Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2017

Chín vấn đề nổi bật của ngoại giao Trung Quốc



Biên dịch: Hoàng Lan

Ngoại giao về cơ bản được quyết định bởi thực lực quốc gia. Nhưng không có nghĩa là có thực lực thì có thể làm tốt ngoại giao, ở đây còn có một vấn đề làm thế nào để vận dụng thực lực, việc này liên quan đến tư tưởng, chiến lược và sách lược ngoại giao.

Những năm gần đây cùng với việc nâng cao thực lực quốc gia, phong cách ngoại giao của Trung Quốc cũng có sự thay đổi rất lớn, từ tương đối bảo thủ trước đây chuyển sang tích cực dám nghĩ dám làm, nhưng việc tích cực mạnh dạn này lại không mang lại hiệu quả như mong đợi, trái lại, ở mức độ nào đó khiến cho môi trường tổng thể của Trung Quốc trở nên xấu đi. Ở đây có nhân tố dư luận bên ngoài chưa thể thích ứng với việc nâng cao thực lực của Trung Quốc, tuy nhiên phần nhiều là do bản thân Trung Quốc gây ra. Nói một cách đơn giản ngoại giao Trung Quốc mang lại cho người ta cảm giác “sợ nhưng không phục”, làm người ta sợ thì dễ, bởi thực lực của bạn đặt ở đó, người ta đương nhiên sợ bạn, giống như đứa trẻ sợ người lớn vậy, đây là một phản ứng tự nhiên nảy sinh bởi thực lực quốc gia, nhưng đồng thời với sự sợ hãi, làm cho người ta tôn kính hay nể phục thì rất khó.

Mỹ là bá chủ toàn cầu, nói một cách tương đối, Mỹ xử lý rất tốt mối quan hệ giữa “sợ” và “phục”, làm cho cả thế giới “vừa sợ vừa phục”. Ngoại giao Trung Quốc muốn đạt đến trình độ này, về mặt tư tưởng và thực tiễn ngoại giao cần phải có một sự thay đổi hệ thống, đặc biệt là phải có sự điều chỉnh lớn trong việc xử lý 9 vấn đề dưới dây:

Thứ nhất, thay đổi tư duy và tâm lý đối đầu ngoại giao với Mỹ, điều chỉnh quan hệ Trung-Mỹ

Nếu quan hệ Trung-Mỹ không phải là mối quan hệ quan trọng nhất trên thế giới hiện nay thì cũng là một trong những mối quan hệ quan trọng nhất. Nhưng tầm quan trọng này không phải là đồng đẳng đối với hai bên, Trung Quốc cần Mỹ nhiều hơn so với Mỹ cần Trung Quốc, vì vậy trong cuộc hội kiến với Donald Trump, ông Tập Cận Bình đã nói Trung – Mỹ có hàng nghìn lý do để có mối quan hệ tốt đẹp, không có lý do gì để làm xấu đi mối quan hệ này. Đáng tiếc là trong ngoại giao đối với Mỹ, Trung Quốc thường không để ý đến lời khuyên bảo chân thành này, dùng một tư duy và tâm lý đối đầu để xử lý quan hệ với Mỹ, đặc biệt là trong một số vấn đề nan giải.

Với tư cách là bá chủ toàn cầu, việc Mỹ giữ cảnh giác đối với bất kỳ hành động nào thách thức địa vị bá quyền của mình là có thể hiểu được, Trung Quốc với tư cách là nước lớn trỗi dậy có chế độ xã hội khác với Mỹ, về mặt khách quan sẽ bị Mỹ coi là người khiêu khích, nhưng bản thân Trung Quốc lại hoàn toàn không có ý đồ thách thức bá quyền của Mỹ, bởi một khi có ý đồ này, về mặt tư duy và hành động sẽ biến thành “hễ là Mỹ chắc chắn sẽ phản đối”. Nói như vậy không phải là muốn Trung Quốc luôn hùa theo Mỹ, đối với lợi ích quốc gia của mình đương nhiên phải kiên quyết và giữ kiên định, nhưng phải thực hiện có lý lẽ có căn cứ, phù hợp với luật pháp quốc tế và quy tắc ứng xử quốc tế; đồng thời, không cần phải phô trương thanh thế, phải biết thỏa hiệp và nhún nhường, “ngoại giao phô trương thanh thế” sẽ chỉ có hại cho bản thân.

Đây không đơn giản chỉ là một sự vận dụng sách lược khi thực lực quốc gia không đủ, không đối đầu được với Mỹ, buộc phải trở thành chiến lược quốc gia, kiên trì lâu dài, cho dù trong tương lai có đủ thực lực cũng không được có ý đồ thách thức và thay đổi trật tự toàn cầu dưới sự chủ đạo của Mỹ, chính sách ngoại giao đối với Mỹ cần phải hợp tác lớn hơn đối đầu, làm tốt việc mà nước lớn thứ hai nên làm – nếu Trung Quốc là nước lớn thứ hai. Chỉ khi hiểu được chiến lược lớn thì việc xử lý đối với các vấn đề cụ thể mới không bị mất phương hướng. Đây là một điểm mà ngoại giao Trung Quốc trước tiên phải thay đổi.

Thứ hai, thay đổi chính sách ngoại giao “thù Nhật, ghét Hàn”, thực thi chính sách hòa giải với Nhật Bản, hữu hảo với Hàn Quốc

Trung Quốc và Nhật Bản cùng là hai nước mạnh là cục diện chưa từng có ở Đông Á, điều này dẫn đến Trung Quốc và Nhật Bản chưa thể thích ứng được với đối phương. Đối với Trung Quốc, do nguyên nhân lịch sử và hiện thực, trong gần 10 năm qua, chính sách ngoại giao đối với Nhật Bản của Trung Quốc vẫn chưa thoát khỏi trạng thái “thù hận Nhật Bản”, “ghét Nhật Bản”.

Đối với thái độ xử lý vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku của Nhật Bản, Trung Quốc đương nhiên phải chỉ trích và phản kích, nhưng không nên để vấn đề lịch sử trói buộc ngoại giao hai nước, gây rối cục diện phát triển của hai nước, cũng không nên truyền bá tư tưởng giáo dục thù ghét Nhật Bản một cách sai lầm. Việc xử lý đối với vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku cũng như vậy, duy trì cách tiếp cận lộ trình kép, đó là tách chúng ra, không trói buộc vào toàn bộ quan hệ Trung-Nhật, ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ và hợp tác trong các lĩnh vực khác giữa hai nước. Trung Quốc và Nhật Bản cần phải chủ động hòa giải, chứ không phải là thù hận lẫn nhau.

Trung Quốc cũng nên quan hệ tốt với Hàn Quốc, hiện trạng thái bất thường do vấn đề Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) dẫn đến quan hệ hai nước nhanh chóng sụt giảm cần phải thay đổi. THAAD tuy có gây tổn hại đối với Trung Quốc, nhưng sự tổn hại này so với đại cục quan hệ Trung-Hàn và lợi ích của Trung Quốc trên cả Đông Bắc Á và bán đảo Triều Tiên chỉ đứng thứ hai. Do vậy, không thể vì THAAD mà ảnh hưởng đến cục diện hợp tác giữa hai nước, Trung Quốc có thể bày tỏ thái độ phản đối đối với THAAD, nhưng không nên áp dụng biện pháp kinh tế đặc biệt xúi giục người dân phản đối và trừng phạt Hàn Quốc, làm như vậy sẽ chỉ làm cho Trung Quốc mất đi mối quan hệ với Hàn Quốc. Cần phải kéo dài chính sách “hữu hảo” với Hàn Quốc, đi sâu hợp tác giao lưu giữa hai nước trong các lĩnh vực kinh tế, dân sự thậm chí an ninh quân sự.

Thứ ba, thay đổi thái độ giữ bình tĩnh đối với Triều Tiên, tăng cường các biện pháp trừng phạt đối với nước này

Trái với việc phải duy trì hợp tác hữu hảo với Hàn Quốc, đối với Triều Tiên lại phải áp dụng biện pháp nghiêm khắc nhằm hối thúc nước này từ bỏ vũ khí hạt nhân.

Mấy năm gần đây, thái độ và chính sách đối với Triều Tiên của Trung Quốc đã thoát khỏi tình hữu nghị vô căn cứ và việc nắm giữ ý thức hệ trước đây, bắt đầu trở nên thiết thực, nhưng sự thay đổi này vẫn không triệt để, chưa hoàn toàn xuất phát từ lợi ích quốc gia, mà chịu ảnh hưởng từ nhân tố địa chính trị và ý thức hệ nên vẫn chưa giải quyết dứt điểm. Thái độ thỏa hiệp của Trung Quốc đối với Triều Tiên thể hiện ở việc do lo ngại tình hình trong nước Triều Tiên rối ren và dẫn đến sụp đổ nên tạm thời chưa xử lý đến vấn đề trừng phạt Triều Tiên, vẫn có phần bênh vực Triều Tiên.

