quyền trong tay, chỉ vui thích khi hắn thực hiện “chính sách ngu dân” thành công, không nhận ra được rằng chính bản thân cũng bị nhân dân làm cho ngu muội. Trên chỉ thích ca ngợi thái bình, thích lời “khen ngợi” rỗng tuếch, “lòng người như một”, thế là bên dưới cứ thế mà theo, tạo cảnh bình an giả tạo, báo cáo thành tích giả dối. Cấp trên nghĩ ra một chủ ý vụng về, cấp dưới hoan hô sáng suốt như thần thánh, chuyện gì cũng chỉ biết tán đồng.

Tháng Giêng năm 610, Tùy Dạng Đế (569 – 618) không màng đến hoàn cảnh, vì muốn chứng tỏ đất nước hùng cường nên bất ngờ đưa ra ý tưởng kỳ lạ, cho mở hội rầm rộ tại Lạc Dương: Biểu diễn tạp kỹ (xiếc, nhào lộn) long trọng, “thâu đêm suốt sáng, khắp nơi đèn đuốc rực sáng đến tận cuối tháng, tốn kém kinh phí vô kể.” Nhiều nhà buôn các nước Tây Vực cảm thấy kỳ lạ, ở Lạc Dương họ dùng bữa không tốn tiền, nơi ở được miễn phí. Các ông chủ khách điếm thì tự hào nói với người nước ngoài: “Trung Quốc giàu có, tiệc rượu có gì đáng bàn.” Người nước ngoài khi thấy cảnh lụa là quấn quanh những cây đại thụ trên đường phố Lạc Dương, trong khi bên đường có nhiều dân nghèo khổ, họ bèn hỏi thị dân Lạc Dương: “Trung Quốc còn có người nghèo, áo mặc rách rưới, sao có thể dùng thứ này quấn cho cây?” Người được hỏi ngượng ngùng không thể trả lời. Tùy Dạng Đế vốn muốn làm công trình này để thể hiện hình ảnh thời đại rực rỡ, “khắp nơi hướng về”, không ngờ lại thành trò hề, để lại trò cười cho hậu thế.

Nhà văn Václav Havel, là cựu Tổng thống Cộng hòa Séc (Czech Republic – DCVOnline), khi bàn về thời hậu toàn trị [7] đã chỉ ra, trò ngụy trang, biểu diễn và trang trí màu mè, giả tạo là đặc điểm cốt lõi của xã hội toàn trị. Cuộc sống trong thời đại toàn trị là sống trong không khí giả dối, mọi người muốn sống phải giả dối, phải chấp nhận làm bạn với giả dối.

Thực tế, ở thời hậu toàn trị, chế độ chuyên chế làm toàn xã hội cùng ngu, từ trên xuống dưới, dối trá trở thành dầu bôi trơn duy trì hoạt động của xã hội toàn trị. Kẻ thống trị độc tài xa rời dối trá thì không thể duy trì được quyền lực; quốc dân không dối trá thì khó bề tồn tại. Trên dưới cùng ngu làm xã hội Trung Quốc chìm trong bể che giấu và lừa bịp, không thể tự thoát khỏi.

Khác biệt giữa thời toàn trị và hậu toàn trị là, trong thời toàn trị, “chính sách ngu dân” của kẻ độc tài tạo ra hàng loạt dân ngu, còn “đối sách ngu quân” của các thần dân lại làm cho kẻ độc tài sống trong u tối, trở thành hôn quân. Trên dưới cùng ngu, không ai được thức tỉnh. Còn ở thời hậu toàn trị, đa số mọi người đã nhận thức rõ chiêu trò vụng về của “chính sách ngu dân”, nhưng bề ngoài vẫn giả dạng tin theo, giả điếc giả câm, lòng thì vui mừng khi thấy nó thất bại; trong lòng kẻ độc tài cũng hiểu rõ “đối sách ngu quân” của dân chúng, nhưng cũng giả bộ tin theo.

