Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 2 tháng 12, 2017

Cánh cửa đã mở toang để rước Trung Quốc vào


Dũng Mai 1-12-2017 

Hãy quên đề xuất cải cách chữ viết vớ vẩn kia, hãy đừng mắc bẫy khi chú tâm vào cái thông tư đáng ngờ về sổ đỏ, hãy khoan đề cập đến chuyện LS Võ An Đôn bị xoá tên khỏi Đoàn Luật sư Phú Yên… Thảm hoạ là đây này: Giờ đây, không cần đi xe nữa, RATRACO dưới sự chỉ đạo của Tổng Công ty Đường sắt VN, đã nâng cấp nó lên thành TÀU container, thì chẳng khác nào mở toang cánh cửa đưa tàu TQ tuồn vào VN dễ dàng và nhanh chóng hơn bao giờ hết.

Một trong những toa tàu trong chuyến tàu liên vận container đầu tiên


Sáng ngày 26/11 vừa qua, Công ty cổ phần Vận tải và Thương mại Đường sắt (RATRACO, thuộc Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam) đã triển khai thành công đoàn tàu chuyên container đầu tiên kết nối giữa Việt Nam – Trung Quốc với mục tiêu “cao cả” là tăng cường giao thương giữa hai quốc gia. Theo thông tin được loan tải thì đoàn tàu liên vận sẽ bao gồm 33 container 40 fit chứa các sản phẩm xuất khẩu của TQ sang Việt Nam như nội thất văn phòng, thực phẩm, phụ tùng linh kiện ô tô,…

Sản phẩm “made in China” đang là nỗi ám ảnh của người dân toàn thế giới vì phần lớn đều là hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, hàng độc hại,… Do đó, nhiều nước tỏ ra thận trọng trong chính sách thương mại với Trung Quốc và các công ty cũng dè chừng. Trong khi đó, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam lại bắt tay với TQ xây đường sắt liên vận để tăng cường đưa hàng hóa TQ vào VN. Vì sao chúng ta phải mở rộng giao thương với TQ mà không phải là những quốc gia khác? Tại sao lại muốn tự làm hại chính mình?

Trên thực tế, hàng hóa thứ cấp TQ đã được tuồn qua VN bằng rất nhiều con đường, chính ngạch và tiểu ngạch (chẻ rừng hoặc dùng mọi thủ đoạn qua mặt hải quan), đặc biệt là hàng TQ vào VN đều không qua kiểm định chất lượng hay vệ sinh an toàn thực phẩm gì cả. Đó là những loại hàng hóa VN không thể kiểm soát, khiến người dân điêu đứng, cơ quan chức năng đau đầu. Thì nay lại có thêm đoàn tàu liên vận kết nối VN – TQ, thì liệu đây có phải là bức bình phong che đậy cho hàng hóa TQ tuồn vào Việt Nam một cách công khai minh bạch chăng?

Ông Trần Văn Chính, cựu cán bộ, cửa khẩu Lào Cai, chia sẻ: “Hoa quả, hàng quặng, các hàng máy móc cũng có, hoa quả, nông lâm sản cũng có. Ngoài ra, hàng Trung Quốc qua đây chủ yếu còn có phân bón, các loại hóa chất, máy móc.” Kết quả là: “Phần lớn các mặt hàng thực phẩm chức năng được làm giả, kém chất lượng đều được nhập từ Trung Quốc, qua đường tiểu ngạch, về đến Việt Nam được các cơ sở thay bao bì, nhãn mác, nguồn gốc xuất xứ và mang đi tiêu thụ” – Trần Hùng, Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo 389 quốc gia, Cục An toàn Thực phẩm (Bộ Y tế) cho biết.

Hoa quả Trung Quốc nhiễm độc tuồn vào Việt Nam nhưng không thể kiểm soát

Và số lượng hàng Trung Quốc tuồn sang Việt Nam chưa bao giờ giảm. Năm sau lại nhiều hơn năm trước, nhà buôn hàng từ Trung Quốc về Việt Nam cũng năm sau nhiều hơn năm trước. Trong đó, hầu hết hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc là nông sản, lợn nguyên con và các loại trái cây nổi tiếng miền Nam đã được kiểm định chất lượng chặt chẽ. Ngược lại, hàng Trung Quốc nhập sang Việt Nam, toàn là trái cây, các loại rau và thực phẩm biến đổi gen, và các loại phân bón và chất hóa học có hại cho sức khỏe. Cụ thể, theo thống kê trung bình mỗi ngày nước ta chi 112 tỷ đồng để mua hóa chất, nhập khoảng 1.000 tấn trái cây có hàm lượng hóa chất vượt ngưỡng 3-5 lần an toàn từ Trung Quốc. 

Vì sao lại có chuyện nghịch lý như thế? Trách nhiệm của cơ quan hải quan, Cục Quản lý thị trường, Bộ Công thương ở đâu? Phải chăng là nhờ phong bì lót tay, hay đi đêm giữa thương gia TQ và các vị nên những thương vụ này mới trót lọt?

Riêng đối với các loại xe container chuyển hàng qua biên giới Việt – Trung, theo quan sát của một chủ quán gần cửa khẩu Mường Khương, tỷ lệ các loại xe container từ Việt Nam sang Trung Quốc và từ Trung Quốc vào Việt Nam theo tỉ lệ là 1/5. Nghĩa là cứ 1 xe container Việt nam chở hàng qua Trung Quốc thì có 5 xe container từ Trung Quốc chở hàng sang Việt Nam. Giờ đây, không cần đi xe nữa, RATRACO dưới sự chỉ đạo của Tổng Công ty Đường sắt VN, đã nâng cấp nó lên thành TÀU container, thì chẳng khác nào mở toang cánh cửa đưa tàu TQ tuồn vào VN dễ dàng và nhanh chóng hơn bao giờ hết.

Hàng TQ chất lượng kém tuồn vào VN không chỉ đầu độc dân Việt Nam bởi vấn nạn thực phẩm bẩn ngày càng tràn lan, mà còn là âm mưu dùng hàng Tàu gán mác “made in Vietnam” để tuồn ra thế giới, không chỉ để trốn thuế mà còn khiến hình ảnh VN bị bôi nhọ trên thị trường toàn cầu của TQ. Điển hình là vụ thép TQ “đội lốt” thép Việt trốn 9,6 triệu USD tiền thuế vừa bị Cơ quan chống gian lận Ủy ban Châu Âu phát hiện gần đây. Vậy, Tổng Công ty Đường sắt VN phải chăng đang tiếp tay cho TQ tiêu thụ những hàng hóa thừa mứa người dân họ không dám sử dụng và là cánh tay đắc lực giúp hàng hóa TQ, gắc mác VN đi ra nước ngoài?

Bên cạnh đó, chúng ta đều biết, TQ từ ngàn xưa đã luôn nuôi tham vọng xâm lược, phá hoại VN nhằm bành trướng lãnh thổ, do đó việc TQ thông qua tàu container liên vận VN – TQ không chỉ sẽ tạo điều kiện cho nước này mang thực phẩm bẩn, sản phẩm kém chất lượng, hóa chất độc hại, mà còn cài cắm người, thậm chí là mang vũ khí vào lãnh thổ VN là chuyện hoàn toàn có thể xảy ra.

