Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 8 tháng 9, 2017

Cà phê Thứ 7: GẶP GỠ CHIỀU THỨ BẢY VÀ SÁNG CHỦ NHẬT



THƯ MỜI CÀ PHÊ GẶP GỠ & ĐỐI THOẠI
tại CÀ PHÊ THỨ BẢY, số 3A Ngô Quyền, Hà Nội.

CHIỀU THỨ BẢY LÀ CUỘC GẶP VỚI GS PHẠM KHIÊM ÍCH

Cà phê với Giáo sư Phạm Khiêm Ích
Chủ đề:“ĐẠO ­VŨ TRỤ”
Chủ trì: Tiến sĩ Giáp Văn Dương
Thời gian: 14h30 chiều thứ bảy, 09/09/2017
tại CÀ PHÊ THỨ BẢY, số 3A Ngô Quyền, Hoàn Kiếm,Hà Nội.

Chương trình: 
 
+ 14h30-15h00: Cà phê, gặp gỡ, làm quen.
+ 15h00-16h00: Phần trình bày của diễn giả.
+ 16h0-17h0: Trao đổi giữa diễn giả và khách mời.

Lời dẫn:
 
Đạo vũ trụ không phải là vấn đề mới.Nó được Albert Einstein nêu ra đầu tiên trong một tiểu luận Tôn giáo và khoahọc,đăng trên tờ Nhật báo Berlin ngày11-11-1930.Gần 90 năm đã qua,Đạo vũ trụ vẫn là vấn đề phức tạp,có ý nghĩa sâu sắc về khoa học và triết học,còn nhiều cách hiểu khác nhau.Chính Einstein cũng nói rằng:”Rất khó giải thích ý niệm này(Đạo vũ trụ) cho những ai hoàn toàn không có nó,một phần vì nó không giống với ý niệm về Thượng đế nhân hình”(Albert Einstein 2005,tr.33,và các tr.34-38).
 
Với buổi cà phê này, nhà nghiên cứu Phạm Khiêm ích chỉ mong góp một ý kiến vào việc lý giải và suy tư về vấn đề phức tạp đang chờ đợi nhiều công trình nghiên cứu khác.
 
Nội dung phần trình bày của diễn giả:
1.Đạo vũ trụ là gì? Einstein đã viết gì vềĐạo vũ trụ?
2.Một số đặc trưng cơ bản của Đạo Vũ Trụ
3.Sức sống của Đạo vũ trụ.
VÀI NÉT VỀ DIỄN GIẢ:
 
Ông Phạm Khiêm Ích sinh ngày 15-8-1935 tại Nam Định, tốt nghiệp khoa Ngữ Văn khóa I, Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1959.Từ cuối năm 1959 công tác tại Uỷ ban Khoa học Nhà nước, Viện Triết học, Viện Xã hội học,Viện Thông tin Khoa học xã hội(là Phó viện trưởng từ 1986-1995) đến năn 2000 nghỉ hưu. Từ năm 2003 đến nay là Phó Chủ nhiệm Chương trình Tầm nhìn UNESCO thuộc Liên hiệp các Hội UNESCO Việt Nam.__________________________

SÁNG CHỦ NHẬT LÀ CUỘC GẶP VỚI TS TRẦN THU DUNG (PARIS)

Cà phê Gặp gỡ & Đối thoại với Tiến sĩ Trần Thu Dung (Paris)
Chủ đề: Hội Tam Điểm và vai trò của các thành viên Việt đầu tiên trong công cuộc bảo tồn ngôn ngữ văn hóa dân tộc và giành độc lập (1896-1954)
Chủ trì: Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân

Thời gian: 09h sáng chủ nhật, 10/09/2017
tại CÀ PHÊ THỨ BẢY, số 3A Ngô Quyền, Hoàn Kiếm,Hà Nội 

Câu chuyện về Hội Tam Điểm lâu nay ở nước ta vẫn là một cái gì đó bí ẩn. Trong suy nghĩ của nhiều người, nó là một hội kín, nên nó là gì, ở nước nào, là tổ chức của ai, của giới nào, nhắm mục đích gì, nhiều khi vẫn chỉ là một câu hỏi chưa có lời giải. Trong buổi cà phê, TS Trần Thu Dung, một nhà nghiên cứu về văn chương và lịch sử sẽ giải đáp những thắc mắc này. Diễn giả sẽ trình bày ba nội dung chính:

1. Khái niệm về Hội Tam điểm có nguồn gốc từ lâu đời ở châu Âu, chính thức phát triển từ thế kỷ 17 với 3 tiêu chí ; Tự do bình đẳng bác ái 
 
2. Đông Dương là thuộc địa của Pháp, thời đó là hoàng kim của Hội Tam Điểm của Pháp. Xu hướng khát vọng tự do đòi độc lập ở Viêt Nam... Báo chí, và bảo vệ ngôn ngữ tiếng Viêt... 
 
Mối quan hệ tiềm ẩn giữa đạo Cao Đài, Victor Hugo và Hội Tam Điểm.

Vài nét về diễn giả: TS Trần Thu Dung là nhà nghên cứu văn hoá, nhà văn. Tốt nghiệp cử nhân, sau đại học (ĐH tổng hợp Bucarest, Bruxelles) và Tiến sĩ Văn Sử trường Đại Học Tổng Hợp París VII, Pháp.. Từng giảng dạy Đại học sư Phạm Hà Nội 1, và trường Viết Vãn Nguyễn Du, Dạy tiếng Việt trường Marie Curie và Trung tâm văn hóa Việt Nam, giảng viên mời dạy trường đại học y ở Evrard (Pháp). Từng làm Phó tổng thư ký hội Pháp ngữ tại Paris, Chủ tịch hội Aurore (chuyên về trao đổi văn hóa Việt Pháp).

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Năm, 7 tháng 9, 2017

“Toàn dân xin được kỷ luật như ông Võ Kim Cự"


Võ Kim Cự bị kỷ luật vì Formosa nhưng nhận vị trí ‘lãnh đạo’ mới
HÀ NỘI (NV) – Hôm 7 Tháng Chín, nhà báo Hoàng Linh ở Sài Gòn viết trên Facebook: “Toàn dân xin được kỷ luật như ông Cự. Kỷ luật bằng cách cách các chức vụ cũ trong quá khứ, giữ nguyên chức vụ hiện tại, rồi lại phong cho chức mới như trường hợp ông Võ Kim Cự đúng là thế gian có một không hai. Cười rụng mẹ nó mấy cái răng mới trồng.”



Ông Võ Kim Cự (Hình: Báo Tuổi Trẻ)
Truyền thông Việt Nam cho hay ông Võ Kim Cự, quan chức liên quan vụ Formosa vừa nhận vị trí phó Ban Chỉ Ðạo Ðổi Mới Hợp Tác Xã dù tháng trước bị “xóa tư cách” cựu chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Hà Tĩnh.Võ Kim Cự từng là bí thư, chủ tịch đoàn Liên Minh HTX Việt Nam nhiệm (kỳ 2015-2020), cựu bí thư Tỉnh Ủy, cựu chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh. Thời gian qua, đảng CSVN đưa ra các hình thức kỷ luật rồi bổ nhiệm đối với ông Cự khiến dư luận bàn tán rôm rả, đặc biệt là trước hình thức kỷ luật kỳ quái dành cho ông ta.

Hồi Tháng Tám, ông Cự bị “xóa tư cách” cựu phó chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2005-2010 và cựu chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2010-2015.

