Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 8 tháng 9, 2017

Putin ủng hộ Trung Quốc chống Phán quyết Trọng tài vụ kiện Biển Đông


HỒNG THỦY
)


(GDVN) - Phát biểu của Putin không làm thay đổi giá trị và hiệu lực của phán quyết trọng tài, mà nó chỉ làm thay đối cái nhìn và đánh giá của nhiều người về ông và...
Sputnik News ngày 5/9 đưa tin, Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố, Moscow hỗ trợ lập trường của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, chống lại Phán quyết Trọng tài hôm 12/7 và phản đối bất kỳ sự can thiệp nào của một bên thứ ba vào Biển Đông.
Ông Vladimir Putin được Sputnik News dẫn lời cho biết:
"Chủ tịch Tập Cận Bình và tôi đã phát triển sự tin cậy lẫn nhau, quan hệ rất thân thiện. Nhưng ông không bao giờ, tôi muốn nhấn mạnh điều này, không bao giờ tiếp cận tôi với yêu cầu bằng cách nào đó hãy bình luận, bằng cách nào đó hãy can thiệp vào vấn đề này.
Chúng tôi tất nhiên có ý kiến của riêng mình về vấn đề này. Đó là, trước hết chúng tôi không can thiệp vào, và chúng tôi tin rằng bất kỳ sự can thiệp của một sức mạnh không phải từ khu vực chỉ gây thiệt hại cho việc giải quyết những vấn đề này.
Tổng thống Nga Vladimir Putin trong buổi họp báo tại Hàng Châu, Trung Quốc. Ảnh: Sputnik News.
Sự can thiệp của bên thứ ba không nằm trong khu vực, theo ý kiến của tôi, là có hại và phản tác dụng. Chúng tôi đoàn kết và hỗ trợ lập trường của Trung Quốc về vấn đề này - không công nhận Phán quyết của Tòa Trọng tài.
Đây không phải là một vấn đề chính trị, mà là thuần túy pháp lý. Nó có liên quan đến một thực tế rằng bất kỳ một thủ tục tố tụng trọng tài nào đều phải được khởi xướng bởi các bên tranh chấp, trong khi Tòa Trọng tài cần nghe những lập luận và quan điểm của các bên tranh chấp.
Như bạn đã biết, Trung Quốc đã không chấp nhận giải quyết qua cơ chế trọng tài ở Lahay và không ai nghe thấy lập trường của họ ở đó. Làm thế nào bạn có thể nhận thấy những phán quyết này là công bằng? 
Chúng tôi ủng hộ lập trường của Trung Quốc về những vấn đề này", Putin nói với các phóng viên trong một buổi họp báo bên lề G-20 tại Hàng Châu, Trung Quốc. [1]
Như vậy giờ này các nhà ngoại giao Nga không phải tốn công giải thích hay "nói thêm cho rõ" về lập trường của Nga trong vấn đề Biển Đông.
Những người Việt yêu mến dân tộc Nga và Liên Xô trước đây cũng khỏi tốn công suy nghĩ cách bảo vệ thần tượng Putin trong vấn đề Biển Đông. Mọi thứ đã quá rõ ràng.
Putin ủng hộ ai, ủng hộ nước nào là quyền của ông ấy. Tuy nhiên về mặt logic, người viết cho rằng, phát biểu của Putin tự phủ định nhau.
Ông nói rằng sự can thiệp của bên thứ ba nằm ngoài khu vực vào Biển Đông là có hại và phản tác dụng. Nhưng chính phát biểu của ông là ví dụ không thể rõ ràng hơn về sự can thiệp "có hại và phản tác dụng" ấy.
Bởi lẽ đích thị Nga là một bên thứ 3 nằm ngoài khu vực, bởi lẽ Nga đang can thiệp trực tiếp vào vấn đề Biển Đông bằng cách chống lại một phán quyết trọng tài có hiệu lực pháp lý quốc tế của Hội đồng Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982.
Tuy nhiên phát biểu của Putin không làm thay đổi giá trị và hiệu lực của phán quyết trọng tài, mà nó chỉ làm thay đối cái nhìn và đánh giá của nhiều người về ông và vị thế của nước Nga ngày nay. 

Áp đặt, quy chụp là dội nước lạnh vào nhiệt huyết bảo vệ Tổ quốc

(GDVN) - Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam chỉ có một "động cơ" duy nhất và xuyên suốt là đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ...

Có thể nhiều nhà phân tích tin rằng, sau G-20 một liên minh Trung - Nga chống lại trật tự quốc tế hậu Chiến tranh Thế giới II mà Bắc Kinh và Moscow tin là do Washington dẫn đầu, sẽ hình thành hoặc đã hình thành.
Thậm chí có người tin sự cải thiện quan hệ Trung - Nga dưới thời Putin - Tập Cận Bình chống Mỹ và phương Tây không khác gì việc Tổng thống Mỹ Richard Nixon thăm Trung Quốc năm 1972 để hình thành một "liên minh" chống Liên Xô.
Tuy nhiên người viết đồng ý với nhận định của nhà nghiên cứu Nga Alexander Gabuev từ Chương trình Châu Á - Thái Bình Dương thuộc Trung tâm Canegie ở Mowscow trên South China Morning Post ngày 15/8 rằng, Trung - Nga không có khả năng trở thành đồng minh.
Nga cần thị trường, nguồn vốn của Trung Quốc, cần bán vũ khí cho Trung Quốc, trong khi Trung Quốc cũng có thể cung cấp một số linh kiện thiết bị quân sự cho Nga. Còn theo người viết, Bắc Kinh cần tiếng nói của Moscow để vớt vát lại thể diện sau Phán quyết Trọng tài 12/7.
Trong khi hình ảnh của Putin không mấy tốt đẹp ở phương Tây, ông có nhiều người hâm mộ tại Trung Quốc. Tuy nhiên theo South China Morning Post, không có nhiều người Trung Quốc tin rằng ông là một người bạn thực sự của nước họ. [2]
Mặt khác, quan hệ Trung - Nga dường như chỉ xây dựng trên sự đổi chác lợi ích một cách thực dụng, thiếu sự bền vững lâu dài dựa trên luật chơi chung - luật pháp quốc tế. Khi xảy ra mâu thuẫn lợi ích, đồng minh cũng có thể quay ra cắn xé nhau.
Năm 1950 Mao Trạch Đông đi Moscow ký Hiệp ước Hữu nghị, liên minh và tương trợ lẫn nhau với Liên Xô. Chỉ 10 năm sau, năm 1960 Mao Trạch Đông và Khrushchev cãi nhau, xúc phạm nhau ngay tại Đại hội Đảng Cộng sản Rumani. 
10 năm tiếp theo, năm 1970 Mao Trạch Đông tìm cách quay sang bắt tay với Mỹ chống Liên Xô. Năm 1979 Trung Quốc liên minh với Pakistan và Mỹ chống lại Liên Xô trong cuộc chiến tại Afghanistan.
Việt Nam cũng từng là nạn nhân của cạnh tranh địa chính trị, địa chiến lược giữa các siêu cường, nên hơn ai hết cần đề cao cảnh giác, dùng luật pháp quốc tế làm căn cứ để xem xét, ứng xử với các vấn đề quốc tế và khu vực.
Những hành xử của Trung Quốc trên Biển Đông và những phát biểu chống lưng của Tổng thống Putin cho thấy, khái niệm luật pháp quốc tế ở Biển Đông theo cách hiểu của các nhà lãnh đạo Trung Nam Hải, Điện Kremlin khác rất nhiều với phần còn lại của thế giới, đi ngược lại lợi ích hợp pháp của Việt Nam và khu vực.
Vì vậy thấy rõ tình hình để có quyết sách phù hợp là điều quan trọng, cần thiết.
Những ai yêu mến Putin xin cứ tiếp tục giữ tình yêu ấy. Có điều trước những phân tích phê phán quan điểm của Putin về Biển Đông và tác động, ảnh hưởng của nó thì xin đừng vội vàng hấp tấp chụp mũ cho đồng bào mình là "xuyên tạc quan điểm của Nga về Biển Đông" hay "chống phá quan hệ hữu nghị Việt - Nga".
Tài liệu tham khảo:
Hồng Thủy

Gián điệp mạng TQ 'gia tăng tấn công VN'


BBC - Gián điệp mạng làm việc cho chính phủ Trung Quốc đang mở rộng các cuộc tấn công vào các quan chức và doanh nghiệp Việt Nam vào thời điểm căng thẳng trên biển Đông đang leo thang.

