Biên dịch: Hoàng Lan
Ngoại giao về cơ bản được quyết định bởi thực lực quốc gia. Nhưng không có nghĩa là có thực lực thì có thể làm tốt ngoại giao, ở đây còn có một vấn đề làm thế nào để vận dụng thực lực, việc này liên quan đến tư tưởng, chiến lược và sách lược ngoại giao.
Những năm gần đây cùng với việc nâng cao thực lực quốc gia, phong cách ngoại giao của Trung Quốc cũng có sự thay đổi rất lớn, từ tương đối bảo thủ trước đây chuyển sang tích cực dám nghĩ dám làm, nhưng việc tích cực mạnh dạn này lại không mang lại hiệu quả như mong đợi, trái lại, ở mức độ nào đó khiến cho môi trường tổng thể của Trung Quốc trở nên xấu đi. Ở đây có nhân tố dư luận bên ngoài chưa thể thích ứng với việc nâng cao thực lực của Trung Quốc, tuy nhiên phần nhiều là do bản thân Trung Quốc gây ra. Nói một cách đơn giản ngoại giao Trung Quốc mang lại cho người ta cảm giác “sợ nhưng không phục”, làm người ta sợ thì dễ, bởi thực lực của bạn đặt ở đó, người ta đương nhiên sợ bạn, giống như đứa trẻ sợ người lớn vậy, đây là một phản ứng tự nhiên nảy sinh bởi thực lực quốc gia, nhưng đồng thời với sự sợ hãi, làm cho người ta tôn kính hay nể phục thì rất khó.
Mỹ là bá chủ toàn cầu, nói một cách tương đối, Mỹ xử lý rất tốt mối quan hệ giữa “sợ” và “phục”, làm cho cả thế giới “vừa sợ vừa phục”. Ngoại giao Trung Quốc muốn đạt đến trình độ này, về mặt tư tưởng và thực tiễn ngoại giao cần phải có một sự thay đổi hệ thống, đặc biệt là phải có sự điều chỉnh lớn trong việc xử lý 9 vấn đề dưới dây:
Thứ nhất, thay đổi tư duy và tâm lý đối đầu ngoại giao với Mỹ, điều chỉnh quan hệ Trung-Mỹ
Nếu quan hệ Trung-Mỹ không phải là mối quan hệ quan trọng nhất trên thế giới hiện nay thì cũng là một trong những mối quan hệ quan trọng nhất. Nhưng tầm quan trọng này không phải là đồng đẳng đối với hai bên, Trung Quốc cần Mỹ nhiều hơn so với Mỹ cần Trung Quốc, vì vậy trong cuộc hội kiến với Donald Trump, ông Tập Cận Bình đã nói Trung – Mỹ có hàng nghìn lý do để có mối quan hệ tốt đẹp, không có lý do gì để làm xấu đi mối quan hệ này. Đáng tiếc là trong ngoại giao đối với Mỹ, Trung Quốc thường không để ý đến lời khuyên bảo chân thành này, dùng một tư duy và tâm lý đối đầu để xử lý quan hệ với Mỹ, đặc biệt là trong một số vấn đề nan giải.
Với tư cách là bá chủ toàn cầu, việc Mỹ giữ cảnh giác đối với bất kỳ hành động nào thách thức địa vị bá quyền của mình là có thể hiểu được, Trung Quốc với tư cách là nước lớn trỗi dậy có chế độ xã hội khác với Mỹ, về mặt khách quan sẽ bị Mỹ coi là người khiêu khích, nhưng bản thân Trung Quốc lại hoàn toàn không có ý đồ thách thức bá quyền của Mỹ, bởi một khi có ý đồ này, về mặt tư duy và hành động sẽ biến thành “hễ là Mỹ chắc chắn sẽ phản đối”. Nói như vậy không phải là muốn Trung Quốc luôn hùa theo Mỹ, đối với lợi ích quốc gia của mình đương nhiên phải kiên quyết và giữ kiên định, nhưng phải thực hiện có lý lẽ có căn cứ, phù hợp với luật pháp quốc tế và quy tắc ứng xử quốc tế; đồng thời, không cần phải phô trương thanh thế, phải biết thỏa hiệp và nhún nhường, “ngoại giao phô trương thanh thế” sẽ chỉ có hại cho bản thân.
