Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 3 tháng 10, 2017

Trung Quốc nên chuẩn bị hậu sự cho Triều Tiên? 04/10/2017 BẠN NGHĨ GÌ VỀ BÀI VIẾT NÀY?



Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành
Theo Nghiên cứu quốc tế
Trang “Diễn đàn Đông Á” bản điện tử số ra ngày 11/9/2017 đăng bài “Đã đến lúc chuẩn bị cho kết cục xấu nhất của Triều Tiên” của tác giả Giả Khánh Quốc (Jia Qingguo), Giám đốc Học viện Quan hệ quốc tế của Đại học Bắc Kinh. Bài này đang gây ra một cuộc tranh cãi lớn trong dư luận Trung Quốc.
Giáo sư Giả Khánh Quốc cho rằng vũ khí hạt nhân và tên lửa mà Triều Tiên phát triển sớm muộn sẽ trở thành sự đe dọa thực sự đối với nước Mỹ, nước này có thể sẽ phát động cuộc tấn công quân sự “phủ đầu” nằm hủy diệt vũ khí hạt nhân của Triều Tiên. Cho dù Mỹ tự kiềm chế không đánh đòn phủ đầu thì trong tình hình ngày càng bị quốc tế trừng phạt nghiêm khắc hơn và Mỹ cùng Hàn Quốc tập trận chung với quy mô ngày càng lớn, Triều Tiên cũng có thể phát động chiến tranh.
Mối nguy hiểm bùng nổ chiến tranh trên bán đảo này đang ngày càng tới gần, Trung Quốc tất phải chuẩn bị cho kết quả “xấu nhất”. Cái kết quả “xấu nhất” mà Giả Khánh Quốc nói ở đây là chính quyền Kim Jong Un hoàn toàn sụp đổ trước đòn đánh quân sự của Mỹ và Hàn Quốc. Giả Khánh Quốc cho rằng giờ đây Trung Quốc nên đối thoại với Mỹ và Hàn Quốc, nói rõ trước một số vấn đề quan trọng.
Giả Khánh Quốc cho rằng vấn đề thứ nhất là Trung Quốc không muốn thấy quân đội Mỹ vượt qua vĩ tuyến 38, bởi lẽ đây là một phòng tuyến tâm lý, quân Mỹ vượt qua vĩ tuyến 38 có nghĩa là lần thứ hai họ lên miền Bắc, điều đó phía Trung Quốc khó chấp nhận, vì thế cần phải nói rõ với phía Mỹ để giành được sự thừa nhận ngầm của họ. Giả Khánh Quốc cho rằng Mỹ sẽ tiếp thu yêu cầu hợp lý này của Trung Quốc.
Thứ hai là vấn đề xử lý vũ khí hạt nhân của Triều Tiên. Giả Khánh Quốc cho rằng vũ khí hạt nhân của Triều Tiên không có bất cứ giá trị kỹ thuật nào, đặt vào trong tay ai đều gây phiền phức, hơn nữa chi phí rất cao. Trung Quốc có thể cho phép Mỹ xử lý vũ khí hạt nhân của Triều Tiên, nhưng khi Trung Quốc đã không cho phép Mỹ vượt qua vĩ tuyến 38 thì cuối cùng vũ khí hạt nhân của Triều Tiên có lẽ sẽ do phía Trung Quốc xử lý. Khi hai nước Trung Quốc và Mỹ đều phản đối “phổ biến vũ khí hạt nhân” thì tin rằng Mỹ cũng sẽ không phản đối [cách giải quyết như vậy].
Thứ ba là biện pháp ngăn ngừa một lượng lớn người tị nạn Triều Tiên có thể ùa vào Trung Quốc. Để giải quyết vấn đề này, Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc có thể cần vượt biên giới tiến vào Triều Tiên, lập vùng tập trung người tị nạn ở bên trong biên giới Triều Tiên nhằm thu xếp [chỗ ở] cho nạn dân.
Thứ tư là làm gì để tái thiết chính phủ Triều Tiên và trật tự trong nước. Giả Khánh Quốc cho rằng Trung Quốc nên cùng Mỹ, Hàn Quốc thu xếp trước vấn đề này, có lẽ việc xây dựng chính phủ mới của Triều Tiên cần được tiến hành dưới sự giám sát và chủ trì của cộng đồng quốc tế.
Thứ năm là vấn đề rút hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD). Mỹ và Hàn Quốc từng nói đi nói lại rằng hệ thống này nhằm để đối phó với Triều Tiên, thế thì sau khi cuộc khủng hoảng hạt nhân Triều Tiên đã giải quyết xong, Mỹ nên rút THAAD ra khỏi bán đảo Triều Tiên. Giả Khánh Quốc cho rằng việc đó cũng nên đạt thỏa thuận với Mỹ, Hàn Quốc.
Chính phủ Trung Quốc đã nhiều lần nhấn mạnh “Quyết không cho phép xảy ra tình trạng hỗn loạn chiến tranh, thế nhưng chẳng ai có thể bảo đảm, chẳng ai có thể chi phối tình hình Triều Tiên sẽ phát triển theo hướng nào; Giả Khánh Quốc  cho rằng xem ra việc Trung Quốc lo lắng chuẩn bị cho tình hình xấu nhất ở Triều Tiên cũng là có lý. Nhưng tiền đề của 5 vấn đề Giả Khánh Quốc nghĩ tới là chính quyền Kim Jong Un nhanh chóng tan rã, hoàn toàn sụp đổ trước sự tấn công quân sự của Mỹ. Phải chăng ý kiến đó hầu như là quá chủ quan?
Trước đây Giả Khánh Quốc từng phát biểu ba quan điểm về vấn đề Triều Tiên: thứ nhất, chớ nên coi Triều Tiên là vùng đệm của Trung Quốc, bởi lẽ trong chiến tranh hiện đại sẽ không lặp lại chuyện Nhật đi theo con đường cũ qua bán đảo Triều Tiên để xâm lược Trung Quốc; thứ hai, chớ nên cho rằng Trung Quốc và Triều Tiên là hai nước XHCN có chế độ chính trị như nhau, bởi lẽ Triều Tiên thực hành “Chế độ chủ thể” coi “Triều Tiên trên hết”, còn Trung Quốc thực hành “CNXH đặc sắc Trung Quốc” hoàn toàn khác với chế độ của Triều Tiên ;  thứ ba, chớ nên cho rằng hai nước Trung Quốc, Triều Tiên máu thịt liền nhau, có tình hữu nghị chiến đấu, bởi lẽ tuy rằng Trung Quốc nhìn nhận như vậy về mối quan hệ giữa hai nước nhưng Triều Tiên lại không nhìn nhận như thế.
Ba quan điểm nói trên của Giả Khánh Quốc về vấn đề Triều Tiên từng làm cho một số “thanh niên nổi giận”[1] ở Trung Quốc rất bất mãn, họ chửi Giả Khánh Quốc là “tay sai của Mỹ”, thậm chí có người nói ông là “đặc tình” [tuyến nhân] của CIA, được Mỹ bảo vệ.
Giả Khánh Quốc là Giám đốc Học viện Quan hệ quốc tế của Đại học Bắc Kinh, ông hay viết bài trên các diễn đàn ở nước ngoài. Quan điểm của Giả Khánh Quốc dĩ nhiên có trọng lượng nhất định. “Diễn đàn Đông Á” là chuyên trang về các vấn đề chính trị và kinh tế vùng châu Á-Thái Bình Dương, tòa soạn đặt tại Australia.
————-
[1] Phẫn thanh, Angry Young Man, nhóm người TQ trẻ bất mãn với tình hình bất công xã hội đương thời.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHÌN NHẬN LẠI VIỆC ĐÁNH GIÁ TRIỆU ĐÀ VÀ NƯỚC NAM VIỆT TRONG LỊCH SỬ



Tượng thờ Triệu Đà tại Việt Nam. Ảnh: Nguyễn Việt.