Công ty an ninh mạng Hoa Kỳ, FireEye nói với hãng tin Reuters rằng các cuộc tấn công đã xảy ra trong những tuần gần đây cho thấy họ bắt đầu nhắm vào lĩnh vực thương mại đầy tiềm năng ở Việt Nam và cố gắng thu thập nguồn thông tin rộng lớn ở đó.

Bộ Công an Việt Nam vào tuần trước cho biết chỉ nửa năm 2017 cả nước có hơn 4600 trang thông tin có tên miền quốc gia bị tin tặc tấn công hoặc chiếm quyền điều khiển, tăng gần 50% so với cùng kỳ năm 2016.

Trong số này, có 148 trang web thuộc quản lý của các cơ quan nhà nước, nơi tồn tại nhiều lỗ hổng bảo mật nghiêm trọng mà tin tặc có thể khai thác và chiếm đoạt.

Trung tướng Hoàng Phước Thuận, Cục trưởng Cục An ninh mạng, nói tại Hội thảo An ninh Mạng rằng vụ tấn công vào ngành hàng không của Việt Nam ngày 29.7.2016 gây tổn hại về vật chất và uy tín đối với ngành hàng không và cả môi trường an toàn và ổn định nói chung.

Tướng Thuận nói tin tặc, trong cuộc tấn công đó, đã chiếm đoạt 91,7 MB dữ liệu với nhiều thông tin nhạy cảm, làm ngưng trệ gần 100 chuyến bay, chiếm quyền điều khiển giao diện màn hình hiển thị tại các sân bay Nội Bài và sân bay Tân Sơn Nhất.

Trong các đợt tấn công này, màn hình của sân bay đã bị chèn nội dung đả kích Việt Nam và Philippines, một hành động được xem là trả đũa sau phán quyết của Tòa án Trọng tài Thường trực (PCA) về vụ Manila kiện Bắc Kinh về chủ quyền đường 'chín đoạn' ở Biển Đông.

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng được Reuters dẫn lời nói rằng các cuộc tấn công trên mạng sẽ bị trừng phạt nghiêm trọng theo luật pháp.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh, nói rằng Trung Quốc phản đối tất cả hành động xâm nhập mạng bất hợp pháp hoặc ăn cắp bí mật và cũng phản đối bất cứ cáo buộc chống lại bất cứ quốc gia nào mà không có bằng chứng.


FireEye cho biết các cuộc tấn công Việt Nam liên quan đến hình thức gửi tài liệu bằng tiếng Việt cho người dùng và yêu cầu các thông tin tài chính. Khi người dùng mở các tư liệu này, mã độc sẽ xâm nhập vào máy tính và gửi lại các thông tin cho gián điệp mạng, dẫn đến khả năng gián điệp mạng có thể thâm nhập vào cả hệ thống.

FireEye đã phát hiện ra sự liên hệ giữa các cuộc tấn công với một nhóm tin tặc gọi là Conimes. Nhóm này tập trung vào Đông Nam Á, nhưng mục tiêu chính là Việt Nam và đặc biệt là từ khi căng thẳng biển Đông leo thang, ông Read nói.

Tuy nhiên ông không thể nói chính xác những thông tin nào đã bị thu thập, theo Reuters.

Trước đó, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã kêu gọi tăng cường kiểm soát mạng chặt chẽ hơn để chống lại các cuộc tấn công mạng.

Và để ngăn chặn các "hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ... tổ chức các chiến dịch công kích, bôi nhọ nhằm hạ uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước," theo báo Tuổi Trẻ.

Ông Read nói những vụ tấn công mà họ phát hiện ra ở Việt Nam tương đối đơn giản và nhắm vào người dùng có phiên bản Microsoft Word trước năm 2012.

"Họ đang sử dụng các kỹ thuật tương đối đơn giản bởi vì có vẻ kỹ thuật này là hiệu quả," ông nói.

Trước đó, BuzzfeedNews dẫn lời giới quan sát cảnh báo rằng một nhóm tin tặc được chính phủ Trung Quốc hậu thuẫn dường như đang tấn công giới chức Việt Nam với các mã độc trong email để giành lợi thế trong các cuộc đàm phán mậu dịch.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Khởi tố nguyên Phó Thống đốc ngân hàng Nhà nước Đặng Thanh Bình


C.Công
Người đưa tin - Cơ quan Cảnh sát điều tra, bộ Công an vừa ra quyết định khởi tố bị can đối với ông Đặng Thanh Bình, nguyên Phó Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Theo nguồn tin riêng của báo Người Đưa Tin, ngày 8/9, cơ quan Cảnh sát điều tra, bộ Công an vừa ra quyết định khởi tố bị can đối với ông Đặng Thanh Bình (SN 1954), nguyên Phó Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Cũng theo nguồn tin, ông Bình bị khởi tố vì liên quan đến đại án kinh tế Phạm Công Danh và đồng phạm gây thất thoát 9.000 tỷ đồng.

Cơ quan tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị can Đặng Thanh Bình.

Được biết, ông Bình có thâm niên hơn 30 năm công tác trong lĩnh vực ngân hàng. Tháng 5/2005, ông Bình được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm làm Phó Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Trước khi giữ cương vị Phó Thống đốc, ông Bình làm Vụ trưởng vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo của ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Trước đó, ông Bình từng giữ các cương vị: Vụ trưởng vụ Các định chế tài chính từ năm 1994; năm 1997 chuyển sang làm Vụ trưởng vụ Pháp chế; năm 2002 bắt đầu giữ cương vị Vụ trưởng vụ Tổ chức cán bộ của ngân hàng Nhà nước.

Hiện, vụ án đang tiếp tục được điều tra, mở rộng.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Luôn nhìn thấy lỗi ở người khác: Nỗi bất hạnh lớn lao của những cái đầu chứa đầy thành kiến


>> Gián điệp mạng TQ 'gia tăng tấn công VN'
>> Một nhà báo liên tục bị đe dọa, ‘khủng bố’


Theo Thảo Yukimoon. Design: Link Phương


























Cafebiz - Cuộc đời này ngắn lắm, chúng ta không thể quyết định được chiều dài của sinh mệnh, nhưng có thể tùy ý sử dụng chiều sâu của sinh mệnh, nhìn thế giới một cách thông suốt, giữ cho tâm không phê phán, hơn thua.

Có câu chuyện kể rằng, một đôi vợ chồng trẻ vừa dọn đến ở trong một khu phố mới. Sáng hôm sau, vào lúc hai vợ chồng ăn điểm tâm, người vợ thấy bà hàng xóm giăng tấm vải trên giàn phơi.

"Tấm vải bẩn thật" - Cô vợ thốt lên. "Bà ấy không biết giặt, có lẽ bà ấy cần một loại xà phòng mới thì giặt sẽ sạch hơn". Người chồng nhìn cảnh ấy nhưng vẫn lặng im. Thế là, vẫn cứ lời bình phẩm ấy thốt ra từ miệng cô vợ mỗi ngày, sau khi nhìn thấy bà hàng xóm phơi đồ trong sân.

Một tháng sau, vào một buổi sáng, người vợ ngạc nhiên vì thấy tấm vải của bà hàng xóm rất sạch, nên cô nói với chồng: "Anh nhìn kìa! Bây giờ bà ấy đã biết cách giặt tấm vải rồi. Ai đã dạy bà ấy thế nhỉ?"

Người chồng đáp: "Không. Sáng nay anh dậy sớm và đã lau kính cửa sổ nhà mình đấy".

Thực ra mỗi người trong chúng ta, ai cũng đều giống như cô vợ trong câu truyện kia. Chúng ta đang nhìn đời, nhìn người qua lăng kính loang lổ những vệt màu của cảm xúc, bám dày lớp bụi bặm của thành kiến và những kinh nghiệm thương đau. Chúng ta trở nên phán xét, bực dọc và bất an trước những gì mà tự mình cho là "lỗi lầm của người khác".

Một điều dễ nhận diện là khi tâm trạng vui vẻ, chúng ta nhìn ai cũng thấy dễ chịu, gặp chuyện gì cũng dễ thứ tha. Chúng ta có thể mỉm cười trước những trò nghịch ngợm của lũ trẻ, đủ khoan thứ để nhẫn nại một lời nói khó nghe, những chuyện tưởng chừng khó chấp nhận, thì chúng ta cũng dễ dàng thỏa hiệp. Những lúc ấy, dường như cả thế giới đều trở nên hòa ái, mọi chuyện trôi qua một cách nhẹ nhàng.

