Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 21 tháng 3, 2017

Vương triều Đại Lý



dai-ly
Hoàng gia Đại Lý
Thiên Tường
Người mở nghiệp vương triều Đại Lý
Trong “Xạ điêu anh hùng truyện”, Nhất Đăng đại sư nói với Quách Tĩnh và Hoàng Dung rằng: “Nước Đại Lý ta từ Thần Thánh Văn Vũ đế Thái tổ dựng nước là năm Đinh Dậu, so với lúc Tống Thái tổ Triệu Khuông Dẫn làm binh biến ở Trần Kiều khoác hoàng bào thì sớm hơn 23 năm…”.
Hai lần đánh bại quân nhà Đường
“Thần Thánh Văn Vũ đế Thái tổ” mà Nhất Đăng Đoàn Hưng Trí nói ở đây chính là Đoàn Tư Bình, người sáng lập vương triều Đại Lý. Cũng theo lời Nhất Đăng đại sư thì: “Họ Đoàn ta có nhân duyên tốt đẹp, chỉ là viên tiểu lại ở biên cương mà trộm được ngôi vua. Mỗi đời đều tự biết tài đức của mình quả thật không đủ để đảm đương việc lớn, nên trước sau run run sợ sợ, không dám có chỗ nào quá phận”. Sự thật thế nào?
Vùng Nhĩ Hải, Thương Sơn của Vân Nam xưa là nơi định cư của tiên dân các tộc người Di, Bạch (Bạch man, Ô man). Đến đầu đời Đường thì khu Đại Lý đã trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Vân Nam (đất Điền). Năm 738, Mông Bì La Các là thủ lĩnh của Mông Xá Chiếu (“chiếu” là bộ tộc, tiểu vương quốc) được nhà Đường giúp đỡ đã thâu tóm 5 chiếu còn lại, hình thành nhà nước Nam Chiếu. Trong quá trình phát triển của mình, Nam Chiếu không ngừng mở rộng lãnh thổ và họ Đoàn dần trở thành danh môn vọng tộc, đứng đầu các đại tộc Cao, Dương, Triệu, Lý, Đổng.
Tổ tiên của họ Đoàn ở Đại Lý có giả thiết là người tộc Khương hoặc dòng dõi của Cộng Thúc Đoàn của Trịnh Trang Công thời Xuân Thu chiến quốc. Theo GS Trương Tích Lộc, Chủ tịch Hội Nghiên cứu kế thừa và phát triển văn hóa lịch sử Nam Chiếu – Đại Lý tỉnh Vân Nam, thủy tổ họ Đoàn ở Đại Lý là Đoàn Kiệm Ngụy, người Bạch man, gốc Vũ Oai, Cam Túc. Hậu duệ họ Đoàn cũng công nhận điều này. “Nam Chiếu dã sử” viết: Họ Đoàn, người Vũ Oai, ông tổ Đoàn Kiệm Ngụy là tướng dưới thời Các La Phụng, được phong làm Thanh Bình Quan (tể tướng) trong những năm Thiên Bảo, truyền đến đời thứ sáu thì sinh ra Đoàn Tư Bình.
Theo “Toàn Đường văn”, “Tân Đường thư”, “Nam Chiếu đức hóa bi”, “Man thư”, “Tư trị thông giám”, “Bạch cổ thông ký”, khi triều Đường và Nam Chiếu xảy ra xung đột do phu nhân của Các La Phụng bị quan người Hán là Trương Bân Đà làm nhục, Đoàn Kiệm Ngụy là đại tướng quân 2 lần đánh bại quân Đường. Lần thứ nhất phục binh ở Thương Sơn giết chết hơn 3 vạn, bắt sống 1 vạn quân Đường của tướng Tiên Vu Trọng Thông. Lần thứ hai tại Sa Bình, Đoàn Kiệm Ngụy và hoàng tử Phụng Già Dị đánh bại 10 vạn quân Đường, bức tướng Lý Mật phải nhảy xuống sông tự tử.
Qua thống kê, trong gần 300 năm lịch sử nước Nam Chiếu, họ Đoàn ở Đại Lý đã có 5 người làm tể tướng, 7 người làm đại tướng quân.
hu-thuc-dai-ly-nhat-duong-chi-hoang-de-tieu-dao-doan-chinh-minh
Vũ điệu của dân tộc Bạch ở Đại Lý
Thân phận kỳ bí
Đến đời Đoàn Tư Bình thì Nam Chiếu đã suy yếu do loạn quyền thần. Năm 902, sau khi Thuấn Hóa Trinh qua đời, Tể tướng Trịnh Mãi Tự phát động chính biến và thừa cơ giết hại hơn 800 người trong vương tộc họ Mông, tự lập làm vua, đổi quốc hiệu là Đại Trường Hòa. Nam Chiếu chính thức diệt vong.
Họ Trịnh giữ ngôi được 3 đời, đến năm 929 thì Tiết độ sứ Dương Can Trinh nổi dậy, lập Tể tướng Triệu Thiện Chính lên làm vua, đổi quốc hiệu là Đại Thiên Hưng. Được 1 năm thì Dương Can Trinh lại phế họ Triệu, tự mình lên ngôi, đổi quốc hiệu là Đại Nghĩa Ninh. Năm 930, Dương Can Trinh bị em trai là Dương Chiêu soán ngôi. Trong giai đoạn biến động này, Đoàn Tư Bình đang giữ chức Thông Hải Tiết độ sứ, vì tài nghệ xuất chúng nên bị Dương Can Trinh đố kỵ, nhiều lần tìm cách hãm hại. Được sự hỗ trợ của 2 đại tộc Đổng và Cao, Đoàn Tư Bình liên kết mượn quân của 37 bộ tộc (Man bộ) ở Điền Đông với lời thề chỉ thu thuế một nửa và giảm lao dịch trong 3 năm.
Đầu năm 937, Đoàn Tư Bình thống lĩnh quân binh tấn công thảo phạt họ Dương, giết Dương Chiêu. Dương Can Trinh trốn về Kê Túc Sơn đi tu với pháp danh “Đại Hối”, Đoàn Tư Bình xá tội cho. Năm 938, Đoàn Tư Bình chính thức lên ngôi, đổi tên nước là Đại Lý (“lý” là sửa, trị), tức Thần Thánh Văn Vũ hoàng đế. Trong khi đó, đến năm 960 ở Trung Nguyên, Triệu Khuông Dẫn mới làm binh biến Trần Kiều, diệt nhà Hậu Chu, lập ra triều Đại Tống.
Trong dân gian, cuộc đời Đoàn Tư Bình mang nhiều sắc thái huyền dị. Cho đến nay, nhiều địa phương ở Đại Lý trong các miếu thờ Bạch Vương và Bản chủ đều có phối tượng Đoàn Tư Bình thờ long trọng. Theo “Nam Chiếu dã sử”, phụ thân ông là quan đại thần Đoàn Bảo Long bị hiếm muộn, sau mẹ ông qua sông chạm phải gỗ hương trôi sông hóa rồng vàng chui vào tay áo mà có song thai sinh ra Đoàn Tư Bình và Đoàn Tư Lương.