NHÌN NHẬN LẠI VIỆC ĐÁNH GIÁ TRIỆU ĐÀ 
VÀ NƯỚC NAM VIỆT TRONG LỊCH SỬ

Hà Văn Thùy

Từ thời có Sử, các nhà nước quân chủ Việt Nam đều ghi công Triệu Đà và thừa nhận Nam Việt là triều đại chính thống của Việt Nam. Dù ở cuối thế kỷ XVIII Ngô Thì Sỹ có lên tiếng bài bác, cho Triệu Đà có tội đưa nước ta vào vòng nô lệ phương Bắc thì sử nhà Nguyễn vẫn ghi nhà Triệu là tiền triều. Quan niệm này được tiếp tục trong Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim rồi Bài ca Việt Minh của Hồ Chí Minh xuất bản tại Cao Bằng năm 1942 với hai câu thơ: Triệu Đà là vị hiền quân. Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời. Năm 1945, Chương trình Phổ thông Trung học của Chính phủ Trần Trọng Kim cũng coi nhà Triệu mở đầu cho lịch sử Việt Nam.


Tuy nhiên, từ sau năm 1960, các nhà làm sử miền Bắc có cách nhìn khác hẳn, coi Triệu Đà là giặc ngoại xâm và xóa bỏ nhà Triệu khỏi sử Việt. Người đề xuất quan điểm này là sử gia Đào Duy Anh trong cuốn Lịch sử cổ đại Việt Nam xuất bản năm 1957.

Học giả Đào Duy Anh có công lớn gầy dựng trí tuệ và lịch sử Việt Nam. Do vậy mà việc đề xuất của ông được Viện sỹ Nguyễn Khánh Toàn, Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội chấp nhận. Từ đó, phủ nhận Triệu Đà và nước Nam Việt trở thành quan điểm chính thống của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được phản ánh trong các bộ thông sử quốc gia, được đưa vào chương trình giáo dục phổ thông và đại học.

Sách Lịch sử Việt Nam, tập 1 (1971), công trình tập thể của những nhà viết sử hàng đầu Việt Nam, được biên soạn dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam viết về Triệu Đà như sau:

“Triệu Đà biết rằng không thể thắng được Âu Lạc về quân sự nên rút về núi Vũ Ninh, xin hòa với An Dương Vương. Hắn sai con trai là Trọng Thủy sang hàng phục An Dương Vương, xưng thần mà thờ. An Dương Vương gả con gái là Mị Châu cho Trọng Thủy. Trọng Thủy ở gửi rể bên nước Âu Lạc. Đấy chính là mưu mẹo mà Triệu Đà dùng để chiếm nước Âu Lạc. Trong những năm ở gửi rể, Trọng Thủy đã dò xét tình hình Âu Lạc, học phép chế nỏ và phá nỏ của người Âu Lạc rồi trốn về nước báo cho Triệu Đà. Kết hợp lực lượng quân sự và mưu mẹo gián điệp, lần này Triệu Đà thôn tính được nước Âu Lạc. An Dương Vương thua trận, phải nhảy xuống biển tự vẫn.”

Trong lời giới thiệu cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (in năm 2000), Giáo sư  Phan Huy Lê cho rằng: “Việc Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên coi nhà Triệu là một vương triều chính thống của Việt Nam là một sai lầm nghiêm trọng.” Ông khẳng định “Nam Việt là một nước cát cứ của một tập đoàn phong kiến, không phải là nước của người Việt Nam.” “Việc Triệu Đà đặt tên nước là Nam Việt (tỏ ý muốn phục hưng nước cũ của người Việt) cũng như việc Triệu Đà tự xưng là " Man Di đại trưởng lão phu", lấy vợ Việt, theo tục Việt... chỉ là các thủ đoạn mị dân Việt. Việc Triệu Đà chống Tần chống Hán cũng chỉ nhằm thỏa mãn mộng bá vương của riêng mình... Nhưng nhiều sử gia phong kiến đã không nhận ra bộ mặt cát cứ, xâm lược của nhà Triệu và ngộ nhận coi nhà Triệu là một triều đại của Việt Nam.”
Tố Hữu làm thơ gọi họ Triệu là "giặc", phê phán Mỵ Châu làm mất nước:

Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu,
Trái tim lầm chỗ để trên đầu.
Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu.

Quan điểm trên một lần nữa được khẳng định trong cuốn Lịch sử Việt Nam tập I từ khởi thủy đến thế kỷ X của Việt Sử học thuộc Viện Hàn  lâm khoa học xã hội Việt Nam, tái bản năm 2017.

60 năm sau phán quyết trên, nay ta thử xét xem vì sao học giả họ Đào lại có ý tưởng như vậy. Và quan niệm của ông có phù hợp với sự thật lịch sử?

Những dòng lên án Triệu Đà đã xuất hiện từ năm 1947, trong tài liệu in ronéo của Đào Duy Anh khi ông hoạt động trong Chi hội văn nghệ Liên khu IV ở Thanh Hóa. Công bố năm 1957 chỉ là sự tiếp tục quá trình tư duy nhất quán. Dựa vào quan điểm Macxit đương thời, tác giả đưa ra những lời kết án nặng nề chưa từng có với vẻ đầy tự tin:

 “… Các sử thần nhà Lê, kế tục phương pháp và quan diểm của Lê Văn Hưu ở thời Trần (quan điểm lịch sử phản dân tộc) không thấy rằng Triệu Đà làm vua nước Nam Việt ở miền Quảng Đông, Quảng Tây, đối với nước Âu Lạc mà nghỉ xâm lược, chỉ là một tên giặc cướp nước chứ không phải là một đế vương chính thống. Mãi đến cuối đời Lê mới thấy có một nhà sử học là Ngô Thì Sĩ, tác giả sách Việt sử tiêu án, phản đối việc cho họ Triệu tiếp nối quốc thống của An Dương Vương. Có lẽ do ảnh hưởng của ý kiến ấy cho nên sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của triều Nguyễn không chép riêng nhà Triệu làm một kỷ chính thống nữa, nhưng vẫn cứ chép cả lịch sử nhà Triệu vào phạm vi quốc sử nước ta. Các nhà sử học tư sản của ta cũng chịu ảnh hưởng của quan điểm phản dân tộc ấy, cho nên Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim cũng chép kỹ càng về lịch sử nhà Triệu, và Những trang sử vẻ vang của Nguyễn Lân thì biểu dương Lữ Gia là trung thần của nhà Triệu, là vị anh hùng dân tộc đầu tiên của chúng ta. Đối với dân tộc ta thì Triệu Đà là giặc cướp nước, mà lịch sử của nhà Triệu ở nước Nam Việt không thể nằm trong phạm vi của lịch sử Việt Nam.” [1]

Tuy nhiên, khi ghép tội Triệu Đà, ông Đào Duy Anh không đưa ra chứng lý gì mới hơn so với Ngô Thì Sỹ mà chỉ là những quy chụp: “giặc cướp nước”, “các nhà sử học tư sản” rồi “quan điểm lịch sử phản dân tộc”!