Trước đó, ông Cự bị “cách” một loạt chức vụ mà ông ta nắm giữ trong thời gian làm lãnh đạo Hà Tĩnh, cụ thể là những vai trò liên quan đến dự án Formosa Hà Tĩnh. Ông cũng phải xin thôi làm đại biểu Quốc Hội khóa 14 “vì lý do sức khỏe.”

Nay báo Việt Nam đưa tin ông Cự được bổ nhiệm làm phó Ban Chỉ Ðạo Ðổi Mới Hợp Tác Xã, một chức danh gần như “hữu danh vô thực,” vì mô hình hợp tác xã gắn liền với thời bao cấp và nay chỉ tồn tại lay lắt tại một số tỉnh thành ở Việt Nam.

Cùng chung bộ sậu với ông Cự trong Ban Chỉ Ðạo Ðổi Mới Hợp Tác Xã là Phó Thủ Tướng Vương Ðình Huệ (trưởng ban), và hai đồng phó ban là Bộ Trưởng Kế Hoạch-Ðầu Tư Nguyễn Chí Dũng, Bộ Trưởng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Nguyễn Xuân Cường.

Ban này được ghi nhận lập ra nhằm “đề xuất với Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc về các chủ trương, chính sách và giải pháp chiến lược nhằm đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã.”

Ông Cự được báo Người Lao Ðộng dẫn lời về “nỗi trăn trở” của ông ta: “Tôi rất băn khoăn nhiều xã, thậm chí không ít huyện không có hợp tác xã nào, kể cả huyện đồng bằng, chứng tỏ lãnh đạo cấp ủy chính quyền rất ít quan tâm.”

Hôm 7 Tháng Chín, nhà báo Hoàng Linh ở Sài Gòn viết trên Facebook: “Toàn dân xin được kỷ luật như ông Cự. Kỷ luật bằng cách cách các chức vụ cũ trong quá khứ, giữ nguyên chức vụ hiện tại, rồi lại phong cho chức mới như trường hợp ông Võ Kim Cự đúng là thế gian có một không hai. Cười rụng mẹ nó mấy cái răng mới trồng.”

Cùng ngày, Luật Sư Phạm Hoài Nam viết: “Sau khi bị Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc cách các chức vụ thời hàn vi, người ta cứ nghĩ rằng ông Cự sẽ bị xử lý, ai dè ông ta lại leo cao hơn. Ta nói ở Việt Nam mà không có Facebook thì dân đen sẽ bị ức chế mà chết thôi, đúng là ‘chó cứ sủa và đoàn người cứ đi.’”

Trước đó, khi có tin ông Cự bị “xóa tư cách” cựu chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Hà Tĩnh vì “những vi phạm liên quan đến dự án Formosa Hà Tĩnh gây ra sự cố môi trường rất nghiêm trọng tại bốn tỉnh miền Trung năm 2016”, nhà hoạt động xã hội Nguyễn Anh Tuấn nói: “Tôi thấy hình thức kỷ luật ‘xóa tư cách’ đối với ông Võ Kim Cự không dựa trên căn cứ pháp lý và nghe buồn cười.”

Theo ông Tuấn, hình thức kỷ luật này không tương xứng với những hậu quả của vụ Formosa được xác định là “ảnh hưởng đến sinh kế của hàng triệu người dân và gây tổn hại môi sinh mà hàng chục năm tới có khi cũng chưa giải quyết xong.”

(Người Việt)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

HUY CẬN NGHĨ VỀ THƠ


Thu Tứ

Các cụ ta xưa kia sống cái triết Đông chứ không suy luận miên man về triết Đông. Các cụ ta xưa kia làm thơ chứ không lý luận miên man về thơ.
Không luận liếc gì cả, nhưng các cụ sống, nói như Phạm Quỳnh, khiến "ta thật đáng thờ (...) làm ông cha".(1) Không luận liếc gì cả, nhưng các cụ thơ "động đất trời"...(2)

Chưa gặp Tây, người Việt Nam coi như chỉ sống và thơ. Gặp Tây, thấy Tây luận say sưa, thỉnh thoảng ta cũng luận tí cho vui, sau khi đã sống và thơ thật đã đời. Sau hơn nửa thế kỷ sáng tạo, Huy Cận có gửi lại cho hậu thế chút suy nghĩ về nghệ thuật.(3) Cái nghĩ nói chung thấu đáo mà cách diễn cái nghĩ nhiều chỗ cũng thú vị ghê. Ai ưa luận vì luận thì đi nghe Bụt ở... Tây phương, còn ai thích luận vì thơ thì đây tiếng "Bụt chùa nhà"!

*Nghe Bụt chùa nhà

"Cha ông" mà Huy Cận nói đây cụ thể là một người xưa nào đó đã phát biểu rằng "Văn chương là tiếng chim gọi đàn".

Đối với chúng ta bây giờ, Huy Cận chính là bậc "cha ông". Vậy ta hãy chú ý lắng nghe "Bụt" Lửa Thiêng "thuyết thơ".

--------

Chúng ta ngày nay có dịp tiếp xúc với nhiều lí luận văn nghệ của các nước (...) điều ấy rất bổ ích cho sự nghiên cứu, tìm tòi của chúng ta. Nhưng thiết tưởng cũng cần tìm hiểu (...) những suy nghĩ, những tổng kết của cha ông về văn học, nghệ thuật. Chả lẽ bụt chùa nhà thì cứ phải kém thiêng!

*Lao động nghệ thuật

Nghệ phẩm có xác và hồn.

Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, xác và hồn cùng lớn lên với nhau, ảnh hưởng qua lại. Chứ không phải là hồn đã lớn sẵn từ đầu và trơ trơ trong khi nghệ sĩ làm xác.

Một cảm nghĩ hết sức mơ hồ chợt hiện ra thành vài câu thơ rất đỗi vu vơ. Những câu thơ đầu tiên ấy giúp cảm nghĩ trở nên rõ ràng hơn một chút, hiện ra thành những câu thơ bớt vu vơ hơn một chút, rồi những câu thơ mới này lại giúp cảm nghĩ trở nên rõ ràng hơn chút nữa v.v.

Nghệ sĩ sáng tạo, không phải chỉ làm xác mà làm cả hồn!

---------

Nếu như lao động sáng tạo ra con người, thì lao động nghệ thuật sáng tạo ra con người nghệ sĩ... Người nghệ sĩ phải tự tạo luôn luôn thì mới sáng tạo được tác phẩm. Tự tạo bằng cách tự nhào nặn mình trong cuộc sống, qua hành động, và cũng tự nhào nặn thường xuyên qua lao động nghệ thuật nữa. Chính lao động nghệ thuật ấy tiếp tục sáng tạo ra nội dung, sáng tạo ra tâm hồn. Không phải rằng lúc ta đến bàn viết, lúc ta vào xưởng vẽ là ta đã có sẵn, hoàn chỉnh, tác phẩm trong đầu và chỉ còn cái việc thể hiện ra bằng tay vẽ, tay viết. Làm như là đã mang sẵn tác phẩm trong tâm trí và chỉ việc phiên dịch ra bằng ngôn ngữ nghệ thuật, bằng chữ hay bằng nét vẽ hoặc màu sắc! Trăm lần không phải như vậy! Lúc anh ngồi vào bàn hay vào xưởng, anh chỉ mới có cái "khung", chỉ mới có một niềm xúc động. Nhưng anh còn phải lao động đổ mồ hôi để cụ thể hóa niềm xúc động ấy, để cho niềm xúc động ấy đầu thai vào những hình tượng, thành những hình tượng. Anh còn phải vật lộn trầy xương với cái vật chất của chữ, của vật liệu, của đường nét, của màu sắc, của âm thanh, làm cho cái vật chất ấy chịu nói cái tâm hồn mà anh cảm thấy đang hình thành, mà không có vật chất ấy thì cái tâm hồn kia cũng không hình thành được (...)
Một nhà phê bình (...) thường đơn giản hóa vấn đề đi, không thâm nhập vào quá trình biện chứng của việc sáng tạo nghệ thuật, cho nên không bắt được phép biện chứng của sự sáng tạo.

