Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 5 tháng 12, 2017

Hà Nội

Chưa có đánh giá nào
Thể thơ: Thơ tự do
Thời kỳ: Hiện đại
1 bài trả lời: 1 thảo luận
1 người thích
Từ khoá: thơ phổ nhạc (510) Hà Nội (286)
Đăng bởi Anima Mia vào 23/10/2014 22:25, đã sửa 1 lần, lần cuối bởiAnima Mia vào 23/10/2014 22:27, số lượt xem: 1910
Hà Nội ơi, tôi đã cất giữ người cẩn thận 
Như dưới làn da kia dẫu đã héo nhàu, máu vẫn âm thầm chảy 
Hà Nội ơi, nguồn mộng mơ dày như cỏ mùa xuân 
Mỗi khi tôi thấy mình xơ xác 
Tôi lại về đánh cắp 
Dẫu một chút bóng đêm trên đường phố Khâm Thiên 
Dẫu một mảnh lá vàng còn ướt nước Hồ Gươm 
Tôi rung lên mỗi khi chạm bóng cửa ô 
Như được chạm vào vai gầy áo mẹ 
Tôi bé nhỏ và tôi vẫn thế 
Trái tim luôn xao động 
Như bên trong vẫn đầy ắp sóng Hồ Tây 

Vội vã trở về, vội vã ra đi 
Chẳng kịp nhận ra từng con phố 
Nhưng trong tôi vững bền đến thế 
Những chiếc lá nhìn tôi vẫn mắt tuổi học trò 
Những vòm cổ nghiêng xuống tôi hơi ấm 
Thầm thì lời của rêu phong 
Sâu đến nỗi bàng hoàng lạc tới ngàn năm 

Những chiều thu hăm hở tôi đi 
Hồn đánh võng với hơi giăng thấp thoáng 
Từ gốc cây già đến mặt hồ sương 
Từ ngàn xưa đến tận hôm nay 
Quán ngập lá và mắt em đen thế 
Rượu không say, chỉ đủ để buồn thôi! 

Tôi vẫn về Hà Nội của tôi 
Sau những ngày dài khô khốc 
Để thẫn thờ uống từng vết nắng mưa 
Chạy mệt nhoài trên những quảng trường sạm gió 
Mỗi lần ra đi 
Nặng nề như có chửa 
Và vội vàng của một kẻ tham lam 
Vì bất cứ vòm cây nào trên những đại lộ 
Cũng có thể đòi tôi trả lại màu xanh!

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phú Quang phổ nhạc thành bài hát Hà Nội ngày trở về.



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Full HD - Hà Nội ngày trở về - Trọng Tấn

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hồi đáp ra sao khi bị yêu cầu đóng các quỹ cuối năm?


FB Nguyễn Anh Tuấn 5-12-2017 - Pháp luật hiện hành chỉ yêu cầu người lao động đóng Quỹ Phòng chống Thiên tai với số tiền là 15,000 VND/năm (theo Nghị định 94/2014/NĐ-CP*), còn tất cả các quỹ khác đều dựa trên tinh thần tự nguyện. Dịp cuối năm, các hộ gia đình thường bị yêu cầu đóng nhiều khoản quỹ khác nhau từ chính quyền địa phương, thông qua ông (bà) Tổ trưởng Dân phố. Tuy cảm thấy bất hợp lý song các hộ gia đình không biết khoản nào bắt buộc phải nộp, khoản nào tự nguyện, và cũng chẳng biết phải phản hồi thế nào.

Nếu bạn cũng trong trường hợp này, thì Thư Hồi Đáp của mình dưới đây là một gợi ý, cứ soạn theo và đưa cho Tổ trưởng Dân phố nhờ chuyển cho Chủ tịch xã/phường nơi bạn thường trú hoặc tạm trú. Dĩ nhiên, nếu bạn vẫn tin tưởng vào các Quỹ quốc doanh thì bạn cứ tiếp tục đóng, lựa chọn là ở bạn. Còn bạn nào làm theo mà bị Chủ tịch xã/phường phản đối hay gây khó dễ gì thì báo mình, mình soạn tiếp mẫu Đơn Khiếu nại và Tố cáo hành vi sai trái của vị Chủ tịch đó luôn. 