Nếu Triều Tiên không phải là một quốc gia “cứng đầu”, dựa vào tính chất và quan hệ láng giềng của Chính quyền Triều Tiên, Trung Quốc có thể và cần phải tiến hành bênh vực ở mức độ nhất định đối với nước này, nhưng vấn đề là sự thực chứng minh sự bênh vực và giúp đỡ của Trung Quốc đối với Triều Tiên mấy năm qua vừa không mang lại sự chuyển biến tốt cho Triều Tiên, vừa gây tổn hại đến lợi ích của Trung Quốc, khiến cho bản thân Trung Quốc rất bị động. Đối với Chính quyền Triều Tiên, về cơ bản không thể gửi gắm hy vọng cải thiện, chỉ có duy trì không ngừng gây sức ép cao độ thì mới có thể buộc nước này từ bỏ vũ khí hạt nhân, thay đổi tình trạng nước này.

Thứ tư, thay đổi quan hệ bán đồng minh với Nga, không quá gần gũi với Nga

Trong lịch sử cận hiện đại của Trung Quốc, có hai quốc gia có ảnh hưởng lớn nhất đối với Trung Quốc, một là Mỹ và nước còn lại chính là Nga. Nhưng ảnh hưởng của Mỹ đối với Trung Quốc thể hiện rõ chiều hướng tích cực, còn ảnh hưởng của Nga đối với Trung Quốc lại thể hiện mặt tiêu cực nhiều hơn.

Kể từ thế kỷ này, xuất phát từ nhu cầu cùng chống Mỹ, Trung Quốc và Nga nhanh chóng tiếp cận, đặc biệt là mấy năm gần đây, hai nước ngày càng qua lại gần gũi, thể hiện rõ một loại quan hệ bán đồng minh. Nếu hai nước coi việc hợp tác hỗ trợ lẫn nhau là một sự vận dụng sách lược chống lại Mỹ thì có thể hiểu được, nhưng đối với Trung Quốc phải tránh việc tiếp cận với Nga trở thành chiến lược, biến thành quan hệ đồng minh hoặc bán đồng minh để đối đầu với Mỹ.

Ở đây không bàn đến việc trong lịch sử, chỉ riêng việc xem xét từ thực tế, một là trong việc hợp tác hỗ trợ lẫn nhau giữa Trung Quốc và Nga, xét từ kinh nghiệm mười mấy năm qua, không thay đổi được cục diện “Nga chủ trì, Trung Quốc phục tùng”; hai là Nga cũng có tâm lý đề phòng Trung Quốc. Chẳng hạn, về mặt bán vũ khí tiên tiến, hợp tác năng lượng và tranh giành quyền lãnh đạo Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), Nga luôn đề phòng Trung Quốc, đã làm rất nhiều chuyện mờ ám nhằm hại Trung Quốc, như ra sức lôi kéo Ấn Độ vốn không hứng thú với SCO tham gia nhằm kiềm chế Trung Quốc; ba là trong quan hệ với Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), mâu thuẫn giữa Nga và các nước này lớn hơn mâu thuẫn giữa Trung Quốc với các nước này, việc hợp tác Trung-Nga có khả năng khiến cho Trung Quốc trở thành một quân cờ để Nga đối đầu với Mỹ và EU; bốn là trong quan hệ Trung-Nga, Trung Quốc muốn được hưởng lợi nhiều hơn là đầu tư mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau này. Lợi ích chung Trung-Nga không bằng lợi ích chung Trung-Mỹ, vì vậy, Trung Quốc phải ý thức được rằng việc kết quan hệ bán đồng minh với Nga đối với lợi ích chiến lược của Trung Quốc mất nhiều hơn được, cần phải thay đổi tình hình này.

Thứ năm, thay đổi nguyên tắc không can thiệp công việc nội bộ của nhau, làm một nước lớn toàn cầu có trách nhiệm

Đây không phải là nói Trung Quốc là nước không có trách nhiệm, mà nghĩa là trách nhiệm này nhất định phải tăng lên cùng với thực lực quốc gia của Trung Quốc, tức là tương xứng với nền kinh tế lớn thứ hai toàn cầu và nước lớn mới nổi. Cần phải thừa nhận rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc đã hưởng thụ miễn phí từ hệ thống toàn cầu, tận dụng tối đa ưu thế của hệ thống quốc tế hiện hành có lợi cho Trung Quốc. Trung Quốc muốn phát huy vai trò lớn hơn trong cộng đồng quốc tế, chiếm vị trí quan trọng hơn trong hệ thống quản trị toàn cầu thì phải dùng năng lực bản thân để phản hồi cộng đồng quốc tế, cung cấp sản phẩm công cộng nhiều hơn, tốt hơn cho toàn cầu, bao gồm việc cải thiện điểm bất hợp lý, không công bằng trong hệ thống quốc tế hiện hành. Muốn làm được điều này, Trung Quốc phải thay đổi nguyên tắc không can thiệp công việc nội bộ của nhau vốn được xem là nền tảng ngoại giao mấy chục năm qua.

Không can thiệp công việc nội bộ của nhau thường được cổ xúy khi thực lực quốc gia của một nước nhỏ yếu và tồn tại sự thiếu hụt đạo đức, hoặc không muốn gánh vác nghĩa vụ quốc tế. Nguyên tắc này vào mấy chục năm trước đã giúp Trung Quốc giành được một số lượng lớn bạn bè ở thế giới thứ ba. Trung Quốc vừa tự nhận là đang trỗi dậy, trong thực tiễn ngoại giao vẫn còn giữ khư khư nguyên tắc này thì không những sẽ bị cộng đồng quốc tế coi là một thành viên không có trách nhiệm, mà về mặt khách quan sẽ còn trói buộc và hạn chế Trung Quốc phát huy vai trò nước lớn. Đương nhiên, từ bỏ nguyên tắc không can thiệp công việc nội bộ của nhau không phải là khuyến khích Trung Quốc tùy tiện can thiệp công việc nội bộ của người ta, hoặc lấy đó làm cái cớ để thực thi bá quyền, mà là khi cộng đồng quốc tế nảy sinh sự việc bất công phải dũng cảm giương cao chính nghĩa

Thứ sáu, thay đổi ngoại giao ý thức hệ, xóa bỏ màu sắc dân tộc chủ nghĩa trong ngoại giao

Thành phần ý thức hệ trong ngoại giao Trung Quốc luôn nặng nề, tuy dựa vào tình hình quốc tế và môi trường quốc tế mà Trung Quốc phải đối mặt, nhưng ở mức độ rất lớn là dùng ý thức hệ để chỉ đạo kết quả ngoại giao.

Sau khi cải cách, ngoại giao ý thức hệ này đã có sự thay đổi rất lớn, ở một số thời điểm nào đó xuất hiện với hình thức mới đối với một số quốc gia nào đó, điều này biểu hiện rất rõ rệt trong mấy năm gần đây. Ngoại giao ý thức hệ không phải là một kiểu ngoại giao xuất phát từ sự phải trái đúng sai của bản thân sự việc và lợi ích quốc gia, mà là quan niệm giá trị và nhu cầu do đảng cầm quyền chỉ định đặc biệt: thực thi các khái niệm ngoại giao nếu “kẻ địch” phản đối thì mình ủng hộ, còn “kẻ địch” tán thành thì mình sẽ phản đối. Chính sách ngoại giao của Trung Quốc đối với Mỹ, Nhật Bản, Nga, Triều Tiên cũng như một số quốc gia ở Trung Đông, châu Phi và Mỹ Latinh như Venezuela mang đậm màu sắc ý thức hệ.

Ngoại giao giá trị quan muốn tránh được hoàn toàn rất khó, nhưng không được mở rộng, cực đoan hóa ngoại giao giá trị quan, nâng lên thành ngoại giao ý thức hệ, dùng ý thức hệ để phác họa, biến thành một kiểu ngoại giao bảo thủ, dẫn đến lợi ích quốc gia hoàn toàn bị ý thức hệ trói buộc. Trung Quốc từng chịu thiệt thòi rất lớn trên phương diện này, hiện vẫn chưa rút ra được bài học.

Ngoài ngoại giao ý thức hệ, cùng với việc tăng cường thực lực quốc gia của Trung Quốc, Trung Quốc lại xuất hiện ngoại giao dân tộc chủ nghĩa, ngoại giao phục vụ cho lợi ích dân tộc thì không có gì sai, nhưng không được đưa lợi ích của dân tộc mình vượt lên trên lợi ích của dân tộc khác, càng không thể lấy cớ lợi ích dân tộc, thực thi ngoại giao cường quyền. Trên thực tế, lợi ích dân tộc của Trung Quốc ở mức độ rất lớn biến thành một cái cớ để phục vụ cho nhóm lợi ích đặc biệt, xét về vấn đề này, ngoại giao dân tộc chủ nghĩa là một biến tướng của ngoại giao ý thức hệ hiện nay, rất khó tách biệt rõ ràng hai vấn đề này.

Thứ bảy, thay đổi biện pháp “thọc gậy bánh xe” đối với các nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan, không nên làm nổi rõ nguyên tắc “Một Trung Quốc”, không chiến tranh ngoại giao với Đài Loan

Quan hệ giữa Đại lục và Đài Loan tuy không phải là quan hệ quốc gia, nhưng việc xử lý quan hệ giữa hai bờ eo biển cũng liên quan đến ngoại giao. Việc Panama thiết lập quan hệ ngoại giao của Trung Quốc thời gian gần đây đã gây chấn động rất lớn đối với Đài Loan.