Vậy mà, chỉ cần một chút lo lắng dâng lên trong lòng, những muộn phiền về quá khứ, nỗi sợ hãi về tương lai sẽ lập tức khiến cho cái thế giới vốn đang đẹp đẽ nhường kia liền biến thành một chốn đầy những chuyện xấu xa, phiền phức. Khi ấy những tiếng hò hét cười đùa của lũ trẻ sẽ trở thành những âm thanh khó chịu, một lời nói không vừa ý dễ dàng khiến cho ta sân giận hoặc tổn thương, những chuyện nhỏ mà lúc bình thường không đáng bận tâm, bỗng trở thành một nỗi phiền não quá sức chịu đựng.

Kỳ thực, không phải là thế giới có vấn đề, hay người khác quá sai quấy, mà vấn đề nằm chính ngay nơi tâm ta. Khi nhìn đời bằng cái tâm có vấn đề, mang đầy những cảm xúc và thành kiến tiêu cực, thì chúng ta thấy ai cũng thành sai quấy, đụng chuyện gì cũng hóa tổn thương.

Chúng ta luôn có hai xu hướng: nhìn những thứ mình thích, những người mình thương với cặp mắt kính màu hồng, và ngược lại, nhìn những việc mình không muốn, những người mình không ưa bằng chiếc kính tiêu cực màu đen.


Do thói quen phóng đại mọi ưu điểm của những người mình thích, họ trở nên quá lung linh, quá tuyệt vời trong cảm nhận của chúng ta. Mỗi lời họ nói, mỗi việc họ làm đều khiến chúng ta xem là chân lý, ngay cả lúc họ sai, chúng ta cũng khó lòng nhìn nhận cho thông suốt. Ví như những cặp đôi khi mới yêu nhau, thì riêng đối với họ, đối phương luôn đẹp đẽ, dễ thương và toàn ưu điểm. Nếu chẳng may phát hiện đối phương làm chuyện không tốt, thì chúng ta vẫn thừa khả năng và đủ lý lẽ để tự huyễn hoặc bản thân rằng họ không sai.

Hẳn nhiên, chính do cặp mắt kính màu hồng đã khiến cho cách nhìn của chúng ta hóa ra lệch lạc, chúng ta không thấy được mọi người đúng với bản chất chân thực như họ vốn là. Để rồi khi sự yêu thích bên trong mình giảm sút đi, thì hình tượng trong lòng cũng theo đó mà sụp đổ. Chúng ta nhìn ra ở đối phương ngày càng nhiều lỗi lầm và khuyết điểm, chúng ta trở nên hoang mang đau khổ, đến nỗi hoài nghi ngay cả chính bản thân mình.

Điều tương tự cũng xảy ra đối với những người bị chúng ta coi thường, chỉ trích. Chúng ta xé to những sai lầm của họ, đi rêu rao những khuyết điểm mà chúng ta cho rằng thật khó chấp nhận làm sao. Rồi đến một lúc nào đó những người mà trong tâm trí ta vẫn xem như kẻ thù, lại sẵn sàng giúp đỡ và tử tế, thì liệu chúng ta có thể xem như không chút hổ thẹn với lương tâm?


Khi nói lỗi ở người khác, chúng ta vô tình truyền sang người nghe những cảm xúc tiêu cực, bất an. Dòng tâm thức của chúng ta cũng trở nên lộn xộn, đầy những rắc rối y như câu chuyện mà mình đang kể. Theo đó, ấn tượng mà ta để lại trong lòng những người khác chỉ là những cảm giác tiêu cực, để rồi một cách rất tự nhiên, họ sẽ áp dụng đúng sự phê phán, soi xét đó trở lại cho ta.

Hai thái cực nói trên, kể cả việc phóng đại những điều mình thích và phản ứng kịch liệt với điều mình không ưa, tựu chung đều là những cách nhìn thế giới còn chưa đúng đắn. Nên chăng, chúng ta hãy dùng cặp mắt sáng suốt của trí tuệ, dùng tâm thái thiện lương để nhìn nhận cuộc đời.

Thời gian đã khiến cho chúng ta mất đi cái nhìn trong sáng về thế giới, đánh mất những rung cảm hạnh phúc trước cuộc sống vốn đầy màu nhiệm và bình an. Chúng ta không có lúc nào dừng lại để chăm sóc chính mình, mà cứ mải chạy rong ruổi theo những suy nghĩ đúng sai, phải quấy về cuộc đời và về người khác.

Xét cho cùng, lỗi lầm dù của ai đi chăng nữa, vốn chẳng hề ảnh hưởng đến tư cách và phẩm chất của chúng ta. Nó chắc chắn không làm cho chúng ta trở nên đẹp đẽ gì hơn khi phê phán người khác. Mà chính thái độ tiêu cực, thói quen chỉ trích mới khiến chúng ta mắc lỗi với bản thân mình và xấu đi trong mắt của mọi người.

Tìm lỗi của người khác, là tự đem rác rưởi của họ về cất trong nhà. Mỗi phút chúng ta để tâm đến chuyện không tốt, thì mất đi một phút vui vẻ không thể lấy lại. Cuộc đời này ngắn lắm, sẽ chẳng ai có khả năng và trách nghiệm níu giữ cho ta những thời khắc sinh mệnh đang vùn vụt trôi qua. Vậy chúng ta có còn muốn phí hoài cuộc sống để đi phán xét những sai lầm của người khác?



Cách mà chúng ta nhìn người khác, thực chất là đang phản ánh nội tâm của chính mình. Một người đang túng thiếu sẽ thấy khó chịu với những ai dư giả. Một người sân hận sẽ luôn thấy người khác công kích và chọc tức mình. Một người không thành thật sẽ thấy mọi người đầy giả trá. Tất cả những cảm xúc và suy nghĩ tiêu cực đó, đều khởi sinh từ một tâm thức thiếu bình an. Nên điều mà chúng ta cần làm, là quay trở vào bên trong để nuôi nưỡng mảnh đất tâm mình vốn đang ngập đầy giông bão.

Bao nhiêu người trong số chúng ta vẫn đang hằng ao ước có được "một vé đi tuổi thơ"? Đã bao lâu rồi chúng ta không thể nở một nụ cười trọn vẹn? Chúng ta ao ước có được chút hồn nhiên, trong trẻo như trẻ nhỏ, để có thể dễ dàng hạnh phúc và dễ dàng thứ tha.

Nhưng tại ai đã làm cho chúng ta ngày càng trở nên khô cằn, nóng nảy và bất hạnh? Tại ai đã khiến chúng ta luôn cô đơn, lạc lõng ngay chính trong gia đình mình, giữa bạn bè mình và bên cạnh tám tỷ người trên trái đất này?

Là do chúng ta cố chấp mà đeo lên những cặp kính đầy phiền não, những cặp kính sai lầm ngăn cách chúng ta với hạnh phúc hiện tiền. Chỉ cần một lúc nào đó đủ dũng cảm tháo bỏ cặp kính ấy đi, thì cuộc đời sẽ hiện ra tươi mới, thế giới sẽ là chỗ để chúng ta trải nghiệm phúc lạc đủ đầy.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Những ngịch lý..


 