Sự thật là, dù Triệu Đà có xâm lược Âu Lạc đi nữa thì Nam Việt vẫn là nhà nước của người Âu Lạc. Bởi lẽ, dưới hai viên điển sứ thay mặt nhà vua thì người cai trị trực tiếp Âu Lạc vẫn là những lạc hầu, lạc tướng người Việt, cai trị theo luật Việt. Đó là sự thực vì khi chiếm nước ta, Mã Viện phát hiện: “luật  Giao Chỉ có 10 điều khác với luật nhà Hán.” Ta cũng thấy, đó là thời thái bình thịnh trị từng được các thư tịch Trung Hoa ca ngợi. Thực tế là, suốt trong thời gian cai trị Nam Việt, ngoài việc may mắn thắng cuộc chiến tranh của Lâm Lư hầu thì bằng mọi cách, khi cương khi nhu trong đối ngoại, Triệu Đà giữ được mối quan hệ yên bình với nhà Hán, tránh được chiến tranh, không mất một tấc đất. Cháu ông là Triệu Muội vẫn giữ vững độc lập, vẫn xưng đế, với cái ấn Văn đế hành tỷ hình vuông bằng vàng, lớn hơn ấn của mọi hoàng đế Trung Hoa. Triều đại do Triệu Đà xây dựng, sau 97 năm tồn tại, bị hủy diệt bằng cuộc xâm lăng tàn bạo của nhà Hán. Chống trả cuộc xâm lăng là toàn dân Nam Việt trong đó có nhân dân Âu Lạc mà ngọn cờ đầu là Thừa tướng Lữ Gia! Sự bi thảm của cuộc chiến ấy ngày nay ta còn thấy trong đống xương ở hang Cắc Cớ Chùa Thầy!

Một điều không thể không bàn tới là di sản do Nam Việt để lại. Ta từng biết, từ Nam Dương Tử trở xuống là đất của nhà nước Xích Quỷ-Văn Lang. Nhưng hai quốc gia này chỉ tồn tại trong truyền thuyết. Khi Nam Việt xuất hiện, mới có một thực thể nhà nước của người Việt. Nhờ sự tồn tại Nam Việt 100 năm với chính sự tốt đẹp, người dân hạnh phúc mà tinh thần quốc gia-dân tộc của người Việt được định hình. Bằng chứng là vào năm 39, khi hai Bà Trưng khởi nghĩa ở vùng Phú Thọ thì toàn bộ dân Nam Việt xưa nổi lên theo. Cho đến nay còn có hơn 200 nơi thờ Vua Bà ở Nam Trung Quốc!

Những chứng cứ trên cho thấy, Nam Việt là quốc gia độc lập của người Lạc Việt. Do vậy, theo nguyên lý duy vật lịch sử, dù Triệu Đà có là ai chăng nữa thì qua sự chuyển hóa biện chứng, ông cũng không còn là cá nhân mình mà thuộc về khối quần chúng nhân dân Nam Việt. Đấy là sự chuyển hóa tư nhiên của biện chứng lịch sử, biến một kẻ ngoại tộc mang ý đồ cát cứ thành lãnh tụ của quốc gia độc lập! Việc chỉ căn cứ vào xuất thân của Triệu Đà - như một sự nhất thành bất biến - rồi lên án nặng nề đồng thời xóa bỏ cả một thời đại trong lịch sử dân tộc, thể hiện quan điểm duy tâm chủ quan. Đó còn là sự xa rời thực tế lịch sử, không nhìn thấy lòng sùng kính của người dân Việt đối với nhà Triệu – chính là tấm gương trung thực phản ánh lịch sử. Tại sao một nhân dân đã từng đặt gọi vua là “vua quỷ”, “vua lợn” lại tôn xưng Triệu Đà như Nghiêu Thuấn? Đó còn là sự xúc phạm nhẫn tâm với hồn thiêng của hàng vạn người hy sinh để bảo vệ Nam Việt!

Sau 60 năm nhìn lại, ta thấy Lê Văn Hưu, Ngô Sỹ Liên, Trần Trọng Kim, Hồ Chí Minh, Hoàng Xuân Hãn… đã đúng. Bởi lẽ họ hiểu rằng Sử không chỉ là những dòng chữ trên sách vở mà trước hết, là hồn của dân tộc. Là những người nhân chi sơ tính bản thiện nên các vị đó thấm đượm trong lương tri hồn thiêng của dân tộc Việt.

Cho Triệu Đà là giặc cướp nước, chứng tỏ ông Đào Duy Anh kết tội Triệu Đà chỉ vì nghĩ Triệu là người Hán! Nhận định của ông Phan Huy Lê: “Việc Triệu Đà đặt tên nước là Nam Việt (tỏ ý muốn phục hưng nước cũ của người Việt) cũng như việc Triệu Đà tự xưng là "Man Di đại trưởng lão phu", lấy vợ Việt, theo tục Việt... chỉ là các thủ đoạn mị dân Việt. Việc Triệu Đà chống Tần chống Hán cũng chỉ nhằm thỏa mãn mộng bá vương của riêng mình…” hoàn toàn là suy diễn chủ quan, vô sở cứ.

Thực tế cho thấy, 60 năm qua, một quyết định sai lầm đã làm suy bại dòng họ hiển hách. Sau Triệu Vũ Đế, Triệu Văn Đế, có anh hùng Triệu Thị Trinh, Triệu Quốc Đạt rồi Triệu Quang Phục… Nhưng nay họ Triệu còn gì? Khi đề xướng Hội thảo khoa học Vai trò nhà Triệu trong lịch sử Việt Nam, chúng tôi tìm hiểu hiện tình của họ Triệu thì quả là đáng lo ngại. Không có Ban Liên lạc dòng họ Triệu trên mạng thông tin. Không doanh nhân tên tuổi. Nhân sỹ nổi bật của dòng họ chỉ là ba nhà văn, trong đó duy nhất nhà văn Triệu Xuân ở cấp quốc gia! Còn tinh thần thì sao? Một ông bạn già đồng hương của tôi rất bức xúc về việc này, nói chuyện với người con rể họ Triệu, được trả lời: “Thôi bố ơi, chuyện lâu rồi, cho qua đi!” Nghe đâu đó có người than thở: “Nếu không mang họ Triệu thì đời tôi đã khác!” Một nhà văn, sau khi đọc kế hoạch Hội thảo và tài liệu chúng tôi gửi, thì đáp lại: “Tôi hoàn toàn tán thành khảo cứu của anh. Nhưng không thể giúp gì cho kế hoạch của anh được!” Đến khi chúng tôi đề nghị: “Không cần anh đóng góp vật chất. Chỉ xin anh viết về ba đời điền chủ nhà anh trên đất Miền Tây, những tư liệu rất quý về họ Triệu ở Nam Bộ…” Anh không trả lời! Một ông bạn già của tôi, tới đền Thánh Mẫu hỏi âm sự của dòng họ. Theo đề nghị của tôi, ông hỏi về họ Triệu, thì được trả lời: “Cụ Triệu Đà người Việt đấy, không phải Hán đâu, bị oan đấy. Oan mà không gỡ được!” May sao, Đất Nước vẫn chưa hết người nhiệt tâm. Cuốn Kỷ yếu Hội thảo Nhà Triệu 450 trang đã có giấy phép, in với tiền túi của những người trực tiếp viết bài và làm sách!