Nếu nói Panama do vị trí địa lý đặc thù và việc thiết lập quan hệ ngoại giao với nước này có giá trị đối với Đại lục thì việc “thọc gậy bánh xe” đối với các nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan chỉ thuần túy là để trừng phạt và trả thù Đài Loan. Nhưng làm như vậy sẽ chỉ khiến cho Đài Loan xa cách Đại lục hơn nữa, cho dù Đại lục không hề để ý đến vấn đề này, việc lôi kéo toàn bộ các nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan cũng sẽ không thể gia tăng vị thế quốc tế và lợi ích quốc gia của Đại lục, trái lại phải bỏ ra nhiều chi phí cho vấn đề này.

Bởi các nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan ngoài rất ít quốc gia có tầm ảnh hưởng như Tòa thánh Vatican…, phần lớn đều là các quốc gia nhỏ và nghèo mà người ta không nhớ nổi tên. Cho dù thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước đó thì cũng không có ý nghĩa lớn đối với Đại lục. Trái lại, để thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước này, Đại lục lại phải bỏ ra không ít nguồn lực. Những nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan này còn bao gồm đa số nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Đại lục, đều có tâm lý chủ nghĩa cơ hội, “dao động” giữa hai bờ eo biển Đài Loan, lấy nguyên tắc “Một Trung Quốc” làm mồi nhử để sách nhiễu hai bờ eo biển.

Tình hình này hoàn toàn là hậu quả của việc kiên trì cứng nhắc nguyên tắc “Một Trung Quốc”. Các nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan hiện nay chỉ còn lại 20 nước, cho dù để Đài Loan phát triển quan hệ ngoại giao với các nước đó cũng không thể làm thay đổi được nhận thức của cộng đồng quốc tế đối với nguyên tắc “Một Trung Quốc” và vị thế quốc tế của Đài Loan. Nếu Đài Loan không chịu thừa nhận “Nhận thức chung 1992” thì Đại lục chỉ cần nắm chắc điểm tới hạn là được, tức là đối với Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc cũng như các tổ chức quốc tế khác mà Đại lục tham gia và cả các nước thiết lập quan hệ ngoại giao với Đại lục, yêu cầu họ phải giữ vững nguyên tắc “Một Trung Quốc”, không phát triển quan hệ chính thức với Đài Loan. Đây là trách nhiệm và nghĩa vụ của họ, mà không cần thiết phải “thọc gậy bánh xe” các nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan, ngăn chặn không gian quốc tế của Đài Loan. Nếu có quốc gia và tổ chức quốc tế nào do dự, dùng nguyên tắc “Một Trung Quốc” để thách thức và sách nhiễu Đại lục thì Đại lục có thể cân nhắc gia tăng răn đe.

Hiện trạng trước mắt là do Đại lục quá nhấn mạnh nguyên tắc “Một Trung Quốc”, dẫn đến rất nhiều nước cho rằng có kẽ hở để lợi dụng, đòi hỏi không có điểm dừng đối với Trung Quốc. Và để viết trên thông cáo ngoại giao “Đài Loan là một bộ phận không thể tách rời với Trung Quốc”, hàng năm Trung Quốc đều phải trả nhiều cái giá đặc biệt. “Ngoại giao vung tiền” bị chỉ trích đều được sử dụng ở phương diện này.
Nếu như trước đây Trung Quốc vì thực lực quốc gia tương đối yếu, không có công cụ hữu hiệu nào để đối phó và trừng phạt những quốc gia có ý đồ “ăn hai mang”, vậy thì giờ đây trong hòm công cụ của Trung Quốc có rất nhiều công cụ trừng phạt có thể vận dụng. Trong trường hợp này, tin rằng đại đa số quốc gia do lợi ích của mình đều có thể sáng suốt đưa ra lựa chọn, hoàn toàn không cần thiết phải lần nào cũng nhấn mạnh, muốn người ta thừa nhận “Một Trung Quốc”, lãng phí một số lượng lớn nguồn lực quốc gia. Vì vậy, cần phải cho Đài Loan một khoảng không gian quốc tế ra sao?

Thứ tám, thay đổi đúng lúc thái độ không tiếp xúc, không đàm phán với Đạtlai Lạtma, né tránh yêu cầu đòi độc lập đang trở nên gay gắt của Tây Tạng

Giống như Đài Loan, Tây Tạng cũng đã khiến Trung Quốc phải chi trả một khoản lớn chi phí không cần thiết. Một biểu hiện nổi bật về mặt ngoại giao trong vấn đề Tây Tạng chính là thái độ đối với Đạtlai Lạtma.
Do Trung Quốc xác định Đạtlai Lạtma là một phần tử chia rẽ dân tộc, không cho phép người đứng đầu và quan chức chính phủ các nước dùng tư cách nhà nước để tiếp xúc với Đạtlai Lạtma, nếu không sẽ bị coi là can thiệp công việc nội bộ của Trung Quốc, từ đó dẫn đến quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và một số quốc gia xảy ra rắc rối. Điển hình nhất là nước Anh, trong thời kỳ Chính quyền Cameron, vì Cameron hội kiến với Đạtlai Lạtma bất chấp sự phản đối của Trung Quốc, khiến cho quan hệ Trung-Anh bị thụt lùi toàn diện. Ngoài ra, nhà lãnh đạo của một số nước phương Tây trong đó có Pháp, Canada, Mỹ cũng vì hội kiến với Đạtlai Lạtma mà gây tổn hại đến quan hệ song phương ở mức độ khác nhau.

Lý do Trung Quốc chỉ trích Đạtlai Lạtma là do Trung Quốc cho rằng ông là một phần tử chia rẽ dân tộc khoác chiếc áo tôn giáo, nhưng trên cộng đồng quốc tế, Đạtlai Lạtma lại là lãnh tụ tôn giáo có tầm ảnh hưởng thế giới. Các nhà lãnh đạo phương Tây khi hội kiến với Đạtlai Lạtma đều nhấn mạnh đến vai trò lãnh tụ tôn giáo của ông. Sự khác biệt về mặt nhận thức thân phận đối với Đạtlai Lạtma khiến cho Trung Quốc thường phải bỏ ra chi phí ngoại giao quá mức để ngăn chặn các nhà lãnh đạo và quan chức chính phủ của các quốc gia khác hội kiến Đạtlai Lạtma. Giải quyết vấn đề then chốt này là không được làm nổi bật quá thân phận chính trị của Đạtlai Lạtma, nhìn thẳng vào sự tồn tại và tầm ảnh hưởng tôn giáo của Đạtlai Lạtma, thay đổi kịp thời thái độ không tiếp xúc, không đàm phán đối với Đạtlai Lạtma.

Đối với Đạtlai Lạtma, hiện Trung Quốc áp dụng biện pháp “chờ đợi thời cơ”, cho rằng đợi sau khi Đạtlai Lạtma viên tịch thì vấn đề Tây Tạng tự khắc sẽ được giải quyết, cách nghĩ này quá ngây thơ, bởi không có sự bảo hộ tinh thần của Đạtlai Lạtma – người theo chủ nghĩa hòa bình này – thì chính quyền lưu vong Tây Tạng trong vấn đề độc lập sẽ chỉ trở nên cấp tiến hơn, sự bất mãn của người dân tộc Tạng cũng có thể sẽ gia tăng hơn nữa, sẽ kéo rộng khoảng cách hơn nữa khiến cho vấn đề Tây Tạng có thể xấu đi.

Thứ chín, thay đổi khái niệm một mình hưởng thụ Biển Đông, thừa nhận hiện trạng, gác lại tranh chấp, cùng khai thác, bảo vệ hòa bình và tự do hàng hải ở Biển Đông

Kể từ sau khi Philippines đưa ra vụ kiện Biển Đông ra Tòa Trọng tài và được sự tán thành của Tòa Trọng tài, Trung Quốc trên thực tế ở trạng thái bị động, chỉ có điều tân Chính phủ Philippines đã thay đổi chính sách đối đầu với Trung Quốc của người tiền nhiệm, khiến cho vấn đề Biển Đông không bị xấu đi thêm nữa, nhưng trạng thái bị động về mặt pháp lý vẫn không thay đổi.

Nói một cách khách quan, trừ phi sử dụng vũ lực, nếu không Trung Quốc không thể “một mình hưởng thụ” hoàn toàn Biển Đông. Do vậy, đối với Trung Quốc và các nước có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, một phương thức giải quyết hợp lý có thể tính đến lợi ích các bên là chấp nhận nguyên trạng, gác lại tranh chấp, cùng khai thác nguồn tài nguyên và bảo vệ hòa bình ở Biển Đông.

Trung Quốc với tư cách là quốc gia lớn nhất và có thực lực mạnh nhất ở Biển Đông, nên dẫn đầu đề xướng thành lập một Cộng đồng năng lượng Biển Đông cùng chia sẻ nguồn tài nguyên dầu khí, kết hợp cùng khai thác dầu mỏ ở Biển Đông, đồng thời xác lập tỷ lệ phân chia lợi ích hợp lý căn cứ vào số tiền đầu tư. Trước đây trên phương diện này do bị hạn chế ở kỹ thuật khai thác dầu mỏ, các nước trong khu vực không thể hợp tác được với nhau, mà là hợp tác khai thác cùng với các công ty dầu mỏ của các nước ngoài khu vực. Hiện Trung Quốc đã có đầy đủ khả năng thăm dò biển sâu và kỹ thuật khai thác, các bên liên quan ở Biển Đông hoàn toàn có thể thành lập một Cộng đồng năng lượng, cùng khai thác.