Đây không đơn giản chỉ là một sự vận dụng sách lược khi thực lực quốc gia không đủ, không đối đầu được với Mỹ, buộc phải trở thành chiến lược quốc gia, kiên trì lâu dài, cho dù trong tương lai có đủ thực lực cũng không được có ý đồ thách thức và thay đổi trật tự toàn cầu dưới sự chủ đạo của Mỹ, chính sách ngoại giao đối với Mỹ cần phải hợp tác lớn hơn đối đầu, làm tốt việc mà nước lớn thứ hai nên làm – nếu Trung Quốc là nước lớn thứ hai. Chỉ khi hiểu được chiến lược lớn thì việc xử lý đối với các vấn đề cụ thể mới không bị mất phương hướng. Đây là một điểm mà ngoại giao Trung Quốc trước tiên phải thay đổi.
Thứ hai, thay đổi chính sách ngoại giao “thù Nhật, ghét Hàn”, thực thi chính sách hòa giải với Nhật Bản, hữu hảo với Hàn Quốc
Trung Quốc và Nhật Bản cùng là hai nước mạnh là cục diện chưa từng có ở Đông Á, điều này dẫn đến Trung Quốc và Nhật Bản chưa thể thích ứng được với đối phương. Đối với Trung Quốc, do nguyên nhân lịch sử và hiện thực, trong gần 10 năm qua, chính sách ngoại giao đối với Nhật Bản của Trung Quốc vẫn chưa thoát khỏi trạng thái “thù hận Nhật Bản”, “ghét Nhật Bản”.
Đối với thái độ xử lý vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku của Nhật Bản, Trung Quốc đương nhiên phải chỉ trích và phản kích, nhưng không nên để vấn đề lịch sử trói buộc ngoại giao hai nước, gây rối cục diện phát triển của hai nước, cũng không nên truyền bá tư tưởng giáo dục thù ghét Nhật Bản một cách sai lầm. Việc xử lý đối với vấn đề đảo Điếu Ngư/Senkaku cũng như vậy, duy trì cách tiếp cận lộ trình kép, đó là tách chúng ra, không trói buộc vào toàn bộ quan hệ Trung-Nhật, ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ và hợp tác trong các lĩnh vực khác giữa hai nước. Trung Quốc và Nhật Bản cần phải chủ động hòa giải, chứ không phải là thù hận lẫn nhau.
Trung Quốc cũng nên quan hệ tốt với Hàn Quốc, hiện trạng thái bất thường do vấn đề Hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) dẫn đến quan hệ hai nước nhanh chóng sụt giảm cần phải thay đổi. THAAD tuy có gây tổn hại đối với Trung Quốc, nhưng sự tổn hại này so với đại cục quan hệ Trung-Hàn và lợi ích của Trung Quốc trên cả Đông Bắc Á và bán đảo Triều Tiên chỉ đứng thứ hai. Do vậy, không thể vì THAAD mà ảnh hưởng đến cục diện hợp tác giữa hai nước, Trung Quốc có thể bày tỏ thái độ phản đối đối với THAAD, nhưng không nên áp dụng biện pháp kinh tế đặc biệt xúi giục người dân phản đối và trừng phạt Hàn Quốc, làm như vậy sẽ chỉ làm cho Trung Quốc mất đi mối quan hệ với Hàn Quốc. Cần phải kéo dài chính sách “hữu hảo” với Hàn Quốc, đi sâu hợp tác giao lưu giữa hai nước trong các lĩnh vực kinh tế, dân sự thậm chí an ninh quân sự.
Thứ ba, thay đổi thái độ giữ bình tĩnh đối với Triều Tiên, tăng cường các biện pháp trừng phạt đối với nước này
Trái với việc phải duy trì hợp tác hữu hảo với Hàn Quốc, đối với Triều Tiên lại phải áp dụng biện pháp nghiêm khắc nhằm hối thúc nước này từ bỏ vũ khí hạt nhân.
Mấy năm gần đây, thái độ và chính sách đối với Triều Tiên của Trung Quốc đã thoát khỏi tình hữu nghị vô căn cứ và việc nắm giữ ý thức hệ trước đây, bắt đầu trở nên thiết thực, nhưng sự thay đổi này vẫn không triệt để, chưa hoàn toàn xuất phát từ lợi ích quốc gia, mà chịu ảnh hưởng từ nhân tố địa chính trị và ý thức hệ nên vẫn chưa giải quyết dứt điểm. Thái độ thỏa hiệp của Trung Quốc đối với Triều Tiên thể hiện ở việc do lo ngại tình hình trong nước Triều Tiên rối ren và dẫn đến sụp đổ nên tạm thời chưa xử lý đến vấn đề trừng phạt Triều Tiên, vẫn có phần bênh vực Triều Tiên.