Hiện nay, người Hoa đang có mặt ở khắp mọi miền trên mảnh đất hình chữ S. Các con phố Tàu xuất hiện không chỉ ở các tỉnh miền Nam, nơi mà TQ cho rằng dễ dàng xâm nhập và đồng hóa như Bình Dương, Đồng Nai, TP. HCM,… hay ở Tây Nguyên (công nhân người TQ làm việc ở mỏ bauxite Tân Rai – Lâm Đồng), thậm chí là miền Bắc, nơi đầu não chính trị – hành chính quốc gia, phố TQ cũng không thiếu, cụ thể là ngay tại làng nghề mộc Đồng Kỵ (Bắc Kinh), người ta treo cả biển chỉ đường bằng tiếng Hán, ai đi vào cũng ngỡ mình đang lạc vào khu phố TQ chứ không còn là lãnh thổ VN.

Phố TQ xuất hiện chủ yếu là nhờ những dự án lớn mà TQ thắng thầu. Họ đồng hóa bằng cách sống giữa những người VN, giao tiếp, buôn bán bằng tiếng Hán, dùng visa có “hình lưỡi bò”, sử dụng cờ TQ, đồng Nhân dân tệ, xuất bản sách giáo khoa, làm tiếp viên du lịch để tuyên truyền sai lệch về chủ quyền VN,… Để rồi không chỉ người Việt, những khách du lịch từ bốn phương đến VN cũng được “nhồi sọ” bằng những kiến thức lịch sử sai trái theo ý đồ của chúng. Vậy đoàn tàu liên vận được triển khai dày đặc (3 chuyến/ tuần) thì sẽ giúp TQ đưa bao nhiêu người xâm nhập trái phép vào VN?

Tốc độ giảm sút của vận tải đường sắt ngày càng mạnh


Một thực tế không thể phủ nhận là hiện nay ngành đường sắt ngày càng lạc hậu, xuống cấp trầm trọng, nhưng lại không có sự đổi mới, phát triển, rồi đổ lỗi cho ngành hàng không cướp khách. Chưa kể, dựa vào sự độc quyền, Tổng công ty đường sắt Việt Nam lại ỷ y, dựa dẫm vào sự hỗ trợ vốn của ngân sách nhà nước, dẫn đến tình trạng: “Làm ra 1, ngân sách nhà nước bù ra gấp 4” (hiệu quả khai thác của đường sắt Việt Nam chỉ đạt khoảng 350 tỷ đồng/năm, ngân sách nhà nước phải cấp bù khoảng 1.200 tỷ đồng/năm cho bảo trì). Tuy nhiên, thay vì chú tâm vào ngành nghề chính của mình, thay đổi để phát triển, thúc đẩy hiệu quả, năng suất vận tải hành khách và hàng hóa thông thương trong nước, giúp kinh tế VN phát triển; Tổng Cty đường sắt VN lại siêng “việc hàng xóm”, tìm cách đưa hàng hóa TQ vào VN, không biết có giúp ích gì cho đất nước hay là đang “rước giặc vào nhà”?

Rõ ràng, trong mọi phương thức giao thương thì TQ luôn là kẻ hưởng lợi, trong khi VN luôn là người bị hại, là người bị áp bức và chịu mọi thiệt thòi, tiếng xấu. Thế nhưng không hiểu sao, Tổng công ty đường sắt VN lại đưa ra quyết định “sáng suốt” là hợp tác với TQ xây tàu liên vận Việt – Trung? Không biết hệ quả người dân đang chết dần mòn vì thực phẩm bẩn, hàng hóa kém chất lượng của TQ có làm Tổng Cty đường sắt VN sáng mắt hay chưa? Hay những “lại quả”, những chiêu thức “mật ngọt chết ruồi” mà TQ bày ra đã khiến họ mờ mắt? Vì vậy, tiếp tục bắt tay hợp tác, liệu hậu quả trong tương lại sẽ khủng khiếp đến mức nào?

RedVn (Vietnamnet / Tiền Phong)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chả riêng gì Đoàn Hương, loạn xà bần từ A đến Z lâu rùi!


HOAN HÔ TIẾN SĨ HỌ ĐOÀN
HƯƠNG THƠM CHẲNG THẤY, THẤY TOÀN… MÙI THIU
SG, 2.12.2017
BÚT PHEO
---------
Trích Lao Động Online, 2.12.2017
‘’Trao đổi về vấn đề này, GS Hà Minh Đức cho hay, dù quá hiểu tính cách mạnh miệng của học trò nhưng ông vẫn không khỏi ngạc nhiên khi nghe Đoàn Hương gọi dư luận là “đám quần chúng”.
“Phát ngôn của cô ấy không chỉ là bột phát mà còn là hệ quả của một tính cách. Cô ấy không phải là nhà ngôn ngữ thì sao lại mời tham gia vào việc trả lời về một công trình nghiên cứu ngôn ngữ. Hơn nữa, Hương là một người văng-tê, không để ý quy củ, nói năng mạnh bạo.
Tôi nhớ, trong một chương trình Giai điệu tự hào, cô ấy đã so sánh âm nhạc của Trịnh Công Sơn giống như quả bom được đặt vào tim và nổ tung. Có lần cô ấy lại ví một nhà xuất bản là nhà hậu sinh. Như thế là quá cường điệu, khập khiễng. Vận dụng lối nói quá để tạo ra sự sắc sảo là quyền của cô ấy. Nhưng không thể chấp nhận chuyện gọi dư luận là đám quần chúng”, GS Hà Minh Đức cho hay.
Bàn về phát ngôn của TS Đoàn Hương, GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm cho biết, việc để xảy ra những tranh cãi này lỗi một phần thuộc về VTV.
“Khi kiểm duyệt và phát sóng chương trình, lẽ ra họ phải cắt đi những câu từ nhạy cảm mà cụ thể ở đây là “đám quần chúng”. Với riêng Đoàn Hương, tôi cho rằng cô ấy đã thể hiện cái nhìn miệt thị với dư luận. Là đồng nghiệp, tôi không hề muốn lên án nhưng phải thẳng thắn mà nói rằng, Đoàn Hương nên xem lại những phát ngôn trước đám đông của mình. Phải cân nhắc cẩn trọng vì thực tế, cô ấy còn không nhớ hết mình nói những gì. Đến khi người ta phản ứng, chỉ trích vẫn khăng khăng rằng “tôi không nói thế”.
“Tôi cho rằng Đoàn Hương nên xin lỗi dư luận sau phát ngôn lỡ lời này. Nhưng với tính cách như thế, tôi nghĩ là rất khó“, chuyên gia nghiên cứu văn hóa bày tỏ.
KỲ TRINH.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

THƯƠNG TẶNG LÀNG BLOG


Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh làng BLOG


Làng cũ người đi cả
đìu hiu còn mấy người?
ấm trà pha để nguội
hoa cũng nản
khó tươi..

Đó ngôi làng kỳ lạ
một thời rất đông vui!
đường một chiều hò hẹn
được gặp nhau..
mấy người?
Quen chịu đời kham khổ!
sắn khoai
quen dạ rồi!
thèm cao lương mỹ vị
tri âm khó tìm người!
Như rừng trồng tăm tắp
theo hàng quanh sườn đồi!
còn đâu đa dạng nữa?
đừng trách,
người buông xuôi!
Ngôi làng thành đơn điệu!
Đời nay không giống ai!
Thương cũng đành để bụng
Thương
để rồi thương thôi!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chả cần cấm, mãi cũng chán mà, các pác T4 ợ!:

( Người Việt cả thèm chóng chán. Còn lâu mới có tư duy sâu xa, bền bỉ. Mong sáng tạo và thay đổi có nhẽ còn rất lâu. Căn nguyên cũng từ nền KT sản xuất nhỏ, manh mún, khó đẻ ra những tư tưởng lớn, mang tính thời đại..)