Khi kéo binh đến Long Thủ Quan, Dương Can Trinh đã phòng bị trước nên cố thủ rất chặt, Đoàn Tư Bình phải dừng quân hạ trại. Đêm ấy ông mộng thấy 3 điều lạ: Một là thấy người mất đầu, hai là bình ngọc bị mất quai, ba là gương vỡ. Tư Bình cho là điềm không lành, lo sợ nên hội với chư tướng muốn lui binh. Quân sư Đổng Gia La bàn rằng: “Ngài là bậc trượng phu, người mất đầu là chữ “phu” biến thành chữ “thiên” là ứng với thiên tử vậy; bình ngọc mất quai là chữ “ngọc” mất dấu chấm biến thành chữ “vương” là vua; trong gương có ảnh như người có địch, nay gương vỡ là đối thủ tan tành. Đấy đều là điềm lành trời báo tướng quân sẽ thành công”. Đoàn Tư Bình nghe hữu lý bèn quyết định xuất binh, quả nhiên khi đến bờ sông, có người thiếu nữ chỉ cho đường tắt đưa binh mã qua sông rất nhanh, nhờ đó tiến quân thế như phá trúc, mau chóng thành công.
Lưu giữ bí kíp
Theo “Tam Di tùy bút” của quan Trấn phủ sứ Lý Hạo viết vào đầu đời Minh thì Đoàn Tư Bình được một vị đại sư tinh thông võ nghệ và trận pháp truyền lại cho bộ kỳ thư “Nam Chiếu binh điển”. Bộ kỳ thư này có 8 quyển, gồm các phần binh luận, trận pháp, địa thế, kỹ pháp (võ thuật). Sách này về sau trở thành giáo trình quan trọng bậc nhất về dụng binh luyện võ của hoàng tộc họ Đoàn, được lưu trong mật thất Vô Vi tự.
Cương vực Đại Lý bao gồm toàn tỉnh Vân Nam ngày nay, phía Tây Nam giáp Tứ Xuyên và miền Đông Bắc Myanmar; phía Nam giáp Lào và Tây Bắc Việt Nam. Tổng diện tích Đại Lý lớn gấp 3 lần tỉnh Vân Nam hiện tại (gần 1 triệu km2).
Dai Ly 1142.jpg
Diệu Hương quốc
Năm 965, sau khi đã thống nhất Trung Nguyên, đại tướng Vương Toàn Bân của nhà Tống nam chinh chiếm vùng Nam Thục (Tứ Xuyên), muốn thừa thế đánh luôn Đại Lý. Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn không đồng ý, cho là nơi man di hung tợn, từng đánh bại quân Đường nên dùng rìu ngọc vạch một đường nơi bờ Đại Độ Hà trên địa đồ, tuyên bố: “Phía ngoài sông trở đi không phải là đất của ta”.
Đó là gốc tích của điển cố “Tống huy ngọc phủ”. Từ đó, Đại Lý được yên thân, luôn giữ phận chư hầu, thường xuyên triều kiến tiến cống Đại Tống. Từ khi lập quốc, Đại Lý đã có chính sách “an phận”, không có dã tâm mở rộng bờ cõi, thay vào đó là xây dựng đất nước theo xu hướng Phật giáo hóa nên người ta gọi Đại Lý là “Diệu Hương quốc”.
Năm 944, Đoàn Tư Bình qua đời, con là Đoàn Tư Anh kế vị. Theo “Vô Vi Tự truyền đăng lục” thì ngày Tư Anh đăng cơ, trời bỗng tối tăm. Chú của Tư Anh là Đoàn Tư Lương có lần trách: “Vua không giống vua, thần không giống thần, tăng chẳng giống tăng, suốt ngày tìm vui, đi săn nơi núi rừng, mỗi tháng hết 15 ngày nơi phật tự, còn ra thể thống gì?”.
Tư Anh đáp: “Thực ra, cháu lên ngôi mới thấy không tự tại, muốn tu hành tích thiện, lạy Phật ăn chay cũng bị chê trách. Lòng của chú là ở thiên hạ, nếu có thể cai trị đất nước thì cháu nguyện nhường ngôi, xuất gia làm tăng”. Ngay hôm sau, Tư Lương lên ngôi còn Tư Anh xuất gia vào Vô Vi Tự, pháp danh Hoằng Tu.
Về việc này có nhiều giả thuyết. Trong đó, có tài liệu cho rằng Đoàn Tư Anh hoang dâm vô độ, bị Đoàn Tư Lương liên kết với tướng quốc Đổng Gia La phế trừ, bức phải xuất gia. Tài liệu khác lại viết do Tư Anh lập mẹ họ Dương làm quốc mẫu, các dòng tộc lớn của Đại Lý lo ngại quyền hạn lấn át nên lập mưu phế trừ.
Đoàn Tư Anh xuất gia trở thành Hoàng Tu đại pháp sư, trụ trì Vô Vi Tự đời thứ 19, mở rộng nơi này thành Hộ Quốc thiền tự, xây dựng Diễn Võ Trường hoành tráng, trở thành trung tâm huấn luyện võ nghệ của con em hoàng gia Đại Lý. Theo Đoàn Tư Anh xuất gia còn có 3 vị đại quan, 8 vị tướng, hơn 100 quần thần văn võ, 500 quân lính, 36 phi tần…
Liên tiếp ba đời xuất gia
Đoàn Tư Lương lên ngôi được 6 năm thì chết. Tiếp theo là các đời vua Đoàn Tư Thông, Đoàn Tố Thuận, Đoàn Tố Anh, Đoàn Tố Liêm, đến đời thứ 7 lại có người xuất gia.
Theo “Đoàn thị truyền đăng lục”, Tố Liêm tại vị có con là Tố Thông mê tửu sắc chết sớm, cháu (con Tố Thông) là Tố Chân còn nhỏ. Người cháu họ là Đoàn Tố Long giỏi văn lẫn võ, làm việc cẩn thận nên lúc sắp mất, Tố Liêm mới triệu đến mà truyền ngôi, là Bính Nghĩa hoàng đế (năm 1022). Tố Long chăm lo quốc sự, họ Đoàn dần mạnh lên.
Tố Chân lớn lên, muốn lấy lại ngôi báu, Tố Long triệu tập quần thần, viết “Bính Nghĩa hoàng đế xuất gia hứa nguyện văn” gửi các châu, quận, ty, phủ. Tháng 6 năm 1026, Tố Long nhường ngôi cho Tố Chân, xuất gia tại Vô Vi Tự, pháp danh Phạn Thông pháp sư, quân tướng theo rất đông. Tố Chân khẩn khoản rằng: “Chú vốn tinh thông võ nghệ, nay tướng sĩ cùng chú xuất gia rất nhiều, nếu trong nước xảy ra chuyện gì thì biết làm sao?”. Phạn Thông pháp sư hứa rằng nước có việc thì hòa thượng cùng chung gánh. Tố Chân rất mừng.
Phạn Thông pháp sư tinh về đao pháp, kiếm pháp, trở thành trụ trì của Vô Vi Tự, mở ra Sùng Võ Đường, lập đội La Hán tăng binh võ nghệ cao cường, dũng mãnh khác thường và đều thọ giới tỳ kheo. Phạn Thông pháp sư viên tịch năm 80 tuổi.
Đoàn Tố Chân tại vị được 15 năm. Một hôm, Tố Chân mơ thấy mình đi săn ở Tuyết Sơn, bão dữ nổi lên, quần thần chạy đâu hết. Tố Chân thấy Phật tổ xuất hiện, bảo rằng: “Tâm có Phật ắt sinh Phật, trì thiện là Phật, Phật tức ý niệm, vượt qua bể khổ”.