Hãy nêu cao tinh thần công dân và giúp địa phương của bạn chấp hành nghiêm túc pháp luật quốc gia.

THƯ HỒI ĐÁP
V/v: Đóng các loại quỹ cuối năm

Kính gửi: Chủ tịch UBND xã/phường/thị trấn Đặng Thị A.

Tôi tên là: Nguyễn B, công dân đang thường trú/tạm trú tại địa phương. Ngày 15/12/2017 vừa qua, ông (bà) Tổ trưởng dân phố, theo sự ủy quyền của Chủ tịch, có đến gặp và đề nghị tôi đóng các loại Quỹ sau:

– Quỹ Phòng chống Thiên tai;
– Quỹ Đền ơn Đáp nghĩa;
– Quỹ Xóa đói Giảm nghèo;
– Quỹ Khuyến học;
– Quỹ Người Cao tuổi;
– Quỹ Hội Chữ Thập Đỏ;
– Quỹ Bảo trợ Trẻ em;
– Quỹ Quốc phòng An ninh;
– …


Theo tôi được biết pháp luật hiện hành chỉ yêu cầu người lao động đóng Quỹ Phòng chống Thiên tai với số tiền là 15,000 VND/năm (theo Nghị định 94/2014/NĐ-CP*), còn tất cả các quỹ khác đều dựa trên tinh thần tự nguyện. 

Tuy nhiên, ông (bà) Tổ trưởng Tổ Dân phố 69 khi thừa ủy quyền của Chủ tịch đề nghị tôi đóng tiền đã không nêu rõ khoản nào bắt buộc, khoản nào tự nguyện. Điều này rõ ràng cần được khắc phục vì có thể tạo ra những hiểu lầm không cần thiết trong quá trình thực thi chính sách, pháp luật của nhà nước trên địa bàn xã/phường/thị trấn ta. Bên cạnh đó, theo Chỉ 24/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, “đối với các khoản huy động đóng góp tự nguyện để xây dựng cơ sở hạ tầng, huy động đóng góp mang tính chất xã hội, từ thiện, phải thực hiện theo đúng nguyên tắc tự nguyện. Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp không được ra văn bản bắt buộc đóng góp, không được giao chỉ tiêu huy động cho cấp dưới, không gắn việc huy động đóng góp với việc cung cấp các dịch vụ công mà người dân được hưởng.”

Bởi vậy, bằng thư này, tôi thông báo đến Chủ tịch rằng tôi chỉ đóng Quỹ Phòng chống Thiên tai với số tiền 15,000 VND và đề nghị được cấp biên lai thu theo mẫu của Sở Tài chính phát hành (Mẫu số: C27-X ban hành kèm theo Quyết định số 94/2005/QĐ-BTC). 

Riêng với các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, khuyến học, bảo trợ trẻ em, tôi đã, đang và sẽ giúp đỡ, đóng góp thông qua các quỹ từ thiện cá nhân, các tổ chức dân sự mà tôi thấy phù hợp, cần thiết và chính đáng.

Kết thư, tôi chúc Chủ tịch và toàn thể công chức xã/phường/thị trấn ta sức khỏe, thực hiện nghiêm túc và hiệu quả chính sách, pháp luật quốc gia./.

Trân trọng,
Nguyễn B

[*] Lưu ý là sinh viên, học sinh đang theo học tập trung dài hạn tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học, Dạy nghề được miễn đóng góp.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

GIỌT SỮA CHIA LY & LỜI NGƯỜI MẸ !