Nếu Triều Tiên không phải là một quốc gia “cứng đầu”, dựa vào tính chất và quan hệ láng giềng của Chính quyền Triều Tiên, Trung Quốc có thể và cần phải tiến hành bênh vực ở mức độ nhất định đối với nước này, nhưng vấn đề là sự thực chứng minh sự bênh vực và giúp đỡ của Trung Quốc đối với Triều Tiên mấy năm qua vừa không mang lại sự chuyển biến tốt cho Triều Tiên, vừa gây tổn hại đến lợi ích của Trung Quốc, khiến cho bản thân Trung Quốc rất bị động. Đối với Chính quyền Triều Tiên, về cơ bản không thể gửi gắm hy vọng cải thiện, chỉ có duy trì không ngừng gây sức ép cao độ thì mới có thể buộc nước này từ bỏ vũ khí hạt nhân, thay đổi tình trạng nước này.
Thứ tư, thay đổi quan hệ bán đồng minh với Nga, không quá gần gũi với Nga
Trong lịch sử cận hiện đại của Trung Quốc, có hai quốc gia có ảnh hưởng lớn nhất đối với Trung Quốc, một là Mỹ và nước còn lại chính là Nga. Nhưng ảnh hưởng của Mỹ đối với Trung Quốc thể hiện rõ chiều hướng tích cực, còn ảnh hưởng của Nga đối với Trung Quốc lại thể hiện mặt tiêu cực nhiều hơn.
Kể từ thế kỷ này, xuất phát từ nhu cầu cùng chống Mỹ, Trung Quốc và Nga nhanh chóng tiếp cận, đặc biệt là mấy năm gần đây, hai nước ngày càng qua lại gần gũi, thể hiện rõ một loại quan hệ bán đồng minh. Nếu hai nước coi việc hợp tác hỗ trợ lẫn nhau là một sự vận dụng sách lược chống lại Mỹ thì có thể hiểu được, nhưng đối với Trung Quốc phải tránh việc tiếp cận với Nga trở thành chiến lược, biến thành quan hệ đồng minh hoặc bán đồng minh để đối đầu với Mỹ.
Ở đây không bàn đến việc trong lịch sử, chỉ riêng việc xem xét từ thực tế, một là trong việc hợp tác hỗ trợ lẫn nhau giữa Trung Quốc và Nga, xét từ kinh nghiệm mười mấy năm qua, không thay đổi được cục diện “Nga chủ trì, Trung Quốc phục tùng”; hai là Nga cũng có tâm lý đề phòng Trung Quốc. Chẳng hạn, về mặt bán vũ khí tiên tiến, hợp tác năng lượng và tranh giành quyền lãnh đạo Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), Nga luôn đề phòng Trung Quốc, đã làm rất nhiều chuyện mờ ám nhằm hại Trung Quốc, như ra sức lôi kéo Ấn Độ vốn không hứng thú với SCO tham gia nhằm kiềm chế Trung Quốc; ba là trong quan hệ với Mỹ và Liên minh châu Âu (EU), mâu thuẫn giữa Nga và các nước này lớn hơn mâu thuẫn giữa Trung Quốc với các nước này, việc hợp tác Trung-Nga có khả năng khiến cho Trung Quốc trở thành một quân cờ để Nga đối đầu với Mỹ và EU; bốn là trong quan hệ Trung-Nga, Trung Quốc muốn được hưởng lợi nhiều hơn là đầu tư mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau này. Lợi ích chung Trung-Nga không bằng lợi ích chung Trung-Mỹ, vì vậy, Trung Quốc phải ý thức được rằng việc kết quan hệ bán đồng minh với Nga đối với lợi ích chiến lược của Trung Quốc mất nhiều hơn được, cần phải thay đổi tình hình này.