Ngay sáng hôm sau, Tố Chân triệu tập quần thần, thiền vị nhường ngôi cho Tố Hưng rồi nhập Vô Vi Tự xuất gia, thành trụ trì đời thứ 15, đạo hiệu Phục Long pháp sư. Sau ông làm trụ trì Sùng Thánh Tự, đi sang Thiên Trúc rồi từ Tây Vực về Đôn Hoàng, vào Trường An, lên núi Ngũ Đài, Nga Mi… khổ học Phật pháp. Cuối đời, ông về Lãng Khung – Đại Lý, lập Lan Nhã Tự rồi mất năm 79 tuổi.
Thiên Minh hoàng đế Đoàn Tố Hưng là vị vua thứ 10 và là kẻ ăn chơi trác táng nhất của vương triều Đại Lý. Chỉ 3 ngày sau khi đăng cơ, Tố Hưng ra lệnh tuyển chọn mỹ nữ ở Đông Đô, xây dựng hành cung nguy nga ở Ngọc Án Sơn. Chỉ trong 5 năm, Tố Hưng tiêu tốn hết 5 kho vàng bạc với hơn 60 vạn cân trong tổng số 12 kho của Đại Lý. Quần thần và quốc dân căm phẫn, gọi Tố Hưng là “bại quốc chi quân”, mật nghị phế trừ, lập Đoàn Tư Liêm là chắt của Đoàn Tư Bình lên thay. Tướng quốc Cao Trí Thăng vào Đông Đô tuyên chiếu, trừ bỏ đế hiệu, thu ngọc tỷ, phế Tố Hưng làm dân, bắt ra ở quận Hà Dương.
Năm 1045, Đoàn Tư Liêm lên ngôi, tại vị 30 năm. Mới tuổi 49, ông đã thấy mệt mỏi nên triệu tập quần thần truyền ngôi lại cho con trưởng là Đoàn Liêm Nghĩa, còn mình xuất gia tại Vô Vi Tự, pháp danh Quảng Đức. n
Xem ngai vàng như dép rách!
tu-bo-ngai-vang-xuong-toc-lam-tang
Một góc Vô Vi Tự, nơi các vị vua Đại Lý xuất gia, luyện võ
Xem cách viết trong “Đoàn thị truyền đăng lục” hay “Vô Vi Tự truyền đăng lục” thì nhiều vị hoàng đế Đại Lý xem ngai vàng như dép rách, sẵn sàng từ bỏ ngôi báu để sống cuộc đời tự tại của tăng nhân. Khả năng này cho dù là có đi nữa thì cũng rất hiếm. Một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến các đời vua Đại Lý thường xuất gia là do tục lệ tôn sùng đạo Phật, nhập đạo để duy trì sự chính thống cho các đời sau; kế đến là do thất bại trong việc tranh giành quyền lực, chính quyền bất ổn…
“Thiên Long bát bộ” lấy bối cảnh Đại Lý từ thời Bảo Định đế Đoàn Chính Minh tại vị, trong đó có nói đến môn phái Tiêu Dao với những môn võ học thượng thừa như Bắc minh thần công, Lăng ba vi bộ. Một điều lý thú là trong thực tế Đoàn Chính Minh cũng bỏ ngôi xuất gia với đạo hiệu Tiêu Dao pháp sư.
Thế lực họ Cao
Trong “Thiên Long bát bộ”, Đoàn Chính Minh hiện ra với hình dáng “râu dài, mặc hoàng bào, mặt mũi hiền từ”, công phu Nhất dương chỉ đạt đến mức thượng thừa. Theo lời của Đoàn Diên Khánh thì Đoàn Chính Minh là người cướp ngôi khiến y phải lưu lạc tha phương…
Sau khi Đoàn Chính Thuần qua đời thì Đoàn Chính Minh quyết định nhường ngôi cho Đoàn Dự dù biết Đoàn Dự là con của Đoàn Diên Khánh (?). Thực ra, những tình tiết trên hoàn toàn là hư cấu và là chỗ “lạc bút” viết không đúng so với chính sử.
“Thiên Long bát bộ” viết: “Nhằm năm Thượng Đức thứ năm, Thượng Đức đế bị gian thần là Dương Nghĩa Trinh giết chết. Sau người cháu là Đoàn Thọ Huy được vị trung thần Cao Trí Thăng phò tá giết Dương Nghĩa Trinh, đưa lên kế vị hiệu là Thượng Minh đế. Thượng Minh đế không muốn làm vua, trị vì được một năm rồi xuất gia đầu Phật nhường ngôi báu lại cho đường đệ là Đoàn Chính Minh tức Bảo Định Đế… Nguyên Cao Thăng Thái là con vị công thần Cao Trí Thăng. Hồi đó sở dĩ trừ gian diệt nịnh được toàn là nhờ công Cao Trí Thăng cả”.
Năm 1074, con của Đoàn Tư Liêm là Đoàn Liêm Nghĩa lên ngôi, là Thượng Đức đế, hoàng đế thứ 12 của Đại Lý. Vua vốn sùng Phật, năm 1080, trong lần tổ chức đại pháp hội “Thiên Long bát bộ”, nhân lúc triều bái, lãnh chúa là Dương Nghĩa Trinh thừa cơ đâm chết Thượng Đức đế, nhanh chóng phát động chính biến đoạt ngôi lên làm vua, xưng là Quảng An đế.
Lúc Dương Nghĩa Trinh giết vua, Cao Trí Thăng đang là Thiện Xiển Hầu, cai quản vùng Côn Minh ngày nay, liền truyền lệnh cho con trai là Cao Thăng Thái khởi binh về triều dẹp loạn. Dương Nghĩa Trinh làm vua được 4 tháng đã bị Cao Thăng Thái bắt được chém đầu thị chúng.
Thượng Đức đế Đoàn Liêm Nghĩa không có con. Và đây chính là chỗ nhà văn Kim Dung “thừa cơ” sáng tạo ra một thái tử Đoàn Diên Khánh đứng đầu “Tứ đại ác nhân” tìm về Đại Lý đòi Đoàn Chính Minh trả lại giang sơn cho mình.
“Đoàn Liêm Nghĩa có một người con trai là thái tử Diên Khánh, song sau khi gian thần Dương Nghĩa Trinh giết vua cướp ngôi thì không thấy thái tử Diên Khánh đâu nữa. Ai cũng cho là thái tử Diên Khánh bị Dương Nghĩa Trinh hạ sát rồi” (lời của Cao Thăng Thái trong “Thiên Long bát bộ”).
Kỳ thực, không có một tài liệu nào trong chính sử và dã sử nói đến Đoàn Diên Khánh hoặc con của Đoàn Liêm Nghĩa mà chỉ có Đoàn Khánh là Đại Lý tổng quản đời thứ 4, được nhà Nguyên phong làm Tham chính tỉnh Vân Nam, qua đời năm 1307.
Cao Thăng Thái cùng triều thần lập cháu của Đoàn Liêm Nghĩa là Đoàn Thọ Huy lên nối ngôi, tức Thượng Minh đế, còn Cao Thăng Thái được lập làm thừa tướng. Đoàn Thọ Huy tức vị năm 1080, bỗng xảy ra điềm gở “trời đất tối tăm, sao mọc ban ngày”. Đoàn Thọ Huy phiền lòng liền nhường ngôi cho Đoàn Chính Minh, còn mình xuất gia ở Vô Vi Tự, pháp danh là Thực Đăng.