Trương Thế Vương đến NHỮNG CỰU CHIẾN BINH YÊU THƠ

*****************************
Đây là hình ảnh cuối cùng của Chị Nguyễn Thị Tư, nữ du kích ở Bạc Liêu khi bị giặc bắt vào khoảng năm 1970 hay 1972 gì đó .Bọn giặc không khai thác được gì ở Chị, định bắn, nhưng Chị đề nghị để Chị cho con bú xong rồi hãy bắn,bức ảnh đã làm cho bao trái tim nhân hậu phải cảm động và khâm phục người phụ nữ, người mẹ, người du kích Anh hùng. Cảm xúc trước tấm lòng của Chị nhân tháng kỷ niệm ngày thành lập QĐNDVN tôi viết mấy dòng như nén tâm nhang kính dâng lên Chị và những người phụ nữ đã hy sinh cho độc lập tự do của Tổ Quốc (hình ảnh được lấy trên mạng, cảm ơn nhiếp ảnh gia đã cho mọi người biết lịch sử tấm ảnh.)
...
"Tao không biết Việt Cộng là ai
Tao chỉ biết những người yêu nước
Tao đã bị chúng mày bắt được
Đừng hỏi nhiều, hãy bắn Tao di.
"Với chúng mày,Tao không cần điều gì
Chỉ để con Tao bú no bụng đã
Đừng hỏi thêm Tao điều gì cả
Việt Cộng là Tao, yêu nước cũng là Tao...
"Chúng mày đừng hỏi là tại sao
Chúng tao phải đứng lên cầm súng
Mà hãy hỏi chúng mày, cái đội quân diệt chủng
Đất nước này đâu có tội tình chi...?
"Thôi con ơi, con bú nhanh đi
Kẻo không kịp tối về Con lại đói
Mẹ sắp ra đi, Con không nghe tiếng gọi
Và bầu sữa này cũng sắp cạn rồi Con...
"Bú nhanh lên, bú nhiều đi con
Lũ quỷ sứ sắp hành quyết Mẹ
Bú xong rồi Con ơi... Ngoan nhé
Để Mẹ ra đi không hẹn bữa trở về.
"Mai mốt lớn lên con sẽ được nghe
Câu chuyện hôm nay của Mẹ con như thế
Nhưng đừng buồn vì không có Mẹ
Mẹ vẫn bên con dẫu không nhớ dáng hình.
"Rồi một ngày Đất nước sẽ thanh bình
Con sẽ lớn trong vòng tay bè bạn
Con hãy giữ cho tâm hồn trong sáng
Từ giọt sữa này, con sẽ đứng thẳng lên !
03/12/17.TV(.CCB Trương Thế Vượng.)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vì sao chủ nghĩa dân tộc dân túy trỗi dậy vào lúc này?