Sau 60 năm nhìn lại, việc trục xuất nhà Triệu khỏi sử Việt đưa tới những hệ lụy nghiêm trọng:

1. Tước bỏ tư cách thừa kế của người Việt Nam với quá khứ đại tộc Việt. Từ những phát hiện của di truyền học đầu thế kỷ XXI cho thấy, người Việt không chỉ sinh sống lâu đời ở Nam Dương Tử mà hàng vạn năm trước là chủ nhân của toàn bộ đất Trung Hoa. Trên đất này, đại tộc Việt đã làm nên những nền văn hóa rực rỡ. Nam Việt nhà Triệu chính là cái cuống nhau nối lịch sử xa xăm của đại tộc Việt với Việt Nam hôm nay.  
                     
2. Tước bỏ vai trò chủ nhân của tộc Việt đối với ngôn ngữ gốc mà người Trung Hoa đang sử dụng hiện nay. Trong tám phương ngữ được xác định trên đất Trung Hoa thì tiếng Việt Quảng Đông được coi là ngôn ngữ gốc. Trong khi đó, nguồn cội của ngôn ngữ Quảng Đông chính là ngôn ngữ vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh, trung tâm của người Việt khoảng 50.000 năm trước. 

3. Tước bỏ vai trò sáng tạo chữ Giáp cốt của người Việt. Chữ Giáp cốt được phát hiện đầu tiên vào thời nhà Ân ở Hà Nam. Nhưng khảo cổ học xác định rằng tại văn hóa Giả Hồ 9.000 năm trước đã có ký tự hình vẽ trên yếm rùa. Cuối năm 2011, tại di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây phát hiện ký tự tượng hình khắc trên xẻng đá có tuổi 4000 tới 6000 năm. Những ký tự kiểu Giáp cốt này xuất hiện trước khi người Hoa Hạ ra đời. Do vậy nó hoàn toàn là sản phẩm sáng tạo của người Vịệt.         

4. Tước bỏ mối liên hệ huyết thống và văn hóa của người Việt Nam với những bộ tộc người Việt đang sống trên đất Trung Hoa. Những khám phá lịch sử cho thấy, trước cuộc xâm lăng của Tần Thủy Hoàng thì phần lớn đất Trung Hoa do người Việt làm chủ: Thục và Ba phía tây nam; Ngô, Sở, Việt ở trung tâm và phía đông; Văn Lang phía nam. Do cuộc xâm lăng của Tần Thủy Hoàng, phần lớn đất đai và dân cư Việt bị sáp nhập vào đế chế Tần. Trong phần đất bị chiếm, đại bộ phận người Việt bị Hán hóa. Tuy nhiên, có không ít nhóm Việt không chịu đồng hóa, đã lui sâu vào cư trú trong vùng rừng núi. Lâu dần, từ người Lạc Việt - tộc đa số trong dân cư, họ bị thiểu số hóa. Đến nay, những nhóm người như tộc Thủy, Bố Y ở Quý Châu vẫn giữ nhiều nét văn hóa Việt cổ, có thể nói đó là nền văn hóa Việt hóa thạch. Nếu nghiên cứu văn hóa của những tộc người bà con này, chắc chắn sẽ khám phá lại nhiều điều quý giá của văn hóa Việt cổ. Đặc biệt tộc Thủy với 340.000 người vẫn giữ được sách Thủy (Thủy thư - 水书)  viết bằng chữ Thủy (Thủy tự), loại chữ tượng hình gần gũi Giáp cốt văn nhưng hành văn theo cách nói xuôi của người Việt, một loại văn tự hóa thạch sống, được Trung Quốc coi là bảo vật.

5. Mất quyền thừa kế với truyền thống văn hóa Nam Việt.

Sáp nhập đất đai và dân cư Âu Lạc, Nam Việt thành quốc gia lớn trong khu vực. Trái với quan niệm phổ biến cho đến nay là Triệu Đà dùng kế sách “nội đế ngoại vương” (bên trong xưng đế nhưng đối với nhà Hán thì xưng vương), suốt đời mình, Triệu Đà xưng danh hiệu Triệu Vũ Đế và cháu ông cũng xưng đế. Bằng chứng là chiếc ấn bằng vàng, kich thước 310 x 310 mm (lớn hơn mọi con ấn của vua Hán) khắc bốn chữ Văn Đế hành tỷ (文帝行璽) tìm thấy trong lăng mộ Triệu Văn Đế. Sau khi phát hiện lăng mộ, người Trung Hoa đã lập khu trưng bày di tích này với khoảng 2.500 hiện vật đặc sắc, trong đó phần lớn thuộc văn hóa Việt. Do coi đây là của người Trung Hoa nên giới sử học Việt Nam chưa hề có nghiên cứu nào về di chỉ văn hóa quan trọng này.  

Nhưng câu chuyện chưa hết bởi lẽ Triệu Đà chưa bao giờ là người Hán! Gán cho ông thuộc tộc Hán là lầm lẫn lớn của lịch sử! Hôm nay tôi sẽ làm sáng tỏ nỗi oan 2000 năm này!
Theo truyền thuyết, thủy tổ các đời quân chủ nước Triệu là Bá Ích, từng làm quan ở nước Ngu, được phong ấp Doanh, từ đó hậu duệ Bá Ích lấy họ Doanh. Đến cuối đời Thương, hậu duệ Bá Ích là Phi Liêm cùng với con trai trưởng là Ác Lai phò tá Thương Trụ chống lại Chu Vũ vương nên đều bị giết. Con cháu Phi Liêm ly tán, phân thành hai dòng chính. Một nhánh lưu lạc đến Khuyển Khâu, đến đời Phi Tử thì được nhà Chu phong cho ấp Tần làm phụ dung, hình thành thủy tổ nước Tần. Người con thứ của Phi Liêm là Quý Thắng di chuyển đến Hoàng Hà định cư. Con Quý Thắng là Mạnh Tăng sống vào thời Chu Thành Vương. Mạnh Tăng sinh Hành Phụ, Hành Phụ sinh Tạo Phụ. Tạo Phụ do lập không ít công trạng nên được Chu Mục Vương phong làm đại phu, lấy Triệu Thành làm thực ấp, từ đó mang họ Triệu, hình thành thủy tổ nước Triệu. Hậu duệ 6 đời Tạo Phụ là Yêm Phụ có danh hiệu là Công Trọng sống vào thời Chu Tuyên Vương, Yêm Phụ sinh Thúc Đới.

Thời kỳ Tấn Văn hầu, Thúc Đới di cư tới nước Tấn. Cháu 5 đời của Thúc Đới là Triệu Túc lập công lớn được Tấn Hiến Công thưởng cho đất Cảnh, Triệu Túc sinh Cộng Mạnh, Cộng Mạnh sinh Triệu Thôi. Năm 656 TCN, Triệu Thôi từng theo công tử Trùng Nhĩ lưu vong ra khỏi Tấn. Sau này Trùng Nhĩ trở thành Tấn Văn công của Tấn thì Triệu Thôi trở thành trọng thần. Con cháu Triệu Thuẫn các đời đều nắm trọng quyền, dần phát triển thế lực của gia tộc họ Triệu thành một trong Lục khanh.

Tới thời Tấn Xuất công thì quyền lực thực tế nằm trong tay các trọng thần như Trí Bá, Triệu Tương tử, Hàn Khang tử và Ngụy Hoàn tử. Sử gọi là Tứ khanh. Năm 456 TCN, Tứ khanh đuổi Tấn Xuất công đi để lập Cơ Kiêu, tức Tấn Ai công. Năm 454 TCN, Trí Bá hợp cùng hai nhà Hàn, Ngụy tấn công Tấn Dương (nay ở phía nam quận Tấn Nguyên, Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Triệu Tương tử giữ vững thành trì. Sau đó liên hợp với chính hai nhà Hàn, Ngụy diệt Trí Bá. Năm 453 TCN, ba nhà Hàn, Triệu, Ngụy chia nhau vùng đất của họ Trí.

