Thế chiến thứ hai có một trận đánh cực kỳ dài và khốc liệt giữa liên quân phe trục do Phát xít Đức lãnh đạo và quân Liên Xô. Đó là trận Stalingrad. Trận đánh đẫm máu này làm phe Đức chết khoảng gần 1 triệu lính, bên Liên Xô chết khoảng hơn 1 triệu lính.
Nhận xét về phía ý thức hệ của trận đánh này, có người nói đây là trận đánh của phe Hegel cánh hữu (nước Đức theo chủ nghĩa phát xít) đánh nhau với Hegel cánh tả (nước Nga theo chủ nghĩa Stalin).
Đầu những năm 1960, cả ông Nhu và ông Duẩn đều hiểu nếu hai miền thực sự phải đối đầu bằng quân sự chính quy, thì Nam Việt Nam với đường lối cánh hữu nhuốm màu phát xít mới của ông Nhu sẽ phải đánh nhau bằng chiến tranh quy ước với Bắc Việt Nam lúc này đầy chất Stalin. Ông Nhu đi tới thỏa hiệp, bí mật gặp gỡ phe miền bắc để đàm phán, rồi bị Mỹ giật dây lật đổ và sát hại. Có thể xem bài này, search theo từ khóa Lou Conein để biết quá trình Mỹ dựng và lật đổ đệ nhất cộng hòa ở Nam Việt Nam, và nếu có thời gian xem bài này về ông Nhu.
Trong phim Vietnam War của Ken Burns, khoảng tập 5, sẽ thấy thời kỳ trước khi Diệm và Nhu bị lật đổ, ông Duẩn và quân đội của ông đã rất tin vào thành công của việc thống nhất hai miền bằng vũ trang trong tương lai rất gần. Điều này rất hiện thực, và có thể đó là lý do chính để ông Nhu bí mật đàm phán với miền bắc.
Tiếp theo, phim Vietnam War cho thấy cái chết của Diệm-Nhu, rồi cái chết của Kennedy, dẫn đến việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam năm 1965 (Diệm chống Mỹ đưa quân vào, Kennedy thì không mặn mà việc đưa quân sang, sau khi hai vị tổng thống này bị sát hại, Johnson đưa quân đến Việt Nam). Việc quân Mỹ vào Việt Nam đã làm đảo lộn kế hoạch của ông Duẩn. Trước một bàn cờ thế hoàn toàn mới, ông Duẩn đã buộc phải chơi những nước cờ hoàn toàn khác.
Trong tập 6, 7 và 8 của Vietnam War, những trận đánh của Lê Duẩn, mà đỉnh điểm là trận Mậu Thân và các trận tiểu Mậu Thân sau đó, đã dẫn đến hiệp định Paris. Những diễn biến này và tác động của nó đến Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, trừ trận Quảng Trị, được nói khá rõ trong phim. Có vẻ như nhìn từ phía Mỹ, trận Quảng Trị không liên quan nhiều đến đàm phán Paris, thay vào đó họ đề cao giá trị vụ dùng B-52 ném bom Hà Nội Noel 1972 nhiều hơn. Họ cho rằng nhờ vụ ném bom tàn khốc này mà phía Bắc Việt Nam quay lại ký hiệp định. (Phía Việt Nam lại cho rằng nhờ đánh Quảng Trị mà Mỹ xuống thang).
Schopenhauer là một người rất ghét Hegel. Schopenhauer đã đã từng bảo Hegel là dư luận viên ăn lương của nhà nước độc tài Phổ, từng bảo Hegel là thằng lăng nhăng não phẳng. Schopenhauer vùi dập lý thuyết “ý thức tập thể – collective consciousness” của Hegel, và đề cao Ý chí (Will) cá nhân. Nhưng ông Duẩn dường như dung hòa được cả hai luồng tư tưởng ấy.
Ý chí cá nhân của ông Ba Duẩn là thống nhất hai miền bằng vũ trang. Tiếng Việt hồi đó gọi là “quyết tâm”: Quyết tâm giải phóng miền nam thống nhất đất nước.
Và ông Ba Duẩn, bằng bàn tay sắt và phong cách tuyên truyền thô sơ nhưng kiên trì thông não, đã biến ý chí cá nhân của mình thành “ý thức tập thể” của toàn miền bắc.