CŨNG BUỒN !

Cũng buồn blog (*) gặp lao đao
Chẳng biết 4 T (**) xét thế nào?
Ra đến đình Làng gặp cửa đóng !
Các năm nhộn nhịp - qua rồi sao?
***
Cư dân trụ lại độ mươi người
Bài thưa, com ít bấy nhiêu thôi ;
Năm cũ dần qua, năm mới đến
Đông đúc lại chăng? Blog làng ta ơi !
***
Mong rằng đông qua xuân đến
Làng ta vui vẻ trở lại
Chuyện trò trên blog
Cho bài viết, câu thơ, lời chúc
Ảnh đăng kịp thời tươi mới
Cho ấm áp rộn ràng không khí
Quên đi tuổi tác
Tám chín chục mùa xuân !
(*) Blog Làng LSQL
(**) Bộ TTTT 

. 
  1. Đăng bài không thấy ai com
    Mọi người chán nản chẳng nhòm vào đây
    Rủ nhau chuyển hết sang phây
    Kết thêm bạn mới vui vầy cho qua...
    Bên ấy nhộn nhịp vào ra
    Chỉ đăng cái ảnh thế là cùng nhau
    "THÍCH" và ca tụng vài câu
    Vừa dễ vừa sướng... lâu lâu hóa NHÀM!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 1 tháng 12, 2017

Địa Danh Cũ Sàigòn


Bình Nguyên Lộc

(Boulevard Charner (Đại lộ Nguyễn Huệ) nhìn thẳng Tòa Hôtel de ville hay Dinh xã Tây trong tiếng Việt. Đến thời Việt Nam Cộng Hòa gọi là Tòa đô chánh Sàigòn)
Phần 1…
Tên đường thời Pháp thuộc:
Song-song với những địa-danh tên Tây, các đường phố và nhiều nơi chốn ở Sàigòn đều có tên Việt, được dân-chúng quen dùng.
Đây là những tên tôi còn nhớ lỏm-bỏm:
Bót cảnh-sát quận nhì, có tên là Xi Nho. Con đường trước bót không bao giờ mang tên Tây Chaigneau hay Signor lần nào cả. Có lẽ là một ông Tây cảnh-sát đã giữ chức-vụ liên-lạc với dân-chúng chăng?
Đầu đường Hồng-Thập-Tự ngày nay, được gọi là đường Hàng Bàng vì hai bên đường trồng hai hàng cây bàng. Tây đặt tên đường là Chasseloup Laubat, nhưng ta bất kể.
Đường Mạc-Đỉnh-Chi ngày nay, có tên Tây là Massiges nhưng ta cứ tiếp-tục gọi là đường Hàng Sao, vì hai bên đường trồng hai hàng sao, có lẽ là trồng trước các đường khác chớ về sau thì đường nào cũng trồng sao cả.
Đường Bùi-Quang-Chiêu là đường Cá Hấp thuở trước vì chỗ ấy nằm cạnh chợ Bến-Thành, các vựa cá hấp đóng đô ở đó.
Đường Bùi Chu, thuở ấy tên Tây là Frère Guillerault, nhưng người ta cứ kêu là đường Huyện Sĩ, vì cái nhà thờ cất ở đó do tiền một tư-nhơn, ông Tri-huyện-hàn Lê-Phát-Sĩ tài-trợ.
Đại-lộ Kitchener (Nguyễn-Thái-Học) được gọi là đường Lò Heo vì lò heo cũ ở đó.
Dĩ-nhiên là đường Phó-Đức-Chính, tên Tây là Alsace Lorraine được gọi là đường Chú Hỏa vì con đường ấy nổi danh nhờ cái cư-xá đồ-sộ của họ Hui-Bon-Hoa.
Đường Khổng-Tử nguyên là đường Gaudot và được gọi là đường Đèn Năm Ngọn.
Đường Phát-Diệm, tên cũ cũng là tên Việt, đường Nguyễn-Tấn-Nghiệm, vậy mà thiên-hạ cứ gọi là đường Cầu Kho. Vậy thì người dân không phải tránh tiếng Tây khó đọc, mà tránh sự bị chỉ-định. Họ ưa theo thói quen hơn.
Nhưng buồn cười lắm là có hai trường-hợp ngược đời, ta ưa Việt-hóa tên Tây, nhưng trong hai trường-hợp ta lại theo Tây một cách mù-quáng. Đó là địa-danh Đakao. Địa-danh ấy nguyên trước là Đất Hộ, bị Tây Pháp-hóa thành Đako, rồi ĐaKao.
Ta lại mù-quáng theo Tây ở một trường-hợp nữa là vùng đất gần cầu Tân-Thuận trước kia là bãi đất hóng mát của dân Sàigòn, tên ta là Láng-Thọ. Tây Pháp-hóa thành Lanto rồi ta lại Việt-hóa thành Lăng-Tô. Không biết cái Lăng đó của Tô-Định hay của ai.
Những con đường tên Tây mà ta không có tên Việt, ta Việt-hóa nó một cách buồn cười.
Chẳng hạn đường Eyriaud des Verges (Trương-Minh-Giảng) được đặt là “Ai-vô rờ-quẹt?”, còn đường Léon Combes được đọc là “Lên-ăn-cơm”.
Đường Dixmude (Đề-Thám) là đường Đít-Xơ-Mít.
Đường Blansubé, tức đoạn Phạm-Ngũ-Lão ngay chợ Thái-Bình được đọc là đường Lan-Si-Bê. Chợ Thái-Bình, cho tới năm 1925, còn được dân-chúng gọi là chợ Lan-Si-Bê.
Đường Huỳnh-Thúc-Kháng (Monlaii) là đường Mộng-Lầu.
Dân-chúng ưa đọc tên đường De Lattre (Công-Lý) nhứt vì tên cũ là Mac Mahon, đọc ra là Mặt-Má-Hồng, nghe hay quá.
Nhưng ngộ-nghĩnh số một là đường Phan-Thanh-Giản (Legrand de la Liraye). Vì tên Tây quá khó đọc, nên đọc ra là “Nhăn răng Rìa ai đi đây?”
Hiệu bán thực-phẩm tươi (épicier) của Tây ở đường Tự-Do, hiệu Guyenot (ngày nay vẫn còn) cứ được gọi là “Hãng Mỡ”, tôi ngạc-nhiên, điều-tra mãi mới hay vì hiệu ấy chuyên chế-tạo xúc-xích (saucisse) nên thừa mỡ rất nhiều. Họ bèn rót mỡ nước vào thùng dầu hỏa bán cho người Quảng-Đông là dân-tộc rất thích ăn mỡ nước, mỗi tháng bán ra hằng mấy trăm thùng, nên nổi danh như vậy.