Năm 437 TCN, Tấn Ai công chết. Con là Cơ Liễu (Tấn U công) kế nghiệp. Nước Tấn khi đó thực chất đã bị phân chia giữa 3 thế gia là Hàn, Triệu và Ngụy. U công không có quyền lực gì đối với 3 nhà này.

Năm 403 TCN, vua Chu Uy Liệt vương phải chính thức công nhận sự tồn tại của nước Triệu cùng với Hàn, Ngụy bên cạnh nước Tấn như là các nước chư hầu của nhà Chu, đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ Chiến Quốc.[2]

Bản tộc phả trên cho thấy họ Triệu là một dòng của bộ tộc Tần. Vậy người Tần là ai?

Rất mừng là sang kỷ nguyên mới, nhờ di truyền học đọc được cuốn thiên thư ADN ghi trong máu huyết dân cư Việt Nam cũng như Trung Quốc, vấn đề được sáng tỏ:

- Khoảng 40.000 năm trước, người Lạc Việt chủng Indonesian [mã di truyền M122 thuộc Haplogroup O1 (Y-DNA)] [3,4,5] từ vùng núi Bắc Bộ đi lên khai phá Hoa lục theo con đường Ba Thục, tới tận Nam Hoàng Hà, trở thành chủ nhân đồng bằng Trong Nguồn (nay là Trung Nguyên). Cộng đồng Lạc Việt này về sau được gọi là Tày-Thái. Cùng thời gian Kinh Dương Vương lập nước Xích Quỷ thì nơi đây ra đời nước Ba Thục cổ. Người Ba Thục xây dựng nền văn minh đá mới rực rỡ: 25.000 năm trước có mặt ở Động Người Tiên (Giang Tây). 20.000 năm trước, làm ra đồ gốm đầu tiên của nhân loại. Và 12.400 năm trước thuần hóa thành công lúa nước. 6.000 năm trước sáng tạo chữ tượng hình Cảm Tang khắc trên xương, trên đá…

Năm 2.698 TCN người Mông Cổ vượt Hoàng Hà đánh vào Trác Lộc, chiếm một phần đồng bằng Trong Nguồn. Một bộ phận người Việt phải sống trong vương quốc Hoàng Đế. Có người con gái Thái làm nguyên phi của Đế Khốc, sinh ra tổ nhà Thương và nhà Chu. Ở vùng đất còn lại, người Việt kiên cường kháng chiến. Trong đó có dân Ba Thục mà sử sách Trung Hoa gọi là Tây nhung. Khoảng 1.600 năm TCN, nước Ba Thục của Tàm Tùng xuất hiện, với nền văn minh rực rỡ là tòa thành vững chãi, bức tượng đồng lớn nhất thế giới cùng những đồ thờ đồng thau tinh xảo. Nay là di chỉ văn hóa Gò Ba Sao nổi tiếng. Tại đây cũng phát hiện hàng chục xác voi châu Á, được đưa từ Việt Nam tới.

Tổ tiên Thục Phán là người Lạc Việt từ Việt Nam đi lên đất Ba Thục. Dòng Thái của Thục Phán cư trú trên đất Tần trở thành người Tần. Vậy, cũng như Thục Phán, Tần Thủy Hoàng là người Việt. Nửa thế kỷ trước, trong cuốn Việt lý tố nguyên, Giáo sư Lương Kim Định viết rằng “bộ lạc Tần vốn là dân nông nghiệp Việt tộc nhưng khi di lên cao nguyên phía Tây, do thổ nhưỡng và khí hậu nên chuyển sang du mục, trở thành bộ lạc dũng mãnh.” Do ông không dẫn nguồn để tra cứu nên tôi không dám tin. Nay thì tìm ra sự thật. Một nhánh của họ Doanh đi lên Nam Hoàng Hà, vào nước Tấn, được phong Triệu thành, cải sang họ Triệu rồi dựng nên nước Triệu. Cố nhiên, Triệu cũng là một tiểu quốc của người Việt. Do vậy, Triệu Đà là người Việt.

Cũng như Thục Phán người Lạc Việt do hoạn nạn chạy về Văn Lang, trở thành lãnh tụ nước Nam Cương chống lại nhà Tần rồi sáp nhập với Văn Lang lập nhà nước Âu Lạc; Triệu Đà người Việt, năm 20 tuổi, nước Triệu bị Tần chiếm, ông  xung lính nhà Tần xuống đánh Lĩnh Nam. Khi nhà Tần suy bại, ông lập nước Nam Việt rồi sáp nhập Âu Lạc thành quốc gia lớn mạnh, tồn tại gần trăm năm. Như vậy, Triệu Đà không hề là giặc xâm lược mà có công lớn lập nên nhà nước Nam Việt của người Lạc Việt ở phía Nam Dương Tử.

Đáng tiếc là do ngộ nhận, người ta đã kết tội oan Triệu Đà rồi xóa bỏ Nam Việt khỏi sử Việt. Để mất những mối liên hệ với Nam Việt không chỉ là nỗi đau của người Việt Nam, nước cuối cùng của Bách Việt còn độc lập và giữ được cương thổ. Nguy hại hơn, nó cắt đứt mối liên hệ với quá khứ, khiến cội nguồn, lịch sử và văn hóa Việt Nam trở nên chông chênh trên không chằng, dưới không rễ! Tuy là chuyện của quá khứ nhưng lịch sự luôn gắn bó mật thiết với cuộc sống hiện tại. Những quyết định không thỏa đáng về lịch sử đưa tới những di họa khó lường. Việc nhận định sai về cội nguồn tổ tiên dẫn chúng ta lâm vào tấn kịch bi hài của kẻ bỏ mồ cha khóc đống mối. Một dân tộc còn ngộ nhận về gốc gác chưa thể là dân tộc trưởng thành!

Đã tới lúc khôi phục vị trí nhà Triệu cùng nước Nam Việt trong lịch sử dân tộc! Giải oan cho dòng họ Triệu không chỉ ở dương thế mà cả trong cõi tâm linh!

Sài Gòn, tháng Sáu, 2017
H.V.T 
---------------------------

Tài liệu tham khảo:

1. Đào Duy Anh. Lịch sử cổ đại Việt Nam. NXB Văn hóa thông tin. H, 2005, tr. 93-94)


3. Hà Văn Thùy. Góp phần nhận thức lại lịch sử văn hóa Việt. NXB Hội     Nhà văn. H, 2016.

4.The free encyclopedia - Liangzhu culture: “Một phân tích năm 2007 của DNA phục hồi từ người vẫn còn ở địa điểm khảo cổ của người tiền sử trên sông Dương Tử cho thấy tần số cao của Haplogroup O1 (Y-DNA) trong văn hóa Lương Chử, liên kết chúng với dân cư văn hóa Austronesian và Tai-Kadai.” Dân cư Việt cổ thuộc Haplogroup O1 (Y-DNA). Người Tày-Thái thuộc tộc Lạc Việt (chủng Indonesian), mang mã di truyền M122.

5. Hao Sun et al. Autosomal STRs Provide Genetic Evidence for the Hypothesis That Tai People Originate from Southern China.

In the southern origin hypothesis, many Chinese ethnologists [5], [6], [13] believe that today’s Tai people migrated from southern China and that they share a recent common ancestor, which named “Yue” people, with other Tai-Kadai speakers who lived in southern China, such as the Zhuang and the Mulao.