Nhưng Schopenhauer cũng nói: “Man can do what he wants, but he cannot will what he wants.” Will ở đây là ý chí, là ham muốn. Đây là một lập luận về free will. Ông Duẩn có thể tự do làm những gì ông ấy muốn. Nhưng ông ấy không có tự do để chọn cái ông ấy muốn. Ông ấy, cho đến hôm nay ai cũng thấy, đã tự mình làm nên lịch sử, nhưng ông ấy làm ở dưới những điều kiện lịch sử không phải do ông ấy chọn.
Ngay cả việc “chọn” bỏ hoạt động trực tiếp ở Miền Nam mà đi ra Hà Nội làm chính trị đỉnh cao cũng không phải tự ông Duẩn lựa chọn. Người chọn là ông Hồ. Anh Ba Paul Thành, người đi khắp thế giới đã chọn anh Ba Duẩn, người chủ yếu đi tù và hoạt động ở miền Nam. Anh Ba Paul Thành là nhân vật lịch sử có nhiều chuyện còn phải bàn, nhưng có một chuyện không cần phải bàn, đó là anh sử dụng người cực giỏi.
Năm 1957, Lê Duẩn được Hồ Chí Minh gọi từ Nam ra Bắc, rồi trở thành bí thư thứ nhất. Người Mỹ gần như không biết gì về cá nhân Lê Duẩn và vai trò của ông này trong chính quyền Bắc Việt Nam, cho đến khi Hồ Chí Minh qua đời.
Sau hiệp định Paris năm 1973, ông Duẩn thấy Miền Bắc không còn phải đánh nhau với quân đội Mỹ, một nhiệm vụ có lẽ tự ông cho rằng chỉ có ông mới làm được, ông bèn giao việc đánh nhau cho ông Giáp. Đoạn này phim Vietnam War chả hiểu có ý có tứ thế nào lại cứ bô bô nói ra. Thế là ông Giáp, người cả đời chưa vào đến miền nam (trong hồi ký của chính ông, ông kể mình mới đi đến nam trung bộ, hồi năm 1945, đã bị “bác” gọi ra), cầm quân miền bắc đánh nhau với quân miền nam. Một cuộc chiến mà trong phim Vietnam War nói là “nội chiến”. Ông Duẩn thật là kỳ tài, nhìn đủ xa để tránh hết một cuộc đổ vỏ về sau, mà đến nay ai cũng biết là một cuộc đổ vỏ vô cùng kinh khiếp.
Thế rồi Arthur Schopenhauer, triết gia bi quan của nước Đức thế kỷ 19 lại có lần nói:“không có bông hồng nào không có gai, nhưng rất nhiều cái gai không hề có hoa hồng – no rose without a thorn, but many a thorn without a rose.”
Chiến thắng cũng vậy, chiến thắng nào cũng có chết chóc, nhưng rất nhiều cái chết lại không có chiến thắng.
Cuối cùng thì ta vẫn phải tin vào điều Niels Bohr muốn nói: “Đối lập với một phát biểu chính xác là một phát biểu sai lầm. Nhưng đối lập với một chân lý/sự thực [truth] sâu xa [profound] có thể là một chân lý/sự thực sâu xa khác.”
Trong cuộc chiến mà lẽ ra tên gọi phải là Cuộc chiến tranh Đông Dương lần 2, lại có quá nhiều sự thực sâu sắc.
***
Về bộ phim Vietnam War của Burns và Novick
Nhà vật lý nguyên tử và vật lý lượng tử Niels Bohr có nói: “Đối lập với một phát biểu chính xác là một phát biểu sai lầm. Nhưng đối lập với một chân lý/sự thực [truth] sâu xa [profound] có thể là một chân lý/sự thực sâu xa khác.”
Phim Vietnam War của Burns và Novick nhắm đến khán giả, và có lẽ là khán giả trẻ, người Mỹ; nhưng không có lý gì mà người Việt, nhất là người Việt trẻ lại không nên xem.
Burns và Novick đều tương đối trẻ so với bộ phim. Burns sinh năm 1953, còn Novick sinh 1962. Khi họ trưởng thành thì chiến tranh Việt Nam đã kết thúc. Còn khán giả, tôi đoán, phần lớn khán giả của bộ phim này (cả Mỹ và Việt) đều trưởng thành sau khi Mỹ Việt đã bình thường hóa quan hệ hai nước.