Thứ năm, thay đổi nguyên tắc không can thiệp công việc nội bộ của nhau, làm một nước lớn toàn cầu có trách nhiệm
Đây không phải là nói Trung Quốc là nước không có trách nhiệm, mà nghĩa là trách nhiệm này nhất định phải tăng lên cùng với thực lực quốc gia của Trung Quốc, tức là tương xứng với nền kinh tế lớn thứ hai toàn cầu và nước lớn mới nổi. Cần phải thừa nhận rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc đã hưởng thụ miễn phí từ hệ thống toàn cầu, tận dụng tối đa ưu thế của hệ thống quốc tế hiện hành có lợi cho Trung Quốc. Trung Quốc muốn phát huy vai trò lớn hơn trong cộng đồng quốc tế, chiếm vị trí quan trọng hơn trong hệ thống quản trị toàn cầu thì phải dùng năng lực bản thân để phản hồi cộng đồng quốc tế, cung cấp sản phẩm công cộng nhiều hơn, tốt hơn cho toàn cầu, bao gồm việc cải thiện điểm bất hợp lý, không công bằng trong hệ thống quốc tế hiện hành. Muốn làm được điều này, Trung Quốc phải thay đổi nguyên tắc không can thiệp công việc nội bộ của nhau vốn được xem là nền tảng ngoại giao mấy chục năm qua.
Không can thiệp công việc nội bộ của nhau thường được cổ xúy khi thực lực quốc gia của một nước nhỏ yếu và tồn tại sự thiếu hụt đạo đức, hoặc không muốn gánh vác nghĩa vụ quốc tế. Nguyên tắc này vào mấy chục năm trước đã giúp Trung Quốc giành được một số lượng lớn bạn bè ở thế giới thứ ba. Trung Quốc vừa tự nhận là đang trỗi dậy, trong thực tiễn ngoại giao vẫn còn giữ khư khư nguyên tắc này thì không những sẽ bị cộng đồng quốc tế coi là một thành viên không có trách nhiệm, mà về mặt khách quan sẽ còn trói buộc và hạn chế Trung Quốc phát huy vai trò nước lớn. Đương nhiên, từ bỏ nguyên tắc không can thiệp công việc nội bộ của nhau không phải là khuyến khích Trung Quốc tùy tiện can thiệp công việc nội bộ của người ta, hoặc lấy đó làm cái cớ để thực thi bá quyền, mà là khi cộng đồng quốc tế nảy sinh sự việc bất công phải dũng cảm giương cao chính nghĩa
Thứ sáu, thay đổi ngoại giao ý thức hệ, xóa bỏ màu sắc dân tộc chủ nghĩa trong ngoại giao
Thành phần ý thức hệ trong ngoại giao Trung Quốc luôn nặng nề, tuy dựa vào tình hình quốc tế và môi trường quốc tế mà Trung Quốc phải đối mặt, nhưng ở mức độ rất lớn là dùng ý thức hệ để chỉ đạo kết quả ngoại giao.
Sau khi cải cách, ngoại giao ý thức hệ này đã có sự thay đổi rất lớn, ở một số thời điểm nào đó xuất hiện với hình thức mới đối với một số quốc gia nào đó, điều này biểu hiện rất rõ rệt trong mấy năm gần đây. Ngoại giao ý thức hệ không phải là một kiểu ngoại giao xuất phát từ sự phải trái đúng sai của bản thân sự việc và lợi ích quốc gia, mà là quan niệm giá trị và nhu cầu do đảng cầm quyền chỉ định đặc biệt: thực thi các khái niệm ngoại giao nếu “kẻ địch” phản đối thì mình ủng hộ, còn “kẻ địch” tán thành thì mình sẽ phản đối. Chính sách ngoại giao của Trung Quốc đối với Mỹ, Nhật Bản, Nga, Triều Tiên cũng như một số quốc gia ở Trung Đông, châu Phi và Mỹ Latinh như Venezuela mang đậm màu sắc ý thức hệ.
Ngoại giao giá trị quan muốn tránh được hoàn toàn rất khó, nhưng không được mở rộng, cực đoan hóa ngoại giao giá trị quan, nâng lên thành ngoại giao ý thức hệ, dùng ý thức hệ để phác họa, biến thành một kiểu ngoại giao bảo thủ, dẫn đến lợi ích quốc gia hoàn toàn bị ý thức hệ trói buộc. Trung Quốc từng chịu thiệt thòi rất lớn trên phương diện này, hiện vẫn chưa rút ra được bài học.