Nguyễn Quang Dy



“Chúng ta không thể thay đổi được quá khứ, nhưng chúng ta có thể sắp xếp lại tương lai” “We cannot change the past, but we can reshape the future” (Dalai Lama)
Chiến tranh Viêt Nam đã đi vào lịch sử lâu rồi. Đã 42 năm kể từ khi cuộc chiến đó chấm dứt, nhưng người ta vẫn còn tranh luận về Chiến Tranh Việt Nam (hay còn gọi là cuộc “Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai”). Tại sao “bóng ma Việt Nam” đến giờ vẫn còn ám ảnh người Mỹ và người Việt, nhất là thế hệ những người đã trực tiếp dính líu vào Việt Nam, dù là quân nhân hay dân sự và nhà báo. Tại sao người ta vẫn tiếp tục viết sách và làm phim về Việt Nam? Phải chăng vì Chiến tranh Việt Nam có quá nhiều nghịch lý và ngộ nhận?
Hệ quả chiến tranh
Chiến tranh Việt Nam đã làm 58.000 người Mỹ và hàng triệu người Viêt (cả hai phía) bị thiệt mạng, và làm cho hai quốc gia bị tổn thất nặng nề và chia rẽ sâu sắc. Sau chiến tranh, hầu hết các trường hợp người Mỹ mất tích (MIA) đã được kiểm chứng, nhưng hàng vạn người Việt mất tích (cả hai phía) vẫn chưa được kiểm chứng. Ngay lúc này, tại khu vực sân bay Tân Sơn Nhất, người ta vẫn đang tìm kiếm mộ tập thể của hàng trăm liệt sỹ thiệt mạng trong “Tết Mậu Thân” (1968) mà đến nay vẫn coi như “mất tích”. Người ta vẫn đang phải chi nhiều triệu USD để rà soát bom mìn và tẩy độc dioxin tại nhiều nơi ở Việt Nam.
Ngoài 257 nhà báo quốc tế sống sót sau Chiến tranh Viêt Nam, tham gia câu lạc bộ “Vietnam Old Hacks”, 73 đồng nghiệp xấu số của họ bị mất tích trong chiến tranh, đến nay vẫn chưa được kiểm chứng. Sau nhiều năm tìm kiếm vô vọng, phóng viên ảnh Tim Page và thân hữu vẫn chưa chịu bỏ cuộc, tuy Chính phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam vẫn chưa làm gì để giúp họ tìm kiếm. Trong khi những người Mỹ mất tích trong chiến tranh đã được kiểm chứng, tại sao các nhà báo quốc tế mất tích trong chiến tranh lại bị Mỹ và Việt Nam “bỏ quên”? Thật là bất công và bất nhẫn khi số phận người sống lẫn người chết vẫn chưa hóa giải.
Trong bộ phim tài liệu mới “The Vietnam War” (gồm 10 tập, dài 18 giờ, sẽ chiếu trên PBS từ 17/9/2017) Ken Burns và Lynn Novick đã chọn cựu binh Mỹ John Musgrave để nói lên một sự thật đau lòng (ngay từ đầu bộ phim): “Có lẽ chúng tôi là những đứa trẻ cuối cùng của một thế hệ tin rằng chính phủ của mình không bao giờ nói dối chúng tôi” (We were probably the last kids of any generation that actually believed our government would never lie to us). Câu nói đó chắc sẽ ám ảnh khán giả, và tiếp tục ám ảnh người Mỹ và Việt Nam.
Bộ phim “The Vietnam War” làm tôi nhớ lại một kỷ niệm vào năm 1985 khi chúng tôi đứng trên đỉnh đèo Hải Vân nhìn xuống bãi biển Non Nước (còn gọi là “China Beach”). Thomas Vallely (một cựu binh ở Massachusetts) đứng trước ống kính máy quay phim để làm một “stand-up” giữa trời nắng chang chang, đã phải lặp lại nhiều lần một câu nói làm tôi bị ám ảnh, nên đã thuộc đến tận bây giờ: “Hai mươi năm trước tôi đã đổ bộ vào Đà Nẵng khi còn là một thanh niên 19 tuổi. Chính tại Việt Nam tôi đã hiểu về cuộc chiến tranh, về bản thân, và về đất nước của mình… Chúng ta không nên đưa thanh niên vào chỗ chết, chỉ vì lòng tự hào của mấy ông già”. (Twenty years ago, I landed here in Da Nang as a nineteen years old. It was here in Vietnam that I had learned about the War, about myself and about my country… We should not be in the businees of sending young men to die for the old men’s pride).
Lịch sử thường lặp lại với nhiều nghịch lý. Nước Mỹ đã lặp lại một sai lầm mà tướng Omar Bradley đã từng cảnh báo (15/5/1951): Chiến tranh Việt Nam đã trở thành “một cuộc chiến sai lầm, tại một địa điểm sai, vào một thời điểm sai, và chống một kẻ thù sai” (The wrong war, in the wrong place, at the wrong time, and with the wrong enemy). Tại sao một chính quyền có nhiều người tài giỏi như vậy, mà vẫn mắc sai lầm? Phải chăng là do “ngạo mạn về quyền lực”, nên họ đã ngộ nhận về “quyền năng tuyệt đối”? Phải chăng do cực đoan và tự phụ nên họ không chịu lắng nghe lời khuyên, mà còn lừa dối Quốc hội và Nhân dân.
Tại sao Việt Nam
Năm 1990, tôi có dịp gặp ông Archimedes Patti tại Bangkok trong khi ông ấy chờ máy bay đi Việt Nam để dự kỷ niệm sinh nhật cụ Hồ. Ông đã ký tặng tôi cuốn sách “Tại sao Việt Nam” (“Why Vietnam: Prelude to America’s Albatross”, University of California Press, 1980) và kể lại nhiều kỷ niệm với cụ Hồ và OSS. Tuy ông Patti và cuốn sách đã đi vào lịch sử, nhưng câu hỏi Why Vietnam vẫn còn ám ảnh nhiều người Mỹ và người Việt Nam.
Khi tôi hỏi ông Patti là người Mỹ có đọc cuốn sách của ông không, ông buồn rầu trả lời là rất ít người đọc. Mãi sau này người ta mới đưa nó vào danh mục sách tham khảo của các trường đại học. Trong một lần trả lời phỏng vấn (1981), ông Patti nói:“Theo tôi, chiến tranh Viêt Nam là một sự lãng phí khồng lồ. Trước hết, nó không cần phải xảy ra. Hoàn toàn không. Không đáng tí nào cả. Trong suốt những năm chiến tranh Việt Nam, không ai đến gặp tôi để tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra năm 1945 hoặc 1944. Trong suốt những năm tôi làm việc ở Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao và Nhà Trắng, không một ai có quyền hành đến gặp tôi cả…”

Năm 1995, nhân kỷ niệm 20 năm kết thúc chiến tranh, ông Robert McNamara đã viêt cuốn sách “Hồi tưởng: Bi kịch và Bài học Việt Nam” (Robert McNamara, “In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam”, Vintage books, 1995). Cuối cùng ông McNamara đã thừa nhận sai lầm. Nhiều người đặt câu hỏi tại sao một người thông minh tài giỏi như vậy, phải mất tới 20 năm mới nhận ra hay thừa nhận sai lầm. Phải chăng nghịch lý quá khó để nhận ra, hay sai lầm quá lớn để thừa nhận? Trong khi sử gia Arthur Schlesinger khen ngợi ông McNamara là dũng cảm và chân thành thừa nhận sai lầm, thì nhiều người khác lại cho rằng ông McNamara thừa nhận sai lầm quá chậm trễ như vậy là thiếu tử tế (indecent). Những người trong cuộc phải hiểu cái giá của sự chậm trễ trước mỗi bước ngoặt của lịch sử. Theo Đại tá Andre Sauvageot, “Đáng lẽ Tổng thống Nixon phải rút quân khỏi Việt Nam sớm hơn…”

Năm 1997, ông H.R. McMaster đã viết cuốn “Bỏ rơi Nhiệm vụ” (H.R. McMaster, “Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs, and the Lies that led to the War”, Harper, 1997). Đó là nhận xét thẳng thắn của một sỹ quan dũng cảm dám nói ra sự thật, dù là sự thật đau lòng. Chắc lúc đó ông McMaster không biết rằng sau này mình sẽ trở thành Chủ tịch Hội đồng An Ninh Quốc gia. Liệu ông có thể làm gì để sửa chữa sai lầm khi có cơ hội, vì sau Việt Nam, Chính quyền Mỹ tiếp tục nói dối và mắc sai lầm tại Iraq.
Trong cuốn sách đó, McMaster đã nói rõ không chỉ có Chính quyền Johnson đã lừa dối Quốc Hội trong sự kiện Vịnh Bắc Bộ, mà các tướng lĩnh cầm đầu cũng tham gia sự “đồng thuận dối trá” (Contriving consensus). Tướng Earle Wheeler và các tham mưu trưởng liên quân, được gọi là “năm người đàn ông im lặng” (five silent men) đã tiếp tay cho Tổng thống lừa dối Quốc Hội leo thang chiến tranh tại Việt Nam, như gia tăng quân Mỹ để gây sức ép (graduated pressure). McMaster gọi đó là “bãi lầy dối trá” (quicksand of lies).
Nhà báo Peter Arnett (CNN) gọi đó là“sự bất tài, dối trá, và ngạo mạn của những quan chức Mỹ cao cấp nhất” (the ineptness, duplicity and arrogance among the most senior officials of the US). Còn nhà báo Joe Galloway (US News & World Reports) đã nhận xét:“Những người có quyền lực và trách nhiệm đã gây ra thảm họa chiến tranh và để lại dấu vết khắp nơi…McMaster đã làm sáng tỏ hơn và biết rõ hơn về ‘những người tài giỏi và thông minh nhất’ đã dùng dối trá và bí mật để che đậy cho họ như thế nào, nhằm khuynh đảo và thao túng đất nước, xô đẩy Mỹ trượt theo con đường chiến tranh và thất bại cay đắng” (men of power and responsibility caused that disastrous war and left their fingerprints all over it. He sheds fresh light and understanding on how ‘the best and the brightest’ shielded by lies and top secret, maneuvered and manipulated our country down the road to war and bitter defeat).
Bất đồng chính kiến

Khác với Robert McNamara (cựu Bộ trưởng Quốc phòng) và McGeorge Bundy (cựu Cố vấn An ninh Quốc gia), George Ball (cựu Thứ trưởng Ngoại giao, 1961-1966) lúc đó đã nhận ra sai lầm và cố khuyên can Tổng thống Kennedy và Johnson đừng can thiệp vào Việt Nam: “Tôi nhìn thấy trước một cuộc phiêu lưu rất nguy hiểm…Chúng ta sẽ sa vào một cuộc xung đột kéo dài, còn nguy hiểm hơn cả Triều Tiên”. Trong số những nhân vật mà David Hamberstam gọi là the Best and the Brightest trong Chính quyền Kennedy, George Ball là thiểu số đơn độc giữa sự đồng thuận dối trá và ngạo mạn về quyền lực. Tuy lập luận của George Ball rất thuyết phục, nhưng họ không buồn nghe, nên ông đã từ chức (năm 1966).