Nguồn: Francis Fukuyama, “Why Populist Nationalism Now?”, The American Interest, 30/11/2017
Biên dịch: Huỳnh Hoa
Có ba lý do tại sao chúng ta đang chứng khiến sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc dân túy vào nửa sau của thập niên 2010: kinh tế, chính trị và văn hóa.
Những nguồn gốc kinh tế của chủ nghĩa dân túy đã được chú ý và bàn luận rộng rãi. Lý thuyết thương mại nói với chúng ta rằng, tính gộp lại tất cả các quốc gia tham gia vào cơ chế thương mại tự do đều giàu có lên; nhưng cũng chính lý thuyết ấy nói với chúng ta rằng không phải mọi cá nhân ở mỗi quốc gia đó đều khá giả lên: những người lao động kỹ năng thấp ở các nước giàu sẽ thua thiệt trước những công nhân cũng có kỹ năng thấp nhưng được trả công thấp hơn ở các nước nghèo.
Trong thực tế, đó là chuyện đang xảy ra ở nhiều nước công nghiệp phát triển cùng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, Mexico và nhiều nước tương tự. Theo một nghiên cứu gần đây của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) khoảng 50% người dân Mỹ đã không giàu có hơn so với năm 2000, xét về mức thu nhập thực; một tỷ lệ nhiều hơn nữa những người ở điểm giữa của sự phân phối thu nhập đã bị tụt xuống hơn là chuyển lên nấc cao hơn trên bậc thang kinh tế. Ở Hoa Kỳ, cuộc suy thoái tương đối này của tầng lớp trung lưu và người lao động đã diễn ra cùng với một số tệ nạn xã hội, chẳng hạn như mức gia tăng số gia đình tan vỡ, nạn nghiện thuốc kích thích mà riêng trong năm 2015 đã cướp đi sinh mạng của hơn 60.000 người. Cũng trong thời gian này, những lợi lộc của toàn cầu hóa lại tập trung chủ yếu vào giới tinh hoa được học hành bài bản và nhạy bén, những người có chiều hướng đặt ra những khuynh hướng văn hóa rộng rãi hơn.
Nguồn gốc thứ hai của chủ nghĩa dân túy là chính trị. Lời than phiền truyền thống chống lại chế độ dân chủ tự do, vốn có vô số cơ chế kiểm tra và cân bằng, là chế độ này có khuynh hướng sản sinh ra các chính phủ yếu kém. Khi những hệ thống chính trị như vậy kết hợp với khối cử tri bị phân cực, hoặc bị chia rẽ nghiêm trọng, thì kết quả thường là sự tê liệt chính trị khiến cho công cuộc quản trị bình thường cũng trở nên rất khó khăn. Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của chính phủ đảng Quốc đại trước đây là một ví dụ tiêu biểu cho tình trạng này, các dự án xây dựng hạ tầng và các cuộc cải cách kinh tế cần thiết đều nằm ngoài khả năng thực hiện của chính phủ. Hiện tượng tương tự cũng xảy ra tại Nhật Bản và Ý, nơi chính phủ thường đối mặt với tình trạng tắc nghẽn trong bối cảnh kinh tế trì trệ kéo dài. Một trong những trường hợp nổi bật nhất là Hoa Kỳ, nơi một hệ thống rộng lớn các thiết chế kiểm tra và cân bằng được hiến pháp ủy quyền đã sản sinh ra cái mà tôi có lần đặt tên là “chế độ phủ quyết” (vetocracy): nghĩa là một nhóm nhỏ có khả năng phủ quyết hành động của một đa số lớn hơn. Chính điều này đã gây ra cuộc khủng hoảng mỗi năm một lần ở quốc hội Mỹ khi thông qua ngân sách quốc gia – một việc không thể nào hoàn tất được dưới cái gọi là “trật tự quy củ” trong ít nhất một thế hệ, và đã ngăn cản những cuộc cải cách nhạy cảm trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, nhập cư và quản lý hệ thống tài chính.
Sự yếu kém cảm nhận được về khả năng của các chính phủ dân chủ trong việc đưa ra quyết định và hoàn thành công việc là một trong nhiều yếu tố đã tạo bệ phóng cho sự trỗi dậy của những người có khả năng trở thành “người hùng” (strong men), người có thể phá hủy luồng chướng khí bao trùm nền chính trị bình thường để đi tới kết quả. Đây là một trong những lý do mà Ấn Độ bầu ông Narendra Modi, và tại sao ông Shinzo Abe lại trở thành một trong các thủ tướng Nhật Bản cầm quyền lâu nhất. Sự trỗi dậy của ông Vladimir Putin như một người hùng xảy ra trong bối cảnh những năm tháng loạn lạc dưới thời ông Boris Yeltsin. Và cuối cùng, một trong những luận điểm vận động của ông Donald Trump là, với tư cách một doanh nhân thành đạt, ông ta sẽ có thể làm cho chính phủ Mỹ trở lại hoạt động đúng chức năng.