Ngoài ra, để ứng phó với an ninh trên biển, phòng chống cướp biển, bảo vệ tự do hàng hải, Trung Quốc cũng có thể dẫn đầu các nước có yêu sách chủ quyền, thiết lập đội ngũ thực thi pháp luật và cơ chế hợp tác an ninh trên biển ở Biển Đông.

Tóm lại, trên cơ sở thừa nhận lợi ích của các bên ở Biển Đông, bắt tay hợp tác từ năng lượng và kinh tế, mở rộng đến lĩnh vực an ninh chính trị, thiết lập cơ chế hợp tác, xây dựng cộng đồng lợi ích ở Biển Đông, đồng thời dùng hình thức hiệp ước để ràng buộc, khiến cho các bên ở Biển Đông được hưởng lợi từ trong hợp tác, xóa bỏ sự lo ngại của họ đối với Trung Quốc thì mới có thể thật sự gác lại tranh chấp chủ quyền, biến Biển Đông thành vùng biển hòa bình và hợp tác. Còn hòa bình an ninh và tự do hàng hải ở Biển Đông cũng sẽ là sự đảm bảo lớn nhất đối với lợi ích của Trung Quốc. Mục đích cuối cùng của Trung Quốc chẳng phải là như vậy sao?

Vấn đề ngoại giao của Trung Quốc đương nhiên không chỉ biểu hiện ở 9 điểm nói trên. Nhưng nếu trong 9 điểm này có một sự thay đổi lớn thì ngoại giao Trung Quốc sẽ có một diện mạo hoàn toàn mới. Sự tôn trọng của mọi người đối với Trung Quốc sẽ tăng lên, Trung Quốc cũng sẽ có tầm ảnh hưởng lớn hơn đối với thế giới. Nói thẳng ra là sở dĩ ngoại giao phải thay đổi là vì Trung Quốc không còn là Trung Quốc của mười mấy năm trước nữa, sau khi thực lực quốc gia của Trung Quốc tăng cường hơn nữa, Trung Quốc phải trở thành một quốc gia “quân tử” khiêm nhường có trách nhiệm đối với thế giới, chứ không phải là một quốc gia ngang ngược sử dụng sức mạnh tàn bạo.

Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tin mới chiều 2/9: Bất chấp tất cả, VN đứng lên không chấp nhận Biển Đôn...

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chuyện bi hài ở phiên toà xét xử Hà Văn Thắm



BẢO THẮNG - CAO NGUYÊN
LĐO - Lái xe ngơ ngác khi biết mình là Tổng giám đốc một công ty lớn, hay chuyện kiều nữ nức nở, trả lời toà bằng nước mắt ... là những chuyện bi hài quanh vụ xử Hà Văn Thắm cùng đồng phạm, đang được TAND TP Hà Nội thụ lý.

“Mất kiểm soát” tuyến lệ

Phiên xử Hà Văn Thắm – cựu Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Đại Dương (OceanBank) cùng đồng phạm chứng kiến nhiều câu chuyện bi hài ngay từ màn thủ tục phiên toà.

Theo đó, bị cáo Hoàng Thị Hồng Tứ (SN 1983, quê Ninh Bình, cựu Chủ tịch HĐQT Công ty BSC) gây chú ý ngay từ những giây phút đầu tiên với những lần “nức nở”, đem lại cho người khác cảm giác, cô gái này không còn làm chủ được tuyến lệ của mình.

Ở phần làm thủ tục phiên toà (kiểm tra căn cước cùng một số thông tin liên quan), bị cáo Tứ đã giàn giụa, không thể nói rõ những câu trả lời trước hội đồng xét xử (HĐXX), khiến không ít lần vị chủ toạ phiên toà phải nhắc nhở, động viên “bị cáo bình tĩnh”.

Đến phiên xử hôm 30.8, bị cáo Tứ tiếp tục tái diễn màn "thay lời muốn nói" bằng những giọt nước mắt lã chã khi HĐXX thẩm vấn. Lý giải việc “khóc như mưa” mỗi lần được hỏi đến, Tứ cho hay, do thần kinh yếu, dễ bị cảm xúc nên vậy.

Cũng bị cáo này, khi trả lời toà, luôn khẳng định mình không liên quan gì đến các đồng phạm ở nhóm tội Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản: “Dạ thưa hội đồng xét xử, bị cáo không làm gì hết, bị cáo không tư lợi, không giúp sức cho ai”.

Trong một diễn biến liên quan, phiên xử sơ thẩm hồi tháng 2 vừa qua, bị cáo Hoàng Thị Hồng Tứ đến toà với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, quá trình xét xử, cơ quan toà án nhận thấy có nhiều nội dung chưa được làm sáng tỏ, đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Kết thúc giai đoạn điều tra bổ sung, Tứ đến toà với một tư cách mới, vốn dĩ không hề mong muốn: Bị cáo.

Lái xe ngỡ ngàng biết mình là... Tổng giám đốc

Hôm 31.8, khi đang thẩm vấn các “chóp bu” của OceanBank, nhiều người theo dõi phiên toà được phen nghiêng ngả khi trước vành móng ngựa, bị cáo Nguyễn Xuân Sơn – cựu Tổng giám đốc OceanBank tự nhận mình là người nổi tiếng và rất nhiều tiền.

Theo ông Sơn, số tiền hơn 300 tỷ đồng bị cơ quan chức năng cáo buộc đã chiếm đoạt nhưng bị cáo cho hay, không dùng một đồng nào cho mục đích cá nhân. Lý giải khoản tiết kiệm 50 tỷ đồng trong ngân hàng, bị cáo Sơn khẳng định đây là số tiền có được nhờ tham gia một số dự án và lãi lớn. “Bị cáo cũng là người đầu tư tài chính, có thời kỳ bị cáo còn nổi tiếng trên thị trường chứng khoán và có khá nhiều tiền để đầu tư” – cựu Tổng giám đốc OceanBank nói trước toà.

Trường hợp lái xe bỗng dưng biết mình là Tổng giám đốc cũng được đánh giá là một trong những câu chuyện bi hài quanh vụ xử Hà Văn Thắm và đồng phạm.

Cụ thể, ở phiên 29.8, trong khi thẩm vấn bị cáo Trần Văn Bình – cựu Tổng giám đốc Công ty TNHH MTV thương mại và dịch vụ Trung Dung, bị cáo này tỏ ra ngỡ ngàng khi biết mình là Tổng giám đốc.

Tài liệu truy tố thể hiện, tháng 11.2012, Trần Văn Bình ký hợp đồng tín dụng với OceanBank vay 500 tỷ đồng. Theo cáo buộc, bị cáo Bình là Tổng giám đốc của Công ty Trung Dung, nhưng ở toà, ông Bình khai nhận chỉ là lái xe của Tập đoàn Thiên Thanh. “Khi cơ quan điều tra nói bị cáo là Tổng giám đốc Công ty Trung Dung thì bị cáo mới biết” – ông Bình nói trước toà.

Vừa khai "trong sạch" hôm trước, hôm sau bị bắt

Đó là tình huống của Phó tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) – Ninh Văn Quỳnh. Tại phiên xử Hà Văn Thắm cùng đồng phạm, bị cáo Nguyễn Xuân Sơn – cựu Tổng giám đốc OceanBank khai nhận đã chi 30-50 tỷ đồng mỗi năm cho PVN vào cá dịp lễ, tết và đưa tiền cho Ninh Văn Quỳnh. Bởi bị cáo Sơn cho rằng, thông qua ông Quỳnh có thể gửi quà đến cho khách hàng.

Phủ nhận lời khai này, tại toà, ông Quỳnh cho rằng, cá nhân cũng như PVN nhận thức việc Hà Văn Thắm, Nguyễn Xuân Sơn đưa tiền là sai trái nên đã không nhận.

Tuy nhiên, ngày 1.9, Cơ quan CSĐT, Bộ Công an đã phát đi lệnh khởi tố ông Ninh Văn Quỳnh cùng các đồng phạm liên quan đến hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, với việc góp 800 tỷ đồng từ PVN vào OceanBank.

>>> MP Blog...