Ngoài ngoại giao ý thức hệ, cùng với việc tăng cường thực lực quốc gia của Trung Quốc, Trung Quốc lại xuất hiện ngoại giao dân tộc chủ nghĩa, ngoại giao phục vụ cho lợi ích dân tộc thì không có gì sai, nhưng không được đưa lợi ích của dân tộc mình vượt lên trên lợi ích của dân tộc khác, càng không thể lấy cớ lợi ích dân tộc, thực thi ngoại giao cường quyền. Trên thực tế, lợi ích dân tộc của Trung Quốc ở mức độ rất lớn biến thành một cái cớ để phục vụ cho nhóm lợi ích đặc biệt, xét về vấn đề này, ngoại giao dân tộc chủ nghĩa là một biến tướng của ngoại giao ý thức hệ hiện nay, rất khó tách biệt rõ ràng hai vấn đề này.
Thứ bảy, thay đổi biện pháp “thọc gậy bánh xe” đối với các nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan, không nên làm nổi rõ nguyên tắc “Một Trung Quốc”, không chiến tranh ngoại giao với Đài Loan
Quan hệ giữa Đại lục và Đài Loan tuy không phải là quan hệ quốc gia, nhưng việc xử lý quan hệ giữa hai bờ eo biển cũng liên quan đến ngoại giao. Việc Panama thiết lập quan hệ ngoại giao của Trung Quốc thời gian gần đây đã gây chấn động rất lớn đối với Đài Loan.
Nếu nói Panama do vị trí địa lý đặc thù và việc thiết lập quan hệ ngoại giao với nước này có giá trị đối với Đại lục thì việc “thọc gậy bánh xe” đối với các nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan chỉ thuần túy là để trừng phạt và trả thù Đài Loan. Nhưng làm như vậy sẽ chỉ khiến cho Đài Loan xa cách Đại lục hơn nữa, cho dù Đại lục không hề để ý đến vấn đề này, việc lôi kéo toàn bộ các nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan cũng sẽ không thể gia tăng vị thế quốc tế và lợi ích quốc gia của Đại lục, trái lại phải bỏ ra nhiều chi phí cho vấn đề này.
Bởi các nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan ngoài rất ít quốc gia có tầm ảnh hưởng như Tòa thánh Vatican…, phần lớn đều là các quốc gia nhỏ và nghèo mà người ta không nhớ nổi tên. Cho dù thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước đó thì cũng không có ý nghĩa lớn đối với Đại lục. Trái lại, để thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước này, Đại lục lại phải bỏ ra không ít nguồn lực. Những nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan này còn bao gồm đa số nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Đại lục, đều có tâm lý chủ nghĩa cơ hội, “dao động” giữa hai bờ eo biển Đài Loan, lấy nguyên tắc “Một Trung Quốc” làm mồi nhử để sách nhiễu hai bờ eo biển.
Tình hình này hoàn toàn là hậu quả của việc kiên trì cứng nhắc nguyên tắc “Một Trung Quốc”. Các nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan hiện nay chỉ còn lại 20 nước, cho dù để Đài Loan phát triển quan hệ ngoại giao với các nước đó cũng không thể làm thay đổi được nhận thức của cộng đồng quốc tế đối với nguyên tắc “Một Trung Quốc” và vị thế quốc tế của Đài Loan. Nếu Đài Loan không chịu thừa nhận “Nhận thức chung 1992” thì Đại lục chỉ cần nắm chắc điểm tới hạn là được, tức là đối với Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc cũng như các tổ chức quốc tế khác mà Đại lục tham gia và cả các nước thiết lập quan hệ ngoại giao với Đại lục, yêu cầu họ phải giữ vững nguyên tắc “Một Trung Quốc”, không phát triển quan hệ chính thức với Đài Loan. Đây là trách nhiệm và nghĩa vụ của họ, mà không cần thiết phải “thọc gậy bánh xe” các nước có quan hệ ngoại giao với Đài Loan, ngăn chặn không gian quốc tế của Đài Loan. Nếu có quốc gia và tổ chức quốc tế nào do dự, dùng nguyên tắc “Một Trung Quốc” để thách thức và sách nhiễu Đại lục thì Đại lục có thể cân nhắc gia tăng răn đe.
Hiện trạng trước mắt là do Đại lục quá nhấn mạnh nguyên tắc “Một Trung Quốc”, dẫn đến rất nhiều nước cho rằng có kẽ hở để lợi dụng, đòi hỏi không có điểm dừng đối với Trung Quốc. Và để viết trên thông cáo ngoại giao “Đài Loan là một bộ phận không thể tách rời với Trung Quốc”, hàng năm Trung Quốc đều phải trả nhiều cái giá đặc biệt. “Ngoại giao vung tiền” bị chỉ trích đều được sử dụng ở phương diện này.