Yêu thay Nguyễn Du (theo người ta kể) trăm lần viết lên cánh cửa những câu thảo của Truyện Kiều, xóa đi, chữa lại (...)

*Thơ ca di dưỡng tinh thần

Làm hay đọc một bài thơ hay, đều được sướng.

Nhưng người làm thơ sướng nhiều hơn người đọc thơ.

Vì ngoài cái sướng trong tư cách một người đọc bài thơ đã làm xong (thi sĩ cũng là một độc giả của thơ mình), người làm thơ trước tiên có cái sướng trong khi sáng tạo. Ồ, trông thấy tận mắt một cảm nghĩ hết sức mơ hồ nhờ sự cố gắng và năng khiếu của mình mà hiện ra thành lời, lớn dần, chín dần thành một bài thơ giá trị, sướng để đâu cho hết!

Kẻ trồng cây sướng hơn người chỉ ăn quả, như thế cũng là lẽ công bằng.

----------

Các cụ ta ngày xưa thường nói "thơ ca di dưỡng tinh thần". Đúng lắm! (...) (Thơ giá trị chứa) một trạng thái tâm hồn, hơn thế nữa, một trạng thái tâm thần (...) cởi mở, thư thái mà sôi nổi, hào hứng mà lắng trong, một trạng thái toàn diện trong đó ý và tình đều như đang sinh ra, đang nhú lên, tình đang đọng thành ý, ý còn mang tất cả cái rung động của tình, một trạng thái tinh khôi, sáng tạo. Tâm thần được nuôi nhiều bằng (thứ) trạng thái ấy. Đúng là một chất di dưỡng cho tâm hồn. Có cái gì giống như là trái đang chín cây, chứ không phải chín dú. Trạng thái đang chín đó đã truyền từ tâm hồn người làm thơ, qua cơ thể bài thơ, câu thơ. Bởi một bài thơ hay là một cơ thể sống trong đó ý và tình, cảm giác và cảm tưởng, chữ và nhịp, hình tượng và nhạc điệu, tất cả đều tồn tại trong một thể thống nhất, gây thành một xúc động thống nhất, toàn diện. Tóm lại là một hiện tượng của sự sống, không phải là một sơ đồ. Hiện tượng ấy là một hiện tượng cởi mở, đón chờ, đang chín, thuận cho mọi sự thai nghén, tụ thành.
Cho nên có những điều kỳ lạ, tưởng như mâu thuẫn, lúc nhà thơ đang làm thơ và lúc độc giả đang đọc thơ, đang hưởng thơ. Ví dụ: làm hoặc đọc một bài thơ về đau khổ, về nỗi dằn vặt của tâm hồn, hay nung cháy tâm can. Theo lý luận thông thường thì lúc đó nhà thơ hay người đọc thơ phải ở trạng thái đau khổ, dằn vặt. Nhưng không! Nhà thơ làm thơ về đau khổ trong một trạng thái tâm hồn hào hứng, trong một trạng thái trái đang chín cây. Người đọc thơ được di dưỡng tinh thần với trạng thái ấy, mặc dù người làm thơ có thể mang nỗi đau khổ trong đáy tâm hồn mình.

*Rung động thơ

"Nỗi-niềm-tinh-vân", so sánh hay và đẹp quá!

Nhưng khi Huy Cận bảo "Thưởng thức thơ là phải biết sống lại (...) quá trình từ nỗi-niềm-tinh-vân đọng lại dần thành từng ý, từng lời, từng câu, từng chữ", thì e rằng ông đã đòi hỏi quá nhiều nơi người thưởng thức.

Chẳng những độc giả không tài nào "sống lại" quá trình sáng tạo của thi sĩ, mà chính thi sĩ có lẽ nói chung cũng khó thực sự sống lại được cái quá trình sáng tạo một bài thơ nào đó của mình!

Lần trước nói thi sĩ sướng nhiều hơn độc giả vì đã sướng ngay từ lúc còn đang sáng tạo. Lần này xin nói thêm rằng cái sướng "đầu tiên" ấy có lẽ nói chung chỉ hưởng được có đúng một lần.

Trong khi cái sướng thưởng thức bài thơ làm xong thì cứ mỗi lần đọc lại là mỗi lần hưởng lại!

----------

Rung động làm ra thơ, làm ra nghệ thuật, cũng cùng loại với rung động của tình yêu. Bắt đầu yêu là một niềm xao động, bắt đầu của một tứ thơ cũng là một nỗi niềm, mà tôi muốn gọi là nỗi-niềm-tinh-vân. Bắt đầu chưa có câu, chưa có lời, thậm chí chưa có tứ cụ thể. Câu sẽ đến sau, lời sẽ đến sau. Nhưng trước hết là một nỗi niềm ùn ùn trước ngực, rạo rực tâm hồn. Bắt đầu là tinh vân, tinh vân đọng lại mới hình thành mặt trời, mặt trăng và các hành tinh... Từng câu, từng lời cũng như những hành tinh, mặt trời, mặt trăng đọng lại từ tinh vân nguyên thủy.
Thưởng thức thơ là phải biết sống lại quá trình ấy, quá trình từ nỗi-niềm-tinh-vân đọng lại dần thành từng ý, từng lời, từng câu, từng chữ. Biết sống lại quá trình tác tạo ra một bài thơ là "hiểu", là xúc động thơ từ bên trong một cách biện chứng. Cho nên người thưởng thức thơ ít nhiều cũng có hồn thơ như vậy.

Nói nỗi-niềm-tinh-vân, có phải là huyền bí hóa rung cảm thơ, của người làm nghệ thuật không? Thực ra không có gì là huyền bí, vì nỗi-niềm-tinh-vân ấy cũng là do một quá trình tích lũy lâu dài của người làm thơ, của người làm nghệ thuật mà có được; tích lũy vốn sống và cuộc sống, tích lũy hình tượng nó là tín hiệu sống, giữa vạn vật và cuộc đời với tâm hồn thi sĩ và nghệ sĩ. Tích lũy càng giàu, càng nặng thì nỗi-niềm-tinh-vân càng phong phú, càng thiên biến vạn hóa, và xúc động thơ, xúc động nghệ thuật càng muôn vẻ, muôn màu, bồi hồi sự sống. Hiểu được như vậy sẽ giúp ta giảng dạy văn học đi vào bề sâu của tâm hồn, và bề sâu của tác phẩm.

*Sự đầu thai của một tứ thơ

Đọc Huy Cận sau đây, chợt nghĩ tới chuyện dịch thơ.

"Hồn và xác của một bài thơ quyện nhuyễn vào nhau làm một"...

Hai cái quyện nhuyễn làm một, nên hễ đụng tới cái này là đụng luôn tới cái kia, mà dịch là đụng hết sức mạnh tới xác, là thay hẳn xác, tức không đừng được cũng là thay hẳn hồn. Vậy bài thơ dịch không có chút liên hệ gì với bài thơ nguyên tác hay sao?

Không hẳn như thế. Hồn của một bài thơ là một "tổng thể xúc động" trong đó có tứ. Bài thơ dịch có liên hệ với bài thơ nguyên tác vì hồn của nó chứa tứ của nguyên tác.