(Đường Tự Do Sàigòn)
Xóm Máy Đá trong Chợlớn ngày nay, có tên như vậy vì buổi đầu hãng Larue phát-tích ở đó, và ngày nay vẫn còn chi-cuộc Larue ở đó nữa.
Thuở tôi còn học trung-học, mỗi lần trường đưa đi viếng kỹ-nghệ trong thành-phố thì viếng hãng Larue tại đó, hãng Sàigòn chưa xây.
Cái ngã sáu ở đầu các đường Lê-văn-Duyệt, Võ-Tánh, Gia-Long, Phan-văn-Hùm ngày nay, phải gọi là Ngã Sáu Quẹt-Đoong, dân-chúng mới hiểu, vì cái ngã sáu trong Chợlớn cao-niên hơn tới 30 tuổi, họ quen với tên cũ, tên mới, phải kêu thêm chút gì để phân-biệt.
Phần 2…
Tên đường thời Đệ Nhị Công Hoà:

Đại lộ Hai Bà Trưng
Đi trên đại lộ Hai Bà Trưng tôi bỗng sực nhớ lại một điều rồi tủi thân cho bọn đàn ông của ta. Là hễ đờn ông được danh vọng thì đàn bà cũng thơm lây, nhưng khi đàn bà nổi danh thì tên tuổi đàn ông chìm sâu thêm.
Đành rằng ông Thi Sách chỉ có mỗi một cái công nhỏ đối với nước nhà là bị viên thái thú Tàu giết thôi, nhưng quên mất ông ấy cũng tội.
Vậy nên tôi đã đi khắp Sàigòn để tìm xem có con phố nào là phố Thi Sách không ? Có. Hoan hô quí vị đặt tên đường đã nhớ dai hơn nhân dân.
Nhưng mà tội quá, ông Thi Sách ở mãi bên kia nhà thương Đồn Đất, ở xóm ngoại nhân, không bao giờ có người Việt bước chân đến. Ông nầy đã chết vì tay ngoại nhân mà hương hồn ngày nay vẫn lẩn quẩn với ngoại nhân.
Ông Thi Sách và Hai Bà Trưng chạy song song với nhau cho tới mé nước, và không bao giờ gặp nhau cả, đó cũng là một điểm đáng buồn cho cặp vợ chồng ấy.
Ông Nguyễn Thái Học mà còn ngậm cười được vì đã gặp Cô Giang, Cô Bắc ở hai ngã ba chợ Cầu Muối, đằng nầy ông chồng Bà Trưng chỉ nghe văng vẳng tiếng bà đâu đó thôi.
Bà Sương Nguyệt Ánh cũng không bao giờ đi thăm cha được, vì bà ở xóm Bùi Chu còn cụ đồ lại qui điền mãi tận trên Tân Định.
Vị nữ anh hùng thứ nhì của ta, Bà Triệu cũng bị ta quên mất vì bà cũng ở xóm ngoại nhân, trong Chợ Lớn.
Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng đô thành đặt tên rất khéo, Công chúa Huyền Trân ở một căn phố buồn hiu, sau dinh Độc Lập, buồn như con đường thiên lý ngàn dặm băng rừng đưa công chúa từ Việt sang Chiêm.
Còn cái phố có nhiều tiệm mì, tiệm ăn và tửu lâu trong Chợ Lớn mà đặt tên là phố Tản Đà thì tuyệt diệu bởi vì Tản Đà không phải là thi sĩ mà thôi, lại còn là thực sĩ nữa.


Chợ Bình Tây
Nếu đô thành có bất công chút ít, chẳng qua là vì quên đó thôi. Chẳng hạn như ông Phan Huy Chú được nêu danh trong Chợ Lớn mà ông Phan Huy Vịnh lại không.
Đô thành lại trọng văn nghệ lắm. Không có nhà văn, nhà thơ nào ngày xưa mà không được lấy tên đặt tên phố cả, khiến lũ văn nhân thi sĩ hậu sanh là ta đây cũng nức lòng muốn cố gắng để có thể được biệt đãi như thế về sau.
Chỉ phiền văn nhân thi sĩ của thế hệ ta đông quá, mà đường phố chỉ có hạn thôi, dễ gì tìm được một chỗ “mần”.
Có một điều đáng chú ý là họ Nguyễn chiếm đa số trong các phố Sàigòn. Dân tộc ta họ Nguyễn cũng như dân tộc Pháp họ Dupont vậy mà!


Đại lộ Nguyễn Huệ
Một người Pháp quen biết kể chuyện rằng thuở Đức chiếm đóng nước Pháp, một khi kia quân đội Đức bố ráp ở một ngoại ô nhỏ tại Ba Lê để bắt ông Dupont nào đó. Cuộc bố ráp thi hành xong thì chúng bắt được tất cả tám trăm mười bảy ông Dupont, vừa già, vừa trẻ, đó là chúng đã loại trừ những cậu Dupont oắt con ra rồi đó.
Một cựu thông ngôn nhà binh Pháp ở đây cũng kể rằng một khi kia Pháp ruồng bố ở làng nọ để bắt Nguyễn Thị Hai nào đó. Chỉ một làng ấy thôi, mà họ đã bắt đến bốn mươi tám Nguyễn Thị Hai chẳn chòi.
Vậy thì họ Nguyễn chiếm đến 55 con phố ở Sàigòn – Chợ Lớn không phải là chuyện lạ. Đó là chưa kể những bà Sương Ngyệt Ánh v.v… cũng là họ Nguyễn mà không nêu họ ra. Bà Đoàn Thị Điểm cũng có người bảo thật ra là Nguyễn Thị Điểm, và biết đâu cô Giang, cô Bắc lại không là họ Nguyễn.
Họ Nguyễn được ưu đãi như thế, còn họ Tô không biết vì sao lại ra rìa. Năm kia trên Hòa – Hưng có một con phố tên là Tô Hiến Thành. Năm nay không thấy tên phố đó nữa.
Ngoại nhân có công với dân tộc cũng được nêu danh, cho công bằng. Nhưng không hiểu ông J.J Rousseau có công trực tiếp gì với dân tộc ta. Còn ba ngoại nhân khác rất có công là Tích Quang, Nhâm Diên, và Sĩ Nhiếp lại vắng bóng.


Đường Lê Thánh Tôn


Đường Phạm Ngũ Lão

Sàigòn có một con phố cong queo một cách rất ngộ nghĩnh, được đặt tên là phố Cống Quỳnh. Thật là khéo, vì cách lập luận và hành động của ông Cống Quỳnh cũng cong cong quèo quẹo như con phố kỳ dị ấy.
Tiếc rằng Cống Quỳnh có lẽ chỉ là một nhân vật tưởng tượng thôi.
Sàigòn đặc biệt vì có phố không vỉa hè, thí dụ đoạn phố Đề Thám trước dãy nhà cũ đối diện với hông nhà thờ Tin Lành.
Thật ra thì có một vỉa hè rộng độ tám tấc, nhưng đã lì xuống bằng với mặt đường, ô tô tha hồ leo lên và người đi bộ rất lắm khi phải nhảy vào nhà người ta để thoát chết.
Lại có vỉa hè mà người đi bộ không được xử dụng, thí dụ vỉa hè Cô Giang tại chợ Cầu Muối. Người đi bộ ở đoạn nầy hễ xuống đường thì bị xe cán, còn lên lề thì bị mấy chị bạn hàng đuổi, vì mấy chị mướn vỉa hè ấy có đóng tiền chỗ đàng hoàng.
Thành ra qua đoạn đường đó y như là qua cầu đoạn trường, lên lề thì đoạn tâm, còn xuống thì đoạn cẳng.
Có lắm vỉa hè công khai dùng làm ga-ra, nói công khai vì xe để trên ấy nằm đó năm nầy qua năm khác mà không sao cả. Thế nên chỉ mướn một căn phố bé nhỏ thôi mà người ta có thể mở ga-ra to là nhờ vậy.
Nói đến vỉa hè không thể không chú ý đến những vỉa hè mức độ khác nhau, khách đang đi bỗng sụp chơn suýt ngã. Ấy, nhà bên nầy xây cao một tấc năm, nhà bên kia chỉ xây một tấc thôi mà. Vì mạnh ai nấy xây vỉa hè nên vỉa hè lại mang đủ màu sắc, có quãng xanh, quãng vàng, quãng xám, và lại kiến thiết bằng đủ cả vật liệu : gạch xi-măng, xi-măng trắng, gạch thẻ, gạch Tàu, nhựa, đá ong. Sợ nhứt là vỉa hè đá ong trên đường Thủ Khoa Huân. Đá ong lổm chổm khiến bộ hành không lọi chân cũng trặc cẳng.
Nếu đô thành tự làm lấy vỉa hè rồi bắt người ta trả tiền thì tình trạng nầy đã không có.
Bình Nguyên Lộc

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thái độ của người dân đối với Tù Chính trị


Mạc Văn Trang - Tôi băn khoăn, không hiểu lắm, sao lại gọi anh Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, Trần Huỳnh Duy Thức hay Chị Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thúy Nga... là “Tù nhân lương tâm”? Theo tôi cứ gọi rõ là “Chính trị phạm” hay “tù Chính trị” cho nó rõ ràng.