Phần nhận xét hiển thị trên trang

VĂN TẾ THẬP LOẠI QUAN THAM

Phạm Lưu Vũ


(Kẻ hậu sinh cung kính lạy cụ Đồ Chiểu)
Hỡi ơi! Thuế nặng phí dày, lòng dân bải hoải.
Trăm năm công đánh giặc, chưa chắc mà nay ở ngôi cao,
Mấy đời móc túi dân, thân tuy béo tiếng tham như chó
Nhớ quân xưa:
Con cái nhà ai,
Ăn no dửng mỡ.
Quen thân nhung lụa, đâu biết lòng dân,
Chỉ biết chọi nhau, ở trong biệt phủ.
Việc hát, việc hò, việc đàn, việc đúm… thân vốn quen rồi,
Học ăn, học nói, học chữ, học nghề… mắt đâu thèm ngó.
Nghiệp ăn hại kết tinh từ kiếp trước, cha quan to thì mình tất quan to,
Mùi tham lam đã ngấm đến cao lâu, thích hối lộ như mèo hoang thích chuột.
Chỗ thấy đường xe đông như nước, muốn lập trạm thu;
Ngày xem ngân sách cạn như chùi, muốn nâng thuế VAT.
Một mối lợi danh ngồn ngộn, há để ai cướp mất của ai,
Hai tầng quyền lực ngút trời, đâu dung lũ dân đen khốn khó.
Nào sợ ai đòi, ai bắt? phen này xin thỏa sức tung hoành,
Chẳng thèm biết ngượng, biết ghê, chuyến này quyết ra tay vơ vét.
Khá ngon thay:
Vốn chẳng phải quan to, quan nhỏ, khối thằng theo đóm được an tàn,
Chẳng qua là con bạc, con buôn, quan hệ tốt thiếu gì dự án.
Mười tám môn hối lộ, nào biệt thự, nào nhà,
Chín chục triệu dân đen, cứ tha hồ móc túi.
Ngoài cật đã có tờ quyết định, nào đợi dân kịp trở tay,
Trong xe chồng một đống hồ sơ, đâu cần đến lương tri, công lý.
Cửa quan đã đẻ ra cơ chế, liền sinh ra nhóm nọ nhóm kia,
Nhân danh người nhà tướng, nhà quan, chả cần vốn cũng tay không bắt giặc.
Chi nhọc thương thảo với giá này, giá nọ, lấn vườn, cướp ruộng, coi giặc cũng như dân,
Nào sợ thằng Vươn bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, dễ dàng như tập trận.
Kẻ dùi cui, người roi điện, làm cho dân lành, con nít hồn kinh,
Bọn hè trước, lũ ó sau, thương thay lão già gãy cẳng.
Tấm gương đạo đức đâu rồi?
Ai biết tính người vội bỏ.
Một kiếp quan trường rằng chữ lợi, ai hay quả báo nhãn tiền,
Trăm năm địa ngục ấy chữ nguy, nào đợi nhân nào quả nấy.
Núi sông mờ mịt, mà cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Thiên hạ thái bình, để già trẻ hai hàng lệ nhỏ.
Bên ngoài giặc cướp, Hán gian ùa tới, mà biển khơi đã chết còn dày đặc âm binh,
Bên trong quan tham, giữ ghế hành dân, mà hiệu lực nhất nhất theo kim tiền chỉ đạo.
Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đấc ngọn rau ơn xương máu, tài bồi cho cả nước nhà ta,
Bát cơm manh áo sống ở đời, tối mắt mấy đời cha con nó.
Vì ai khiến dân đen khốn khổ, thuế phí chồng nhau,
Vì ai xui vườn ruộng tan tành, động mồ động mả?
Sống làm quan tham lam vô đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn,
Chết làm ma ở chốn cửu tuyền, ngửi phân lợn, uống nước đồng, nghe càng thêm hổ.
Thà chưa thác mà đặng lòng sám hối, ăn năn may tổ phụ còn vinh;
Hơn sống dai mà chịu chữ cẩu quan, ở với nhân dân cũng ngượng.
Thôi đi thôi!
Đường quan lộ, năm năm ư một khóa, có tham lam cũng lưu lại chút tình,
Nẻo công danh, một kiếp đặng một lần, cẩn thận kẻo sa phải vòng lao lý.
Đau đớn bấy! người tình ngồi tiếc của, Buổi vàng son sung sướng đâu rồi,
Não nùng thay! vợ trẻ chạy nuôi chồng, con xế cũ đậu ngoài song sắt.
Ôi!
Một khóa quan tham;
Nghìn năm nhục nhã.
Giặc cướp vẫn giăng đầy đâu đó, ai làm cho bốn phía mây đen,
Ông cha ta còn gửi cốt nơi đây, ai cứu đặng mấy phường con đỏ.
Sống mà cả nước non đều hận, oan gia đầy, muôn vạn kiếp còn theo,
Thác đừng trông đền miếu để thờ, tiếng gian trải muôn đời ai cũng chửi.
Sống tạo nghiệp, thác thì trả nghiệp, linh hồn theo ám cháu con, muôn kiếp không ngóc đầu lên được,
Sống thờ giặc, thác phải thờ ma, lời Phật dạy đã rành rành, một chữ “đọa” đủ mà cảnh tỉnh.
Hỡi ơi!
Nước mắt dân lành lau chẳng ráo, thương vì hai chữ dân oan,
Cây hương liệt sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu bội nghĩa.
May ra thì hưởng!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHỮNG CHUYỆN KINH HÃI VỀ VỤ NĂM CAM

 


Hoàng Hải Vân

 - Tôi là người viết những bài báo đầu tiên vạch trần việc bảo kê cho Năm Cam của cả 3 cán bộ cấp cao : Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Nhà báo Việt Nam Trần Mai Hạnh, Trung tướng Thứ trưởng Bộ Công an Bùi Quốc Huy và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Phạm Sỹ Chiến. Trong đó, ông Trần Mai Hạnh và Bùi Quốc Huy là ủy viên Trung ương Đảng.
Image result for nguyên công khế
Anh Khế, hình ảnh hào sảng oai phong của một Tổng Biên tập
Giờ nghĩ lại vẫn thấy kinh hãi, nếu như ba ông đó không mất chức thì chắc chắn tôi dù có chạy lên núi cũng không tìm được đất sống. Tổng Biên tập Báo Thanh Niên Nguyễn Công Khế nói với tôi trước khi cho đăng những bài đó, rằng anh chấp nhận “về vườn”, nhưng tôi chắc anh dù có “về vườn” cũng khó mà sống sót.

Tôi nói khó sống sót là nói theo nghĩa đen. Bởi vì nếu cuộc họp Ban chấp hành Trung ương Đảng diễn ra sau khi có bài báo về ông Bùi Quốc Huy mà không bỏ phiếu kỷ luật được ông thì toàn bộ hồ sơ về ông sẽ bị xếp xó, và ông có khả năng sau đó trở thành Bộ trưởng Công An. Và cuộc họp đó đã bỏ phiếu kỷ luật ông với tỷ lệ 60%, nghĩa là chỉ cần có thêm hơn 10% số ủy viên Trung ương một chút không tán thành kỷ luật thì không những chúng tôi chết chắc mà vụ án Năm Cam sẽ chẳng bao giờ được đem ra xét xử. Chúng tôi chết chỉ là chuyện nhỏ, tội phạm tiếp tục hoành hành mới là chuyện lớn.

Có người nói tướng Nguyễn Việt Thành đã “dùng báo chí để làm án”, nói như vậy là không biết gì về sự thật. Chẳng một ai trong Ban chuyên án vụ Năm Cam xúi chúng tôi làm việc đó cả. Vả lại Ban chuyên án lúc đó rất yếu thế tại Bộ Công an, họ không có nhiều điều kiện để tiếp cận hồ sơ liên quan đến đường dây bảo kê tội phạm. Ông Nguyễn Việt Thành sau khi bắt Năm Cam đã bị ông Bùi Quốc Huy gọi điện chửi đến nóng máy điện thoại, ông dẫu có gan bằng trời cũng không dám xúi người khác động đến ông Bùi Quốc Huy. Anh Nguyễn Công Khế phải dắt ông Nguyễn Việt Thành đến gặp ông Sáu Dân để được trấn an. Cho nên tự chúng tôi có những điều tra theo các nguồn tin riêng không liên quan gì đến Ban chuyên án.

Đại tá Nguyễn Hữu Ngọc, người trực tiếp bắt Năm Cam lần thứ nhất năm 1995, đã không được phân công tham gia Ban Chuyên án lần này. Ông Ngọc chẳng bức xúc gì việc ông không tham gia Ban chuyên án. Điều ông bức xúc từ lâu là người ta đã thả Năm Cam ra và chính một vài lãnh đạo Bộ Công an (như ông Bùi Quốc Huy) cùng một bộ phận cảnh sát cơ quan công an TP.HCM đã bảo kê cho những hoạt động phi pháp tày đình của Năm Cam. Biết ông Ngọc nắm được nhiều thông tin, chúng tôi có hỏi ông chuện này chuyện kia nhưng nhất định ông không cung cấp bất cứ một tin tức gì. Ông là một cán bộ điều tra hình sự rất có nguyên tắc. Ông chỉ nói me mé con đường đi tìm tài liệu, tìm không được hỏi lại cho rõ đường thì ông im. Cuối cùng thì tự chúng tôi cũng tìm được toàn bộ những tài liệu liên quan đến ông Trần Mai Hạnh và Phạm Sỹ Chiến. Hỏi ông những tài liệu đó đủ chưa thì ông không trả lời. Chúng tôi phải kiểm chứng nhiều nguồn khác nhau và thu thập hết những tài liệu có liên quan. Khi thấy đủ cơ sở, Tổng Biên tập phân công tôi viết bài.

Lẽ ra bài tôi viết về ông Trần Mai Hạnh được đăng trước cái ngày đăng chính thức là ngày 2-5-2002 một tuần lễ. Nhưng khi bài báo đã lên khuôn thì ông Hồng Vinh, lúc đó là Phó Trưởng ban Tư tưởng văn hóa trung ương (nay là Ban Tuyên giáo) gọi điện cho Ban Biên tập ra lệnh cấm đăng. Như vậy là việc đăng bài về ông Trần Mai Hạnh đã bị lộ. Sở dĩ bị lộ là do ở Hà Nội anh Nguyễn Việt Chiến quá hăng hái với vụ việc, đã đi gặp người này người kia để phỏng vấn, nên sự việc đến tai ông Hồng Vinh.