Phải nhấn mạnh, trên dưới cùng ngu không chỉ là hoàng đế làm ngu dân, dân chúng làm ngu hoàng đế, mà là theo tầng bậc từng cấp mắt xích, hình thành sợi xích với vô số mắt cùng làm ngu nhau. Mỗi cá nhân đều là một mắt xích của sợi xích, tức kẻ lừa người cũng bị người lừa.

Dù sao, một xã hội mà trên dưới cùng ngu không phải một xã hội khỏe mạnh, càng không thể là xã hội hài hòa. Chỉ cần thể chế toàn trị còn tồn tại, trên dưới cùng ngu là không thể tránh khỏi. Chỉ có xây dựng được cơ chế ràng buộc quyền lực hiệu quả, nhân dân có đủ tự do ngôn luận, mới có thể hy vọng đánh bật gốc quy luật “trên dưới cùng ngu”.

Nguồn: “李忠琴:中国历史上的愚民政策”

hx.cnd.org, 26.09.2017

Chú thích:

[1] Định luật đũa ngà voi (Tượng nha khoái, 象牙筷): Chỉ kẻ lên cầm quyền bắt đầu sa đọa, phung phí, trác táng… Câu chuyện kinh điển: vua Trụ tại vị không bao lâu thì lệnh cho làm cho họ đôi đũa ngà voi. Hiền thần Cơ Tử thấy thế lo lắng nói, “đũa ngà voi không thể đi cùng đồ sành sứ, phải đi cùng chén tê giác, ly bạch ngọc. Ly ngọc không thể chứa lương thực rau dại, chỉ để dùng sơn hào hải vị. Dùng sơn hào hải vị không thể mặc đồ sơ sài, ở nhà tranh, phải mặc gấm vóc, đi kiệu hoa, ở nhà lầu. Trong nước không thỏa mãn được, phải ra ngoài tìm kiếm báu vật quý hiếm. Thần lo thay cho người.”

* Định luật thỏ chết chó hầm (thỏ tử cẩu phanh, 兔死狗烹): Sau khi tận tâm cống hiến hết sức lực cho kẻ thống trị thì bị kẻ thống trị giết bỏ. Câu chuyện kinh điển: Việt Vương Câu Tiễn vì báo thù rửa hận, nằm gai nếm mật, tinh thần thật phi thường. Nhưng phẩm cách của Việt Vương Câu Tiễn rất tệ. Trong tình hình gian khổ tột cùng đã có hai công thần giúp ông ta, nhưng sau khi thành đại nghiệp thì một người bị giết chết, một người phải tháo chạy thoát thân

* Định luật bao vây [xu nịnh] (bao vi, 包 围): Một người đứng đầu (vua chúa…) luôn có vài người bao vây xung quanh nịnh hót, hệ quả là làm cho người này ngày càng ngu đần, có xu thế biến thành gần như con rối. Đây là định luật bao vây, diễn ra thường xuyên trong lịch sử Trung Quốc. Câu chuyện kinh điển: Trong “Xuất sư biểu”, Gia Cát Lượng đã luận về hưng vong của thiên hạ, “thân cận bề tôi tài đức, tránh xa tiểu nhân, thời Tiên Hán hưng thịnh nhờ thế; thân tiểu nhân, xa bề tôi tài đức, thời Hậu Hán bại suy vì vậy.” Tuy gian thần và tiểu nhân bị người người khinh bỉ, nhưng chúng lại chiếm giữ vị thế quan trọng trong lịch sử Trung Quốc, quyết định hưng vong của một triều đại

* Định luật dè chừng kẻ thù (thù giới, 敌戒): Nghĩa là bản thân chỉ mạnh mẽ hơn nhờ lòng cảnh giác, tranh đấu với kẻ thù

* Định luật bè đảng (bằng đảng, 朋党): Tình trạng kéo kết bè phái làm sụp đổ triều đại