Hình minh họa
Hồi trước năm 1945, tôi nhớ không lầm thì chế độ cai trị của Pháp có chia ra 2 loại tù: Thường phạm và Chính trị phạm. Thường phạm là những người phạm tội hình sự như: Cướp, hiếp, giết người, trộm cắp, phá hoại tài sản của người khác nay của công, nấu rượu lậu, buôn thuốc phiện, lừa đảo. V.v... Những người này có thể bị tử hình, tù chung thân hay tù một số năm. Nhưng ra tù là thôi. 

Ngược lại, tù Chính trị hay Chính trị phạm là những người lên án chế độ cai trị, tuyên truyền lật đổ chế độ hoặc có hành động chống đối chính quyền... Hầu hết các vị tiền bối cách mạng như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cho đến Tôn Đức Thắng, Nguyễn Ái Quốc, Phạm Văn Đồng, Trường Trinh, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Hùng, Tố Hữu v.v... đều từng là Chính trị phạm. Đặc điểm của Chính trị phạm là, ra tù, thường vẫn bị quản thúc tại địa phương, như Cụ Phan Bội Châu bị quản chế ở Huế. Hồi đó nhân dân ta rất thương yêu, kính trọng các Chính trị phạm, vì họ là người yêu nước, thương nòi mà dấn thân, chịu bao nhiêu hiểm nguy, tù đày, chết chóc.

Hồi kháng chiến chống Pháp 1945 -1954, người Pháp còn phân chia ra 3 loại tù: Thường phạm, tù Chính trị và tù Binh. Mỗi loại tù có chế độ giam giữ, đối xử khác nhau, trong đó tù Chính trị bao giờ cũng bị đối xử hà khắc nhất. Tù Thường phạm thì xét xử theo Luật, hạn tù rõ ràng; tù Binh thường chẳng có xét xử, cứ giam giữ và có thể trao đổi tù Binh; tù Chính trị thì nhiều khi chẳng biết là tội gì, chỉ cần “tình nghi” hoặc kẻ nào đó khai báo, chỉ điểm cũng có thể bị bắt giam, không xét xử. Hồi đó cha tôi rồi chị tôi và một anh cũng bị bắt đi tù, chỉ vì có người bị Tây bắt, khai ra anh cả tôi là Việt Minh nguy hiểm. Thế là mấy người nhà tôi thành Chính trị phạm. Lần mẹ tôi đi “tiếp tế” cho chị tôi mới bị bắt, giam ở thị xã Hải Dương, mẹ kể, dò hỏi mãi mới tìm được đến nơi. Đến nhà tù Thường phạm, người ta lại chỉ đến chỗ giam Chính trị phạm; đến đấy lại phải tìm trại giam tù con gái... Ngày đó dân ta cũng yêu thương, kính trọng các chính trị phạm lắm. Mỗi lần mẹ tôi đi “tiếp tế” về, dân làng đến thăm hỏi, an ủi, động viên, cảm thông, giúp đỡ rất nhiều.

Như thế là thời Pháp thuộc trước 1945 hay thời “tạm chiếm” 1945 – 1954, nhân dân ta luôn biết rằng tù Chính trị hay Chính trị phạm, dẫu có bị chính quyền cai trị kết án tử hình hay tù đầy, nhưng họ là người tốt, người yêu nước, dấn thân vì dân, vì nước; họ có “TỘI” với chính quyền cai trị, những có CÔNG với nước; họ là những người được nhân dân yêu thương, kính trọng; người thân của họ luôn được cảm thông, giúp đỡ. Đạo lý đó của dân tộc ta rất rõ ràng, dứt khoát, nhờ đó tinh thần yêu nước được nuôi dưỡng, tôn vinh suốt chiều dài lịch sử qua các thế hệ.

Dưới chính quyền cộng sản, khái niệm “Chính trị phạm” có lẽ được mở rộng hơn bao giờ hết. Tất cả những người bị chính quyền CHO LÀ họ chống đối, tuyên truyền “phá hoại chế độ”, thậm chí “có nguy cơ chống chính quyền” cũng có thể bị bắt, bị tù, thậm chí bị giết. Hàng vạn người bị chết, hàng chục vạn người bị tù trong CCRĐ ở miền Bắc đầu những năm 1950 cũng có thể coi là Chính trị phạm, vì họ là “đối tượng của đấu tranh giai cấp”, các “phiên tòa” đều kết tội họ “câu kết với bọn phong kiến, đế quốc” bóc lột, đàn áp giai cấp bần cố nông... Những “Tòa án nhân dân đặc biệt” được lập ra, đã quyết định trước, “tội nhân” đáng tù bao nhiêu năm hay tử hình thì cứ luận tội, tuyên án cho tương xứng.

Những người bị bắt, bị tù, có xét xử tuyên án hay không tuyên án trong các vụ “Nhân văn - Giai phẩm”, “Nhóm chống Đảng” sau này cũng là các Chính trị phạm.
Tôi cho rằng, những người miền Nam sau 1975, bị chính quyền CS gọi là “ngụy quân, ngụy quyền” bắt đi giam giữ, “cải tạo” cũng là các “Chính trị phạm”. Bởi vì họ bị nhà cầm quyền cho là có nguy cơ “đe dọa chế độ” mà bị giam giữ, “cải tạo”...

Ngày nay những người bị bắt, bị tù theo “Điều 258 (năm 1991) hay Điều 88 (năm 1999) “Bộ Luật Hình sự nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” theo tôi đều là các Chính trị phạm. Họ khác với “Thường phạm” là người mắc tội cướp, hiếp, giết người, tham nhũng, buôn lậu, làm hàng giả, lợi dụng chức vụ, v.v... Người phạm tội theo “Điều 88 Bộ luật Hình sự là “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam:

1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm”.

Tôi không bình luận về điều luật này, vì đã là “Chính trị phạm” thì Chính quyền cai trị muốn bắt ai và quy tội gi chẳng được, vì cái “tội” rất mơ hồ, có thể quy kết nặng nhẹ, tùy suy diễn...

Ở đây chỉ muốn nói về thái độ của người dân. Như tôi đã viết, thời trước 1945 và thời Pháp tạm chiếm 1945 – 1954, những người tù Chính trị được nhân dân yêu thương, kính trọng và bí mật hoặc công khai động viên, chia sẻ, giúp đỡ gia đình họ.