Theo “Truyền đăng lục”, Thực Đăng pháp sư tinh về thiền tĩnh, thường ở trong hang động, tĩnh tọa tham thiền, công phu thâm hậu, có thể mấy tháng không ăn. Sau vào sơn động bế quan tọa hóa, “lúc này trời phóng hào quang, đất mọc sen vàng, tướng lành hiện khắp, bèn thành chính quả”.
Vị hoàng đế phong lưu
Đoàn Chính Minh từ nhỏ chuyên cần học tập, “cùng chú là Đoàn Thọ Xương du học ở Thành Đô, tính cẩn thận, kiệm ước. Chính Minh văn tài xuất chúng, giỏi thư pháp; võ nghệ siêu quần, đặc biệt tinh kiếm thuật, đao pháp”. Năm 1081, Đoàn Chính Minh được cha con Cao Thăng Thái ủng hộ lên ngôi, Cao Thăng Thái được phong Thiện Xiển Hầu.
Không biết vì lý do gì, Đoàn Chính Minh sau khi đăng cơ lại rất ham vui chơi, việc chính sự giao cả cho Cao Thăng Thái. Chính Minh chọn 5 hậu phi tài sắc, đều thông hiểu âm nhạc, thi phú, đưa đi khắp nơi, du sơn ngoạn thủy, ngâm thơ thưởng nhạc. Mỗi tháng, Chính Minh chỉ cùng triều thần nghị quốc sự 3 ngày, thời gian còn lại thì ngao du hoặc đốt hương bái Phật.
Ông thường nói kiếp trước là tỳ kheo chốn Phật môn, do lục căn không tịnh nên tuy có đại công đức vẫn bị quả báo xuống thế gian. Chính Minh tự xưng Tiêu Dao hoàng đế, cho xây dựng 300 ngôi chùa nhỏ, 99 ngôi chùa lớn, lại nói rằng: “Nếu làm xong 100 ngôi chùa lớn thì sẽ nhường ngôi đi tu”.
Đoàn Chính Minh làm vua 12 năm, quần thần đều biết vua không có lòng lo việc nước, quân không thao luyện, chúng thần biếng lười. Cao Thăng Thái với Đoàn Chính Minh vốn là chỗ thâm giao, thường khuyên vua lo chính sự làm trọng. Chính Minh nói: “Ngôi hoàng đế là của bậc hiền, mười mấy năm qua, việc nước đều do ông quản, còn ta là cư sĩ tiêu dao, vậy nên nhường vị xuất gia mới phải”.
Liền hạ lệnh xây Phật Quốc Tự ở sau núi Điểm Thương. Một năm sau, chùa xây xong bèn triệu tập quần thần thiền vị cho Cao Thăng Thái, còn mình xuất gia thọ giới ở Vô Vi Tự, 3 tháng sau về Phật Quốc Tự. Năm hậu phi cũng thọ giới cư sĩ, lập am Minh Nguyệt ở sau chùa.
Những trước tác của Đoàn Chính Minh có: “Lăng Già thích nghĩa”, “Nam Trung già lam ký”́, “Tiêu Dao cư sĩ thi từ”, “Tiêu Dao hòa thượng văn tập”; du ký có “Danh sơn thắng lãm” gồm 12 quyển.
Mang vàng đi… xuất gia
Đoàn Chính Minh sau khi xuất gia, trong hơn 30 năm đi khắp các danh sơn của Đại Tống. Quốc thổ Đại Lý vốn nhiều vàng bạc, có đến hơn 40 mỏ khai khoáng vàng bạc, người trong nước thường dùng vỏ sò để giao dịch mua bán, còn vàng bạc thường dùng trao đổi với Trung Nguyên.
Theo “Vô Vi Tự Truyền đăng lục”, Chính Minh xuất gia được chia 1 kho vàng, mỗi lần sang Trung Nguyên thường dùng 20 con lừa chở đầy vàng bạc để chi dụng. Trung Nguyên vốn nhiều đạo tặc nhưng Tiêu Dao hòa thượng cùng bọn thủ hạ đều là cao thủ võ lâm, một địch nổi trăm, nên đạo tặc nghe tin đều tránh xa. Về cuối đời, Đoàn Chính Minh ở ẩn trong Đãng Sơn, lập Đại Minh Đường sau chùa Dược Sư.
Cướp ngôi và nhường vương vị
Họ Cao phế truất họ Đoàn lên ngôi vua nhưng lòng người không phục, truyền thống Đại Lý không chấp nhận việc soán ngôi. Vì thế, họ Cao phải trả vương vị cho họ Đoàn
Giới sử học chia giai đoạn từ Đoàn Tư Bình lập quốc đến Đoàn Chính Minh là thời kỳ tiền Đại Lý, từ đời Đoàn Chính Thuần về sau là hậu Đại Lý. Giữa tiền và hậu Đại Lý chính là Đại Trung Quốc do Cao Thăng Thái lập ra.
Họ Cao qua mặt họ Đoàn
Trong “Thiên Long bát bộ” của Kim Dung thì Đoàn Chính Minh nhượng ngôi cho Đoàn Dự; đại thần Cao Thăng Thái được miêu tả là người nho nhã, võ công cao cường và là một bậc trung thần. Sự thật thì chính Cao Thăng Thái mới là người kế vị Đoàn Chính Minh, soán ngôi họ Đoàn.
Họ Cao khởi từ Cao Phương là khai quốc công thần, đời đời ở vị trí tể tướng của Đại Lý, quyền nghiêng thiên hạ. Đến đời Cao Trí Thăng, thế lực của họ Cao ảnh hưởng rất lớn tới chính quyền. Có thể thấy việc phế Đoàn Tố Hưng lập Đoàn Tố Liêm, phế Đoàn Thọ Huy lập Đoàn Chính Minh… đều có bàn tay của cha con Cao Trí Thăng, Cao Thăng Thái.
Cao Thăng Thái vốn giỏi văn lẫn võ, năm 14 tuổi đã biện luận với các quan đại thần ở Ngũ Hoa Lâu, nổi tiếng khắp Đại Lý. Hiện nay, cách Tử Khê Sơn, huyện Sở Hùng, tỉnh Vân Nam – Trung Quốc khoảng 20 dặm về phía Tây còn một di vật quan trọng của Đại Lý, đó là tấm bia “Hộ Pháp Minh Công Đức Vận Bi”. Bia được lập khoảng năm 1158 để ca tụng công đức của thừa tướng Đại Lý Cao Thành Lượng. Theo đó, tằng tổ phụ (ông cố) của Cao Thành Lượng là Cao Thăng Thái ban đầu là Thiện Xiển Hầu. Năm 1094, Đoàn Chính Minh “nắm quyền không tốt khiến nhân tâm đều hướng về họ Cao”. Sau đó, qua 3 lần từ chối, Cao Thăng Thái được quần thần thỉnh lên làm vua (?). Đoàn Chính Minh nhường ngôi, đổi quốc hiệu là Đại Trung Quốc, lấy niên hiệu là Thượng Trị.
Cao Thăng Thái lên thay họ Đoàn được 2 năm, phân phong cho em và các con nắm giữ 4 phủ quan trọng nhất của Đại Lý, là các vùng Côn Minh, Vĩnh Thắng, Đằng Xung, Thiện Cừ. Năm 1096, Cao Thăng Thái lâm bệnh nặng. Có lẽ do áp lực từ các dòng tộc và Man bộ Vân Nam, biết khó duy trì ngôi vị nên lúc lâm chung, Cao Thăng Thái triệu quần thần và các con đến dặn dò: “Ngôi báu vốn của họ Đoàn, ta vì nhân tâm hướng về nên bất đắc dĩ phải nhận. Sau khi ta qua đời phải trả lại vương vị cho họ Đoàn, còn họ Cao đời đời phò tá, không được trái lời ta”.