* Định Luật Hoàng Tôn(黄宗): Dựa vào tổng kết của nhà tư tưởng triều Thanh là Hoàng Tông Hy (黄宗羲, 1610-1695), theo đó, trong lịch sử Trung Quốc, vấn đề cải cách thuế khóa diễn ra liên miên, nhưng qua mỗi lần cải cách, sau khi người nông dân được hưởng mức thuế hạ thấp một thời gian thì lại chịu một mức khác cao hơn lúc trước cải cách

* Định luật xử trảm năm đời (五世而斩): Công danh sự nghiệp của một người có ảnh hưởng đến nhiều đời sau (7).

* Định luật quyền lớn hiếp chủ: Lịch sử Trung Quốc hàng ngàn năm luôn có khởi đầu và kết thúc theo kiểu “quyền lớn hiếp chủ” làm suy sụp triều đại: con Sở Thành Vương (楚成王, ?-626 TCN) ép Sở Thành Vương tự sát; công tử Quang của nước Ngô phái thích khách Chuyên Chư (专诸, ? – 515 Tr.CN) hành thích Ngô vương Liêu thành công và lên ngôi vương, tức Ngô vương Hạp Lư; thời Tây Hán có Vương Mãng soán ngôi, thời Tấn có loạt bát vương, do tám vị vương họ Tư Mã thuộc hoàng tộc nhà Tây Tấn gây ra từ năm 291 tới năm 306, làm nhà Tây Tấn suy yếu và khởi nguồn của loạn Ngũ Hồ Thập lục quốc của các tộc người tại Trung Nguyên dẫn đến sụp đổ nhà Tây Tấn; thời Tam Quốc có Tào Tháo… Triều Thanh (cuối thời Phong kiến Trung Quốc), Viên Thế Khải lộng quyền, đánh dấu hồi kết của vương triều này

* Định luật da lông (皮毛): từ sau khi Tần Thủy Hoàng “đốt sách chôn nho”, giới trí thức Trung Quốc biến thành “lông”, chỉ còn làm phụ họa cho người chủ/lãnh đạo (da), họ không còn tư tưởng độc lập, đánh mất chính mình

* Chính quyền từ báng súng: Chỉ Trung Quốc không có dân chủ, lịch sử Trung Quốc thường chỉ dựa vào đấu tranh vũ trang để giành chính quyền (10).

[2] Nguyên văn: Cổ chi thiện vi đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi. Dân chi nan trị, dĩ kỳ trí đa (古之善为道者,非以明民,将以愚之。民之难治,以其智多).

[3] Nguyên văn: Thị dĩ thánh nhân chi trí, hư kỳ tâm, thực kỳ phúc, nhược kỳ trí, cường kỳ cốt, thường sử dân vô tri vô dục (是以圣人之智,虚其心,实其腹,弱其智,强其骨,常使民无知无欲).

[4] Nguyên văn: Dân khả sử do chi, bất khả sử tri chi (民可使由之,不可使知之).

[5] Mật vụ KGB của Liên Xô cũ?

[6] Thạch (石): Cách tính độ nặng khi kéo cây cung của thời cổ đại Trung Quốc, một thạch cần sức kéo 60 cân.

[7] Hậu chủ nghĩa toàn trị là giai đoạn mà động lực ban đầu của chủ nghĩa toàn trị đã suy kiệt. Kẻ nắm quyền lực đã không còn tính tôn nghiêm và sức sáng tạo mà những thế hệ quyền lực trước từng có. Tuy vậy, về đại thể thì thể chế vẫn vận hành nguyên trạng, do quán tính hoặc tính trơ ỳ

Nguồn bài đăng : dcvonline.net

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Có nhẽ anh Bá bị điên?