George Ball là một nhân vật đóng vai phản biện (devil’s advocate) có uy tín trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ trong thập niên 1960. Ông đã cố thuyết phục Tổng thống Kennedy đừng gửi quân sang Việt Nam và đã cảnh báo từ rất sớm là cuối cùng Mỹ phải đưa tới đó hàng trăm ngàn quân: “Việt Nam như một cái vòng luẩn quẩn với những khe sâu và bãi lầy khó thoát” (Vietnamese detour with its deep ruts and treacherous quicksands). Ông dự đoán chiến tranh sẽ kéo dài, quân Mỹ sẽ mắc kẹt vào một cuộc chiến tranh trong rừng rậm, Trung Cộng sẽ can thiệp, sự ủng hộ của dân chúng Mỹ sẽ mất dần khi thương vong tăng lên, dư luận quốc tế sẽ phản đối chiến tranh, và cuối cùng Mỹ sẽ thất bại.
Ngay từ đầu thập niên 1960, George Ball đã nhấn mạnh giá trị của ngoại giao, và khuyến nghị “rút quân chiến thuật” để tránh thảm họa. Ông kêu gọi ngừng bắn, có ủy ban quốc tế giám sát, tiếp theo là bầu cử tại Miền Nam, cho Việt Cộng tham gia, tiến tới thống nhất Việt Nam. Ông khuyến nghị tìm kiếm một giải pháp ngoại giao, vì nếu thiếu thì Mỹ sẽ khó tránh được thảm họa, dẫn tới thất bại nhục nhã. Lịch sử đã chứng minh George Ball có tầm nhìn sáng suốt, tuy lúc đầu ông không phản đối quyết liệt. Chính ông George Ball và TNS William Fulbright đã ủng hộ “Nghị quyết vịnh Bắc Bộ” (mà George Ball cùng soạn thảo).
Nhưng có lẽ chính họ cũng bị lừa dối, vì sau đó, George Ball ngày càng bất đồng chính kiến, với những khuyến nghị quyết liệt hơn. TNS Fulbright đã viết cuốn “Sự Ngạo mạn của Quyền lực” (William Fulbright, “The Arrogance of Power”, Random House, 1966). Ông cho rằng “quyền lực bị lẫn lộn với đạo đức thì nó thường bị ngộ ngận là quyền năng tuyệt đối” (omnipotence). Ông lập luận “trong một nền dân chủ, bất đồng chính kiến là từ lòng tin, giống như tin vào thuốc chữa bệnh, mà giá trị của nó không phải vị đắng ta nếm, mà là công hiệu của thuốc”. Không phải chỉ có George Ball và William Fulbright bất đồng chính kiến, mà còn một số người khác như TNS Earnest Gruening và TNS Wayne Morse, là hai người dũng cảm trong Thượng viện đã bỏ phiếu chống “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” (1964). Sau cuốn sách của Fulbright, Gruening đã viết cuốn Vietnam Folly, góp phần làm thay đổi nhận thức nhiều người Mỹ về Chiến tranh Việt Nam (Earnest Gruening, “Vietnam Folly”, National Press, 1968).
Sự kiện Vịnh Bắc Bộ
Ngày 2/8/1964, ba tàu phóng ngư lôi của Bắc Việt Nam đã tấn công tàu khu trục USS Maddox trong vịnh Bắc Bộ (cuộc “tấn công lần thứ nhất”). Hai ngày sau (4/8/1964) tàu USS Maddox và USS Tuner Joy tiếp tục tuần tra trinh sát tại vịnh Bắc Bộ. Trong đêm tối mịt mù, sóng to gió lớn làm mất tầm nhìn, thủy thủ hai tàu phát hiện trên màn hình radar những đốm sáng và hơn 20 vật thể di chuyển giống ngư lôi của đối phương, nên tàu phải tăng tốc để tránh, thả thủy lôi và bắn trả 650 quả pháo xuống biển (tưởng là cuộc “tấn công lần thứ hai”).
Nhưng sau đó, họ không tìm thấy dấu vết ngư lôi hay tàu của đối phương bị phá hủy hay tháo chạy trước hỏa lực cực mạnh của hai tàu Mỹ. Trong vòng mấy giờ sau đó, thuyền trưởng tàu USS Maddox John Herrick đã gửi điện khẩn về Honolulu báo cáo không phát hiện thấy địch bằng mắt thường, và báo động bị địch tấn công bằng ngư lôi có thể là do thời tiết xấu và phản ứng hồ đồ của các kỹ sư sonar. Ông khuyến nghị “cần đánh giá lại toàn bộ trước khi có hành động tiếp theo” (complete evaluation before any further action taken). Nhưng Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã lập tức khuyến nghị ném bom Bắc Việt Nam, và Tổng thống Johnson đã nghe lời khuyên của McNamara, vội vã tuyên bố Mỹ bị “tấn công vô cớ” (unprovoked attack) trên hải phận quốc tế. Ba ngày sau, hai viện Quốc Hội thông qua “Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ” cho phép Tổng thống toàn quyền hành động, triển khai quân đội Mỹ tại Đông Nam Á. Đó là bước ngoặt để Chính quyền Johnson quyết định leo thang chiến tranh.
Năm 2003, trong bộ phim tài liệu “Sương mù Chiến tranh” (Fog of War) ông McNamara đã thừa nhận “không có cuộc tấn công lần thứ hai, ngày 4/8/1964”. Tổng thống Johnson cũng nói “Theo tôi biết, hải quân của chúng ta đã bắn cá voi ở đó” (For all I know, our navy was shooting at whales out there). Phi công James Stockdale, lúc đó đang lái máy bay hải quân F-8 Crusader bay trên vùng “có chiến sự” đã báo cáo về như sau: “Tôi đang ngồi ở vị trí tốt nhất để quan sát “các tàu khu trục của chúng ta đang bắn vào các mục tiêu bóng ma…Chẳng có cái gì ở đó ngoài nước biển tối đen và hỏa lực của Mỹ” (our destroyers were shooting at phantom targets ... There was nothing there but black water and American firepower).
Năm 2005, Cục An ninh Quốc gia (NSA) đã giải mật nhiều tài liệu bao gồm các bức điện trao đổi xung quanh “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, nên các sử gia có cơ sở để kết luận là “không có cuộc tấn công lần thứ hai” (ngày 4/8/1964). Sử gia Edwin Moise tin rằng do thời tiết xấu, các đàn cá bơi gần mặt nước, hoặc sự cố cảm biến của radar đã làm các kỹ sư sonar hiểu lầm các tín hiệu trên màn hình. Biển cả đầy rẫy các hiện tượng lạ mà thủy thủ có thể hiểu lầm là mối đe dọa. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và chứng minh thủ phạm trong “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” là một loài cá họ mực có tên là pyrosomes, thường đi ăn ban đêm hàng đàn gần mặt nước, với đội hình trông giống quả ngư lôi, tuy tốc độ di chuyển chậm hơn, nhưng cũng phát sáng và tạo vệt sóng, nên hình ảnh trên màn hình radar trông giống ngư lôi.
Giáo sư Todd Newberry (University of California, Santa Cruz) cho rằng hình ảnh và tập quán di chuyển của loài cá pyrosomes khớp với sự cố xảy ra. Newberry cho biết vào mùa hè 1966 ông đã gặp một kỹ sư sonar của tàu USS Turner Joy tại Monterey Bay. Anh ta kể lại sự cố đêm hôm đó với ông Newberry (một giáo sư sinh vật biển). Theo lời anh ta, trên màn hình radar của tàu USS Turner Joy xuất hiện những vật thể trông giống ngư lôi, nhưng cách nó di chuyển không giống những quả ngư lôi mà từ trước tới nay anh ta đã thấy. Câu chuyện của Newberry về loài cá pyrosomes phát sáng là một ví dụ về những ngộ nhận cực đoan của con người về thế giới tự nhiên đa dạng, nhưng có thể làm thay đổi cục diện chiến tranh.
Thực ra hơn nửa thế kỷ qua, các nhà hải dương học đã nghiên cứu và kể lại nhiều mẩu chuyện về loài cá pyrosomes trong các bài giảng ở trường đại học, nhưng ít người để ý (ví dụ trong sự cố Vịnh Bắc Bộ). Trong bộ phim the Fog of War, ông McNamara nói “Chiến tranh quá phức tạp để đầu óc con người có thể hiểu được tất cả các biến số. Nhận định và hiểu biết của chúng ta không đủ, và chúng ta giết người một cách không cần thiết” (War is so complex it’s beyond the ability of the human mind to comprehend all the variables. Our judgment, our understanding, are not adequate. And we kill people unnecessarily).
Bóng ma Việt Nam và Iraq
Sau Việt Nam, người ta tưởng Mỹ sẽ không bao giờ mắc lại sai lầm nữa. Nhưng Iraq đã làm sống lại bóng ma Việt Nam. Chính quyền Bush đã mắc lại sai lầm cũ, làm mất lòng dân, không chỉ người Mỹ mà còn nhiều dân tộc khác trên thế giới. Tuy Mỹ chống chủ nghĩa khủng bố là đúng, nhưng đã sai khi ngộ nhận và ngạo mạn về quyền lực. Mỹ đã sai khi Washington đi theo chủ nghĩa đơn phương (unilateralism), chỉ dựa vào sức mạnh cứng (hard power) mà quên mất sức mạnh mềm (soft power) làm vũ khí chống khủng bố. Mỹ đã sai lầm khi Chính quyền Bush đã nói dối Quốc hội và nhân dân Mỹ về lý do tấn công Iraq.
Hình như người ta không chịu học bài học Việt Nam: Bắt đầu một cuộc chiến mà không có tầm nhìn rõ ràng, không biết giới hạn của quyền lực, nên cuối cùng không thắng được và không thu phục được lòng dân địa phương. Iraq một lần nữa lại chia rẽ nước Mỹ khi chiến tranh kéo dài với tổn thất lớn, nhưng không có lối thoát. Có thể nói, bóng ma Việt Nam được phục sinh bởi Iraq, và lịch sử đã lặp lại một lần nữa. Mỹ lại đứng trước thế “tiến thoái lưỡng nan” (như Catch-22): hoặc mất Iraq hoặc phải “Iraq hóa” chiến tranh để Mỹ có thể rút quân nhằm tránh những rắc rối lớn hơn trong nước. Đó không chỉ là thất bại của bộ máy chiến tranh với “sự ngạo mạn của quyền lực”, mà còn là thất bại của một triết lý chiến tranh dược dẫn dắt bởi một tầm nhìn thiển cận, dựa trên chủ nghĩa đơn phương và sức mạnh cứng.