--------

Sự đầu thai của một tứ thơ vào một thể lọai thơ, vào những hình tượng thích ứng, đó là một quá trình hào hứng và rộn rực, có khi dằn vặt. Một quá trình có qui luật của nó. Không phải tứ thơ nào cũng có thể khuôn vào bất cứ hình thức, thể lọai nào. Trong đời làm thơ của tôi, có mấy lần tôi phải thay áo cho thơ, phải đổi thể lọai thì tứ thơ mới bật ra được.
Ví dụ: bài Đẹp Xưa trong tập Lửa thiêng lúc đầu làm theo thể Đường luật:

"Ngập ngừng mép núi đường quanh co
Quán đứng chơ vơ ngọn lá đưa
Gió hút về ngàn vi vút mãi
Dạt sườn thung lũng hàng lau thưa..."

Đọc nhám mãi, thấy còn nhẹ quá, có cái gì hẫng, không đạt được cái đẹp xưa trong cảnh sắc tâm hồn và tạo vật. YÙ thì không có gì thay đổi nhưng điệu thơ, âm hưởng của câu thơ thì thử phổ lục bát xem sao:

"Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng mưa lò mái ngang
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon...
Đi rồi khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu
Chơ vơ buồn lạc quán chiều
Mái nghiêng nghiêng gửi buồn theo hút người".

Rõ ràng là trong trường hợp này, lần đầu thai sau đúng chỗ hơn: bài lục bát thơ đọng hơn bài Đường luật.

Bài Tràng Giang trái lại, lúc sơ khai lại muốn là một bài lục bát và tên nguyên thủy của nó là Chiều Trên Sông. Nhưng cái nhịp điệu Đường luật đến ám ảnh ngay sự xúc động của tác giả và đặc biệt cái nhịp láy của sóng nước, của thuyền nan đã đầu thai ngay thành nhịp láy của ngôn ngữ:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song"

và cái xao động của cảnh chiều, của sông nước nhập thành cái xao động của cuộc đời. Bài thơ tưởng là tả cảnh, thật sự là tả tâm hồn, mang ý nghĩa tượng trưng rất tự nhiên, bằng cái lô-gíc bên trong của nó.

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sầu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

Xác và hồn, hồn và xác của một bài thơ quyện nhuyễn vào nhau làm một. Khi ta đụng vào xác, sửa đổi một tí trong xác làm ảnh hưởng đến hồn của bài thơ, ấy là một dấu hiệu của thành công. Còn như thay đổi vần điệu, câu chữ, thậm chí thay đổi cả thể loại mà cảm thấy hồn thơ, tứ thơ không bị ảnh hưởng gì, thì đó một điều đáng lo.

Nội dung quyết định hình thức, có nghĩa là phải tìm cho ra hình thức thích hợp để cho nội dung đầu thai thành máu thịt của tác phẩm, chứ không có nghĩa xem nhẹ sự sáng tạo hình thức. Không có hình thức đẹp thì lấy đâu cho nội dung đẹp tồn tại! Xin nhớ rằng nội dung của tác phẩm nghệ thuật không chỉ là ý, mà là cả một tổng thể xúc động của tác phẩm.

*Vai trò của trạng từ trong câu thơ

Những chữ mà Huy Cận gọi chung là "trạng từ" thực ra thuộc hai nhóm từ khác nhau.(4)

"Nao nao" là từ cụ tượng hữu cảm, vì nó vừa mô tả vật cụ thể vừa chứa cảm xúc của người nhìn. "Bâng khuâng" là từ trừu tượng cảm xúc, vì nó không tả vật cụ thể nào hết mà chỉ chứa cảm xúc.

Hai nhóm từ vừa nói trên nếu người làm thơ khéo dùng thì sẽ có "hiệu quả (...) vô cùng lớn lao" đối với giá trị nghệ thuật của câu thơ.

Từ lâu tiếng Việt đã hết sức giàu hai nhóm từ ấy!

Vật liệu thơ đã sẵn sàng, chỉ cần chờ... Nguyễn Du múa bút khiến chúng kết lại với nhau thành tuyệt phẩm văn chương!

---------

Trong câu thơ, mỗi chữ, mỗi tiếng không chỉ mang cái nghĩa nguyên sơ của nó, cái nghĩa định trong từ điển của nó, mà thấm nhuần cái sức xúc cảm của chữ bên cạnh, của chữ láng giềng; chữ trước nó và chữ sau nó tỏa điện vào nó, biến nó thành một nghĩa mới, mang cảm xúc mới. Đây không phải là một vấn đề hình thức mà thôi. Sở dĩ có hiện tượng truyền điện như vậy là do có một luồng điện, tức là ý thơ, hồn thơ nó chạy suốt qua câu thơ. Vì vậy trong một câu thơ có một độ tối ưu để sắp xếp các chữ, các ý. Nếu tham nhét nhiều thứ quá, nhiều tính từ quá vào một câu thơ thì tăng điện trở, tăng chướng ngại vật, luồng điện thơ không qua được. Cũng vì vậy mà trạng từ có vai trò đặc biệt, trạng từ có sức dẫn điện cao. Vì sao? Phải chăng trạng từ nói lên dáng dấp của sự vật, dáng dấp của tâm hồn. Mà cái dáng dấp ấy linh hoạt lắm. Khéo dùng trạng từ thì câu thơ dễ truyền đạt cho ta trạng thái tâm hồn thông qua trạng thái sự vật.
"Nao nao dòng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Sè sè nấm đất bên đàng
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh".

"Nao nao", "sè sè", "rầu rầu", vẽ lên dáng dấp rất khó tả của buổi chiều thanh minh và nàng Kiều lần đầu tiên gặp bóng dáng của số mệnh:

"Động phòng dìu dặt chén mồi
Bâng khuâng duyên mới, ngậm ngùi tình xưa".

Hai tiếng "bâng khuâng", "ngậm ngùi" có thể là tính từ, nhưng thực chất là trạng từ. Nếu tính từ thì cũng đã trạng từ hóa. Dáng dấp của tâm hồn chàng Kim nhớ mối tình đầu với nàng Kiều trong buổi sum vầy trở lại "tình nhân lại gặp tình nhân", chỉ cần hai trạng từ là nói được đầy đủ.

Dáng dấp của một hồn ma cũng vẽ được dễ dàng:

"Sương in mặt, tuyết pha thân
Sen vàng lãng đãng như gần như xa".

Trạng từ thật là chiếm ưu thế để mô tả dáng dấp sự vật và tâm hồn, đến nỗi trong câu thơ Việt có xu hướng trạng từ hóa tính từ:

"Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".

Nhân đây có một nhận xét: Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du rất tiết kiệm dùng tính từ; không phải là không dùng, nhưng dùng rất dè dặt, rất cẩn thận, rất tiết kiệm. Trái lại trạng từ lại được dùng nhiều. Cũng có khi đáng lẽ dùng một tính từ thì Nguyễn Du mô tả dưới dạng động của sự vật. Ví dụ:

"Sương in mặt, tuyết pha thân"

để nói cái màu trắng thực thực hư hư của hồn ma Đạm Tiên.

"Làn thu thủy nét xuân sơn"

cũng theo một bút pháp ấy.

Nhớ câu ca dao:

"Mưa lâm thâm ướt đầm lá hẹ
Em thương một người có mẹ không cha".

Trạng từ "lâm thâm" thấm vào tâm hồn chúng ta còn hơn là mưa.

Dáng dấp của sự vật, tâm hồn... Cho nên dùng trạng từ rất khó. Nhưng dùng đúng thì hiệu quả xúc cảm vô cùng lớn lao.

*Trí nhớ trong sáng tạo văn học

Có lẽ có thể nghĩ như thế này: Đối diện thực tại, giác quan thu hình ảnh rồi tâm hồn nẩy sinh ấn tượng về hình ảnh. Nhớ có thể là nhớ hình ảnh, có thể là nhớ ấn tượng, có thể cả hai.