(Trong giả thuyết “nguồn gốc miền Nam”, nhiều nhà nghiên cứu dân tộc học Trung Quốc [5], [6], [13] tin rằng người Thái hiện nay di cư từ miền nam Trung Quốc và họ chia sẻ một tổ tiên gần đây, có tên "Yue" (Việt), cùng với những người nói tiếng Tày-Thái sống ở miền nam Trung Quốc, chẳng hạn như Zhuang và Mulao.)




Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cà phê Thứ 7: CHIẾN TRANH VIỆT NAM - CÓ THỂ BẠN CHƯA HIỂU RÕ



Cà phê Thứ Bảy

Chủ đề: CHIẾN TRANH VIỆT NAM - CÓ THỂ BẠN CHƯA HIỂU RÕ
Diễn giả: Hồ Đăng Hòa
Dẫn chuyện: Nguyễn Quang Dy

Địa điểm: Salon Văn hóa, Cà phê Thứ Bảy, 3A Ngô Quyền, Hà Nội
Thời gian: 14h30 Chiều Thứ Bảy, 07/10/2017

Vào cửa tự do


Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHỮNG CÚ ĐÁ VÀO TƯƠNG LAI


Luân Lê - Tôi thực sự phẫn nộ trước hình ảnh thằng trưởng công an xã ở Đắk Lăk hung hãn đá tung những thúng rau, thau cá của những người dân nghèo khổ đang bày bán ở chợ. Nó đi vòng quanh và chỉ chỏ, lớn giọng với những người phụ nữ, người già ở đó để dẹp cho sạch cái lề đường đất gồ ghề vốn là nơi buôn bán thường ngày cho bà con ở nơi này.
Những cú đá đầy sức mạnh, những cái chỉ tay đầy quyền uy, những cái hằn giọng đầy côn đồ. Nó đang nhân danh thực thi công vụ để phá hoại tài sản và thực phẩm của người dân một cách đầy thoả mãn và với niềm háo hức của kẻ đang hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.

Một loại vô giáo dục nhưng có thể làm trưởng công an xã, một loại côn đồ vô pháp nhưng lại nắm quyền để hà hiếp người dân.

Nếu những thúng rau, mẹt cá đó là của mẹ, vợ hay con cái nó đem ra chợ bán hàng ngày thì nó cũng sẽ đá văng như thế, hay khi những người thân của nó chịu cảnh tượng đó mà nó trông thấy trước mắt, nó sẽ làm gì?

Thằng khốn nạn.

Mở mắt ra là nhìn thấy vô số những cảnh tượng chỉ có ở những loài thú vật mới có những hành xử man di ấy.

Mở mắt ra là thấy những bất công chồng chất mỗi ngày. Mở mắt ra là thấy chúng nó chạy chọt chỗ này chỗ kia. Mở mắt ra là thấy nó đua nhau mua bằng cấp, lo lót để có chức có quyền. Mở mắt ra là thấy đủ thứ phí tăng lên mỗi ngày, mà đủ thứ lo lắng, nào là thực phẩm độc hại, môi trường ô nhiễm, tắc đường, ngập lụt, tai nạn giao thông, trộm cướp, giáo dục đủ thứ tệ nạn, con người hành xử bạo lực với nhau, thói đạo đức giả, luật pháp bị xem thường, thuốc giả, hàng giả và thành tích giả hủy hoại con người. Tham nhũng huỷ hoại quốc gia. Và sự thờ ơ của con người giết chết những điều tốt đẹp đang từng ngày thoi thóp chờ đợi những lương tri kịp tỉnh thức lại.

Mở mắt ra mà nhìn nó vu cho phụ huynh lên tiếng phản ánh việc lạm thu là âm mưu chính trị. Mở mắt ra để thấy chúng nó tham nhũng rồi bỏ chạy đi sống đời sung túc và để lại cho đất nước những món nợ công khổng lồ còn chúng nhởn nhơ như một kẻ qua đường. Mở mắt ra để thấy nó làm sai thì rút kinh nghiệm, kiểm điểm sâu sắc với đủ loại sai phạm và đủ loại mức độ kinh hoàng. Mở mắt ra để thấy dân vừa hé miệng lên tiếng trước các bất công là sẽ có cuộc gặp công lực ngay tức thì.

Mở mắt ra là thấy đủ cảnh chướng tai gai mắt, đủ chuyện phẫn nộ, đủ nỗi xót xa diễn ra chẳng chút giật mình nhìn lại nào của những lũ người vô tri và vô cảm trong xã hội này.

Mở mắt ra mà nhìn cho rõ cái thực trạng đang chình ình không còn thiếu thứ gì để trở thành một tấn bi kịch nữa.

Và nhắm mắt lại, để mà thấu những cảnh nghịch đời cứ mỗi ngày một phơi bày và hiển hiện trên quê hương trong hiện tại.

Và cũng hãy nhắm mắt lại để rọi về tương lai phía trước xem thế nào nếu còn chút trăn trở hay lo lắng nào đó cho vận mệnh những đứa con lớn lên mỗi ngày ngay bên cạnh mình.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tướng Trương Giang Long bất ngờ về hưu non


Trông tướng Trương Giang Long buồn quá. Về hưu quá sớm và bất ngờ quá. Bình thường GSTS được làm việc tới 70 tuổi mới phải nghỉ hưu. Phải chăng tướng Long phải về hưu non vì video này:


Công bố quyết định cán bộ của Bộ Công an
03/10/2017 Bộ Công an: Ngày 2/10, Thượng tướng Nguyễn Văn Thành, Thứ trưởng Bộ Công an đã trao quyết định nghỉ công tác chờ hưởng chế độ hưu trí của Bộ trưởng Công an đối với Thiếu tướng, GS.TS, Nhà giáo ưu tú Trương Giang Long, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị CAND, GĐ Học viện Chính trị CAND.
Thượng tướng Nguyễn Văn Thành trao quyết định 
cho Thiếu tướng Trương Giang Long. Ảnh CAND

Thứ trưởng Nguyễn Văn Thành khẳng định, trong suốt quá trình công tác Thiếu tướng Trương Giang Long cũng luôn thể hiện lập trường chính trị kiên định, vững vàng trước mọi thử thách; giữ vững phẩm chất đạo đức, kiên quyết đấu tranh với tư tưởng sai trái, thù địch; phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, góp phần vào công cuộc bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và lực lượng CAND giao phó.

Thứ trưởng Nguyễn Văn Thành mong muốn Thiếu tướng Long tiếp tục có những đóng góp trong sự nghiệp xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự ATXH.

http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/chinh-tri/cong-bo-quye-t-di-nh-ca-n-bo-cua-bo-cong-an-402342.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Từ “giao hoan” và câu chuyện ngôn ngữ


02/10/2017 - Nhà nghiên cứu phê bình Đặng Tiến ở Pháp có thắc mắc: “Tại sao các từ điển tiếng Việt hiện hành đều đồng loạt giải thích “giao hoan là cùng nhau vui vẻ”? Cách giải thích của từ điển như vậy ắt người nước ngoài học tiếng Việt dễ nhầm tưởng nghĩa-đang-sử-dụng của giao hoan là cùng nhau vui vẻ, giống như “liên hoan”. Một số học giả khác đặt hoài nghi, hay là tại thời điểm biên soạn từ điển, từ giao hoan không có nghĩa như hiện nay? Trong cảm thức của tôi, nghĩa gốc của giao hoan chỉ có thể là quan hệ xác thịt. Mà quan hệ xác thịt thì hiển nhiên là... vui vẻ.