Là tờ báo gần như đơn độc (có thêm báo Tiền phong tiếp sức) vạch mặt tội ác của Năm Cam trước khi Năm Cam bị bắt lần thứ nhất, nên Thanh Niên hiểu hơn ai hết, rằng nếu không triệt phá được đường dây bảo kê cho Năm Cam thì trước sau gì Năm Cam cũng được thả ra. Lần thứ nhất thả ra, tập đoàn tội phạm này phát triển với quy mô lớn hơn, tàn bạo hơn. Nếu thả ra một lần nữa thì tác hại sẽ khôn lường. Cho nên phải vạch mặt cho được những kẻ bảo kê, trước tiên là ông Trần Mai Hạnh.

Tôi còn nhớ, ngày 30-4 tôi xuống vườn nhà anh Khế ở quận 9. Tôi phân tích với anh, rằng chúng ta chưa đăng thì họ cấm, nhưng nếu chúng ta cứ đăng thì tôi chắc họ chẳng thể làm gì được chúng ta, vì làm khó chúng ta họ sẽ mang tiếng là bảo kê cho Năm Cam. Tôi nói vậy vì tôi biết anh Khế cũng đang tính toán. Anh bảo tôi, mai ngày lễ (1-5) rồi, để tối mai tính.

Tối ngày 1-5, tôi chuẩn bị trang báo đã dàn sẵn đợi anh đến. Anh đến tòa soạn cầm trang báo đọc kỹ, đi tới đi lui, đọc thêm một lần nữa, rồi đi tới đi lui. Cuối cùng, anh cầm máy điện thoại giơ lên, đưa trang báo cho tôi, nói : “ĐM, đăng !”, vừa nói vừa tắt máy điện thoại, đút túi quần lên xe đi thẳng về nhà. Đó là hình ảnh hào sảng oai phong nhất của một Tổng Biên tập mà tôi không bao giờ quên được.

Sáng hôm phát hành báo, tất cả điện thoại đều nghẽn vì bạn đọc gọi tới tấp đến hoan nghênh. Nhưng ở Hà Nội thì im phăng phắc. Im phăng phắc trong nhiều ngày liền. Để tự vệ, tôi đến phỏng vấn ông Sáu Dân. Ông hoan nghênh báo Thanh Niên và nói báo Thanh Niên đã “phá một cái lệ”, là lần đầu tiên phanh phui chuyện tiêu cực của một Ủy viên Trung ương Đảng trên mặt báo. Nhiều ngày sau, anh Đỗ Quý Doãn, Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin mới gọi điện cho anh Khế cười đùa vui vẻ. Tôi nghe nói lại rằng ông Nông Đức Mạnh Tổng Bí thư lúc đó có nói, đó là “quyền của báo chí”. Nghe như vậy mới thấy nhẹ nhõm. Mãi tới 1 tuần sau thì các báo khác mới dám đăng về chuyện của ông Trần Mai Hạnh, sau khi không thấy Thanh niên bị làm sao. Đây mới là bài báo mở đầu.

Nếu chuyện về ông Trần Mai Hạnh là “phá một cái lệ”, là cấm đăng nhưng vẫn cứ đăng, thì chuyện về Trung tướng Thứ trưởng Bộ Công an Bùi Quốc Huy (Năm Huy) chẳng khác gì nhảy vào lửa.
Tác giả, nhà báo Hoàng Hải Vân
Ông Năm Huy từng làm Giám đốc Công an TP.HCM, rồi làm Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh trước khi trở thành Thứ trưởng Bộ Công an phụ trách xây dựng lực lượng, quyền to như núi. Thời ông làm Giám đốc Công an thành phố là thời Năm Cam lộng hành coi trời bằng vung, dư luận có bàn tán về mối quan hệ giữa ông với tập đoàn tội ác này, nhưng dù có chứng cứ cũng chẳng ai làm gì được ông. Ủy ban Kiểm tra Thành ủy TP.HCM cũng đã có kết luận về mối quan hệ này, nhưng hồ sơ vẫn bị xếp xó và ông Năm Huy vẫn được thăng hàm Trung tướng.


Tập đoàn tội ác Năm Cam được bảo kê không phải chỉ sau này. Hồi bắt Năm Cam lần thứ nhất (1995) cũng gặp không ít sự cản trở của những người bảo kê có quyền chức, nhưng Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó rất kiên quyết, đến mức ông bảo ông “thế chấp chức Thủ tướng” để yêu cầu bắt Năm Cam. Không phải ông Sáu Dân dùng quyền uy của Thủ tướng để ra lệnh bắt người, ông có đủ chứng cứ nên yêu cầu thực hiện theo đúng trình tự của pháp luật. Nhưng người ta đã âm thầm thả Năm Cam ra. Sau khi ông Sáu Dân thôi làm Thủ tướng, tập đoàn tội ác này phát triển mạnh mẽ, giăng lưới khắp nơi, coi TP.HCM là nơi vô pháp, là lãnh địa riêng của chúng. Đến mức, tại TP.HCM hồi đó, ai muốn mở một cửa hàng, một quán karaoke, một tiệm gội đầu cắt tóc… nếu không “nhờ” Năm Cam bảo kê thì đừng hòng hoạt động được.

Từ sau khi ra khỏi trại cải tạo, Năm Cam không bao giờ nghĩ mình có thể bị bắt một lần nữa. Bởi vì y đã thiết lập thêm những hàng rào bảo kê dày đặc, trên thì có người của các ông Bùi Quốc Huy, Phạm Sỹ Chiến và Trần Mai Hạnh, dưới thì có người của cơ quan cảnh sát điều tra và cảnh sát hình sự Công an TP.HCM, trong đó hàng rào bảo kê của Công an là an toàn vững chắc nhất. Năm Cam đã từng tính đường thoát bằng cách sang Campuchia dùng tiền mua một chức tướng, nếu như đường dây của y ở Việt Nam bị phá, nhưng có lẽ do thấy quá an toàn nên đã bỏ ý định đó. Bởi vậy mà khi bị bắt, y bất ngờ đến mức … đái ra quần.

Bắt Năm Cam lần thứ hai hoàn toàn không dễ. Phải có đủ chứng cứ. Cho nên, từ vụ án Dung Hà và đầu mối là Hải Bánh mới phăng ra được chứng cứ. Nhưng bắt Hải Bánh giam tại trại giam của Công an TP.HCM thì làm sao Hải Bánh chịu khai. Bởi vì, Hải Bánh biết rất rõ, chỉ cần khai ra Năm Cam thì những kẻ bảo kê cho Năm Cam trong cơ quan cảnh sát điều tra và cảnh sát hình sự Công an TP.HCM đời nào để cho Hải Bánh sống. Do đó, Ban chuyên án đã phải di lý Hải Bánh về Tiền Giang mới củng cố được chứng cứ bắt Năm Cam. Câu chuyện này chúng tôi đã tường thuật và phân tích đầy đủ trên báo Thanh Niên hồi ấy.

Vấn đề là phải phá cho được đường dây bảo kê từ lực lượng Công an, đứng đầu là trung tướng Bùi Quốc Huy.

Một hôm, Tổng Biên tập Nguyễn Công Khế bảo tôi đi cùng anh đến một nơi anh không nói trước. Đến nơi đó, chỉ một người tiếp chúng tôi tại phòng làm việc của ông. Người đó ông Lê Hồng Liêm (Sáu Liêm), Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy TP.HCM. Ông Sáu Liêm chẳng nói chẳng rằng, giao cho tôi một tập hồ sơ. Đó là hồ sơ về những sai phạm của ông Bùi Quốc Huy liên quan đến Năm Cam. Tôi hỏi, tôi mượn về được không, ông nói không. Hỏi photocopy rồi trả lại được không, ông cũng nói không, rồi ngồi nói chuyện với anh Khế, mặc tôi muốn làm gì với tập hồ sơ đó thì làm. Tôi ngồi chép lại tất cả, từ ngày tháng, số hiệu hồ sơ cho tới nội dung, chép không sót một dấu chấm dấu phẩy nào.

Từ tài liệu đó cộng với một số nguồn tin khác được xác minh cẩn thận, tôi viết một bài báo dài chỉ 2 trang đánh máy. Anh Khế đã đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần, rồi bàn với tôi liên lạc với cô Mai Nhung, Tổng Biên tập Báo Nông thôn ngày nay (NTNN) để “chia lửa”. Tôi gọi điện bàn với cô Mai Nhung, cô Nhung nhờ tôi viết một bài để NTNN đăng cùng một ngày với Thanh Niên. Khi hai tòa soạn cùng chuẩn bị đưa báo đi in thì 10 giờ đêm anh Khế đến. Anh bảo để NTNN đăng trước một ngày, hôm sau mình sẽ đăng. Tôi gọi điện cho cô Nhung, nhưng cô ấy hiểu nhầm là chúng tôi đưa cô ấy ra trước để “đỡ đạn”, nên NTNN cũng hủy không đăng. Lúc đó đã 12 giờ đêm, anh Khế gọi, nói nếu NTNN không đăng thì mình cho đăng luôn đi, nhưng không kịp vì báo đã đưa đi in rồi. Hôm sau Thanh Niên mới đăng bài đó, nhưng ngày Thanh Niên đăng thì NTNN không có báo, vì báo ấy ra cách ngày. Hôm sau nữa NTNN mới đăng. Cô Mai Nhung là một Tổng biên tập ôn nhu nhưng trung thực và quật cường. Tôi từng nghĩ tôi chỉ có thể làm báo được với hai Tổng biên tập là anh Khế và cô Mai Nhung mà thôi.