Làm nghệ thuật cần ấn tượng. Nếu mất ấn tượng mà còn hình ảnh (trong trí nhớ hoặc sổ tay), có thể ngắm hình ảnh để cố nhớ ấn tượng.

Kể ra, có thể ngắm hình ảnh cũ mà nẩy ấn tượng mới, nhưng thường thì nếu việc xẩy ra lâu rồi khi ngắm lại hình ảnh cũ ta chỉ... trơ mắt ếch chứ không cảm thấy thế nào cả.

Nếu không nhớ nổi ấn tượng cũ, cũng không sinh nổi ấn tượng mới, thì đành không làm được nghệ thuật.

---------

Trí nhớ cũng cần cho sáng tạo văn học, vì trí nhớ (...) tích lũy vốn sống, chất liệu của nghệ thuật (...) Phải trau dồi trí nhớ. Sổ ghi chép là cần thiết, nhưng không đủ, nếu không có trí nhớ làm gốc (...) Có hai loại trí nhớ (...) hay đúng hơn là hai cách nhớ: Một là nhớ các sự việc, chi tiết của sự việc, có khi cả chi tiết tỉ mỉ (...) bên cạnh (...) còn cách nhớ trạng thái tâm hồn của chính bản thân tác giả lúc sự việc (...) đang xảy ra (...) Có lẽ cách thứ nhất cần nhiều cho người viết tiểu thuyết, và cách nhớ sau cần cho người làm thơ nhiều hơn (...) lúc làm bài thơ là lúc phải sống lại đầy đủ xúc động của tâm hồn (...)
chỉ có thể làm thơ tình yêu vào lúc đang yêu, kể cả lúc làm thơ hoài niệm về tình yêu, vì hoài niệm là còn yêu, là yêu nuối, là ngọn lửa tình yêu bừng dậy một lần nữa, có thể để rồi tắt ngóm. Khó tưởng tượng một nhà thơ làm thơ tình yêu bằng cách mở các "ký họa" về tình cảm mà nhà thơ đã ghi chép được trước đây (...)

rèn luyện trí nhớ nói cho cùng là tích lũy vốn sống một cách cần mẫn, làm cho quá khứ luôn luôn sống trong cơ thể, trong tâm hồn.

______________
(1) Phạm Quỳnh, "Luận về quốc học", Nam Phong số 163, 6-1931.

(2) Tố Hữu về Nguyễn Du: "Tiếng thơ ai động đất trời / Nghe như non nước vọng lời nghìn thu".

(3) Tất cả những đoạn trích dẫn đều từ Tuyển tập Huy Cận II - Thơ và văn xuôi.

(4) Xem bài Tương Lai Từ Vựng Tiếng Việt của TT, đăng trên tranggocnhin.net.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Điều tra nhóm CSGT nhận mãi lộ ngay cửa ngõ sân bay Tân Sơn Nhất



Nguồn: Zing News 





VTC - Ban giám đốc Công an TP.HCM chỉ đạo Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt điều tra cán bộ chiến sĩ nhận tiền mãi lộ của người vi phạm tại khu vực sân bay Tân Sơn Nhất.

Chiều 7/9, trao đổi với báo chí qua điện thoại, đại tá Nguyễn Sỹ Quang, Trưởng Phòng tham mưu kiêm phát ngôn của Công an TP.HCM, cho biết ông đã xem clip ghi cảnh CSGT nhận tiền "mãi lộ" của người vi phạm ở cửa ngõ sân bay Tân Sơn Nhất (quận Tân Bình). 

Theo đại tá Quang, hiện vụ việc đã được báo cáo lên Giám đốc Công an TP. Lãnh đạo Công an TP đã chỉ đạo Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt (PC67) điều tra, xác minh cụ thể cán bộ chiến sĩ có mặt trong clip để xử lý.

Ông Quang cho hay Công an TP.HCM sẽ xử lý nghiêm, kiên quyết, không bao che, dung túng cán bộ chiến sĩ vi phạm. 

“Cán bộ chiến sĩ vi phạm tới đâu sẽ xử lý tới đó”, đại tá Quang nói.

Chiều cùng ngày, PV đã liên hệ với trung tá Huỳnh Trung Phong, Trưởng Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt (PC67), Công an TP.HCM để hỏi về sự việc trên. Tuy nhiên, ông Phong cho biết đang báo cáo tham luận tại Đà Nẵng và yêu cầu phóng viên gửi công văn qua PC67.

Vào chiều 7/9, báo Tuổi Trẻ tung clip ghi lại hình ảnh tại giao lộ Hoàng Minh Giám - Hồng Hà, một CSGT và một học viên thực tập "lập chốt" kiểm tra xe.

Theo nội dung clip, một ôtô mang biển số 61A bị cảnh sát chặn lại khi tài xế lái vào đường cấm. Sau đó, tài xế cầm theo giấy tờ trình viên thượng sĩ CSGT, rồi rút bóp… Sau khi nhận vật giống tiền, viên thượng sĩ làm vài động tác rồi trả lại giấy tờ cho tài xế mà không lập biên bản.

Chỉ trong khoảng 1 giờ, tại khu vực này có ba ôtô vi phạm bị xử lý với quy trình như trên, hoàn toàn không lập biên bản.

Một trường hợp khác được ghi nhận vào ngày 14/6, một ôtô 7 chỗ bị dừng xe cũng tại khu vực trên. Viên trung úy CSGT "soi" rất kỹ chiếc xe, làm động tác như chuẩn bị lập biên bản. Từ trong xe, một phụ nữ bước xuống và nói chuyện với viên trung úy.

Sau cuộc nói chuyện kéo dài khoảng 1 phút, người phụ nữ và viên trung úy tiến lại gần hàng rào tôn, nơi kín đáo, mở túi xách, lần lượt rút nhiều tờ giống tiền mệnh giá 500.000 đồng, rồi đưa cho viên trung úy. Sau đó, viên trung úy đưa lại giấy tờ cho người phụ nữ rồi quay đi.

Theo thống kê của Phòng Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt, Công an TP.HCM, tháng cuối năm 2016, đơn vị này có 58 lượt cán bộ không nhận hối lộ của người vi phạm.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHỊN

Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh tri âm tri kỷ?



Nhịn ăn nhịn nói đã lâu
một ngày gã sợ "để lâu hóa bùn"
gã không kham nổi nỗi buồn
chất bao tâm sự
vẫn còn lơ ngơ
chổng mông,
mỏi gối
làm thơ
đảo điên thế sự ước mơ ích gì?!
đường xưa lối cũ tìm về..
tri âm đâu?
thảng
bốn bề non cao!
Nhịn lâu cơn đói cồn cào
Tri âm người hỡi,
ai vào tri âm???



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chiến tranh sắp xảy ra Thủ tướng Hàn Quốc kêu gọi toàn bộ lao động Việt phải về nước


Lo ngại chiến tranh có thể xảy ra, Hôm  5/9/2017, Hàn Quốc bất ngờ ra thông báo cho toàn thể lao động nước ngoài sẵn sàng ứng phó nếu có chiến tranh, các lao động nước ngoài nếu lo sợ cho an toàn của bản thân có thể về nước từ ngày mai 6/09 và kéo dài đến hết tháng 9/2017.
Ngày 5/9/2017, sau một ngày Triều tiên phóng tên lửa lần thứ 4 bay qua Nhật Bản đã làm tăng nguy cơ chiến tranh bán đảo Triều Tiên lên mức căng thẳng, Hàn Quốc, NHật Bản và Mỹ đã đồng loạt đặt tình trạng chiến tranh lên mức báo động. Hàng loạt động thái của Hàn Quốc, Mỹ và NHật Bản đã cho thấy sẵn sàng đáp trả Triều Tiên một cách mạnh mẽ nếu chiến tranh xảy ra.