Bài học Việt Nam là một trường hợp điển hình về sức mạnh cứng được sử dụng tối đa, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Ông McNamara đã mất hơn 2 thập kỷ mới nhận ra sai lầm chết người đã xô đẩy nước Mỹ vào một cuộc chiến tàn khốc, không chỉ đem lại thương vong và tổn thất to lớn cho nước Mỹ, mà còn tàn phá Việt Nam “trở về thời kỳ đồ đá” (lời tướng Curtis LeMay), khó tái thiết sau chiến tranh. Kết cục cả Mỹ và Việt Nam đều bị tổn thương và chia rẽ nghiêm trọng, cả về vật chất lẫn tinh thần, đến tận bây giờ vẫn chưa lành vết thương.
Vì vậy mà hai thập kỷ sau chiến tranh, cuốn sách “Hồi tưởng” của ông McNamara lại mở ra vết thương lòng với vết sẹo Chiến tranh Việt Nam vẫn chưa lành. Ba thập kỷ sau chiến tranh, bóng ma Việt Nam vẫn ám ảnh John Kerry và George Bush trong cuộc vận động tranh cử tổng thống (2004). Đến tận bây giờ, bóng ma Việt Nam vẫn tiếp tục ám ảnh hai quốc gia và và chia rẽ hai cộng đồng người Việt, làm cho hòa giải vẫn vô cùng khó khăn. Nhiều người Việt và người Mỹ vẫn như là “tù binh của quá khứ”, không thể kiến tạo được tương lai.
Hình như có một nghịch lý “yêu-ghét” (love-hate paradox) giữa hai quốc gia, do ám ảnh của quá khứ với mặc cảm tội lỗi (như trường hợp ông Bob Kerrey). Nó nuôi dưỡng những ẩn ức và ngộ nhận do “tư duy cũ” (mindset) bị “bất cập” trước thực tế mới với “khác biệt lớn” (big gaps). Chỉ khi nào những “bất cập” đó được tháo gỡ, mở đường cho thiện chí hợp tác dựa trên những giá trị nhân bản của con người, thì mới có thể hàn gắn được vết thương lòng và vết sẹo chiến tranh. Quá trình này chỉ có thể thực hiện được khi quan hệ con người được xây dựng trên nền tảng “sức mạnh mềm” để khai thác được tiềm năng con người qua giao lưu và kết nối, như “hệ quả không định trước” của chiến tranh, với một tầm nhìn mới về tương lai.
Nhà báo David Lamb (Nieman Fellow, LA Times, mất năm 2016) nhận xét: “Một trong những sai lầm lớn nhất của chúng ta là không hiểu người Việt Nam, không hiểu lòng kiên nhẫn, sự ngoan cường, chủ nghĩa dân tộc, khả năng chiến đấu, lịch sử, văn hóa, và ngôn ngữ của họ. Đối với thắng thua trong chiến tranh thì đó là sự thiếu hiểu biết chết người. Tôi ước rằng Mỹ đã có thể rút ra được bài học kinh nghiệm từ Việt Nam, nhưng đáng tiếc là chúng ta lại sa vào cuộc chiến tại Iraq, một thảm họa không khác cuộc chiến tranh Việt Nam”.
Thoát Trung và Biển Đông
Trong Chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã từng đánh Bắc Việt Nam để bảo vệ Nam Việt Nam nhằm ngăn chặn Trung Quốc. Nhưng sau khi Mỹ bắt tay với Trung Quốc, họ đã bỏ rơi Nam Việt Nam (năm 1975). Trong mấy thập kỷ tiếp theo, Mỹ đã hợp tác và giúp Trung Quốc trỗi dậy bằng chính sách “tham dự tích cực” (Constructive Engagement), với hy vọng Trung Quốc sẽ “trỗi dậy hòa bình”. Nhưng đáng tiếc, Trung Quốc đã bộc lộ bộ mặt thật hung hăng như con quái vật Frankeinstein (lời cố Tổng thống Nixon). Trung Quốc bắt nạt các nước láng giềng, quân sự hóa Biển Đông để độc chiếm nó như cái ao riêng của mình, đồng thời thách thức vai trò và lợi ích cơ bản của Mỹ và các đồng minh / đối tác tại Châu Á.
Năm 1964-1965, tàu chiến Mỹ thuộc Hạm đội 7 (như tàu khu trục USS Maddox) đến Vịnh Bắc Bộ để chống Việt Nam. Còn bây giờ tàu khu trục USS John McCain đến Cam Ranh để hợp tác với Việt Nam nhằm ngăn chặn Trung Quốc bành trướng tại Biển Đông. Lịch sử đang lặp lại “Trò chơi Vương quyền” (Game of Thrones), nhưng đổi chỗ diễn viên theo luật chơi mới với kịch bản mới. Lịch sử Việt Nam có nhiều nghịch lý và uẩn khúc bất thường. Làm thế nào người Việt Nam có thể bảo vệ được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc, mà không để các nước lớn lợi dụng biến mình thành quân cờ của họ trong bàn cờ nước lớn?
Bàn cờ Biển Đông đầy cạm bẫy, nhất là từ khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD981vào Biển Đông, như một bước ngoặt bất ngờ gây ra cuộc khủng hoảng Viêt-Trung (5/2014). Việt Nam đã phải trả giá quá nhiều và quá lâu, bởi những sai lầm của kẻ khác, cũng như của chính mình, trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, cũng như suốt thời hậu chiến (sau 1975), với cuộc chiến “bạn thù” với Campuchia và Trung Quốc. Sau bài học đẫm máu xung đột Viêt-Trung (2/1979), là bài học xương máu Thành Đô (9/1990). Đã đến lúc người Việt phải quyết tâm đổi mới tư duy, vượt qua ý thức hệ đã lỗi thời, để đổi mới thể chế và kiến tạo lại tương lai.
Có thể nói “thoát Trung” không phải là “bài Trung” (chống Trung Quốc) mà thực chất là đổi mới tư duy và ý thức hệ đã lỗi thời để đổi mới thể chế, nhằm kiến tạo một nước Việt Nam độc lập và tự cường, có thể bảo vệ được chủ quyền quốc gia và lợi ích dân tộc của mình. Nói cách khác, muốn “tái cân bằng tích cực” (active rebalance) với Trung Quốc, Việt Nam cần phải hợp tác chặt chẽ với các nước lớn (như Mỹ, Nhật, Ấn) trong khuôn khổ đối tác chiến lược vì an ninh tập thể, nhưng không nên quá phụ thuộc vào các nước lớn (như hiện nay đang phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc). Đã đến lúc Việt Nam phải đổi mới thể chế toàn diện, bao gồm đổi mới những nguyên lý cơ bản của chính sách đối ngoại, trong bối cảnh mới.
Thay lời kết
Trong một bài diễn văn để vinh danh TNS John McCain và TNS John Kerry vì đã đóng góp cho hòa giải Mỹ-Việt (Boston, 2001), Đại sứ Mỹ Pete Peterson nói: “Chiến tranh không chấm dứt khi ngừng tiếng súng…Chiến tranh chỉ thực sự chấm dứt khi hai bên hòa giải với nhau”. Nhưng hòa giải không chỉ diễn ra trên bàn đàm phán giữa hai chính phủ, mà còn diễn ra trên chiến trường xưa, giữa những cựu chiến binh đã từng bắn giết lẫn nhau, và trong lòng những người thân của họ (ở cả hai phía). Nó đòi hỏi phải vươt qua thù hận và định kiến.
Cách đây không lâu, cựu ngoại trưởng John Kerry đã nói tại một cuộc hội thảo tại California (10/10/2016): “Tôi đã từng chiến đấu tại Việt Nam. Chúng tôi tưởng là đến đây để ngăn chặn nơi này biến thành cộng sản… Nhưng nay chỉ có chủ nghĩa tư bản cuồng nhiệt tại Việt Nam”. Dù đúng hay sai, ông Kerry phản ánh một nghịch lý trớ trêu tại Việt Nam. Thực ra, đó cũng là “hệ quả không định trước” (unintended consequences). Nhưng đáng buồn là Việt Nam đang bị nhầm lẫn chạy theo những gì tồi tệ nhất của CNXH và CNTB. Đó là “CNXH thân hữu” để bảo kê cho thế lực “Tư bản Đỏ” (còn gọi là “các nhóm lợi ích”), lợi dụng “định hướng XHCN” để thao túng chế độ và cướp đoạt thành quả cách mạng của thế hệ trước.
Ông Phạm Xuân Ẩn, (“Điệp viên Hoàn hảo”) có kể với tôi một câu chuyện vui đầy nghịch lý. Khi ông đến gặp một quan chức CIA vừa mới tới Sài Gòn (khoảng năm 1961-1962), ông bạn Mỹ đã khuyên ông Ẩn phải cẩn thận với ông Ngô Đình Nhu. Khi ông Ẩn hỏi tại sao thì được ông ấy “bật mí” rằng ông Ngô Đình Nhu “có thể là cộng sản”. Ông Ẩn về kể lại câu chuyện đó với ông Nhu. Sau mấy giây ngỡ ngàng, ông Nhu phá ra cười. Khi ông Ẩn hỏi “tại sao toi lại cười?” ông Nhu đã trả lời (không biết đùa hay thật) “có lẽ nó nói đúng đấy…”. Việt Nam đầy nghịch lý. Nhưng có một nguyên lý cần phải nhớ là trên đời này “không có đồng minh hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn” (Winston Churchill).
Tham khảo
1. William Fulbright, “The Arrogance of Power”, Paperback, 1966)
2. Robert McNamara, “In Retrospect: The Tragedy and Lessons of Vietnam”, Vintage, 1995
3. H.R. McMaster, “Dereliction of Duty: Lyndon Johnson, Robert McNamara, the Joint Chiefs, and the Lies that led to the War”, Harper, 1997).
4. Errol Morris, “The Fog of War: Eleven Lessons from the Life of Robert McNamara”, Sony Pictures Classics (documentary), May 2003.
5. Nguyen Quang Dy, “Iraq has revived the ghosts of Vietnam, Nieman Watchdog Discussion, May 31, 2006
6. Chris Reeves, “Did a Glowing Sea Creature Help Push the US Into the Vietnam War?”, Atlantic, July 11, 2017
7. Ken Burns & Lynn Novick, “The Vietnam War”, Florentine Films & WETA (documentary), September 2017
NQD.18/7/2017