Tượng phật A Di Đà, từ nguyên thủy đến hiện đại.
GS Nguyễn Huệ Chi tra vào tận gốc từ điển Trung Quốc và xác nhận: “Từ “giao hoan” có 4 nghĩa (đều có dẫn các câu văn cổ làm minh chứng), xếp theo thứ tự như sau: Nghĩa 1: “dữ nhân kết giao nhi thủ đắc đối phương đích hoan tâm” = (kết giao với người khác và nhận được tấm lòng hoan hỷ của đối phương). 

Nghĩa 2: “kết hiếu” = (kết tình giao hảo); Nghĩa 3: “nhất tề hoan lạc” = (cùng nhau vui chơi [thỏa thích]); Nghĩa 4 “nam nữ thành hôn hoặc hoan hợp”. Tra chữ “hoan hợp” thì có nghĩa: “Nhân hoan ái nhi kết vi phu thê” = (nhân “hoan ái” mà kết làm vợ chồng). Lại tra chữ “hoan ái” thì có nghĩa: “nam hoan nữ ái” = (trai gái yêu nhau).

Sự phức tạp nằm ở đó. Vậy là giáo sư tỏ ra “rất băn khoăn, vì mình vốn tin ở các học giả tiền bối, không dám phê phán họ một cách khinh suất”.

Tra cứu từ điển, dù có tra đến từ nguyên cũng chỉ là trên bề mặt. Trích dẫn văn chương thì càng không thể tìm ra, vì văn chương ít khi dùng nghĩa tục. Phải tra đến “Kim Bình Mai” thì may ra mới có thể lộ diện cảnh trai gái lõa thể với cuộc ái ân đầy xác thịt đến không muốn rời ra: “Nhị nhân tựu tại viện nội đắng thượng xích thân lộ thể, tịch chẩm giao hoan, bất thăng khiển quyển”. “Kim Bình Mai” nổi tiếng dâm thư, cho nên mới hé lộ cách dùng từ ở nghĩa nguyên thủy mà chính một nhóm người có học đã cố tình làm lệch lạc, sai nghĩa hoặc mất nghĩa.

Đến đây thì chỉ có thể khảo cổ văn hóa mới thấy phần nào chiều sâu cái nghĩa bị đè lấp bởi lớp vỏ của từ. Ngôn ngữ là sản phẩm của văn hóa. Mà văn hóa thì có đến tầng tầng lớp che đậy lên sự thực.


“Hoan” là vui vẻ, không tra cứu cũng biết là niềm vui tinh thần. Nhưng chữ “Giao”, từ tố đóng vai trò chính để ghép thành “giao hoan” thì đáng nghi lắm khi dám bảo nó không mang nghĩa xác thịt. Chẳng lẽ nó cũng chỉ mang nghĩa tinh thần? Nếu bổ sung cho từ điển hiện nay, từ nghĩa gốc: “vui vẻ với nhau”, đến thêm nghĩa phái sinh: “quan hệ xác thịt” thì thậm vô lý. Không có chuyện ngược đời đó, cho nên các cụ gốc Nho hoặc ảnh hưởng Nho lúng túng, không đưa vào từ điển cũng phải.

Muốn biết gốc thì phải truy tự hình, đến tận giáp cốt văn, triện văn, kim văn. Và xa hơn cả món giáp cốt văn vốn là tự hình nguyên thủy kia, hãy hủy hoàn toàn cái cấu trúc bền vững đang - sử - dụng của giới hàn lâm: “giao hoan” là “cùng nhau vui vẻ” để thử nhìn từng mảnh của nó. Chỉ có làm như thế thì may ra mới thấy cái gì đang bị giấu kín hoặc bị xóa mờ đi bởi cái gọi là văn hóa mà đại diện của nó là các Cấm kỵ (Taboo) đã từng chuyển nhân loại từ tự nhiên hoang dã sang văn hóa văn minh.

Trong các từ điển Hán đều ghi nhận chữ “Giao” có tự hình giáp cốt văn, triện văn, kim văn giống một người dạng háng ra và một “vật lạ” có khấc chọt vào. Điều này làm ta liên tưởng đến hình ảnh phồn thực nguyên thủy trong đền cổ của Ấn Độ giáo:

Đây là hình ảnh tả thực để sau này thành cặp Linga-Yoni. Ấn Độ giáo đã biến cái này thành các vị thần sinh diệt: Shiva, Vishnu, Brahma. Chân dung thần Shiva nguyên thủy được ghi nhận như là cái Linga. Kể cả Phật giáo nguyên thủy sau đó cũng mượn lại và biến thành A Di Đà, đẩy sự sung sướng trần tục về Tây Phương Cực Lạc. Bởi đạo Phật quan niệm nhục dục trần thế chỉ mang lại đau khổ:

Dù đã cố tình cắt xén, biên tập, kiểm duyệt khắt khe, cố tình xóa đi dấu vết trần tục trong quá trình kiến tạo văn hóa, nhưng vẫn còn đó, dù mờ nhạt dần, cái dấu vết mang hình hài nguyên thủy của chuyện xác thịt mà loài người đã từng tín ngưỡng. Rõ ràng cái Thiêng ban đầu là cái Tục, hay nói cách khác, cái Tục đã sinh ra cái Thiêng. Sự đối lập giữa Tục và Thiêng là sản phẩm của tư duy nhị nguyên, trong khi khởi thủy hoàn toàn nhất nguyên: Tục cũng là Thiêng và Thiêng cũng là Tục. Chính con người sau các cấm kị đã có xu hướng từ giã trần tục để tìm đến thiên đàng rồi trôi dần vào hoang tưởng.

Quay lại chữ “Giao”, từ tố chính của từ “giao hoan”. “Giao” ban đầu chỉ có thể là quan hệ xác thịt. Không phải không có, chính Từ điển phổ thông ghi nhận, nhưng lại xếp vào nghĩa thứ 4 sau các nghĩa tinh thần.Sự thực, chữ “Giao” khi được cải biến thành các dạng khác mới chuyển nghĩa tinh thần. Kết hợp với bộ “nữ” thành nghĩa là đẹp, quyến rũ. Kết hợp với bộ “nhân” thành mang nghĩa bạn bè, bằng hữu. Kết hợp với bộ “khẩu” thành tiếng chim kêu gọi bạn. Kết hợp với bộ “nguyệt” thành?, keo sơn, kết dính.

Việc chuyển nghĩa trong “giao du” đi lại chơi bời với nhau (Thiều Chửu), chẳng khác gì tiếng Việt ta dùng từ “chơi” thay cho hoạt động giao hoan ở nghĩa xác thịt!


Linga-Yoni, từ tả thực đến biểu trưng, từ bình đẳng nam nữ đến duy dương vật.

Các nghĩa khác mang tính tinh thần của từ “giao” như “giao thiệp”, “giao cảm”, “giao tế”, “giao tiếp” và “giao hoan” dù đã xa sang địa hạt tinh thần vẫn không thoát ly khỏi cái nghĩa gốc của “giao” là “quan hệ xác thịt”. Không ngẫu nhiên mà nó tạo ra cả hệ thống: “giao cấu”, “giao hợp”, “giao hoan”… trong cùng một trường nghĩa.

Bởi vì, theo Phân tâm học cổ mẫu, con người đã trải nghiệm thân xác và tư duy từ xác thịt của mình trước khi tư duy về vũ trụ. Chỉ vì sau đó tôn giáo ra đời mới có chuyện nói ngược, rằng Trần tục do Thiên đường sinh ra. Người ta diễn nghĩa “Kinh Dịch”, dù có nói đến quan hệ Trời Đất mênh mông cũng không thể quên quan hệ Nam Nữ: “Thiên địa giao vạn vật hóa sinh”, “Nam nữ cấu tinh vạn vật hóa thuần”, “Thượng hạ giao nhi kì chí đồng dã…”.