Nếu như trước đây Trung Quốc vì thực lực quốc gia tương đối yếu, không có công cụ hữu hiệu nào để đối phó và trừng phạt những quốc gia có ý đồ “ăn hai mang”, vậy thì giờ đây trong hòm công cụ của Trung Quốc có rất nhiều công cụ trừng phạt có thể vận dụng. Trong trường hợp này, tin rằng đại đa số quốc gia do lợi ích của mình đều có thể sáng suốt đưa ra lựa chọn, hoàn toàn không cần thiết phải lần nào cũng nhấn mạnh, muốn người ta thừa nhận “Một Trung Quốc”, lãng phí một số lượng lớn nguồn lực quốc gia. Vì vậy, cần phải cho Đài Loan một khoảng không gian quốc tế ra sao?
Thứ tám, thay đổi đúng lúc thái độ không tiếp xúc, không đàm phán với Đạtlai Lạtma, né tránh yêu cầu đòi độc lập đang trở nên gay gắt của Tây Tạng
Giống như Đài Loan, Tây Tạng cũng đã khiến Trung Quốc phải chi trả một khoản lớn chi phí không cần thiết. Một biểu hiện nổi bật về mặt ngoại giao trong vấn đề Tây Tạng chính là thái độ đối với Đạtlai Lạtma.
Do Trung Quốc xác định Đạtlai Lạtma là một phần tử chia rẽ dân tộc, không cho phép người đứng đầu và quan chức chính phủ các nước dùng tư cách nhà nước để tiếp xúc với Đạtlai Lạtma, nếu không sẽ bị coi là can thiệp công việc nội bộ của Trung Quốc, từ đó dẫn đến quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và một số quốc gia xảy ra rắc rối. Điển hình nhất là nước Anh, trong thời kỳ Chính quyền Cameron, vì Cameron hội kiến với Đạtlai Lạtma bất chấp sự phản đối của Trung Quốc, khiến cho quan hệ Trung-Anh bị thụt lùi toàn diện. Ngoài ra, nhà lãnh đạo của một số nước phương Tây trong đó có Pháp, Canada, Mỹ cũng vì hội kiến với Đạtlai Lạtma mà gây tổn hại đến quan hệ song phương ở mức độ khác nhau.
Lý do Trung Quốc chỉ trích Đạtlai Lạtma là do Trung Quốc cho rằng ông là một phần tử chia rẽ dân tộc khoác chiếc áo tôn giáo, nhưng trên cộng đồng quốc tế, Đạtlai Lạtma lại là lãnh tụ tôn giáo có tầm ảnh hưởng thế giới. Các nhà lãnh đạo phương Tây khi hội kiến với Đạtlai Lạtma đều nhấn mạnh đến vai trò lãnh tụ tôn giáo của ông. Sự khác biệt về mặt nhận thức thân phận đối với Đạtlai Lạtma khiến cho Trung Quốc thường phải bỏ ra chi phí ngoại giao quá mức để ngăn chặn các nhà lãnh đạo và quan chức chính phủ của các quốc gia khác hội kiến Đạtlai Lạtma. Giải quyết vấn đề then chốt này là không được làm nổi bật quá thân phận chính trị của Đạtlai Lạtma, nhìn thẳng vào sự tồn tại và tầm ảnh hưởng tôn giáo của Đạtlai Lạtma, thay đổi kịp thời thái độ không tiếp xúc, không đàm phán đối với Đạtlai Lạtma.
Đối với Đạtlai Lạtma, hiện Trung Quốc áp dụng biện pháp “chờ đợi thời cơ”, cho rằng đợi sau khi Đạtlai Lạtma viên tịch thì vấn đề Tây Tạng tự khắc sẽ được giải quyết, cách nghĩ này quá ngây thơ, bởi không có sự bảo hộ tinh thần của Đạtlai Lạtma – người theo chủ nghĩa hòa bình này – thì chính quyền lưu vong Tây Tạng trong vấn đề độc lập sẽ chỉ trở nên cấp tiến hơn, sự bất mãn của người dân tộc Tạng cũng có thể sẽ gia tăng hơn nữa, sẽ kéo rộng khoảng cách hơn nữa khiến cho vấn đề Tây Tạng có thể xấu đi.