Bảy ngày sau, Cao Thăng Thái qua đời. Con trai ông là Cao Thái Minh tuân theo di ngôn, trao trả vương quyền lại cho họ Đoàn. Người được chọn làm vua Đại Lý là Đoàn Chính Thuần, em trai Đoàn Chính Minh. Tuy vậy, họ Cao vẫn đời đời giữ quyền hành điều khiển Đại Lý, dân gọi là Cao Quốc chủ.
Con người thật của Đoàn Chính Thuần
Đoàn Chính Thuần tức Văn An hoàng đế của hậu Đại Lý. Theo “Thiên Long bát bộ”, Đoàn Chính Thuần là Trấn Nam Vương, nổi tiếng đào hoa, “gương mặt hình chữ quốc, khoảng chừng ngoài 40, tướng mạo uy vũ, tiêu sái”. Đoàn Chính Thuần được Kim Dung mô tả là con người đa tình, yêu mỹ nhân hơn giang sơn, có quan hệ đặc biệt với 5 mỹ nữ…
Đây là nhận xét của Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà trong “Thiên Long bát bộ”: “Ta từng nghe Trấn Nam Vương nước Ðại Lý là Ðoàn Chính Thuần rất tinh thâm về thần kỹ Nhất Dương chỉ. Ông ta là một tay phong lưu trên đời hiếm có. Bất luận là khuê nữ nơi gác tía lầu son hay thiếu phụ nạ dòng trong võ lâm, một khi đã thấy mặt y là thần hồn điên đảo, không sao ngăn được mối tình bồng bột”.
Tương truyền, mẹ của Đoàn Chính Thuần nằm mơ thấy bạch hạc bay vào bụng mà có thai. Chính Thuần vốn chuyên cần học hành, võ nghệ hơn người. Trụ trì Vô Vi Tự là Diệu Trạm đại sư thấy Chính Thuần thông tuệ nên nhận làm đồ đệ, dạy võ công, lại truyền cho Chỉ Quán đại pháp. Năm 17 tuổi, trong cuộc thi sát hạch văn võ trong hoàng gia, Đoàn Chính Thuần văn đứng hạng nhất còn võ đứng hạng ba. Ra làm công việc triều chính thì Chính Thuần tính cẩn thận.
Em gái của Thăng Thái là Cao Thăng Khiết, tài nữ của Đại Lý, được Bản Tuệ pháp sư dạy cho bí thuật kỳ môn độn giáp có thể tiên tri, được gả cho Chính Thuần. Vợ chồng hay cùng nhau tranh biện, Chính Thuần luôn bị thua nên có bài tự trào: “Nước có bậc cân quắc, nhà có vợ mỹ miều. Chồng chẳng bằng vợ cũng là việc tốt. Vợ bảo đi Đông chớ nên đi Tây, đi về Đông thì lời lẽ ngọt ngào, đi về Tây thì thi văn đấu võ. Chồng vốn bất tài, khó tranh cao thấp với vợ”.
Đoàn Chính Thuần từng làm đến tả tướng quốc dưới thời Đoàn Chính Minh, được Cao Thăng Thái khen là “nhân hậu, tinh thông quốc sách”. Sau khi lên ngôi, ông phong cho Cao Thái Minh làm tướng quốc, chia đất ở Sở Hùng đến 500 dặm. Từ đó về sau, họ Cao các đời nối nhau làm tể tướng như Cao Minh Thuận, Cao Thuận Trinh, Cao Lượng Thành, Cao Thọ Xương, Cao Thái Tường. Thời bấy giờ, Đại Lý giao hảo với nhà Tống, Đoàn Chính Thuần cử Cao Thái Liên đi sứ, tiến cống roi vàng giản ngọc, ngựa tốt gậy vàng; Tống Huy Tông ban cho kinh sách bách gia chư tử, sách y thuật, cho 4 đại học sĩ vào Đại Lý giảng dạy.
Mùa đông năm 1108, sao chổi xuất hiện ở phía Tây. Mùa xuân năm sau, sao chổi dài đến 6 trượng quét qua phía Đông Nam, đến tháng 3 thì sao băng rơi như mưa. Dịch bệnh nổi lên ở Vĩnh Xương, Thiện Xiển, người chết đến ba phần, chó sói kéo về khắp nơi, ăn thịt người vô số. Năm ấy, nước lũ ngập tràn, mùa màng thất bát, Đại Lý phải mở kho cứu chẩn. Đoàn Chính Thuần lo lắng mới hứa nguyện xuất gia, nhường ngôi cho con là Đoàn Dự. Chính Thuần xuất gia pháp danh là Tu Không, trở thành trụ trì đời thứ 21 của Vô Vi Tự, sau vào núi Kê Túc lập Long Đàm Tự, hơn 40 người đi theo cũng đều làm tăng.
Đoàn Dự, nhà ngoại giao xuất sắc
Năm 1108, con trưởng của Đoàn Chính Thuần là Đoàn Dự (Đoàn Hòa Dự, Đoàn Chính Nghiêm) kế vị. Đoàn Dự từ nhỏ thông minh hiếu học, được bác là Đoàn Chính Minh mời Lục Huyền đại sư dạy dỗ. Lục Huyền là cao tăng Thiên Thai tông, tài kiêm văn võ, ở trung nguyên nổi tiếng sánh với Châu Đồng (thầy của Địch Thanh, Lâm Xung).
Văn tài võ lược
Lục Huyền đại sư dạy trong vương thất Đại Lý rất nghiêm, thấy Đoàn Dự thông tuệ nên yêu quý, lại mời đồng đạo là Diệu Trừng đại sư cùng rèn dạy. Lục Huyền truyền cho Đoàn Dự “Lục môn diệu pháp” (có lẽ đây là cơ sở để Kim Dung phát triển thành tuyệt học Lục mạch thần kiếm của họ Đoàn) cùng các kỳ môn dị thuật.
“Đoàn thị Truyền đăng lục” có chép quy chế của Thái tổ Đoàn Tư Bình đặt ra: “Phàm là con cháu trực hệ hoàng tộc, 6 tuổi phải học văn luyện võ, 10 tuổi phải biết cưỡi ngựa bắn cung, 13 tuổi phải diễn trận luyện binh, 15 tuổi thì văn phải thông thi từ, võ phải tinh điều binh đánh trận. Kẻ không có năng lực ấy thì dù là hoàng tử cũng không thể lên ngôi báu. Trong hoàng tộc phải chọn kẻ văn võ toàn tài lại có đức mới lên làm vua. Nếu trong hoàng thất không có người như vậy thì chọn trong triều thần mà lập”.
Tuyên Nhân hoàng đế Đoàn Dự đăng cơ năm 26 tuổi, các nước xung quanh cùng 37 Man bộ đều đến chúc mừng, Đại Lý mở tiệc đến 3 tháng, ngày đêm ca hát tại Ngũ Hoa Lầu.