Nhưng trẻ không có nghĩa là mất đi quyền truy tìm một sự thực sâu xa, về một cuộc chiến tranh (đã xa) đẫm máu, gây chia rẽ và đổ vỡ xã hội và lòng người. Và hơn hết, các sự thực sâu xa mà những người trẻ sẽ tìm ra, qua phim này và các tư liệu khác, sẽ đối lập nhau nhưng không triệt tiêu nhau. Với các khán giả Việt Nam, những sự thực trong phim này, dù chưa sâu xa lắm, cũng sẽ giúp các họ hiểu được thêm những gì cần hiểu.
Với cá nhân tôi, ba tập đầu của bộ phim, ngoại trừ nhạc khá hay, thì phim ương đối xoàng. Chất lượng chỉ hơn phim VTV một tý, mà lại thấp thoáng mùi tuyên truyền của miền bắc (có lẽ là do vấn đề tư liệu, các nhà dựa vào nhiều tư liệu chính thống của Việt Nam) nên có những sai lệch không đáng có (thậm chí có chỗ sai rất ngớ ngẩn) với một bộ phim tài liệu.
Từ tập 4 trở đi thì hay hơn. Tập 6 và 7 tôi rất thích. Ai không có thời gian xem cả 10 tập phim này, có thể chỉ xem tập 6 và 7. Tập 6, nhạc phim cực hay. Còn tư liệu thì tàn khốc và đau lòng không thể nào tả được. Tập 6, và nhất là 7, sẽ cho khán giả Việt Nam nhìn sâu hơn vào chính trường Mỹ. Những chia rẽ, rối loạn trong chính đảng và xã hội Hoa Kỳ mà người Việt Nam mới gần đây được biết qua bầu cử mà Trump thắng, sẽ chả là gì so với năm cuối nhiệm kỳ của Johnson. Xem tập 7 xong khán giả còn lờ mờ hiểu tại sao Mỹ, với cách thực hành thực dụng kiểu bọn vay nặng lãi bất chấp đạo đức của Kissinger, đã bỏ Việt Nam nằm tênh hênh bên bờ biển để quay qua lén lút làm phi công lái máy bay Tàu Khựa.
Nói về điểm cộng, bộ phim này đã đánh giá (đề cao hơn) về vai trò của Lê Duẩn, về sách lược “giải phóng” miền Nam bằng vũ trang, và giá trị phải trả bằng rất nhiều máu của Mậu Thân trong “đại cục” của cuộc chiến.
Nói về điểm trừ, vì bộ phim có vẻ né tránh vai trò (lặng lẽ) của Mỹ ở Việt Nam sau 1945 nên họ đã bỏ qua việc Mỹ can thiệp vào các phe phái chính trị, tôn giáo ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1945 -1953. Nhiều lực lượng chính trị, và cả quân đội Việt Nam Cộng Hòa ra đời được là nhờ sự giúp đỡ của Mỹ. Phim hoàn toàn không nói đến việc này (tuy có nói loáng thoáng ở ngoài Bắc thì OSS giúp xây dựng quân đội Việt Minh, sau này là kẻ thù của họ). Và bởi vậy vai trò của quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong phim này rất mờ nhạt. Một cuộc chiến tranh, mà quân đội của một bên tham chiến, lại gần như không được nhắc đến, hoặc nhắc đến rất tiêu cực. Đây là điều vô cùng đáng tiếc. Đáng tiếc không chỉ cho những khán giả Việt Nam mà còn rất đáng tiếc với những khán giả Mỹ muốn hiểu hơn về Iraq, về Taliban, … tức là những chiến trường và những kẻ thù khác mà Mỹ đã và đang tham chiến.
Nói về các sai sót, có nhiều sai sót nhỏ, nhưng cũng có sai sót lớn. Ví dụ sai sót khi cho rằng Albert Peter Dewey bị “giết nhầm”. Làm sao một sĩ quan Mỹ, đã từng gặp mặt trực tiếp các lãnh đạo cao cấp Việt Minh ở Sài Gòn, những người từng du học ở Pháp về như Phạm Ngọc Thạch, Dương Bạch Mai, Trần Văn Giàu, mà lại có thể bị “giết nhầm” được cơ chứ. Mà Dewey là sĩ quan Mỹ đầu tiên bị giết ở VN. Đến mức HCM phải gửi thư xin lỗi và hứa tìm xác (đến nay vẫn chưa tìm được). Đôi lúc tôi nghĩ, công viên Gia Định, nơi Dewey bị giết, chính quyền Việt Nam nên đổi tên thành công viên Dewey, để nhớ về nơi bắt đầu một cuộc chiến.
(Ai quan tâm về Dewey, có thể đọc thêm ở đây).
5 xu Blog
Phần nhận xét hiển thị trên trang