Thứ chín, thay đổi khái niệm một mình hưởng thụ Biển Đông, thừa nhận hiện trạng, gác lại tranh chấp, cùng khai thác, bảo vệ hòa bình và tự do hàng hải ở Biển Đông
Kể từ sau khi Philippines đưa ra vụ kiện Biển Đông ra Tòa Trọng tài và được sự tán thành của Tòa Trọng tài, Trung Quốc trên thực tế ở trạng thái bị động, chỉ có điều tân Chính phủ Philippines đã thay đổi chính sách đối đầu với Trung Quốc của người tiền nhiệm, khiến cho vấn đề Biển Đông không bị xấu đi thêm nữa, nhưng trạng thái bị động về mặt pháp lý vẫn không thay đổi.
Nói một cách khách quan, trừ phi sử dụng vũ lực, nếu không Trung Quốc không thể “một mình hưởng thụ” hoàn toàn Biển Đông. Do vậy, đối với Trung Quốc và các nước có yêu sách chủ quyền ở Biển Đông, một phương thức giải quyết hợp lý có thể tính đến lợi ích các bên là chấp nhận nguyên trạng, gác lại tranh chấp, cùng khai thác nguồn tài nguyên và bảo vệ hòa bình ở Biển Đông.
Trung Quốc với tư cách là quốc gia lớn nhất và có thực lực mạnh nhất ở Biển Đông, nên dẫn đầu đề xướng thành lập một Cộng đồng năng lượng Biển Đông cùng chia sẻ nguồn tài nguyên dầu khí, kết hợp cùng khai thác dầu mỏ ở Biển Đông, đồng thời xác lập tỷ lệ phân chia lợi ích hợp lý căn cứ vào số tiền đầu tư. Trước đây trên phương diện này do bị hạn chế ở kỹ thuật khai thác dầu mỏ, các nước trong khu vực không thể hợp tác được với nhau, mà là hợp tác khai thác cùng với các công ty dầu mỏ của các nước ngoài khu vực. Hiện Trung Quốc đã có đầy đủ khả năng thăm dò biển sâu và kỹ thuật khai thác, các bên liên quan ở Biển Đông hoàn toàn có thể thành lập một Cộng đồng năng lượng, cùng khai thác.
Ngoài ra, để ứng phó với an ninh trên biển, phòng chống cướp biển, bảo vệ tự do hàng hải, Trung Quốc cũng có thể dẫn đầu các nước có yêu sách chủ quyền, thiết lập đội ngũ thực thi pháp luật và cơ chế hợp tác an ninh trên biển ở Biển Đông.
Tóm lại, trên cơ sở thừa nhận lợi ích của các bên ở Biển Đông, bắt tay hợp tác từ năng lượng và kinh tế, mở rộng đến lĩnh vực an ninh chính trị, thiết lập cơ chế hợp tác, xây dựng cộng đồng lợi ích ở Biển Đông, đồng thời dùng hình thức hiệp ước để ràng buộc, khiến cho các bên ở Biển Đông được hưởng lợi từ trong hợp tác, xóa bỏ sự lo ngại của họ đối với Trung Quốc thì mới có thể thật sự gác lại tranh chấp chủ quyền, biến Biển Đông thành vùng biển hòa bình và hợp tác. Còn hòa bình an ninh và tự do hàng hải ở Biển Đông cũng sẽ là sự đảm bảo lớn nhất đối với lợi ích của Trung Quốc. Mục đích cuối cùng của Trung Quốc chẳng phải là như vậy sao?
Vấn đề ngoại giao của Trung Quốc đương nhiên không chỉ biểu hiện ở 9 điểm nói trên. Nhưng nếu trong 9 điểm này có một sự thay đổi lớn thì ngoại giao Trung Quốc sẽ có một diện mạo hoàn toàn mới. Sự tôn trọng của mọi người đối với Trung Quốc sẽ tăng lên, Trung Quốc cũng sẽ có tầm ảnh hưởng lớn hơn đối với thế giới. Nói thẳng ra là sở dĩ ngoại giao phải thay đổi là vì Trung Quốc không còn là Trung Quốc của mười mấy năm trước nữa, sau khi thực lực quốc gia của Trung Quốc tăng cường hơn nữa, Trung Quốc phải trở thành một quốc gia “quân tử” khiêm nhường có trách nhiệm đối với thế giới, chứ không phải là một quốc gia ngang ngược sử dụng sức mạnh tàn bạo.
Nguồn: Nghiên cứu Biển Đông
Phần nhận xét hiển thị trên trang