Hơn thế nữa, có những thất bại chính trị nghiêm trọng mà giới tinh hoa ở Mỹ và châu Âu đã phạm phải. Trong thập niên 2000, Hoa Kỳ đã can dự vào hai cuộc chiến tranh không thành công ở Trung Đông, rồi lại trải qua một cuộc suy thoái tệ hại nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930. Cả hai sự kiện này đều có gốc rễ từ những quyết định của giới tinh hoa nhưng mang lại hậu quả thảm khốc cho mọi công dân bình thường. Liên minh châu Âu đã tạo ra một liên minh tiền tệ chung quanh đồng euro mà không có phương cách tương ứng để thống nhất chính sách tài khóa, dẫn tới cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp. Và châu Âu lập ra khu vực Schengen và hàng loạt những luật lệ khác để tự do hóa việc di chuyển của người dân bên trong châu Âu mà không thiết lập ra một cơ chế tin cậy được để kiểm soát các đường biên giới giữa châu Âu với bên ngoài. Nhìn từ quan điểm kinh tế và đạo đức, đây là những chính sách đáng hoan nghênh, nhưng khi thiếu vắng một cơ chế kiểm soát như vậy, tự do đi lại trong nội bộ châu Âu lại trở thành vấn đề. Và điều này đã dẫn tới cuộc khủng hoảng về tính chính danh sau khi xảy ra những làn sóng nhập cư đông đảo, bị kích hoạt bởi cuộc nội chiến ở Syria năm 2014.
Động lực cuối cùng của chủ nghĩa dân tộc dân túy là văn hóa và có liên quan với vấn đề bản sắc. Nhiều năm về trước, Samuel Huntington đã chỉ ra rằng giai cấp nguy hiểm nhất về kinh tế chính trị không phải là người nghèo và người thất cơ lỡ vận đứng bên ngoài tiến trình phát triển xã hội – những người thường thiếu thời gian và nguồn lực để huy động, mà thay vào đó là tầng lớp trung lưu – những người cảm thấy họ bị sa sút về kinh tế và không được hệ thống chính trị nhìn nhận một cách tương xứng. Những con người như vậy có thể tạo ra các yêu cầu kinh tế, nhưng họ cũng có xu hướng diễn dịch sự mất mát vị thế của mình cả về phương diện văn hóa: họ đã từng là các tập thể xác định nên bản sắc dân tộc, nhưng giờ đây họ bị thay thế bởi những kẻ mới đến, lại là những người được hưởng lợi thế không công bằng so với họ. Thế rồi họ bị thôi thúc bởi quan điểm chính trị căm ghét giới tinh hoa được hưởng nhiều lợi lộc từ hệ thống, và họ có xu hướng đưa người nhập cư thành vật tế thần và coi người ngoại quốc như là những tác nhân gây ra tình trạng thất thế của họ.
Ở khía cạnh này, động cơ kinh tế trùng lắp một cách căn bản với mối quan tâm về văn hóa và về nhiều phương diện không thể tách bạch hai thứ đó với nhau. Nó cũng giúp phân biệt chủ nghĩa dân túy Bắc Âu hoặc Hoa Kỳ với chủ nghĩa dân túy ở Nam Âu và châu Mỹ Latin. Nền tảng xã hội của các cử tri bỏ phiếu cho Brexit, Trump và bà Le Pen nằm ở sự suy thoái của tầng lớp trung lưu và nhân dân lao động, trong khi phong trào Podemos ở Tây Ban Nha, Syriza ở Hy Lạp, Chavez ở Venezuela hoặc Kirchners ở Argentina là những đảng chính trị cánh tả truyền thống hơn, vốn là đại diện cho người nghèo trong xã hội.
Đây cũng chính là cái đã làm cho vấn đề nhập cư trở nên quan trọng, thôi thúc chủ nghĩa dân tộc dân túy ở các nước bắc và đông châu Âu và cả ở Hoa Kỳ. Trong thực tế, tỷ lệ người di dân và tị nạn đã lên rất cao ở châu Âu và Hoa Kỳ; các mối lo ngại về sự thay đổi văn hóa nhanh chóng đã thôi thúc nhiều cử tri ủng hộ các đảng dân túy, các nhà lãnh đạo dân túy cho dù người dân có phải gánh chịu mối đe dọa kinh tế trực tiếp. Xu hướng này được phản ánh trong mục tiêu thường được các đảng dân túy tuyên bố công khai: “giành lại đất nước mình”. Ở nhiều phương diện, các câu hỏi về bản sắc – như ngôn ngữ, sắc tộc, tôn giáo và truyền thống lịch sử – đã xuất hiện để thay thế các giai cấp kinh tế như là những đặc điểm xác định quan điểm chính trị hiện thời. Điều này có thể giải thích sự suy tàn của các đảng chính trị trung tả và trung hữu truyền thống ở châu Âu – các đảng đang dần dần thất thế trước các đảng và phong trào mới thành lập dựa trên các vấn đề về bản sắc.
Đây là phần thứ hai của bài về chủ nghĩa dân túy. Phần đầu ở đây. Phiên bản truyền hình trên internet (podcast) cũng có ở đây.
Nguồn: Viet-studies