THƠ GỬI BÁC TRỌNG
Thái Bá Tân - FB 
Còn ta, nếu mất đảng,
Chuyện gì sẽ xẩy ra?
Thưa bác, xin nói thật,
Là phúc cho nước nhà
Bác nói: “Nếu mất đảng,
Mất chế độ hiện nay
Sẽ là mất tất cả”.
Thật khó hiểu câu này.

Đảng chỉ là tổ chức,
Bé nhỏ và nhất thời.
Nhân dân và tổ quốc
Mới vạn đại, muôn đời.

Nghe bác nói như thế,
Tôi chẳng hiểu thế nào.
Là giáo sư, tiến sĩ,
Một người học vấn cao,

Bác không thể không biết,
Mọi vấn đề của ta,
Cách này hay cách nọ,
Từ cộng sản mà ra.

Nước khác không cộng sản,
Nên không có chiến tranh.
Cũng không có cái chết
Của nhiều triệu dân lành.

Ta, rừng vàng biển bạc,
Dân thông minh, anh hùng.
Nhưng cũng vì cộng sản
Mà thua kém nhất vùng...

Chưa nói chuyện đạo đức,
Xã hội và con người.
Bác cứ ngẫm thì biết.
Đau không nói nên lời.

Cuộc sống luôn thay đổi.
Chế độ cũng thay theo.
Cũng thế, đảng của bác
Đã đổi mới rất nhiều.

Một cái ta mơ ước
Và đeo đuổi trước đây
Bây giờ không phù hợp.
Không phù hợp thì thay.

Như thế là biện chứng
Và cũng hợp lòng dân.
Vậy thì thay, một lúc
Hoặc từng bước, dần dần.

Mất đảng, mất chế độ,
Nhưng các nước Đông Âu
Không hề “mất tất cả”,
Mà văn minh và giàu.

Còn ta, nếu mất đảng,
Chuyện gì sẽ xẩy ra?
Thưa bác, xin nói thật,
Là phúc cho nước nhà.

Tôi vốn quí trọng bác.
Góp đôi lời chân thành.
Kính bác và chúc bác

Một Giáng Sinh Yên Lành.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Năm, 14 tháng 12, 2017

Sài Gòn giải phóng tôi


Tuỳ bút

Mãi tới ngày 30 tháng 4  năm 1975 tôi mới biết thế nào là  ngày sinh nhật.  Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến  mỗi kì chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.

         Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông  hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng  và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời diệu kì.
         Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.
         Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ giành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có.
         Thằng Minh khoe cái cassete ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassete là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973  quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassete của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có. Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế.  Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên,  không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bỉu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casete, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong  Sơn ca số 7. Kết thúc Sơn ca số 7thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!
Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon.  Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn.
Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong  biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn.
Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác, tôi  bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy giành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ  bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên.  Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí.
Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt.
Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt.
Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Captain, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt.
Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải.  Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có  cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân vàHành trình trí thức của Karl Marx  của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác - Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác - Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn.
Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị. Tôi thì rất vui vì biết mình đã được giải phóng.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Công ty Trung Quốc để lộ tin đang xây trại tị nạn gần Triều Tiên


Cẩm Bình (theo Straits Times, The Japan News)






















MTG - Một công ty viễn thông nhà nước Trung Quốc tiết lộ giới chức tỉnh Cát Lâm, tỉnh ở khu vực đông bắc Trung Quốc giáp với CHDCND Triều Tiên, đang xây dựng nhiều trại tị nạn có sức chứa hàng ngàn người, nhằm ứng phó với trường hợp một cuộc khủng hoảng có thể bùng nổ ở bán đảo Triều Tiên.

Thông tin này xuất hiện trong tài liệu mà Công ty China Mobile đăng trên trang Weibo của mình. China Mobile cho biết theo yêu cầu của chính quyền địa phương, một giám đốc của công ty ngày 2.12 đã đi khảo sát 5 địa điểm tại Cát Lâm để xem liệu có cung cấp dịch vụ mạng internet cho những nơi này hay không.