Và nếu ai để ý, sẽ thấy trong ngày Thanh Niên đăng bài này thì trên báo Nhân Dân cũng có một bản tin ngắn gọn về ông Bùi Quốc Huy, bản tin đó do chính tôi viết nhưng không ghi tên tác giả, qua một mối quan hệ tin cậy gửi đăng trên Nhân Dân, mục đích cũng là để “chia lửa”. Đến giờ tôi vẫn không hiểu sao Nhân Dân lại có thể đăng được bản tin đó.

Ngày phát hành báo, cả tòa soạn rúng động. Anh Miễn phòng phát hành đến sớm để giao báo, anh nói anh cầm tờ báo mà run. Anh run là đúng rồi, vì Thanh Niên đã bị kiểm điểm lên bờ xuống ruộng suốt nhiều tháng liền, thậm chí sau khi ông Bùi Quốc Huy bị khởi tố thì Thanh Niên vẫn chưa thoát tội. Sau này tôi mới nghe anh Khế nói lại, anh đã đưa cho ông Nguyễn Minh Triết (Sáu Phong) xem bài báo đó trước khi đăng, ông Sáu Phong nói đăng bài đó thì có lợi cho việc chống tội phạm nhưng rất nguy hiểm cho báo Thanh Niên và bản thân anh Khế, nhưng anh Khế vẫn cho đăng, bất chấp tất cả (chuyện này anh Khế cũng đã kể trên trang fb của anh ấy). Mãi đến vài ngày trước khi mở phiên tòa xét xử Năm Cam và đồng phạm thì Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng mới chính thức kết luận báo Thanh Niên không sai phạm.

Trở lại chuyện đại tá Hữu Ngọc. Ông Ngọc tất nhiên chẳng cung cấp tin tức gì về ông Bùi Quốc Huy, nhưng sau khi báo đăng, ông gọi điện cho tôi, bảo bài viết rất tốt nhưng “ngắn quá, sợ không đủ áp lực để xử lý”. Tôi nói, anh có cung cấp tin tức gì đâu mà nói ngắn với dài. Ông Ngọc chỉ cười trừ.

Còn về ông Sáu Liêm, cho đến khi tôi đưa cái stt này đưa lên facebook thì câu chuyện vẫn nằm trong bí mật của ba người : ông ấy, anh Khế và tôi. Cả báo Thanh Niên không ai biết. Tất nhiên dù có đi tù, dù có cứa cổ tôi thì tôi cũng không khai cho ông ấy. Sau vụ án Năm Cam, ông Sáu Liêm được bầu làm Phó Chủ nhiệm Ủy bạn kiểm tra Trung ương Đảng. Tôi rất mừng vì một người cương trực như vậy đã được bầu vào cơ quan quyền uy như thế. Bây giờ ông đã về hưu, nói ra cũng chẳng ai đem cái chuyện ông làm “lộ bí mật” mà cách cái chức nguyên Phó Chủ nhiệm của ông được. Mà dù có cách cái chức nguyên Phó Chủ nhiệm kia thì cũng chẳng có gì nhục nhã như bao người khác, nó chỉ làm tăng thêm vinh dự cho ông mà thôi.

Ở đây có một bài học về xử lý thông tin tôi muốn gửi tới các nhà báo trẻ. Nếu như không phải tôi cùng với Tổng Biên tập tiếp cận trực tiếp tài liệu đó hoặc là tài liệu đó được lưu giữ tại một cơ quan thuộc ngành công an hoặc bị ngành công an chi phối thì nhất định không thể sử dụng. Bởi vì, ông Bùi Quốc Huy, bằng quyền lực của mình, rất có thể ra lệnh phi tang, như vậy chúng tôi sẽ phạm tội bịa đặt. Sở dĩ tài liệu đó có thể sử dụng là vì nó nằm ở một nơi mà ngành công an không thể can thiệp hoặc chi phối.

Chuyện liên quan đến ông Bùi Quốc Huy và vụ Năm Cam vẫn còn nhiều phức tạp đến với chúng tôi, tôi sẽ lần lượt kể tiếp ở phần sau (còn tiếp)

HOÀNG HẢI VÂN


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tư liệu về GS Tương Lai:

Tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam, đảng của Hồ Chí Minh
Tương Lai - 2.9.2017 - Tôi là Tương Lai, vào Đảng Lao Động Việt Nam ngày 6.1.1959, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, sau này đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam, hôm nay 2.9.2017 tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với Đảng của Nguyễn Phú Trọng đang thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam như ngày tuyên thệ đứng vào hàng ngũ Đảng của Hồ Chí Minh.

GS Tương Lai tại buổi lễ tưởng niệm những người con của 
đất nước đã ngã xuống bảo vệ Tổ Quốc. Nguồn: tư liệu
Chọn hôm nay, ngày Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố trước thế giới và với quốc dân đồng bào lý tưởng và mục tiêu chiến đấu nhằm xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thể hiện trong Hiến Pháp 1946 để đưa ra tuyên bố này là nhằm khẳng định lý tưởng và mục tiêu nhất quán của tôi, không hề là một quyết định nhất thời bởi những nhân tố ngẫu nhiên.

Cách nay 15 năm, trong một tiểu luận chính trị “Chân lý là cụ thể”, đúc kết lại những bài viết của tôi trong vòng 10 năm trước, tôi đã chứng minh là không có cái gọi là “chủ nghĩa Mác Lênin”, mà đó chỉ là sản phẩm của Stalin được làm méo mó thêm qua lăng kính Mao-ít để du nhập vào Việt Nam mà xác định đó là “nền tảng tư tưởng”, là “kim chỉ nam”, để rồi ai có ý định nghiêm túc cần cẩn trọng tìm hiểu từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, từ những thành tựu nghiên cứu của giới khoa học quốc tế có uy tín, thì đều bị bịt miệng và quy cho tội phản động, chống đảng.

Trong tiểu luận ấy, tôi đã nghiêm chỉnh và thẳng thắn đề nghị cần trở lại với tên Đảng là Đảng Lao Động Việt Nam, trở lại với tên nước là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho lý luận phát triển của Việt Nam. Ở đó, tôi trình bày rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tích hợp và vận dụng nhuần nhuyễn những thành tựu của trí tuệ loài người, trong đó có Phật giáo, Khổng giáo từng hòa quyện với truyền thống dân tộc đã chìm sâu trong kết cấu hạ tầng tâm lý xã hội Việt Nam và chủ nghĩa Mác. Với Mác, Hồ Chí Minh đã thực hiện một tiếp biến, loại bỏ những sai lầm về lý thuyết, giữ lấy những giá trị bền vững qua kiểm nghiệm của thời gian, tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tinh hoa tư tưởng đó vào thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng con người của Việt Nam. Bằng cách đó, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ lịch sử giữa truyền thống và hiện đại trong thế kỷ XX. Tiểu luận ấy tôi đã gửi đến Hội đồng Lý luận TƯ và nhiều vị lãnh đạo song chỉ có hai người có phản hồi và trao đổi trực tiếp là Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Di bút của Đại tướng còn ghi rõ: “Chúc đc Tương Lai có những đóng góp mới vào lý luận của Đảng” Hànội ngày 27/9/2006. Võ Nguyên Giáp Đã ký”.

Kiên trì dấn thân vào cuộc đấu tranh trên bình diện tư tưởng và lý luận một cách công khai, tôi hy vọng bằng sự minh bạch đó, có thể góp phần nhỏ bé của mình cùng với những người khác làm thay đổi thực trạng của hệ tư tưởng giáo điều, bảo thủ đang dìm đất nước trong trì trệ lạc hậu, làm hao mòn sức sống của dân tộc trước một thế giới đang biến động từng ngày. Đấy là lý do để tôi nhẫn nhục tiếp tục ở lại trong Đảng cho dù biết rằng, những Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, với sự hậu thuẫn trực tiếp của nhà cầm quyền Bắc Kinh đang thao túng Đảng thì không còn gì là Đảng của Hồ Chí Minh nữa. Nhưng cũng lại có một thực tế oái oăm là, hiện nay chưa có một lực lượng chính trị nào đủ mạnh để có thể thay thế được đảng đang nắm quyền bằng hệ thống “chuyên chính vô sản” được cài cắm đến tận cơ sở.