Nhưng những người tù trong CCRĐ, “Nhân văn - Giai phẩm” hay “Chống Đảng”, đi “Cải tạo” thì rất đau khổ về tinh thần, vì họ bị kết án thế nào, cũng không được cãi; không ai dám bênh vực; người dân thì chỉ biết nghe, biết tin theo chính quyền, và hầu hết về hùa với chính quyền lên án, hoặc xa lánh, tránh liên lụy; gia đình họ cũng bị kỳ thị, xa lánh. Có người còn bị người thân “đấu tố”, ruồng bỏ, để chứng tỏ với chính quyền rằng, mình “cách mạng triệt để”...Những Chính trị phạm chưa bao giờ bi thương như thời kỳ đó. Sau này CCRĐ được “sửa sai”, nhiều người trong vụ “Nhân văn - Giai phẩm” hay “Nhóm chống Đảng” được minh oan, những người có thái độ ứng xử sai lầm trước đây với họ, đã vô cùng hổ thẹn, hối hận, nhưng cũng không gì chuộc lại được lỗi lầm.

Ngày nay, tình hình đã khá hơn, những người bị kết án theo Điều 258 hay 88 Bộ Luật hình sự, thường được người thân đồng hành, an ủi, chăm nuôi; được một bộ phận xã hội cảm thông, thương mến, hỗ trợ về cả tinh thần lẫn vật chất; được dư luận quốc tế quan tâm... Đó là những chuyển biến xã hội rất đáng mừng, một phần khác cũng nhờ có mạng xã hội lan truyền thông tin đa chiều, kịp thời...

Có người trách, sao đa số người dân vẫn vô cảm với những Chính trị phạm thời nay như vây? Hãy thông cảm với họ, họ đã bị tuyên truyền nhồi sọ hơn 70 mươi năm và nỗi ám ảnh sợ hãi liên lụy đã ngấm vào máu thịt họ hơn nửa thế kỷ còn gì! Tâm lý sợ hãi, chỉ cốt sao mình được an toàn, tránh liên lụy, đã làm nảy nở thói ích kỷ, vô cảm thành trạng thái xã hội..

Những người ngồi trên Tòa án, luận tội, kết án, y án chị Nguyễn Ngọc Như quỳnh 10 năm tù, cũng chẳng đáng trách lắm, vì họ nằm trong hệ thống, chịu sự chỉ huy từ trên xuống, họ phải thực thi, nếu còn muốn “hành nghề”.

Đáng trách nhất là một số ít người về hùa với chính quyền, bới móc, bôi nhọ, lên án những người như Chị Như Quỳnh, Trần Thúy Nga... Họ đã đặt cái gì đó cao hơn tình đồng bào, tình người - tình đồng loại.

“Thành – Trụ - Hoại - Diệt” là quy luật tất yếu. Mọi triều đại sẽ đổi thay. Lịch sử sẽ ghi lại tất cả. Chỉ có lòng yêu nước, thương nòi, yêu công lý, chính nghĩa, tình người là ngầm chảy mãi trong lòng dân tộc, nhân loại.

1/12/2017
Mạc Văn Trang
(FB Mạc Văn Trang)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Khoa học tìm ra bằng chứng xác thực sự tồn tại của Đấng Sáng Thế