Địa điểm được chọn nằm tại 3 làng thuộc huyện tự trị dân tộc Triều Tiên Trường Bạch và 2 thị xã Đồ Môn, Hồn Xuân ở Cát Lâm. Theo tài liệu của China Mobile, vì tình hình biên giới Trung-Triều thời gian qua có vẻ căng thẳng, nên chính quyền phải lên kế hoạch lập 5 điểm tị nạn trên.

Trang Straits Times cho biết Đồ Môn, Hồn Xuân là những nơi đã nhận nhiều người chạy từ Triều Tiên sang Trung Quốc trong 20 năm qua, và họ sau đó tiếp tục đến Hàn Quốc hoặc Đông Nam Á.

Straits Times dẫn lời một thương nhân giấu tên tiết lộ địa điểm được chọn xây trại tị nạn đều là đất nhà nước, và tại một số điểm đã xây một số căn nhà tạm.

Khi được hỏi, ông Lục Khảng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, ngày 11.12 không phủ nhận sự tồn tại của những trại tị nạn đang được xây ở Cát Lâm, nhưng ông cho biết mình không biết về kế hoạch xây trại tị nạn này. Phía giới chức huyện Trường Bản và đại diện China Mobile hiện từ chối bình luận chuyện này.

Tỉnh Cát Lâm nằm ở phía đông bắc Trung Quốc, có đường biên giới dài 1.200km với Triều Tiên và cũng gần với điểm thử hạt nhân Punggye-ri của Bình Nhưỡng. Vào tuần trước, tờ Nhật báo Cát Lâm, báo địa phương của tỉnh, đã dành cả một trang để đăng bài viết hướng dẫn độc giả Trung Quốc cách tự vệ, trong trường hợp xảy ra một vụ tấn công hạt nhân.

Theo ông Trương Liễm Quế, giáo sư nghiên cứu chiến lược quốc tế thuộc Trường đảng trung ương Trung Quốc, khi căng thẳng tại bán đảo Triều Tiên đang gia tăng thì chuyện Cát Lâm cho xây trại tị nạn là hoàn toàn hợp lý.

Giáo sư Trương cho biết: “Xung đột giữa Mỹ và Triều Tiên đang có nguy cơ xảy ra cao. Những gì mà Trung Quốc làm ở đây là chuẩn bị bất cứ tình huống nào”.

Ngoài Cát Lâm, tỉnh Liêu Ninh cũng đã có động thái bất thường. Chính quyền địa phương thông báo đóng cầu Hữu nghị Trung-Triều nối thành phố Đan Đông của tỉnh này với thành phố Sinuiju của Triều Tiên trong vòng 10 ngày, kể từ ngày 11.12. Lý do đóng cầu được đưa ra là để phía Bình Nhưỡng tiến hành sửa chữa.

Đồng thời với thông báo đóng cầu, hải quan thành phố Đan Đông, đơn vị chịu trách nhiệm xử lý hơn 70% hoạt động thương mại Trung-Triều, cũng được yêu cầu tạm ngừng làm việc, trang The Japan News cho biết.

Theo nhiều nhà quan sát, bằng cách hạn chế thương mại và giao lưu tại Liêu Ninh, Trung Quốc đang gửi đi cảnh báo đến Triều Tiên.

Trang The Japan News dẫn một nguồn tin hiểu rõ quan hệ Trung-Triều cho biết Bắc Kinh trước đó đã báo cho Bình Nhưỡng rằng sẽ đóng cầu Hữu nghị vào cuối tháng 11, nhưng do phía Bình Nhưỡng gửi văn bản phản đối nên kế hoạch bị dời đến tháng 12.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đã đến lúc... phạm nhân làm theo năng lực hưởng theo sản phẩm?



FB Lê Phi
Với mật độ tội phạm dày đặc được bắt giữ trong thời gian qua, thật sự đáng lo ngại cho vấn đề cơ sở hạ tầng, quản thúc và làm tăng chi tiêu ngân khố quốc gia. 