Lo ngại chiến tranh có thể xảy ra, Hôm nay ngày 5/9/2017, Hàn Quốc bất ngờ ra thông báo cho toàn thể lao động nước ngoài sẵn sàng ứng phó nếu có chiến tranh, các lao động nước ngoài nếu lo sợ cho an toàn của bản thân có thể về nước từ ngày mai 6/9 và kéo dài đến hết tháng 9.Bên cạnh đó, Hàn Quốc sẽ hỗ trợ một phần chi phí cho các lao động trở về nước do lo ngại chiến tranh.

Hàn Quốc dùng bom tấn cày xới sát Triều Tiên

Không quân Hàn Quốc đã dùng 8 quả bom hạng nặng gửi thông điệp khá rõ ràng đến Triều Tiên sau khi Bình Nhưỡng phóng Hwasong-12 vào rạng sáng 29/8.

Hãng thông tấn Yonhap dẫn nguồn tin từ Bộ Quốc phòng Hàn Quốc cho biết, ngay sau khi Triều Tiên tiếp tục phóng quả tên lửa đạn đạo tầm trung Hwasong 12 cắt ngang lãnh thổ Nhật Bản, Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in đã chỉ thị cho Không quân nước này dùng bom hạng nặng diễn tập.

Để thực hiện đòn răn đe của mình, Hàn Quốc đã dùng 4 chiếc chiến đấu cơ F-15K. Mỗi chiếc máy bay này mang theo 2 quả bom hạng nặng Mark 84 cày nát mục tiêu mặt đất tại địa phận Taebaek, thuộc tỉnh Gangwon-do.

Chưa dừng lại ở đó, chính quyền Hàn Quốc cũng ra một tuyên bố, cho biết Hàn Quốc “hoàn toàn sẵn sàng ứng phó trước bất kỳ mối đe dọa nào từ Triều Tiên”.Đồng thời với cảnh bom nổ mù trời, Đại tá Lee Kuk-no thuộc Không quân Hàn Quốc cảnh báo: “Nếu Triều Tiên đe dọa an ninh của người dân Hàn Quốc và mối quan hệ đồng minh Mỹ – Hàn với vũ khí, tên lửa hạt nhân, thì quân đội Hàn Quốc sẽ tiêu diệt nhà lãnh đạo Triều Tiên bằng đòn đánh cực mạnh”.

Những tuyên bố và hành động lần này được coi là mạnh mẽ và rõ ràng nhất từ trước đến nay Hàn Quốc gửi đến Triều Tiên. Đặc biệt là việc nước này phải dùng đến loại bom Mark 84 – vũ khí ít khi được sử dụng trong các cuộc diễn tập gần biên giới với Triều Tiên.

Theo những thông tin được công khai, Mark 84 là loại bom công dụng chung, nổ phá lớn nhất trong loạt bom ký hiệu tương tự của Hoa Kỳ (bao gồm các bom: bom MK 81, Bom MK-82, Bom MK-83, Bom MK-84). Mark 84 là loại bom đã được đưa vào sử dụng trong nhiều cuộc chiến tranh có Mỹ tham chiến, nó còn được gọi với cái tên Hammer vì sức mạnh khủng khiếp.

Về danh nghĩa, theo tên gọi, bom Mark 84 nặng 2.000 pound (908 kg), nhưng khối lượng thực tế của nó tùy thuộc vào các loại cánh ổn định mà nó dùng và ngòi bom, khối lượng thực tế của nó khoảng từ 896 kg đến 947 kg. Thân bom Mark 84 có hình dạng thuôn để tạo nên dạng khí động học cho nó có thể bay ổn định, dễ thả bom. Thân bom có chứa 429 kg thuốc nổ Tritonal.

Khi bom Mark 84 nổ có khả năng tạo thành một hố có chiều rộng 15,2 m và sâu 11 m. Nó có thể xuyên sâu tới 380 mm vào bề mặt kim loại hay 3.3 m với bê tông. Tùy vào độ cao thả bom, bán kính sát thương dày đặc của nó khoảng 366 m.

Thông tấn Hàn Quốc cho rằng, không phải ngẫu nhiên Không quân nước này lại chọn Mark 84 cho cuộc diễn tập ngay sau thời điểm Triều Tiên phóng tên lửa đạn đạo bởi với sức mạnh của Mark 84, vũ khí này có đủ sức để đánh sập những cơ sở kiên cố nhất của Bình Nhưỡng nếu xung đột xảy ra.

Người dân Nhật tỉnh giấc trong cảnh báo tên lửa

Sáng 29/8, hàng triệu người dân Nhật Bản tỉnh giấc với thông điệp cảnh báo được gửi bằng hình thức đa phương tiện, trong đó khuyến cáo các công dân nước này hãy tìm chỗ ẩn nấp vì tên lửa của Triều Tiên vừa bay qua. Còi báo động réo lên tại các khu vực dân cư nằm trên đường bay của tên lửa đạn đạo.

Một tin nhắn bằng văn bản được gửi tới người dân khắp khu vực phía Bắc Nhật Bản với nội dung: “Tên lửa vừa bay qua. Tên lửa vừa bay qua. Chỉ trong chớp mắt, tên lửa đã bay qua khu vực này. Nếu bạn phát hiện bất cứ vật thể đáng nghi nào, xin đừng đến gần và ngay lập tức gọi cảnh sát hoặc lính cứu hỏa. Hãy ẩn nấp ở các tòa nhà an toàn hoặc tầng hầm kiên cố dưới lòng đất”.

Không chỉ vậy, nhiều dịch vụ tàu tại Hokkaido phải tạm ngừng. Tại sân ga tàu điện ở Sapporo – thành phố lớn với gần 2 triệu dân, hành khách đã nhận được cảnh báo có thể xảy ra tình trạng hoãn chuyến. Một thông báo viết: “Toàn bộ các tuyến tàu bị gián đoạn. Lý do: Tên lửa đạn đạo vừa được phóng”. Tại Tokyo, nơi cách đường bay của tên lửa khoảng 700km về phía Nam, một số lịch chạy tàu đã bị tạm hoãn.

Thông báo tại các sân ga tàu cao tốc ở Tokyo có nội dung: “Hiện nay, một tên lửa Triều Tiên vừa bay qua Nhật Bản. Tình hình rất nguy hiểm. Xin hãy ẩn nấp ở khu vực chờ hoặc bên trong tàu”. Chứng kiến những diễn biến này, một sinh viên Đại học Tokyo Julia Kotake chia sẻ, “rất sợ” khả năng tên lửa có thể tấn công Nhật Bản.

Giới chức và truyền thông Nhật Bản cho biết, Triều Tiên phóng tên lửa bay qua đảo Hokkaido của Nhật và “nổ trên không” thành 3 mảnh rồi rơi xuống Thái Bình Dương. Đây cũng được xem là lần đầu tiên kể từ năm 2009, tên lửa đạn đạo Triều Tiên bắn qua lãnh thổ Nhật Bản. Hội đồng Tham mưu trưởng Hàn Quốc cho biết, quả hỏa tiễn đạn đạo được sử dụng trong vụ phóng lần này có tầm xa 2.700km, đạt tới độ cao 550km.