Nhiều khám phá gần đây khiến các nhà khoa học phải nghĩ lại về nguồn gốc vũ trụ của chúng ta. Những loại kính thiên văn mới và mạnh mẽ hơn đã mở khóa về những bí ẩn vũ trụ chưa từng được vén mở trước đó, đưa đến cho chúng ta những nhận thức khoa học mới đáng kinh ngạc về nguồn gốc của sự sống.
Các khám phá này cùng với những gì các nhà sinh học phân tử đã từng nghiên cứu về mã hóa phức tạp trong DNA, đã khiến nhiều nhà khoa học phải thừa nhận rằng vũ trụ và sự sống của chính nó dường như là một phần của một thiết kế lớn. Thật bất ngờ, nhiều nhà khoa học giờ đang nói nói về Chúa Trời trong khi họ không hề có một đức tin tôn giáo nào. 
Nhiều nhà khoa học giờ đang nói nói về Chúa Trời trong khi họ không hề có một đức tin tôn giáo nào (Ảnh: Moroni’s Latter-Day Saint Page)
Những khám phá gây ‘choáng váng’ này là gì mà khiến các nhà khoa học bất ngờ khi nói về Đấng Sáng Thế? Có thể kể đến 3 khám phá mang tính cách mạng từ các lĩnh vực thiên văn học và khoa học phân tử.
  1. Vũ trụ có một sự khởi đầu
  2. Vũ trụ thích hợp cho sự sống
  3. Mã hóa DNA tiết lộ về trí thông minh
Những tuyên bố mà các nhà khoa học hàng đầu đã đưa ra về những khám phá này sẽ khiến bạn phải bất ngờ.
Vũ trụ đã từng có một sự khởi đầu
Kể từ buổi bình minh của thời đại văn minh, con người đã ngước nhìn lên các vì sao, tự hỏi chúng là gì và làm sao chúng có thể ở đó. Dù cho trên bầu trời đêm trong vắt, đôi mắt trần của con người chỉ có thể nhìn thấy được 6.000 vì sao, Hubble và những loại kính viễn vọng công suất lớn khác đã phát hiện ra rằng có tới một tỷ nghìn tỷ ngôi sao tụ hợp trong hơn 100 tỷ ngân hà. Thực tế, Mặt trời của chúng ta chỉ như một hạt cát giữa các bãi biển trên thế giới. Nhưng trước thế kỉ 20, phần lớn các nhà khoa học đều tin rằng dải ngân hà của chúng ta đã là toàn bộ vũ trụ và chỉ có khoảng 100 triệu ngôi sao tồn tại.
Người ta từng nghĩ rằng vũ trụ chỉ vỏn vẹn trong phạm vi của Hệ Ngân hà (Ảnh: apod.nasa.gov)
Phần lớn các nhà khoa học quá khứ tin rằng vũ trụ của chúng ta chưa từng có một sự khởi đầu. Họ tin rằng những khối vật chất, không gian, và năng lượng hợp thành toàn bộ vũ trụ của chúng ta vẫn luôn tồn tại. Nhưng trong đầu thế kỉ 20, nhà thiên văn Edwin Hubble đã khám phá ra vũ trụ đang mở rộng. Quay ngược trở lại quá trình một cách chính xác, ông đã tính toán được rằng mọi thứ trong vũ trụ này, vật chất, năng lượng, không gian, và thậm chí là cả thời gian của nó đã thực sự có một sự khởi đầu.
Những cơn chấn động này đã lan tới cộng đồng các nhà khoa học. Nhiều nhà khoa học bao gồm Einstein đã phản ứng một cách tiêu cực. Trong những gì mà Einstein sau đó gọi là “sai lầm lớn nhất trong cuộc đời tôi”, ông làm vội những phương trình để tránh ngụ ý rằng vũ trụ có một sự khởi đầu. Có lẽ người phản đối lớn tiếng nhất về ý tưởng về việc vũ trụ có một sự khởi đầu là nhà thiên văn người Anh Frederick Hoyle – người đã chế nhạo cách đặt tên sự tạo thành này là “Big Bang”. Ông kiên quyết tin vào học thuyết của mình về việc vũ trụ vẫn luôn tồn tại. 
Vũ trụ xác thực có một sự khởi đầu (Ảnh: TLR News)
Cuối cùng vào năm 1992, những thí nghiệm của vệ tinh COBE đã chứng minh rằng vũ trụ thực sự đã có một sự khởi đầu trước đây trong một tia sáng và năng lượng kinh ngạc. Cho dù vài nhà khoa học đã gọi nó là khoảnh khắc của sự tạo thành, được đề cấp đến như là “Big Bang”. Nhà thiên văn Robert Jastow đã cố gắng giúp chúng ta hình dung về việc mọi thứ đã bắt đầu như thế nào.
“Bức tranh cho thấy vụ nổ của quả bom khí hydro khổng lồ. Khoảnh khắc mà quả bom khổng lồ phát nổ đã đánh dấu sự khai sinh của vũ trụ”. Kết luận cuối cùng là mọi thứ trong vũ trụ này đều tới từ hư không.
Nếu mọi chuyện diễn ra thông thường, vụ nổ Big Bang sẽ không khác gì một vụ nổ hạt nhân ở trên không trung, phá hủy mọi thứ thay vì tạo ra sự sống (Ảnh: Pinterest)
Khoa học không có khả năng cho chúng ta biết rằng điều gì hay ai đó đã khiến cho vũ trụ này bắt đầu. Nhưng một số người tin rằng nó rõ ràng chỉ ra một Đấng Tạo Hóa. Nhiều nhà khoa học trong số những người theo thuyết Bất Khả Tri cho rằng chỉ có duy nhất một lời giải thích cho việc xảy ra vụ nổ Big Bang đó là bởi bàn tay vĩ đại với năng lực thần thánh của Đấng Sáng Thế.
Các nhà vũ trụ học – những người chuyên nghiên cứu về vũ trụ và nguồn gốc của nó đã sớm nhận ra rằng vụ nổ vũ trụ sẽ giống như một vụ nổ hạt nhân, và không thể mang tới bất kể một sự sống nào trừ khi nó được thiết kế một cách chính xác để làm như vậy. Và điều đó có nghĩa rằng người thiết kế ra nó hẳn phải lên kế hoạch trước đó. Họ bắt đầu sử dụng những từ như “Đấng Tạo Hóa”, “Siêu Trí Tuệ” hay thậm chỉ là “Đấng Tối Cao” để mô tả về người thiết kế này.
Vũ trụ được tinh chỉnh cho sự sống
Các nhà vật lý tính toán rằng để sự sống có thể tồn tại, trọng lực và các định luật vật lý khác chi phối vũ trụ của chúng ta cần phải được điều chỉnh một cách vô cùng chính xác nếu không vũ trụ của chúng ta không thể tồn tại. Ví dụ, bạn có biết rằng nếu tốc độ nở ra của vũ trụ chỉ cần yếu hơn một chút, trọng lực sẽ kéo tất cả các vật chất trở thành một “Vụ Co Lớn” (Big Crunch – là một giả thuyết về sự quy tụ của vũ trụ trở lại một điểm sau khi nó ngừng nở ra sau Vụ Nổ Lớn). Stephen Hawking viết:
“Nếu tốc độ nở ra một giây sau vụ nổ Big Bang mà nhỏ hơn kể cả một phần một trăm ngàn triệu triệu, vũ trụ sẽ tái sụp đổ trước khi nó có thể đạt tới kích thước hiện tại của nó ”.
Trái lại, nếu tỷ lệ nở ra chỉ cần lớn thêm một phần nhỏ, tất cả các thiên hà, ngôi sao và các hành tinh có thể đã không bao giờ hình thành, và chúng ta sẽ không thể xuất hiện.
Những người theo thuyết vô khả tri đã không thể giải thích được “những sự trùng hợp ngẫu nhiên” rõ rệt cho các yếu tố vô cùng hợp lý khiến sự sống xuất hiện trong vũ trụ (Ảnh: tinhhoa)
Để sự sống có thể tồn tại, các điều kiện trong hệ mặt trời của chúng ta và hành tinh của chúng ta cũng cần phải thật chính xác. Ví dụ, chúng ta đều nhận ra rằng nếu không có bầu khí quyển chứa khí oxy, không ai trong chúng ta sẽ có thể hít thở được. Và không có oxy, nước không thể tồn tại. Không có nước sẽ không có mưa cho cây trồng của chúng ta. Các yếu tố khác như canxi, hydro, nitơ, natri, cacbon và phốt pho cũng rất cần thiết cho sự sống. Nhưng điều đó cũng không phải là tất cả những gì cần thiết để sự sống có thể tồn tại.
Kích thước, nhiệt độ, khoảng cách tương đối, và lớp bao phủ hóa học của hành tinh, Mặt trời, và Mặt trăng của chúng ta cũng cần phải thật chính xác. Và có lẽ phải có đến hàng tá điều kiện khác mà cần phải thật chính xác. Các nhà khoa học tin tưởng vào Chúa Trời có thể đã liệu trước sự điều chỉnh như vậy, nhưng những người vô thần và những người theo thuyết vô khả tri đã không thể giải thích được “những sự trùng hợp ngẫu nhiên” rõ rệt này.
Vũ trụ: Tai nạn hay một phép màu?
Xác suất của sự tồn tại sự sống con người tình cờ xảy ra từ vụ nổ bất ngẫu nhiên trong lịch sử vũ trụ là bao nhiêu? Để sự sống của con người có thể có được hình thành từ một vụ nổ lớn (Big Bang) hoàn toàn chịu ảnh hưởng theo các quy luật về xác suất.