Đoàn Dự lên ngôi chuyên cần chính sự, yêu thương dân chúng, giảm nhẹ thuế khóa, tăng giao thương với các nước, thay đổi cục diện chuyên quyền của họ Cao, Đại Lý dần thịnh lên. Nhưng được 3 năm thì trời bỗng nóng ran, lục súc bất an, động đất kéo dài hơn tháng phá hủy hàng vạn ngôi nhà. 16 ngôi chùa ở Hải Đông bị sập, dân chết hơn 3.000 người. Tiếp đó nước lũ tràn về rồi đến nắng hạn, mùa màng hư hại, 37 Man bộ bắt đầu nổi loạn. Đoàn Dự thân chinh bình Man, lại lệnh cho Cao Thái Minh trấn thủ chặt vùng trọng địa Côn Minh, nước dần yên ổn.
Cao Thái Minh chết, 8 con trai đều được Đoàn Dự phong đất. Một đêm, con trưởng là Cao Trí Xương uống rượu với Đoàn Dự ở Lộng Đống, say mới lỡ lời rằng: “Họ Đoàn làm vua không ra gì, nếu không có họ Cao nâng đỡ thì đã tan từ lâu. Nay ngôi hoàng đế vốn là thuộc về ta, do cha ta nghe lời tổ phụ nên mới nhường cho Đoàn Chính Thuần. Ngài nay làm vua, ta thật không phục”.
Đoàn Dự nổi giận nhưng chỉ lấy tội sàm nghịch để phạt Trí Xương ra ở thành Thạc Nam. Được nửa năm thì Trí Xương mắc lam chướng mà chết, Đoàn Dự hối hận, mới an ủi gia quyến, tháng 7 cho làm pháp sự rất lớn để độ vong linh.
Có 2 võ sĩ từng là hầu cận của Trí Xương tìm cách báo thù cho chủ, nấp trong chùa Địa Tạng thừa cơ Đoàn Dự vào chùa để ám sát nhưng bị thị vệ bắt được. Khi tra hỏi, cả hai cung khai rõ ràng, Đoàn Dự bèn xá tội cho nhưng 2 võ sĩ cùng nhau tự tử. Đoàn Dự cảm động cho lập mộ nghĩa sĩ an táng.
Vương thất phân tranh
Đoàn Dự nhiều lần cho sứ sang giao hảo với nhà Tống, cống ngựa Vân Nam, đao Đại Lý, xạ hương, ngưu hoàng; cho nhạc công và đoàn ảo thuật vào kinh thành Biện Lương biểu diễn cho vua Tống xem, rất được khen ngợi.
Năm 1117, Tống Huy Tông phong cho Đoàn Dự là “Kim tử quang lộc đại phu, Kiểm hiệu tư không, Vân Nam tiết độ sứ, Thượng trụ quốc, Đại Lý quốc vương”. Thời gian này, việc thông thương trở nên phát đạt, ngoài nhà Tống còn có Ba Tư (Iran), Ấn Độ, Thổ Phiên…
Trong các loại mặt hàng của Đại Lý thì ngựa là thứ được ưa chuộng nhất. Chiến mã Đại Lý nổi tiếng khắp nơi, có thể di chuyển trên địa hình cheo leo, hiểm trở. Số lượng ngựa mỗi năm được đưa đến giao dịch tại Lê Nhã Châu lên tới hàng ngàn con. Người Đại Lý thì tiếp thu ngày càng nhiều văn hóa Hán và các loại sách quý. Về nghệ thuật, Đại Lý nổi tiếng về bích họa, khắc đá, khắc gỗ. Những kinh điển Phật giáo Mật tông của Đại Lý cũng được truyền vào trung nguyên.
Đoàn Dự tại vị 39 năm, có thể nói là “quốc thái dân an”, ngoài không chiến tranh, trong không nội loạn, kinh tế văn hóa đều phát triển. Nhưng vào cuối đời, 4 con trai của Đoàn Dự tranh giành quyền bính, triều chính bị ảnh hưởng nhiều.
Từ sau sự biến Tĩnh Khang (1127), Bắc Tống bị nhà Kim tiêu diệt, Đoàn Dự tuổi cũng đã cao nên việc giao hảo với trung nguyên ngày càng sút giảm. Năm 1140, các Man bộ nổi loạn tấn công Thiện Xiển, giết chết Cao Minh Thanh ở Đông Đề. Đoàn Dự bình loạn xong, đưa Cao Lượng Thành làm tướng quốc. Dần dần, các thế lực trong vương thất phân tranh, Đoàn Dự không thể nào dẹp yên được, lòng rất buồn phiền.
Năm 1147, Đoàn Dự quyết định nhường ngôi cho con là Đoàn Chính Hưng, còn mình cắt tóc xuất gia ở Vô Vi Tự trở thành trụ trì đời thứ 23 với pháp danh Quảng Hoằng đại sư. Đoàn Dự chết năm 94 tuổi, là người làm vua lâu nhất và sống thọ nhất trong các đế vương họ Đoàn ở Đại Lý.
Đoàn Dự tinh thư họa, giỏi vẽ hoa sen, là tay cao cờ. Trước tác có “Ngọc hà thi trản” 4 quyển, “Cầm phổ” 1 quyển và 3 thi khúc.
Kể từ Đoàn Dự thiền vị nhường ngôi, truyền được 5 đời thì vó ngựa quân Nguyên Mông đã vang động Đại Lý. Càng về sau, các vua họ Đoàn mất dần quyền lực thực tế, những quý tộc người Bạch mà tiêu biểu là họ Cao lấn lướt chuyên quyền và không ngừng thôn tính lẫn nhau, mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay gắt, Đại Lý ngày càng suy yếu.
Tham ngộ Phật pháp
Năm 1147, con của Đoàn Hòa Dự là Đoàn Chính Hưng kế vị, tức Chính Khang hoàng đế. Trong thời gian chấp chính xây chùa lập tháp, đúc tượng in kinh, thi ân bố đức, dân chúng an cư. Tại vị được 25 năm, một hôm Chính Hưng bỗng bảo quần thần rằng: “Ta từ nhỏ tin Phật, cung kính tam bảo, lo việc chính sự bất giác đã mấy chục năm, nay nên quay về thôi”.
Hôm sau bèn truyền ngôi cho Trí Hưng, còn mình xuất gia ở Vô Vi Tự, lễ Quảng Hoằng pháp sư làm thầy, đạo hiệu Dịch Trường, truyền giảng Quan Âm đại bi pháp môn.
Năm 1172, Đoàn Trí Hưng kế vị (tức Nam Đế, Nhất Đăng đại sư trong tiểu thuyết Kim Dung). Theo “Vô Vi Tự Truyền đăng lục”, Đoàn Trí Hưng là đại đệ tử của Quảng Hoằng pháp sư, được chân truyền 24 lộ Luân kiếm; tuy không xuất gia nhưng sùng tín Phật, ngày đêm lễ bái, xây 60 ngôi chùa…
Năm 1200, con Đoàn Trí Hưng là Đoàn Trí Liêm kế vị, tức Anh Tông Hanh Thiên hoàng đế. Năm 1205, em của Đoàn Trí Liêm là Đoàn Trí Tường kế vị, tức Thần Tông hoàng đế. Năm 1238, sau 33 năm tại vị, Đoàn Trí Tường nhường ngôi cho con là Đoàn Tường Hưng, còn mình xuất gia ở Vô Vi Tự, pháp danh Vĩnh Huệ, chuyên tâm thiền tu để cầu khai ngộ.
Vĩnh Huệ pháp sư bế quan tu tập nhưng đã già đến nơi mà không thể đại ngộ, lòng nóng như lửa đốt, sau bị bệnh nặng, không ăn uống gì được, thị giả lo lắng mới xuống núi báo với trụ trì để lo hậu sự. Một đêm, trong cơn mơ màng, pháp sư thấy Quan Âm đại sĩ đến bảo rằng: “Ngươi chí tâm cầu đạo, rất là tinh tiến nhưng phải biết rằng Phật pháp là trung đạo, tham thiền cũng vậy, giống như dây đàn, căng quá thì đứt, chùng quá thì câm”.