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NỖI LÒNG CAO BÁ QUÁT KHI ĐI QUA VÙNG NÚI CÙ MÔNG



Dãy Cù Mông là một nhánh của Trường Sơn chồm ra sát biển, làm ranh giới thiên nhiên giữa 2 tỉnh Bình Định và Phú Yên hiện nay. Xa xưa trước, năm 1471 vua Lê Thánh Tôn đưa quân vào đánh chiếm thành Đồ Bàn của người Chiêm, dãy Cù Mông cũng từng là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm quốc của một thời.

Còn Cao Bá Quát thì không chỉ là nhà thơ, là người hay chữ vào thời nhà Nguyễn, ông còn được biết đến là người từng tham gia cuộc chiến chống triều đình, với vai trò là quân sư của Lê Duy Cự. Khởi nghĩa Lê Duy Cự nổ ra vào năm 1854, ở Mỹ Lương, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội), triều đình nhà Nguyễn gọi là giặc Châu chấu. Cuộc nổi dậy năm ấy bị binh triều nhanh chóng dập tắt, Cao Bá Quát mất theo cùng nó. Cuộc đời con người tài hoa nhưng cứ gặp cảnh khốn cùng nầy có thể tóm tắt ngắn gọn như sau:

- Cao Bá Quát tên tự là Chu Thần, sinh năm 1809, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay cũng thuộc về Hà Nội.

- Ông đỗ cử nhân năm Tân Mão - 1831, mãi đến năm 1841 mới được bổ làm Hành tẩu ở bộ Lễ. Tháng 8 âl. năm đó, triều đình cử Cao Bá Quát làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Nhưng vì ông dám dùng muội đèn sửa chữa quyển thi của thí sinh có văn tài nhưng lỡ phạm húy, nên bị triều đình bắt tội.

- Sau 3 năm bị giam cầm, năm 1844 vua Thiệu Trị cho ông tham gia sứ đoàn xuất dương của Đào Trí Phú để lập công chuộc tội (gọi là dương trình hiệu lực). Tháng 7 năm ấy hoàn thành sứ mệnh, được phục chức, nhưng ông lại lui về sống ở Thăng Long, Hà Nội.

- Năm 1847 triều đình lại triệu ông về triều, cho làm việc ở viện Hàn lâm. Năm 1850, người chuyên lo sưu tầm, sắp xếp văn thơ ở viện Hàn lâm ấy được cử làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai – Sơn Tây. Đến cuối năm, lấy cớ chịu tang cha, ông xin thôi chức.

- Năm 1854, Cao Bá Quát cùng Lê Duy Cự phát binh nổi dậy ở Mỹ Lương, và mất cùng với cuộc nổi dậy vào đầu năm 1855.

Vì được xem là kẻ phản nghịch, văn thơ của ông bị thu đốt, cấm tàng trử, lưu hành. Người đời sau sưu tập lại, trong những sưu tập ấy có bài thơ ông viết khi đi qua địa phận Bình Định QuaVùng Biển Bình Định Trông Núi Cù Mông, nguyên văn:



QUÁ BÌNH ĐỊNH DƯƠNG PHẬN
VỌNG CÙ MÔNG SƠN

Nam phong dạ tác (*) đào thanh 
Ký đắc Cù Mông lĩnh ngoại hành 
Hiểu vọng quần sơn hoành nhất đới 
Ức phong khúc xứ cựu ao binh

(*) Bản bị mất một chữ, chỗ nầy có nơi thêm chữ “nộ”, có chỗ thay bằng chữ “xuy”     

QUA VÙNG BIỂN BÌNH ĐỊNH
TRÔNG NÚI CÙ MÔNG

Đêm gió Nam thổi, tiếng sóng dữ gầm gào
Biết rằng đang đi ven bên ngoài núi Cù Mông
Sáng ra trông lên những ngọn núi liền một dãi
Trên những đỉnh nhấp nhô trăm nghìn ngọn núi đó,
 xưa là nơi xảy ra những trận chiến lở đất long trời.

Núi non nằm đó ngàn đời, sẽ phải trơ trụi ngàn đời, nếu đứng trước nó chỉ là những kẻ vô tình. Sẽ không thấy hòn Cù Mông cao chất ngất, sẽ không thấy nơi đây chất chứa những đớn đau, nỗi lòng của những chinh phụ, chinh phu thời chinh chiến… những nỗi ấy người đời sẽ không thấy, nếu như không có câu ca của vùng Bình Định - Phú Yên còn lưu lại:

Tiếng ai than khóc nỉ non
Vợ chàng lính thú trèo hòn Cù Mông

Qua bài thơ của Cao Bá Quát, người đời như cùng thấy với ông dãy Cù Mông trùng trùng điệp điệp. Trên những đỉnh nhấp nhô trăm nghìn ngọn núi đó, còn lưu dấu ngày xưa là nơi đã xảy ra những trận đánh lở đất long trời. Trước một cảnh vật, người đã buồn thì bao giờ cảnh có vui đâu. Những trận kịch chiến giữa quân Tây Sơn cùng quân Gia Định của Nguyễn Ánh trên dãy Cù Mông, mà Cao Bá Quát như còn nghe được, vì trong chuyến hải hành đêm qua, ông đã nao nao lòng cùng với tiếng sóng gầm theo trời dậy gió Nam.

Khi đứng trước dãy Cù Mông, vì sao Cao Chu Thần như riêng nghe có tiếng gươm đao của ngày trước (!).

● Xét lại thời điểm ra đời của bài thơ. Có thể hình dung được là ông làm ra khi tham dự chuyến đi “dương trình hiệu lực”. Trước đó vào năm 1841, Cao Bá Quát bị tội sửa quyển thi phạm húy, án đưa lên vua, Thiệu Trị đã cho xóa án tử trảm quyết (chém ngay), cứ giam lại đó đợi lệnh sau. Sau đó cho ông đi theo sứ bộ Đào Trí Phú xuất dương, lập công chuộc tội. Chuyến đi rời cảng Đà Nẵng tháng 12 âl. năm Quý Mão, dương lịch đã là đầu năm 1844. Đến tháng 7 sứ bộ từ Tân Gia Ba (Singapore) mang về, tiến lên vua 1 “chiếc thuyền nhỏ có máy đốt lửa”. Theo Đại Nam Thực Lục thì Thiệu Trị xét thấy thuyền chạy nhanh như chớp, nhanh hơn cả ngựa phi nên cho đặt tên hiệu của nó là Điện phi. Thực Lục còn diễn tả rất tỉ mỉ về kích thước, hình dáng con tàu, cách thức đốt than cho tàu chạy… Còn lệnh cho tập trung các chiến thuyền cùng diễn tập với nó ở cửa biển Thuận An, hòng lo việc quân bị biên phòng.

Thực ra đây chỉ là thuyền buôn nhỏ, chạy bằng máy hơi nước, sứ bộ đã mua của người Anh ở Malaca – Malaysia, trị giá hơn 280.000 quan tiền. Cao Bá Quát cũng mô tả loại tàu tương tự mà ông đã gặp ở bên ấy, có trong bài cổ phong Hồng Mao Hỏa Thuyền Ca. Theo bản dịch trong trang web Thi Viện:

(…)
Đây là chiếc tàu Tây đang tiến lại veo veo
Cột tàu chót vót, quay gió lặng 
Ống khói đứng giữa nhả mây lưng trời cao 
Dưới có hai guồng xoay chuyển đập ngọn sóng 
Guồng quay, sóng vỗ ầm ầm như sấm gào 
Có lúc chạy ngang, giật lùi, nhanh hơn ngựa 
Không buồm, không lái, không người chèo 
Long Nha, Xích Khảm ngoài trăm dặm 
Phút chốc đè sóng, đến nhẹ vèo 
(…)


Chiếc “Điện phi mà sứ bộ mua về cho triều đình, Cao Bá Quát biết nó chẳng là gì trước lớp lớp hàng hàng tàu chiến của người Tây dương mà ông đã gặp ở Malaca, ở Tân Gia Ba. Tiếp xúc, mở rộng tầm mắt khi ra được với thế giới bên ngoài, Cao Bá Quát đã biểu hiện cái giật mình của kẻ có văn tài bấy lâu chỉ biết nhả chữ nhai văn, những con ếch ngồi đáy giếng trước văn minh cơ khí của phương Tây:

(…)
Nhai văn nhả chữ buồn ta, 
Con giun còn biết đâu là cao sâu
Tân Gia từ vượt con tầu, 
Mới hay vũ trụ một bầu bao la. 
Giật mình khi ở xó nhà, 
Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi. 
Không đi khắp bốn phương trời, 
Vùi đầu án sách uổng đời làm trai
(…)
Trúc Khê – Ngô Văn Triệndịch bài của Cao Bá Quát Đề sau khúc Yên Đài Anh Ngữ của quan Đô sát họ Bùi.