Phần nhận xét hiển thị trên trang

BIỂN ĐÔNG: NHÂN NHƯỢNG HAY...?



Nguyễn Quang Dy

Kết quả hình ảnh cho Nguyễn Quang Dy
 

 
“Một dân tộc tìm cách tránh chiến tranh bằng cái giá của sự nhục nhã, thì cuối cùng sẽ nhận lấy cả sự nhục nhã và chiến tranh” (Winston Churchill).

Nhân nhượng Trung Quốc hay chiến tranh tại Biển Đông? Đó là cách nhìn bàn cờ Biển Đông bằng lăng kính trắng đen của một số học giả và chính khách phương Tây (và phương Đông). Về cơ bản, họ cho rằng đường lối cứng rắn đối với Trung Quốc là “diều hâu”, sẽ dẫn đến chiến tranh, vì vậy phải nhân nhượng Trung Quốc. Đó là quan điểm nhầm lẫn của một số học giả như Hugh White (Lowy Institute) hay Lyle Goldstein (Naval War College).

Hệ quả của nhân nhượng

Thực tế bàn cờ Biển Đông vốn phức tạp với nhiều ẩn số và biến số, cũng như Châu Á là một bức tranh mosaic nhiều màu sắc đa dạng. Không thể thay đổi được bức tranh đó, nhưng cần thay đổi cách nhìn về nó, mới có thể tìm được giải pháp hiệu quả. Không nhất thiết phải nhân nhượng hay chiến tranh với Trung Quốc như trò chơi một mất một còn (zero sum). Một đường lối cứng rắn không nhất thiết dẫn đến chiến tranh, mà có khi còn ngược lại.
Trong tám năm cầm quyền, Tổng thống Obama đã nhân nhượng Trung Quốc, tuy ông và ngoại trưởng Hillary Clinton đề xướng chủ trương xoay trục sang Châu Á (hay tái cân bằng) và thúc đẩy Hiệp định TPP làm chỗ dựa để Mỹ và đồng minh kiềm chế Trung Quốc. Đó là một chủ trương đúng, nhưng thực hiện thiếu quyết liệt, vì nhân nhượng Trung Quốc. Tuần tra biển Đông (FONOPs) cũng làm chiếu lệ vì “đi qua vô hại” (innocent passage) như “tiếng kèn ngập ngừng” do Obama “lãnh đạo từ phía sau”. Một chính sách nhân nhượng như vậy (với lý do để tránh né chiến tranh) là phản tác dụng và có thể gây nguy hiểm cho khu vực.
Thứ nhất, Trung Quốc sẽ hiểu sự nhân nhượng đó là dấu hiệu nhu nhược, nên họ càng làm già, thậm chí còn tạo ra khủng hoảng để hù dọa chiến tranh (brinkmanship). Lãnh đạo Trung Quốc đã nắn gân Obama tuy có tư tưởng đúng nhưng thiếu quyết liệt nên họ không sợ, thậm chí coi thường. Vì vậy Trung Quốc đã tranh thủ chiếm bãi cạn Scarborough của Manila (2012). Trung Quốc biết Hạm đội 7 tuy rất mạnh, có nhiều tàu chiến và máy bay hiện đại, nhưng Nhà Trắng lại “non gan” (no balls). Lịch sử đã lặp lại từ năm 1974 khi Trung Quốc chiếm Hòang Sa, và năm 1988 khi họ chiếm một phần Trường Sa, nhưng Mỹ không phản ứng.
Thứ hai, các nước Đông Á cũng hiểu Mỹ nhân nhượng Trung Quốc là dấu hiệu nhu nhược, có thể bỏ rơi họ vì “nước Mỹ trước tiên” (America first), nên một số nước đã xoay trục ngả theo Trung Quốc. Các nước đồng minh của Mỹ (có căn cứ quân sự) như Philippines và Thailand đã xoay trục trước, bỏ Mỹ theo Tàu. Đó là một nghịch lý, do chính sách của Mỹ xô đẩy họ chứ thực sự họ không muốn thế. Các nước khác độc lập hơn, có truyền thống chống Tàu (như Việt Nam và Indonesia) cũng buộc phải ứng xử nước đôi bằng cách “đu dây”.
Thứ ba, Trung Quốc đã tranh thủ “cơ hội vàng” này để bành trướng và quân sự hóa Biển Đông, nhằm từng bước biến nó thành cái ao riêng của họ. Trung Quốc không chỉ muốn kiểm soát Biển Đông, mà còn độc chiếm luôn nguồn tài nguyên (dầu khí và đánh cá). Vì vậy, họ đã ráo riết thay đổi thực địa và áp đặt chủ quyền theo “đường lưỡi bò” (đã bị phán quyết của tòa PCA bác bỏ). Nếu Mỹ tiếp tục nhân nhượng thì đến năm 2030, Biển Đông sẽ trở thành cái ao của Trung Quốc (Asia-Pacific Rebalance 2025 report, CSIS, January 19, 2016).
 