Sư tỉnh dậy, nhớ lời đại sĩ, vô cùng thú vị, bệnh nặng dần khỏi. Sau tọa thiền, qua 3 ngày thì đại triệt đại ngộ. Ba tháng sau sư thị tịch, tương truyền lúc hỏa thiêu, hào quang bốc cao, lưu lại xá lợi hơn 400 viên, đặt trong hộp vàng thờ trong chùa.
Oanh liệt chốn sa trường
Suốt mấy trăm năm đất nước yên ổn, không có chiến tranh, Đại Lý gần như đứng ngoài cuộc trong đấu trường đẫm máu giữa các triều Tống, Liêu, Kim, Tây Hạ và Mông Cổ.
Nhưng từ lâu, chiến lược của Thành Cát Tư Hãn là dùng kỳ binh tiêu diệt Đại Lý trước rồi đánh bọc lên phía Bắc, hai mặt giáp công mà xóa sổ Nam Tống, thống nhất Trung Nguyên. Nhưng Đại Lý ở địa thế hiểm trở, lại có 2 sông lớn là Đại Độ Hà và Kim Sa Giang ngăn chặn nên một đội quân Mông Cổ chỉ đến thành Thiết Kiều, sông Kim Sa thì phải quay về.
Năm 1234, sau khi con trai thứ ba của Thành Cát Tư Hãn là Oa Khoát Đài diệt nước Kim liền lập kế hoạch tiến đánh Nam Tống mà tiền đồn là Đại Lý. Năm 1244, 20 vạn quân Mông Cổ vượt Đại Độ Hà, tấn công Đại Lý từ phía thượng du sông Kim Sa nhằm chiếm Vân Nam rồi tiến vào Tứ Xuyên.
Vua Đại Lý lúc đó là Đoàn Tường Hưng sai đại tướng Cao Thái Hòa – em của Tướng quốc Cao Thái Tường – xuất quân kháng cự. Hai bên giao chiến ác liệt tại Cửu Hòa (nay là huyện tự trị dân tộc Nạp Tây, tỉnh Vân Nam).
Trong “Cuộc chiến Cửu Hòa” này, hai bên đều tổn thất nặng nề, quân Mông Cổ phải rút về còn bên Đại Lý thì các tướng Cao Thái Hòa, Cao Phúc Thiện, Cao Minh Thắng, Cao Chính Vận… tử trận. Triều đình cho xây một Phật tháp để siêu độ cho tướng sĩ vong mạng nơi sa trường, di tích tháp Bạch Vương ngày nay vẫn còn. Nhà Tống đã cho sứ giả sang ai điếu.
Quân Mông Cổ không bỏ cuộc. Năm 1253, Hốt Tất Liệt phụng mạng Mông Ca dẫn 10 vạn đại quân xuất phát từ cao nguyên Mông Cổ hành binh chớp nhoáng, nhân mùa đông vượt qua Hoàng Hà, Diêm Hạ, Túc Quan, đến Lục Bàn – Ninh Hạ, Lâm Thao – Cam Túc, Tùng Phiên – Tứ Xuyên. Tại đây, quân Mông Cổ chia làm 3 cánh quân tấn công Đại Lý: đích thân Hốt Tất Liệt dẫn trung quân, Ngột Lương Hợp Đài dẫn cánh phía Tây, Dã Chỉ Liệt dẫn cánh phía Đông. Hốt Tất Liệt đưa quân vượt qua Đại Độ Hà, tiến đến sông Kim Sa, dòng nước quá hung dữ nên binh lính phải dùng “cách nang” (da dê thuộc nguyên con) làm phao để vượt sông.
Đến Lệ Giang – Vân Nam, Hốt Tất Liệt ra lệnh cấm giết hại dân chúng, phái sứ giả chiêu hàng. Nhưng vua Đại Lý là Đoàn Hưng Trí và tể tướng là Cao Thái Tường kiên quyết không hàng, giết chết sứ giả.
Hốt Tất Liệt lại cho sứ đến chiêu hàng, 3 lần đều không thành, bèn cho lập một đội dũng sĩ cảm tử vòng lên đỉnh Thương Sơn. Đội quân “10 người chết hết 9” này cuối cùng đã hoàn thành sứ mệnh, từ đỉnh núi đánh xuống giữa kinh thành như người trời xuống.
Đoàn Hưng Trí và Cao Thái Tường xuất quân kháng cự nhưng đại bại phải rút chạy. Quân Mông Cổ bắt được Cao Thái Tường ở thành Diêu Châu, đem chém đầu thị chúng. Trước khi chết, Thái Tường than rằng: “Vận họ Đoàn đã tận, là trời khiến như thế, kẻ làm tôi chết vì vua ấy là bổn phận”.
Đoàn Hưng Trí xuất bôn về thành Thiện Xiển sau 1 năm thì bị Ngột Lương Hợp Đài dẫn binh tấn công. Thành Thiện Xiển bị hạ, Đoàn Hưng Trí chạy về Nghi Lương thì bị bắt. Vương triều Đại Lý diệt vong.
22 đời vua, trị vì 316 năm
Trong “Thần điêu hiệp lữ”, đoạn giữ thành Tương Dương, Kim Dung viết rằng: “Bây giờ nước Đại Lý do Đoàn Hưng Trí thống trị, là cháu tằng tôn của Nhất Đăng đại sư, lên làm vua lấy hiệu là “Thiên Định Hiền Vương”, tuổi còn nhỏ, mới đăng quang vừa được 2 năm thì mất nước. Nhờ có Võ Tam Thông và Chu Tử Liễu phất cờ hợp với Tứ Thủ Ngư cứu được nước nhà khỏi họa diệt vong”. Kỳ thực, Đoàn Hưng Trí chỉ bôn tẩu trong 1 năm là bị bắt, kết thúc vương triều Đại Lý với 22 đời vua, kéo dài 316 năm.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Hai, 20 tháng 3, 2017

Bài cuối cùng của nhà thơ Trần vân Hạc trên Fb:


SÁCH MỚI XUẤT BẢN
Hôm nay NXB Thanh niên in xong cuốn thơ: "ĐIỆU VALSE XỨ NÚI"của Vân Hạc, sách do Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số V.N tài trợ, đa số các bài lấy cảm hứng và thi liệu về dân tộc và miền núi. Mặc dù Vân Hạc đã được in 4 cuốn sách về văn hóa Thái trong chương trình dự án của Nhà nước nhưng đây là tập thơ đầu tay. Xin chia vui cùng những người yêu quí Vân Hạc cùng những người yêu văn hóa Tây Bắc. Xin đăng cùng bài thơ: "ĐIỆU VALSE XỨ NÚI", tên bài được lấy làm tên tập thơ một cách ngẫu hứng.