Xác suất của một vụ nổ Big Bang ngẫu nhiên tạo thành sự sống như chúng ta biết sẽ giống như một người thắng được trên một ngàn giải xổ số mega-million liên tiếp sau khi mua chỉ một vé cho mỗi lần chơi (Ảnh: VOA)
Một nhà thiên văn học tính toán xác suất là ít hơn một phần một ngàn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ nghìn tỷ… Nói cách khác, xác suất một người bị bịt mắt có thể tìm thấy một hạt cát đã được đánh dấu trong tất cả các hạt cát ở trên tất cả các bãi biển trên thế giới còn lớn hơn nhiều.
Xác suất của một vụ nổ Big Bang ngẫu nhiên tạo thành sự sống như chúng ta biết sẽ giống như một người thắng được trên một ngàn giải xổ số mega-million liên tiếp sau khi mua chỉ một vé cho mỗi lần chơi (mega-million là một hình thức chơi xổ số của Mỹ). Không thể xảy ra đúng không nào? Thực sự không thể. Vì vậy, nhiều nhà khoa học kết luận: Một người nào đó đằng sau hậu trường đã thiết kế và tạo ra vũ trụ. Nhưng, có những người khác vẫn đang tìm kiếm giải thích khác cho sự tồn tại của vũ trụ của chúng ta.
DNA: Ngôn ngữ của sự sống
Gần đây nhất là năm 1953, các nhà sinh học phân tử đã phát hiện ra một thiết kế rắc rối phức tạp trong thế giới vi mô của DNA. Phân tử nhỏ bé này được gọi là “những bộ não” của mỗi tế bào trong cơ thể chúng ta cũng như trong mọi sinh vật sống khác. Tuy nhiên, càng khám phá nhiều về DNA, họ càng kinh ngạc về sự lỗi lạc đằng sau nó. Các nhà khoa học tin rằng thế giới vật chất là tất cả những thứ tồn tại quanh ta, như Richard Dawkins, cho rằng ADN phát triển bởi sự lựa chọn tự nhiên mà không cần có Đấng Tạo Hóa.
Ngay cả những người ủng hộ thuyết tiến hóa nhất vẫn phải thừa nhận rằng nguồn gốc của sự rắc rối phức tạp và huyền diệu của DNA là không thể giải thích được (Ảnh: genomecompiler.com)
Nhưng ngay cả những người ủng hộ thuyết tiến hóa nhất vẫn phải thừa nhận rằng nguồn gốc của sự rắc rối phức tạp của DNA là không thể giải thích được. Sự phức tạp của DNA đã khiến đồng nghiệp của ông là Francis Crick tin rằng nó không thể được tạo ra trên Trái đất một cách tự nhiên. Ông tin rằng sự sống quá phức tạp để có thể được tạo ra trên Trái đất, và ắt hẳn nó phải tới từ không gian xa hơn bên ngoài kia.
Những mã hóa đằng sau DNA cho thấy rằng trí tuệ lớn như vậy có thể khiến ngay cả trí tưởng tượng của chúng ta cũng phải bối rối. Chỉ một lượng DNA thôi cũng đã chứa đựng thông tin tương đương với một lượng sách mà có thể bao quanh thế giới tới 5000 lần. Và DNA hoạt động giống như ngôn ngữ với mã phần mềm cực kỳ phức tạp của riêng nó.
Chỉ một lượng DNA cũng đã chứa đựng thông tin tương đương với một lượng sách mà có thể bao quanh thế giới tới 5000 lần, phức tạp hơn nhiều lần bất cứ ngôn ngữ lập trình nào chúng ta đang có (Ảnh: inhabitat.com)
Vào đầu thế kỷ 21, người theo thuyết vô thần nổi tiếng Antony Flew, người chưa từng tin về những điều này trong suốt cuộc đời mình đã bất ngờ và thậm chí nghiên cứu về trí tuệ đáng kinh ngạc phía sau DNA. Flew giải thích những gì đã khiến ông thay đổi quan điểm của mình:
“Những gì tôi nghĩ về việc các chuỗi phân tử DNA đã làm chính là để cho thấy trí tuệ như vậy chắc hẳn phải liên quan đến việc khiến những phân tử đa dạng và đặc biệt này lại liên kết với nhau. Tôi thấy rằng những thành quả có được một cách vô cùng phức tạp đó giống như việc làm của một trí tuệ… Hiện tại dường như tôi cho rằng những phát hiện sau hơn năm mươi năm nghiên cứu về DNA đã cung cấp những tài liệu cho một lý luận mới đầy sức mạnh”.
Sự sống và Vũ trụ đều có dấu vết bàn tay của Đấng Tạo Hóa
Phải chăng các nhà khoa học giờ đây đã thuyết phục chúng ta rằng có một Đấng Tạo Hóa đã để lại “dấu tay” của mình trong vũ trụ này? Mặc dù nhiều nhà khoa học vẫn có khuynh hướng gạt Chúa Trời ra khỏi sự hình thành vũ trụ, nhưng hầu hết đều nhận ra những sự liên quan đến tôn giáo của những khám phá mới này.
Đấng Tạo Hóa đã để lại “dấu tay” của mình trên mọi thứ trong vũ trụ này (Ảnh: crossmap.com)
Vậy sẽ ra sao nếu sau tất cả, Đáng Sáng Thế thực sự tồn tại?
Nếu có một Đấng Tạo Hóa với trí tuệ siêu phàm, vậy thì người đó trông như thế nào? Phải chăng người ấy chỉ như là một “lực lượng vũ trụ” như trong phim Star Wars, hay anh ta là một cá nhân như chúng ta? Vì chúng ta là những cá nhân và những quan hệ, liệu người tạo ra chúng ta cũng có những cá nhân và quan hệ?
Nhiều nhà khoa học như Arthur L. Schawlow – Giáo sư tại Đại học Stanford và là người đoạt giải Nobel vật lý, ông tin rằng những khám phá mới này chứng minh bằng chứng thuyết phục cho sự tồn tại của một vị Sáng Thế Chủ. Ông viết: “Với tôi, dường như khi đối mặt với những điều kỳ diệu của cuộc sống và vũ trụ, người ta phải hỏi tại sao chứ không phải làm thế nào. Những câu trả lời duy nhất có thể là tôn giáo… Tôi tìm thấy sự cần thiết có một Chúa Trời trong vũ trụ và trong cuộc sống của chính mình “.
Như chúng ta đã thấy, khoa học không thể trả lời những câu hỏi về Đấng Sáng Thế và mục đích của sự sống. Tuy nhiên, Kinh thánh đã đúng về sự sáng tạo từ hư không và chắc chắn còn ẩn chứa nhiều huyền cơ khác nữa.
Vậy Đấng Sáng Thế có thể là ai?
Hai ngàn năm trước, một người đàn ông đặt chân lên hành tinh của chúng ta, Người tuyên bố sẽ có câu trả lời cho sự sống. Mặc dù sự xuất hiện của Ngài trên Trái đất là ngắn ngủi, nhưng tác động Ngài đã làm thay đổi thế giới cho đến tận hôm nay. Tên của Người là Jesus Christ.
Cùng thời điểm đó, tại phương Đông, hai nhân vật lỗi lạc khác là Phật Thích Ca Mâu Ni và Lão Tử cũng đồng thời hạ thế để giáo hóa con người.
Những ghi chép cổ xưa kể lại rằng những vị giác giả này liên tục chứng minh năng lực sáng tạo vượt trên các quy luật tự nhiên. Họ thông thái, khiêm nhường và từ bi.
Những vị giác giả như Jesus, Phật Thích Ca liên tục chứng minh năng lực sáng tạo lên trên các quy luật tự nhiên (Ảnh: Tinhhoa)
Nhưng liệu họ có phải chính là những người mà Einstein đã vô tình nhắc tới là “siêu trí tuệ” đằng sau vũ trụ?
Nghiền ngẫm Kinh Thánh có thể cho chúng ta thấy một ám chỉ rằng Thiên Chúa mới là người đã ném các ngôi sao vào không gian, tinh chỉnh vũ trụ của chúng ta và tạo ra DNA chứ không phải chúa Jesus.
Trong Do Thái giáo, chúa Jesus được xem là sứ giả của Thiên Chúa, một vị lãnh đạo được Thiên Chúa sai đến để giải cứu dân Chúa.
Nhiều tôn giáo lớn chỉ thừa nhận chúa Jesus là sứ giả của Sáng Thế Chủ. (Ảnh: Catholic Herald)
Kinh Koran của Hồi giáo thì khẳng định Jesus là một nhà tiên tri quan trọng của Thiên Chúa người mang lại Injil (Phúc âm), có thể làm những phép lạ nhưng không mang đặc tính thần linh.
Đạo Đức Kinh và kinh Phật cũng không có chỗ nào viết rằng Lão Tử và Phật Thích Ca đã tạo ra thế giới. Họ là những người cùng thời với chúa Jesus và dường như cùng được phái xuống thế gian cho một sứ mệnh nào đó thay vì kiến tạo vũ trụ.
Như vậy, Sáng Thế Chủ xác thực là một người chúng ta mới chỉ nghe chứ chưa từng được biết đến. Ngài chắc chắn có quyền năng vô hạn, tạo ra sinh mệnh, khống chế các chiều không thời gian và vượt trên cả sự sống chết thường tình. Con người ở thế gian làm sao để có thể biết được Người? Chỉ có tu luyện, đề cao đạo đức và gìn giữ tín tâm là cách thức duy nhất để có được hồng ân và phúc phận to lớn đó.
Nhật Quang

Phần nhận xét hiển thị trên trang