Có thể kết luận, từ “giao hoan” mang nghĩa gốc phải là “quan hệ xác thịt”, sau được chuyển sang nghĩa tinh thần: “cùng nhau vui vẻ”. Nếu cập nhật vào từ điển xem nghĩa trần tục với quan hệ xác thịt kia là nghĩa phái sinh thì không thể được, vì cách làm đó chỉ có thể là nói ngược. Như vậy, chính quá trình Việt hóa chữ Hán, một cách vô thức, người Việt đã làm sống lại nghĩa tưởng chừng đã chết bởi sự cấm kỵ, đè lấp của văn hóa Nho giáo. “Giao hoan“ chỉ quan hệ tình dục là nghĩa trường tồn, cổ sơ và cũng hiện đại, trừ phi kẻ có học cố tình che giấu hay đánh mất.

Không chỉ từ giao hoan mà điều này có thể diễn ra ở nhiều từ khác. Chữ Nữ có tự hình nguyên thủy là cái âm vật, khi chế biến sang chữ Nôm, các cụ ta đã điểm thêm vào lỗ trống dấu chấm đọc là chữ Đĩ, phục sinh đầy đủ nghĩa trần tục của nó. Điều này không khác người bình dân gọi tên con trai, con gái bằng chính bộ phận sinh dục của chúng vì đời sống ngôn ngữ của họ nằm ngoài hàng rào cấm kỵ. Đó không phải là chuyện đùa mà là sự thật nghiêm túc.

Cấu trúc luận chủ trương chỉ xét nghĩa-đang-sử-dụng, bất chấp lịch sử của từ.Bởi họ quan niệm nét nghĩa đã mờ hoặc đã chết không còn giá trị.Đó là một sai lầm.Phân tâm học và Giải cấu trúc xem cái đã mờ, thậm chí tưởng chừng đã chết lại không bao giờ chết.Nó sẽ tồn tại bên dưới ngôn từ, J. Lacan gọi là phần Thực luôn bị che giấu, vắng mặt và không thể diễn tả bởi Cấm kỵ.

Ngôn ngữ hình thành từ cái Thực (Real) theo thị giác, kích thích Tưởng tượng (Image) và cuối cùng kết tinh ở dạng Biểu trưng (Symbolic). Có nghĩa là ngôn-ngữ-đang-sử-dụng là dạng Biểu trưng do cả một quá trình kiến tạo dưới áp lực của Cấm kị (Taboo) bằng hình thức cắt xén, biên tập, kiểm duyệt. Nghĩa do đó thường bị trượt (glissement) trên các Biểu trưng và Chuỗi biểu đạt. Nhưng theo Lacan, trong khi Biểu trưng thuộc quyền lực kìm nén dục vọng, đẩy cái Thực xuống tầng sâu, thì cái Thực vẫn luôn có xu hướng trồi lên và sẽ được đánh thức, đồng thời gia tăng theo tưởng tượng trong vô thức. Ngôn ngữ không chỉ là sản phẩm của ý thức như cấu trúc luận quan niệm mà còn là vô thức.

Quy Nhơn 20/9/2017Ts Châu Minh Hùnghttp://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/Tu-giao-hoan-va-cau-chuyen-ngon-ngu-460445/

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thanh Hóa: Vụ ‘vợ bé bí thư tỉnh’ làm lộ 55 trường hợp bổ nhiệm sai trái


Từ việc kiểm tra sai phạm trong việc tuyển dụng bà Trần Vũ Quỳnh Anh, người được cho là “vợ bé” bí thư Tỉnh Ủy Thanh Hóa, ủy ban kiểm tra tỉnh này đã phát hiện thêm 54 trường hợp “bổ nhiệm thừa, sai trái” khác.

Bà Trần Vũ Quỳnh Anh và hàng chục cán bộ được bổ nhiệm sai trái tại Sở Xây Dựng Thanh Hóa. (Hình: Báo Zingnews)

Hôm 1 Tháng Mười, Báo Người Lao Động loan tin, sau 6 tháng tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm từ “sai phạm trong việc bổ nhiệm ‘thần tốc’ bà Trần Vũ Quỳnh Anh, trưởng phòng Quản Lý Nhà và Thị Trường Bất Động Sản,” Ủy Ban kiểm Tra Tỉnh Ủy Thanh Hóa đã phát hiện hàng loạt sai phạm trong bổ nhiệm lãnh đạo tại Sở Xây Dựng.

Theo đó, tại thông báo về kết quả kiểm tra ngày 19 Tháng Chín của Ủy Ban kiểm Tra Tỉnh Ủy Thanh Hóa “xem xét xử lý kỷ luật đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên có liên quan tại Sở Xây Dựng Thanh Hóa giai đoạn 2010-2015, tính đến thời điểm ngày 31 Tháng Mười Hai, 2015, Sở này bổ nhiệm thừa 6 phó trưởng phòng chuyên môn, bổ nhiệm 4 trưởng phòng, phó trưởng phòng khi đã quá tuổi bổ nhiệm so với quy định; bổ nhiệm 45 trường hợp chưa đủ tiêu chuẩn.

Trong số 55 trường hợp bổ nhiệm trái quy định trên, có bà Quỳnh Anh được bổ nhiệm chức vụ trên khi chưa đủ tiêu chuẩn về “trình độ trung cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch chuyên viên và thời gian công tác ở lĩnh vực được phân công phụ trách về chuyên môn, nghiệp vụ.”

Ủy Ban Kiểm Tra Tỉnh Ủy Thanh Hóa chỉ rõ trách nhiệm về những khuyết điểm, vi phạm trên thuộc về ông Ngô Văn Tuấn, phó chủ tịch tỉnh Thanh Hóa, nguyên giám đốc Sở Xây Dựng giai đoạn 2010-2015 và các thuộc cấp cùng thời.

Từ những sai phạm trên, tại cuộc họp Ban Chấp Hành Đảng Bộ Tỉnh Thanh Hóa ngày 29 Tháng Chín, cơ quan này đã quyết định thi hành kỷ luật khiển trách ông Tuấn; kỷ luật khai trừ đảng bà Trần Vũ Quỳnh Anh, nguyên trưởng phòng quản lý nhà và thị trường bất động sản; khiển trách ông Trần Xuân Hoàn, chánh văn phòng Sở Xây Dựng và ông Lê Bá Hải, bí thư chi bộ, trưởng phòng Quản Lý Nhà và Thị Trường Bất Động Sản, Sở Xây Dựng.

Theo dư luận tại Việt Nam, ban đầu bà Trần Vũ Quỳnh Anh chỉ là chân chạy vặt tại Sở Xây Dựng Thanh Hóa, nhưng nhờ vào nhan sắc đã lọt vào tầm mắt của ông Ngô Văn Tuấn, giám đốc Sở Xây Dựng vào thời kỳ đó. Về sau, để phục vụ cho mục đích thăng tiến của mình, ông Tuấn đã “nhường” bà Quỳnh Anh cho ông Trịnh Văn Chiến, bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa. Kết quả, ông Tuấn trở thành phó chủ tịch tỉnh Thanh Hóa, còn ông Chiến có với “vợ bé” Quỳnh Anh hai người con.

(Người Việt)


Phần nhận xét hiển thị trên trang