Tính từ năm 2008 đến 2015, bình quân hàng năm, số lượng người có án phạt tù tăng khoảng 10-12%. Với sự đóng góp thành viên đã, đang và sẽ nhập kho của các bank, tập đoàn dầu khí, cao su...chắc chắn thời gian tới sẽ có biến động mạnh, gia tăng số lượng tân binh cho màu áo Juventus.

Không còn diệt ruồi mà bây giờ đã luôn hổ và lò được đốt bằng bank, dầu khí, cao su thì chả khác nào lò bát quái. Tất cả đều không có ngoại lệ, kể cả ủy viên bộ chính trị- chưa từng có tiền lệ.

Tội phạm tham nhũng đã vào tù rồi vẫn tiếp tục góp phần gia tăng số nhà tù, chi phí và nhân sự, hao tổn tiền thuế nhân dân. Ước tính, chi phí trung bình cho một phạm nhân một năm khoảng 9.950.000 đồng (chỉ gồm chi phí đầu tư cho việc sửa chữa cơ sở giam giữ, giáo dục cải tạo, thực hiện chế độ, chính sách đối với phạm nhân).

Theo số liệu của Bộ Công an, các trại giam thuộc Bộ Công an vẫn đang quản lý, giam giữ 129.180 phạm nhân (115.299 nam, 13.881 nữ); các trại tạm giam, nhà tạm giữ quản lý, giam giữ 4.803 phạm nhân; số đối tượng bị kết án tù đang hoàn thiện thủ tục để thi hành án là 16.359 (tính đến tháng 12-2015). Điều này đã làm dấy lên những lo ngại nhất định.

Hệ thống trại giam thuộc sự quản lý của Cục Cảnh sát Quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng (Cục V26) trực thuộc Bộ Công an từ năm 1996 đến năm 2009. Năm 2009, Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ Tư pháp, Bộ Công an (Tổng cục thành lập trên cơ sở cục V26. Từ 2009 đến nay, tổng cục 8 quản lý 53 trại giam, 5 cơ sở giáo dục bắt buộc và 3 trường giáo dưỡng.

Có một điều khá trái ngược trong vấn đề phạm nhân, nhà tù của chúng ta so với một số nước, điển hình là Hà Lan và Thủy Điển. 

Chính phủ Hà Lan cho biết, sẽ đóng cửa 5 nhà tù, và hậu quả là 1.900 nhân viên nhà tù sẽ bị mất việc.

Theo báo cáo của Bộ trưởng Hà Lan về an ninh và thực thi luật pháp, tỷ lệ tội phạm giảm mạnh trong những năm gần đây, trung bình mỗi năm giảm khoảng 0,9%. Hà Lan đã bye bye 8 nhà tù năm 2009, và đóng cửa 19 nhà tù khác trong năm 2014. 

Trong khi đó, số nhà tù của Thụy Điển giảm khoảng 1% mỗi năm từ năm 2004 đến năm 2011. Sau đó, từ năm 2011 đến năm 2012, số nhà tù giảm 6%. Trong năm 2013, Thụy Điển đã công bố đóng cửa 4 nhà tù và một cơ sở cải huấn khác.

Có lẽ, đã đến lúc cần tính toán tới việc phạm nhân làm theo năng lực hưởng theo sản phẩm. Lao động là vinh quang. Có làm thì có ăn, đặc biệt là đối với các tội phạm liên quan đến tham nhũng. Ngân khố quốc gia không thể tiếp tục đổ ra để nuôi những người đã gặm nhấm tài sản của dân tộc. Bên cạnh việc kí các Hiệp định về dẫn độ tư pháp với các nước, cần tham vấn Hà Lan và Thụy Điển về cách làm thế nào để sớm đóng cửa các nhà tù, người dân và cả quan chức không giám phạm tội.


Phần nhận xét hiển thị trên trang