Ngay sau vụ phóng bất ngờ, Thủ tướng Nhật Shinzo Abe lên án đây là “mối đe dọa nghiêm trọng, nguy hiểm và chưa từng có tiền lệ” gây tổn hại tới an ninh khu vực. Ông cũng trấn an rằng: “Chính phủ sẽ nỗ lực hết sức để bảo vệ người dân”. Cuối tuần qua, người dân tại thị trấn Kotoura bên bờ biển Nhật Bản đã tổ chức các cuộc tập rượt sơ tán đề phòng Triều Tiên phóng tên lửa về phía đảo Guam (Mỹ) và có thể bay qua khu vực này của Nhật.

Trong cuộc diễn tập, khi còi báo động réo lên từ khắp các loa phóng thanh của thị trấn, trẻ em đang chơi bóng bên ngoài đều có ý thức lập tức chạy về chỗ ẩn náu trong trường học cùng bố mẹ và các huấn luyện viên.

Giới chức địa phương cho hay, khoảng 130 người tham gia cuộc tập rượt tại Kotoura, nơi có 18.000 dân. Trong 10 phút, tất cả mọi người đều phải nằm rạp, dùng tay che đầu. Không khí tập rượt và mối đe dọa thường trực từ Triều Tiên khiến không ít người dân cảm thấy lo sợ. Chia sẻ với hãng tin AP, anh Akira Hamakawa, huấn luyện viên 38 tuổi cho biết: “Ngày nào tôi cũng lo lắng sẽ có cái gì đó ập tới hoặc rơi xuống vì khả năng tên lửa của Triều Tiên”.

Đã chạm “giới hạn đỏ” của Tổng thống Hàn Quốc?

Trong khi Nhật Bản lo lắng vì tên lửa Triều Tiên lần đầu bay qua bầu trời nước này sau 8 năm, thì Hàn Quốc chú ý đến động thái của Tổng thống Moon Jae-in vì ông từng cảnh báo Triều Tiên về “giới hạn đỏ” trong hoạt động tên lửa, hạt nhân. Ngay sau vụ thử, sáng 29/8, Tổng thống Hàn Quốc ra lệnh cho quân đội phô trương sức mạnh quân sự để răn đe Triều Tiên, nhưng không đề cập tới giới hạn trên.

Trong động thái này, Hàn Quốc đã thả 8 quả bom đa mục tiêu Mark 84 và MK84 từ 4 máy bay chiến đấu F15k gần biên giới liên Triều tại Taebaek, Thư ký báo chí của Tổng thống, ông Yoon Young-chan cho biết. Cuộc tập trận nhằm mài dũa khả năng quân sự của nước này để đủ sức tiêu diệt hoàn toàn “ban lãnh đạo đối phương”, Theaustralian dẫn lời Lực lượng Không quân Hàn Quốc cho biết.

Trong khi đó, Thủ tướng Hàn Quốc Lee Nak-yon tuyên bố rằng, động thái phóng tên lửa qua Nhật Bản đã lên tới mức độ khiêu khích trầm trọng. “Triều Tiên phóng 2 tên lửa chỉ trong 2 ngày. Do đó, chúng ta cần thực hiện trách nhiệm một cách nghiêm túc hơn”, Thủ tướng Lee nói.

Cùng ngày, Hội đồng An ninh quốc gia (NSC) của Hàn Quốc triệu tập cuộc họp khẩn, “lên án Triều Tiên vi phạm các nghị quyết của Liên hợp quốc khi một lần nữa phóng tên lửa đạn đạo bất chấp cảnh báo”, theo hãng thông tấn YonHap của Hàn Quốc.

Trong bối cảnh này, giới chức các cấp của Nhật Bản, Hàn Quốc đã liên lạc ngay với người đồng cấp tại Mỹ để bàn bạc hướng phản ứng và hợp tác. Yonhap dẫn lời quan chức Cheong Wa Dae (Nhà Xanh) của Hàn Quốc cho biết, các nước đồng minh đang cân nhắc triển khai khả năng quốc phòng “chiến lược” đối với Hàn Quốc nhưng không nêu rõ cụ thể đó là những khả năng gì.

(Tin Hàn Quốc)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Một nhà văn trong cách mạng

VTRNH


Nguyên là bài  viết 
" Tô Hoài người tận tụy đến cùng với những tư tưởng của mình"
đưa trên blog này ngày 5-10-2014

Tadeusz Rozewicz là nhà thơ Ba Lan sinh 1921 qua đời 2014. Có một bài thơ của ông tìm cách cắt nghĩa về người viết văn gợi cho tôi nhiều liên tưởng.

Nhà thơ là ai
Nhà thơ là người làm thơ
và là kẻ chẳng làm thơ bao giờ


nhà thơ là người chẳng ưa ràng buộc
và là kẻ tự buộc dây vào mình

nhà thơ là người cả tin
và là kẻ chẳng chịu tin bao giờ

nhà thơ là người lừa dối
và là kẻ bị dối lừa

nhà thơ là người gục ngã
và là kẻ tự mình đứng dậy

nhà thơ là kẻ ra đi
và là kẻ một li chẳng rời. 

Lê Bá Thự dịch

Ở cuối bài thơ có chua rõ thời điểm sáng tác 18-8-2011. Nghĩa là nó được viết vào dịp tác giả chín mươi tuổi.
Tôi đọc và nghĩ đến trường hợp Tô Hoài.


Ngay ngày 6-7-2014, mạng BBC có bài mang tên Nhà văn Tô Hoài từ trần ở tuổi 94, trong đó có đoạn nói khơi khơi khơi rằng nhà văn này  có một cách nhìn chinh thống.
Năm 1992, hồi ký Cát Bụi Chân Ai của ông đã gây ồn ào dư luận khi đưa ra chân dung một số nhà văn thuộc hàng 'vai vế'.
Trong hồi ký, ông có nhắc tới Nhân văn Giai phẩm, một chủ đề luôn được coi là nhạy cảm, tuy cách ông đề cập, nhận định vấn đề được đánh giá là chính thống, phù hợp với cái nhìn của giới chức.

 Tôi cho đây là một lời đánh giá không chính xác nếu không nói là không hiểu gì về các nhà văn Hà Nội sau 1945.


Nói cho đầu đuôi thì như thế này:
--Về những cái dở của Tô Hoài, xưa nay người trong giới chúng tôi không lạ. Nếu trong sinh hoạt cá nhân ông  đã nổi tiếng là một ông già thực dụng tham lam càm quắp, một con người rất trần tục, thì về chính trị nhiều khi ông dám làm đủ thứ việc mà chính ông rất khinh bỉ.
Có lần, nhân nói về trường hợp Nguyễn Khải, tôi đã tính thử gọi ra cái căn bệnh phổ biến đó (xem Chất lang chạ trong mỗi chúng ta  trên blog này ngày 18-2-2012 ) Cái chất lang chạ này trong Tô Hoài cũng rất sẵn.

-- Nhưng từ lâu chúng tôi lại cũng biết rằng ông vốn là một nhà văn biết gìn giữ lương tâm nghề nghiệp. Trong ông không phải chỉ luôn luôn có hai con người như Nguyễn Khải, Chế Lan Viên. Mà trong ông còn luôn luôn có một con người chờ đợi thời cơ để trình bày cho được những quan sát riêng suy nghĩ riêng về  các vấn đề lớn nhất của cái cuộc sống xã hội.
Ông không chơi trò xếp hàng hai cửa.
Ông không loanh quanh lấp lửng vừa nói vừa sợ.
Ông cũng không manh động chọc ngoáy liều lĩnh rồi lại co vòi hối hận.
Ông có sự tính toán hợp lý của mình. Thời gian chỉ càng làm tăng thêm độ căng, độ ráo riết trong tư duy ông, khiến ông bền bỉ đi trên con đường đã chọn.