Cho dù vậy, sự phân hóa trong nội bộ các cấp, đặc biệt là ở cấp cao nhất, các nhân tố cấp tiến chống lại sự trì trệ bảo thủ giáo điều cũng là một thực tế. Đó là một tất yếu phổ biến của mọi thực thể sống, luôn diễn ra “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi” mà Hồ Chí Minh đã viết trong Di chúc. Cái mới sẽ thắng là không gì cản được. Bằng sự đấu tranh của từng đảng viên có lương tri, sự quyết liệt của của cuộc đấu tranh đòi dân chủ, đòi quyền sống trong các tầng lớp nhân dân đang dâng lên ngày càng mạnh mẽ thì những gì đã cũ kỹ, hư hỏng trong bộ máy quyền lực duy trì chế độ toàn trị phản dân chủ sẽ bị lật nhào. Vấn đề chỉ còn là thời gian.

Thế nhưng thời gian không chờ đợi. Càng không suôn sẻ trong sự chờ đợi những gì mình mong muốn. Cho dù đã biết trước những trở ngại to lớn đang chờ đón, tôi cũng không lường trước những thủ đoạn bẩn thỉu mà người ta đã gây ra tầng tầng lớp lớp cho thiện chí phản biện hết sức trung thực và thẳng thắn một cách ôn hòa, không sa vào quá khích cực đoan mà tôi đã bền bỉ thực hiện trong nhiều năm qua. Từ những tham luận công khai trên diễn đàn của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam mà tôi là ủy viên TƯ suốt hơn 30 năm qua đến những bài viết trên các báo chính thống, những trang mục thường kỳ của một số báo ở trung ương và ở thành phố HCM, tham luận tại nhiểu hội thảo trong đó có Hội thảo “Về Phương pháp luận nghiên cứu chủ thuyết phát triển và tư tưởng Hồ Chí Minh” theo lời mời của Hội đồng lý luận TƯ ngày 6.4.2009.v.v... và nhiều hoạt động lý luận, khoa học khác, tôi đều nhất quán với nguyên tắc đó. Khi bị cấm không được xuất hiện trên các báo chính thống của nhà nước cũng trên nguyên tắc đó tôi viết bài đưa lên mạng trong mục “Mênh mông thế sự” và “Mênh mông thế sự để gió cuốn đi” nhằm chuyển tải những ý tưởng vừa mang tính phản biện, vừa diễn đạt chính kiến và cảm nhận của tôi về thời cuộc.

Cho đến bài “Ngọn lửa vẫy gọi” tôi viết để tưởng niệm Lưu Hiểu Ba, nhà văn Trung Quốc, giải Nobel Hòa Bình vừa qua đời, phải chăng đã động đến “thiên triều” nên đã có “chiếu chỉ” ban ra, lập tức sự cố nảy sinh.? Có phải vì thế mà một kịch bản được dàn dựng lộ liễu và bẩn thỉu nhằm bôi nhọ tôi để bằng mọi cách phải “khai trừ” tôi ra khỏi đảng ngay để vừa lòng ai đó theo chỉ thị của cấp trên? Đây chỉ là giọt nước tràn ly. Trò hề này thật hài hước và nhục nhã, tuy bước đầu thất bại nhưng chắc chắn sẽ phải thực hiện trong thời gian tới như một số trường hợp họ đã làm trước đây.

Vì vậy sẽ là ngu ngốc nếu tôi lại tiếp tục nói nói cười cười với những rôbốt vô hồn vô cảm, vừa mới hôm qua tôi đã xúc động nói những lời cám ơn thật lòng vì đã thông cảm vởi bệnh tật đang hành hạ người đảng viên già có giấy miễn sinh hoạt đảng đã đến nhà để trao đổi nội dung viết kiểm điểm gửi cho chi ủy trình bày trước chi bộ chứ không phải trực tiếp đến, thì hôm sau trước toàn thể chi bộ, ông bí thư tội nghiệp đã lật lọng vu khống là tôi không chịu đến, chi bộ cứ việc biểu quyết.

Tôi sẽ không phải viết ra những bịa tạc vu khống khác từ những “cấp trên” đến “chỉ đạo” hội nghị chi bộ thực hiện kịch bản soạn sẵn từ bên trên đã bị mấy đảng viên phản đối, mà chỉ muốn nói rằng, những nhẫn nại nhằm thực hiện thiện chí của tôi đã trở nên quá vô nghĩa. Kể cả sự tự kiềm chế để vẫn viết “Bản trình bày” về nội dung “kiểm điểm” được cho là của cấp trên đưa ra đã tự vạch trần sự lố bịch và lộ liễu những sai lầm về đường lối đối nội và đối ngoại, và đến sự kiện này thì quá hèn hạ. ** Sẽ phung phí thời gian và sức lực để phải tiếp xúc với vô vàn những “rô bốt” đáng thương chỉ biết cúi đầu tuân phục. Đã đến lúc phải dứt bỏ mọi dính líu với mớ hỗn tạp này.

Tôi phải tìm một phương thức đấu tranh mới. Tôi sẽ chiến đấu trong tư thế, và chỉ bằng tư thế đó của một đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam của Hồ Chí Minh suốt mấy chục năm qua kể từ lúc vào Đảng cho đến những thời kỳ tha hóa ngày càng trầm trọng của một bộ phận chóp bu thao túng, làm băng hoại uy tín và tính chất trong sáng của Đảng, đặc biệt là từ đại hội X.

Tôi hiểu rõ tôi không hề đơn độc. Trong Đảng còn nhiều đảng viên giữ được lý tưởng và phẩm cách đảng viên Đảng của Hồ Chí Minh, họ đã và đang thầm lặng nung nấu ý chí chiến đấu và bằng những cách riêng của mỗi người đã, đang và sẽ đấu tranh làm cho Đảng trong sạch trở lại, xứng đáng với vai trò lịch sử mà Đảng của Hồ Chí Minh từng có để cùng dân tộc đi tới trong bối cảnh mới. Đương nhiên, trong bối cảnh mới ấy, mục tiêu và phương thức đấu tranh phải thích ứng với đòi hỏi mới của cuộc sống đang thay đổi từng giây từng phút để dẫn tới những đột phá.

Khát vọng xây dựng đất nước của lớp người đã ngoài 80 là những người lót đường như tôi “sẽ được quyết định khi một thế hệ mới sẽ lớn lên…Khi những con người như thế xuất hiện, họ sẽ vứt bỏ tất cả những điều mà theo quan niệm hiện nay họ phải làm: họ sẽ tự biết cần phải làm như thế nào” như F. Engel đã tiên đoán. Những con người như thế đang xuất hiện, và ngày càng nhiều. Chính họ sẽ quyết định cần phải xây dựng một Đảng lãnh đạo thế nào để đưa đất nước vượt khỏi vũng lầy hiện nay, khiến cho dân tộc đang phải đắm chìm trong tăm tối bứt lên trong ánh sáng văn minh, ngẩng cao đầu đi tới như ông cha ta đã từng viết nên những trang sử chói lọi trong thời đại của các vị. Lớp trẻ ấy sẽ quyết định vận mệnh của đất nước, đưa dân tộc bứt lên cùng thế giới.

Với nhận thức đó, tôi tiếp tục dấn bước trong cảm hứng “Hành khúc” của nhà thơ Pháp từng giữ nhịp đập cho trái tim yêu nước trong tôi “Giữa mùa phản phúc. Tối đen tù ngục. Suối đã đục dòng. Chỉ lệ còn trong … Những gì ta yêu phải cứu thoát ra. Tự mình ta, tự mình ta”!

Ngày 2.9.2017
Tương Lai
(Bauxitevn)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đã có lúc câu thơ buồn, vị đắng:


VŨ TỪ TRANG
BAY
Đôi khi anh bay lưng trời
hai cánh vẫy vùng cùng chuồn chuồn kim, sẻ đồng, cùng rau rệu,
rau lang, cả cây mít cây na góc vườn vừa bói quả
anh bay bằng cánh đồng đầm sen vào hạ, những cánh hoa, những búp sen
và tơ sen bỡ ngỡ
có khi bay bằng phúc đức mẹ cha phù hộ
và nhiều khi bay cùng trang sách cũ
những ông Đôtx, ông L.Tônxtôi, ông Pautôpxki, ông Nguyễn Du và cô Kiều
ân cần nâng đỡ
câu thơ tơ trời cao cao mặt đất cần lao.
Cả những gì anh đã khát khao
bay lên từ phận đời lam lũ
mây thanh tân và gió phong lưu
nắng mật ong nhuộm hồn thu ngây ngất.
Rồi giữa chặng bay, bỗng dưng anh chết
chết như động cơ máy bay nổ tung trên vòm trời
chết như hạnh phúc đỉnh cao chót vót
chết như nỗi buồn bong bóng tuổi thơ vỡ tan.
7-2017

VŨ TỪTRANG
DÂY NỐI
Lúc chào đời, bé bỏng sinh linh con được mẹ truyền sự sống
bằng sợi nhau nối liền cuống rốn
mẹ chắt lọc bao tinh túy, bổ dưỡng từ thân thể mẹ cho con
gạt hết đắng cay, mẹ dành ngọt ngào
con lớn lên từ sợi dây nhau yêu thương của mẹ.
Nay con lâm bệnh
mẹ không còn để che chở cho con
sự sống của con lại được nối với dây truyền hóa trị
thuốc đắng dã tật
thân thể con mong manh nuốt từng dòng thuốc độc
cái độc ác, tối tăm này có cứu được đời con?
sao nó ngược với dây nhau ngọt ngào của mẹ thương con.
7-2017
Phần nhận xét hiển thị trên trang