● Xét theo mạch văn bài “Qua Vùng Biển Bình Định Trông Núi Cù Mông” của Cao Bá Quát, trong bài có đưa lên hình ảnh gió Nam thổi khi đi đến vùng biển Bình Định. Có thể thấy được bài ông làm ra là lúc trên đường về triều, lúc có gió Nồm tháng 7 của năm 1844, Như vậy bài ông đã làm, là khi mà ông vừa tận mắt chứng kiến văn minh kỷ thuật cơ khí phương Tây đã áp sát khắp vùng Đông Nam Á. Trước đó 3 năm, vào tháng 11 âl. năm 1841, là năm vua Thiệu Trị đăng quang, hơn 60 phát súng đại bác thị uy bắn vào vịnh Sơn Trà của người Pháp, đánh chìm mấy tàu bọc đồng tuần dương của binh triều. Cao Bá Quát đã hình dung họa ngoại xâm sẽ xảy ra chỉ trong một sớm một chiều.

Những vướng vất về hình ảnh tàu chiến phương Tây dòm ngó đất nước, chúng luôn ám ảnh Cao Bá Quát. Ông có thể hiện nỗi lòng đó trong bài Thập Ngũ Dạ Đại Phong:

Nhất dạ trường phong hám hải đài
Thuận An môn ngoại lãng như lôi
Thiên thu thượng tác Chu Lang khí
Yếu đả Hồng Mao cự hạm hồi !

Trong bài “Đêm Rằm Ngày Gió Lớn” nầy, ông đã cảm nhận được hình ảnh “Một đêm gió thét lộng hải đài canh ven biển / Ngoài cửa Thuận An tiếng sóng gầm vang như sấm”…

Hình ảnh sóng to gió mạnh chúng luôn thường trực trong tâm thức của ông, như hiểm họa ngoại xâm của đất nước đã luôn hiện diện hằng tháng hằng năm. Ngày sứ bộ về đi qua vùng biển Bình Định, đến đây ta rõ được vì sao ông trông vời đỉnh núi Cù Mông mà lại nghe như có tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Một ngày nào đó, non sông tránh sao khỏi binh đao như những trận kịch chiến đã xảy ra trên dãy Cù Mông ngày trước.

Cùng một cảnh vật, nhưng mỗi người lại có riêng một biểu hiện cảm xúc. Hai mươi năm sau ngày Cao Bá Quát đi qua núi Cù Mông, Tam nguyên Vị xuyên Trần Bích San có câu thơ khi đã 3 lần vượt qua cửa ải Hải Vân sơn:

Văn phi sơn thủy vô kỳ khí, 
Nhân bất phong sương vị lão tài. 

Văn mà không có núi non sông nước thì không có thần khí / Người không có dãi dầu sương gió thì chưa thể gọi là người già dặn, từng trải. 

Trước một dãy núi hùng vĩ, người thì nghe có tiếng gươm đao của một cuộc chiến, người thì dặn lòng trước những gian nan. Nhưng cả hai đều có những thần khí thể hiện trong văn thơ của mình. Câu văn, con chữ chỉ là cái xác. Tư tưởng, góc nhìn chỉ làcái hồn. Chúng chẳng sống đời được nếu chúng không có cái thần khí bên trong. Riêng với Cao Bá Quát, nỗi lòng của ông trước hiểm họa ngoại xâm, cái giật mình của người đã thấy được văn chương chữ nghĩa chỉ là trò chơi. Thế mà từ vua tới quan vẫn vùi đầu với trò nhai văn nhả chữ… trách sao được Cao Bá Quát, khi đi qua Cù Mông ông chỉ nghe được tiếng gươm đao của ngày xưa.

Núi Cù Mông đã không trơ trụi khi đã có người hữu tình vời trông bóng nó. Người hữu tình Cao Bá Quát đã gởi nỗi lòng cho dãy Cù Mông hùng vĩ:

Đêm chen Nồm dậy sóng gào
Thuyền qua Cù lĩnh nao nao dặm ngàn
Sớm trông non núi hàng hàng
Nghe xưa tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.

Tháng 7.2017
Phan Trường Nghị

Phần nhận xét hiển thị trên trang