Tôi cho đoạn viết sau đây của mạng Bauxite với Tô Hoài là khá chính xác:
Là nhà văn tham gia cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám, nhiều thập kỷ được rèn giũa kỹ năng viết “định hướng”, được mài xát bằng vô số cuộc chỉnh huấn tư tưởng, nhưng Tô Hoài vẫn không bị cùn mòn trong tư duy nghệ thuật.
 Những năm hòa bình sau Hiệp định Genève, luồng gió tự do tư tưởng của Nhân văn Giai phẩm đã gián tiếp thổi qua tâm trí ông, giúp ông sáng tác được truyện dài Mười năm (1958), để sau đó bị trả giá bằng những bài phê bình gay gắt.
 Sau thời Đổi mới, ông cho ra liên tiếp ba cuốn truyện ký làm chấn động dư luận: Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Ba người khác đưa lại một cách nhìn “phản tỉnh” về những năm tháng cay nghiệt của một miền Bắc thực hiện chuyên chính theo đường lối vô sản, cải cách ruộng đất ở nông thôn và “cải tạo tư tưởng tiểu tư sản” trong hàng ngũ trí thức, nhà văn.
Bút pháp hồi tưởng nửa thực nửa hư, trữ tình xen trào lộng, hiện thực giễu nhại cùng song hành... đã tạo nên trong tâm thế người tiếp nhận một cảm hứng bột khởi, bùng vỡ bức xúc, nhưng không đổ vỡ mà lấy lại được sự thăng bằng. Có thể nói Tô Hoài đã chuộc lại sự thanh thản, thiện lương cho chính mình và cho bạn đọc.

    Trong nhiều lần trò chuyện với tôi, Tô Hoài hay nói tới cái ý giá kể không có cách mạng thì chắc nhiều nhà văn khác sẽ đi làm nghề khác. Nguyễn Đình Thi sẽ ra làm quan. Nguyễn Văn Bổng sẽ là giáo sư một trường trung học nào đó. Chỉ riêng ông là thế nào cũng trở thành nhà văn.
   Hiếm hoi lắm, lại có những lần, cũng vẫn về nghề nghiệp, tự nhiên Tô Hoài ngả sang cái giọng ngùi ngùi. Ông nói tới các bậc tiền bối, từ cụ Tản Đà mà chính ông không biết mặt, tới cụ Hồ Biểu Chánh mà ông đã ’”xông” tới găp cái lần vào Dầu Tiếng. Nhiều người khác nữa. Nam có Bắc có. Bên này bên kia. Ông cho người ta cảm tưởng là ông muốn tên tuổi mình được đặt bên các vị đó.

Tôi biết là trong tâm trí Tô Hoài, ý niệm nhà văn có một nghĩa riêng. Ở đó  có phần chung nhưng cũng có phần xa lạ với cách hiểu của người đương thời, nhờ thế lại gần hơn với cách hiểu của ông cha ta trong quá khứ.

Vậy là cuộc đời ông bao hàm một sự lưỡng phân.
Để miêu tả ông, tôi muốn mượn ý tứ trong bài thơ trên của Tadeusz Rozewwicz để đưa ra một bài thơ cảm đề  hoặc đơn giản là một bản phỏng dịch tùy tiện:

Ông chẳng ưa ràng buộc, nhưng lại là  kẻ tự buộc dây vào mình
Ông  vốn dễ dãi và có lúc cả tin nhưng chẳng chịu tin cái gì đến cùng
Ông tham gia vào sự  lừa dối nhưng lại lặng lẽ bóc trần sự lừa dối
 Bao phen ông gục ngã, nhưng cuối cùng ông vẫn là người đứng thẳng

Ông đã  ra đi, nhưng -- nếu có một vài nhà văn thời này còn lại -- bao giờ người ta vẫn phải kể tên ông.

Đoạn tin trên báo TT&VH sau đây của nhà báo Chiêu Minh chắc ít người để ý, nhưng đối với tôi nó là cái tin ngắn hay nhất có liên quan tới ngày Tô Hoài qua đời:

Trong những năm cuối đời, viết văn vẫn là cách để Tô Hoài neo mình lại với cuộc sống  xung quanh.
Ở tuổi 90 ấy, ông viết bộ 100 truyện cổ tích cho NXB Kim Đồng với những cái kết rất riêng của mình. Ở đó, Mỵ Châu không chết tức tưởi dưới lưỡi gươm của An Dương Vương.
Cô Tấm cũng không xả thịt Cám để làm mắm, gửi cho dì ghẻ.
Hỏi vì sao viết vậy, [lão VTN xin phép bỏ chữ lão] nhà văn chỉ cười.

Rồi, ông chuyển chủ đề sang cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành nếu điều kiện sức khoẻ cho phép: “Tôi muốn viết về Cách mạng tháng Tám như những gì mình trông thấy. Ở đó không chỉ có khí thế ngút trời của quần chúng mà còn có cả những chuyện dở khóc dở cười của những anh trí thức nghèo đang lúng túng không biết chọn đường nào” (Thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nha-van-to-hoai-qua-doi-da-di-roi-mot-nguoi-ha-noi-cu n20140707073753506.htm )

Nếu người nào muốn kiểm tra -- xem Tô Hoài định viết về cách mạng như thế thật  hay chỉ là khoe khoang làm phách – xin mời hãy đọc lại tạp chí Tiên phong hai năm 1945-46.
Trong bài ký này Tô Hoài kể chuyện người dân vào phá thành Sơn Tây với thói tham lam và bộ mặt nhếch nhác. Ở đoạn ghi chép kia – với tư cách phóng viên chiến tranh— ông ghi nhận rằng gọi là Nam tiến song thực ra các ông đã sống cái cảm giác  ngao du lang bạt đầy chất yêng hùng.

Nhìn vào mấy cuốn sách cuối cùng của Tô Hoài:
--Cát bụi chân ai viết về các sự kiện có liên quan tới những năm tháng tìm đường và những đầu hàng cùng nhẫn nhục chịu đựng của cả một lớp người cầm bút cũ hồi Nhân văn – Giai phẩm
-- Ba người khác viết về Cải cách ruộng đất. Trong cả tháng nay, nhân triển lãm Cải cách ruộng đất, một số trang của Ba người khác được trích ra in lại, cùng với nhật ký Trần Huy Liệu, sổ tay ghi chép của Trần Dần và các trích đoạn trong Đèn cù.

Bây giờ lại cuốn sách về cách mạng. Nếu đã hiểu con người nhất quán trong  Tô Hoài, sau những điều ông vừa nói ra, chắc không khó khăn gì để đoán ra cả những điều ông sẽ viết. Ông cảm được rất sớm cái khoảng trống vừa được mở ra ngày hôm nay. Việc nắm bắt cơ hội ở ông đã thành một thứ năng khiếu

 Tôi thường cũng vẫn dùng những chữ tiếc thương khi đưa đám các nhà văn quen biết. Trong thâm tâm tự biết bên cạnh phần xót xa thực sự của một kẻ “một lứa bên trời lận đận“, không khỏi có phần tôi chỉ hùa theo mọi người, nói những lời sáo. Nhiều bậc đàn anh của tôi, kể cả những người có tài nhất, ra đi khi đã hết lộc. Có người đã ăn lạm vào phần của đám người đi sau. Không sợ mang tiếng tàn nhẫn thì có thể bảo cái phần tinh hoa của họ đã chết khi họ còn sống và bạn bè đồng nghiệp chỉ đang đi sau những cái xác.

Riêng với Tô Hoài thì khác. Ngày ông ra đi, tôi  thầm nhủ với mình một điều xuất phát tự đáy lòng. Tôi tiếc.

Phần nhận xét hiển thị trên trang