Những dấu hiệu mới
 
Chính quyền Obama (và các chính quyền Mỹ trước đó) đã “có công” giúp Trung Quốc trỗi dậy bằng chính sách “Constructive Engagement”, nên họ đã trở thành “quái vật Frankenstein” (theo lời cựu Tổng thống Richard Nixon). Trung Quốc còn tham vọng muốn thâu tóm Biển Đông làm bàn đạp để giúp họ thực hiện “Giấc mộng Trung Hoa”, với quốc sách “Một vành đai, Một con đường”, nhằm vượt Mỹ để trở thành siêu cường đứng đầu thế giới. Đến lúc đó, nếu Mỹ muốn ngăn chặn Trung Quốc thì chắc đã quá muộn (too little too late).

Một số học giả theo trường phái realism, nhưng lại thiếu thực tế về khu vực, vì họ chỉ quan tâm đến cân bằng lực lượng giữa các nước lớn (như megapowers), mà không thực sự quan tâm đến lợi ích các nước nhỏ trong khu vực (như micropowers). Họ không quan tâm (hoặc vô cảm) trước thế giới mới với bản chất quyền lực đã thay đổi, và cấu trúc quyền lực đã chuyển dịch. Trong khi các megapowers bị suy tàn (decay) và mất dần quyền lực, thì các micropowers có vai trò ngày càng lớn hơn, không chỉ tại nước Mỹ mà còn khắp nơi trên thế giới.

Trong khi hệ thống quyền lực chính thống (mainstream) bị suy tàn (như Moises Naim lập luận trong cuốn sách “the End of Power”), thì Trumpism (và Brexitim) là hiện tượng mới bất thường, đang làm đảo lộn thế giới. An ninh quốc tế ngày càng bất ổn, đặc biệt là tại Biển Đông, trước nguy cơ Trung Quốc trỗi dậy, bắt nạt các nước láng giềng yếu hơn và đòi thay đổi trật tự thế giới. Liệu “Trục người lớn” (Axis of Adults) có ngăn được Trump trở thành “Chump” (như Tom Friedman cảnh báo) có thể làm Trung Quốc (chứ không phải Mỹ) vĩ đại trở lại (making China great again). Theo Richard Haass (Council on Foreign Relations president), chính sách đối ngoại của Trump là tạm bợ (adhocracy), dựa trên ứng phó (improvisations).

Nói cách khác, liệu James Mattis, PR McMaster, Rex Tillerson (MMT) có đủ khôn ngoan và thực tế để không trở thành những chính khách realist ngộ nhận lăp lại sai lầm tai hại, nhân nhượng Trung Quốc quá đà như chính phủ Chamberlain của Anh đã nhân nhượng Hitler bằng chính sách appeasement đầy tai tiếng trong lịch sử. Rốt cuộc, nhân nhượng kiểu Chamberlain không ngăn được nước Đức Phát xít thôn tính Châu Âu. Gần đây, phát biểu của James Mattis và Malcom Turnbull tại Shangri-La Dialogue (3/6/2017) là một dấu hiệu mới tích cưc là Mỹ và đồng minh Úc cứng rắn hơn với Trung Quốc, không để Trump bị ngộ nhận mắc mưu Tập Cận bình, trao đổi vấn đề Biển Đông với vấn đề Bắc Triều Tiên.

Điều đáng chú ý là những dấu hiệu điều chỉnh thái độ của Mỹ và đồng minh (như Nhật, Úc, Ấn) trùng hợp với điều chỉnh thái độ của Việt Nam đang xích lại gần Mỹ và Nhật, qua hai chuyến đi Mỹ và Nhật gần đây của thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc. Thái độ của Hà Nội đã cứng rắn hơn về chủ quyền và thăm dò dầu khí tại Biển Đông, bất chấp đe dọa của Trung Quốc, muốn ép Hà Nội dừng hoạt động thăm dò dầu khí tại hai dự án nhạy cảm là Cá Voi Xanh (Blue whale) tại lô 118 (hợp tác với Exxon Mobil của Mỹ) và Cá Rồng Đỏ (Red Dragon Fish) tại lô 136-3 (hợp tác với Talisman của Úc/nay là Repsol của Tây Ban Nha).

Thay lời kết

Thái độ cứng rắn hơn của Hà nội phản ánh kết quả của những hoạt động ngoại giao tích cực gần đây giúp tăng cường cam kết và hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt và Nhật-Việt, không chỉ liên quan đến chủ trương khai thác tài nguyên dầu khí tại Biển Đông (oil politics) mà còn tác động đến trò chơi cân bằng quyền lực (power politics) trong tam giác Mỹ-Trung-Nhật. Một liên minh khu vực vì an ninh tập thể (a regional coalition for collective security) dựa trên nền tảng TPP, là một sự răn đe hiệu quả để duy trì hòa bình. Lời Mở đầu (Preamble) của Hiến chương UNESCO đã khẳng định, “Vì chiến tranh bắt đầu từ trong tâm thức con người, nên phải xây dựng phòng tuyến hòa bình ngay trong tâm thức con người” (Since wars begin in the minds of men, it is in the minds of men that the defenses of peace must be constructed).

Nếu Việt Nam trở thành đối tác chiến lược của Mỹ và Nhật, thì quy chế đặc biệt về Cam Ranh giành cho đồng minh là tất yếu, làm bàn cờ Biển Đông thay đổi. Thời gian không còn nhiều để tiếp tục trò chơi bập bênh và đu dây, trong khi Biển Đông đang trở thành cái ao của Trung Quốc. Khi Alexander Vuving viết “Ai kiểm soát Biển Đông sẽ thống trị châu Á, và bất cứ ai thống trị châu Á sẽ thống trị thế giới.” thì chắc chắn anh ấy nghĩ tới Trung Quốc. Chống lại nguy cơ đó, Mỹ không nhất thiết sa vào bẫy Thucydides như Graham Allison cảnh báo, mà ngược lại nhân nhượng Trung Quốc quá đà sẽ làm tăng thêm nguy cơ chiến tranh. Trong khi người Trung Quốc đánh ván cờ Biển Đông theo lối cờ vây, vận dụng binh pháp Tôn Tử (Sun Tzu) thì người Mỹ và phương Tây không nên chỉ chấp vào học thuyết Clausewitz.

Tham khảo
Ely Ratner, “The false choice of war or accommodation in the South China Sea”, Lowy Institute, 30 June 2017;
Hugh White, “South China Sea US policy must begin at home”, Lowy Institute, 26 June 2017
Ely Ratner, “Course Correction: How to Stop China’s Maritime Advance”, Foreign Affairs, July/August 2017)
Tom Friedman, “Trump Is China’s Chump”, New York Times, June 28, 2017
Doug Bandow, “Who Is Making U.S. Foreign Policy?”, National Interest, June 26, 2017
Lyle Goldstein, “The Main Problem with America’s Abundant South China sea Hawks”, National Interest, October 28, 2015.
Alexander Vuving, “Think again: Myths and Myopia about the South China Sea”, National Interest, October 16, 2015;
Lyle Goldstein, “The South China Sea Showdown: 5 Dangerous Myths, National Interest, September 29, 2015;
Alexander Vuving, “Trung Quốc sẽ làm gì ở Biển Đông?”, Đại sử ký Biển Đông, 21/2/2016.
Nguyễn Quang Dy, “Trung Quốc CÓ THỂ làm gì ở Biển Đông? Viet-studies, 26/2/2016

NQD. 1/7/2017
Tác giả gửi cho TNC


Phần nhận xét hiển thị trên trang