ĐIỆU VALSE XỨ NÚI
Đấy là vũ điệu của lá
của hoa
của tiếng họa mi
khắc khoải gọi mùa xây tổ
Hồi sinh sau những ngày đông giá
Anh dìu em vũ điệu của ngàn sâu
Ngập tràn hương gió
Bồi hồi cây thở
Thác ngời ban mai
Giọt nước mắt em gọi mầm măng nhú
Tưới nhuần cả lá thu rơi
Rưng rức trải vàng trên đất
Anh ru em bằng những gì tinh khôi nhất
Nụ cười thắp lửa trong ánh mắt
Bao năm từng héo hắt
Mặn chát trên môi
Điệu valse em ơi
Anh nâng niu ru tình day dứt
Đắng cay
Mật ngọt
Chắt trong dòng máu thắm hồng
Khói lam chiều bay lượn dưới lòng thung
Nhịp chày cối nước cụp cum thao thức
Cánh đồng vàng thơm lúa ngô khoai
Vòng xòe em tay ấm trong tay
Từ ngàn đời điệu valse bay lượn
Đất trời
Trăng sao
Cùng vòng xoay bất tận
Điệu valse phố núi quê mình
Anh ôm em vòng tay trung trinh
Bay trong giấc mơ khao khát
Vân Hạc

Hiển thị thêm cảm 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cùng Trần Vân hạc lên tây Bắc hái thơ



CÙNG TRẦN VÂN HẠC LÊN TÂY BẮC HÁI THƠ


1/ Tôi thực không biết mình lên Tây Bắc trước hay sau Trần Vân Hạc, và cũng không biết Trần Vân Hạc lên và ở lại Tây Bắc vì duyên cớ gì, còn tôi, vì bốn câu thơ hoành tráng (thời ấy), của Chế Lan Viên, mà mon men lên Tây Bắc /Tây Bắc ư? Có gì riêng Tây bắc/ Khi lòng ta đã hóa những con tầu/ Khi Tổ Quốc bốn bề lên tiếng hát / Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu /
Lần thứ nhất, khoảng 1963-64, lúc ấy, tuổi sức hai mươi, hùng hổ tưởng mình chân sóng tay  gió, vậy mà mới qua vài cua Tây Bắc, từ Yên Bái đi Nghĩa Lộ, trên xe hơi chở khách, vào đến Nghĩa Lộ thì tôi ơi đã say xe “mướt cò bợ” và đổ gục tại Nghĩa Lộ, được nàng tiên người Kinh/ Tây Bắc, quen dọc đường, đánh gió cháy lưng, cò bợ tôi mới oai hùng trở lại theo nữ tiên ra suối rửa mặt tắm hôi. Hình ảnh tắm tiên lần đầu lên Tây Bắc ấy đã theo tôi về đồng bằng và đã thăng hoa vào thơ tôi / Thời nào các nàng tiên bay về đây tắm mát/ Những đêm trăng/ Giếng tiên trăng ngát một vùng / Đêm nay trăng vằng vặc/ Bên giếng một mình em… (Thơ NNB)
Lần thứ hai và nhiều lần tiếp sau, đó là thời kỳ thả phai công trình thủy điện Thác Bà, tôi lên Tây Bắc cùng các chuyên gia Liên Xô (cũ) với vai trò thông dịch tiếng Nga. Tây bắc cũng ùa vào thơ tôi, nhiều lắm, nhưng mới rồi in sách chỉ chọn lại được hai bài. Một bài bảo là Tây Bắc chỉ bởi có địa danh Tây Bắc / Đường vào Thác Bà / Rừng trúc chen rừng trúc/ Uốn câu/ Câu gì thế trúc ơi?/ Câu thời gian/ Đại loại vậy, mượn Tây Bắc để nói cái muốn nói của mình. Bài thứ hai, cũng vậy, mượn Tây Bắc để ngợi ca những người làm thủy điện Thác Bà, bài thơ hơi dài, mời đọc khúc kết / Giã sử Thác bà lời kể thương tâm/ Vợ chồng nhà bè cầu thủy thần phù hộ/ Gạo rắc xuống sông/ Nghe con thuyền vỡ/ Con bè lao/ Tiếng hồn oan chìm trong tiếng thét gào/ Dân làng lập thác chồng, thác vợ/ Người chỉ huy già khoanh ngôi sao đỏ/ Cội sông Đà/ Nghe Thác Bà miên man sóng vỗ/ Xóa xóa tóc hoa ban/ Xóa xóa tiếng cười thật trẻ…/( Thơ NNB).
Thơ Trần Vân Hạc khác hẳn. Anh như đã hòa tan hồn vào Tây Bắc, để Tây Bắc như / Một dòng sông tím lặn vào thơ tôi/ Câu thơ hay thế thực không dễ viết. Mời đọc thêm /…Sương giá mà người không đến/ Trời cài then cửa từ lâu/Gùi trăng tủi hờn xuống núi / Nghẹn ngào nấc buốt ngàn sâu.
Đối chứng thơ với thơ ở trên, Nguyễn Nguyên Bảy tôi ngộ ra điều tôi đơn thuần chỉ là kẻ lãng du qua Tây Bắc, hái trộm thơ Tây Bắc, còn Trần Vân Hạc khác hẳn bản chất, anh sống ở Tây Bắc, nếu không muốn nói anh là người Tây Bắc tự tay gieo trồng và hái thơ Tây Bắc. Thế giới nghệ thuật trong thơ Vân Hạc đậm đặc chất Tây Bắc không thể lẫn đi đâu được. Thơ Vân Hạc đặc chất liệu của bản mường Tây Bắc, những búi tóc “tằng cẩu” độc đáo; “áo cỏm” duyên dáng; những sắc hoa đào, hoa ban; điệu khèn điệu pí , những dòng suối mộng mơ, những con đèo hút gió chỉ có ở Tây Bắc; những làn điệu dân ca Thái… những điệu xòe mê hồn… Tất cả lung linh sống động trong thơ anh.

2/ Trần Vân Hạc sinh năm 1952, là lính Trung đoàn Bông Lau (38) từ năm 1971, từng chinh chiến ở Quảng Trị năm 1972 vô cùng khốc liệt. Xuất ngũ, về sống và dạy học ở Tây Bắc 30 năm, chủ yếu ở vùng đồng bào Thái. Ba mươi năm là nửa đời người, sống và dạy học ở vùng đồng bào Thái, thì việc người Thái coi anh là “đồng bào” của họ có gì lạ. Anh sinh ở Gành Hạc, Hiền Lương, Hạ Hòa, Phú thọ nên có tên là Hạc nhưng tiếng Thái Hặc có nghĩa là yêu thương, nên người Thái luận nhận họ hàng, tên anh đích thị là Trần Yêu Thương. Mà này, Kinh Thái có gì quan trọng phải không Vân Hạc? Chúng ta đều là dòng giống Lạc Hồng.
Trần Vân Hạc là hội viên Hội Văn Nghệ dân gian Việt Nam, là người sưu tầm nghiên cứu văn hóa Thái Tây Bắc, là người sáng lập trang web vanhac.org, trang web duy nhất viết nhiều về văn hóa Thái. Anh đã giúp một số sinh viên làm luận án cử nhân và thạc sĩ… đề tài văn hóa Thái.
Năm 2007 Trần Vân Hạc cùng nghệ nhân Lò Văn Biến ở thị xã Nghĩa Lộ, Yên Bái biên soạn thành công: “Bộ tài liệu dạy tiếng và chữ Thái cổ Mường Lò” cho Bộ Nội vụ dùng làm chương trình khung dạy cho cán bộ viên chức đang công tác ở 7 tỉnh có đông người Thái, bây giờ đã triển khai rộng khắp.
Khi biết tôi có ý định lên Tây Bắc hái thơ cùng anh, anh bẽn lẽn (có lẽ Hạc/ Thái thật, ba muơi năm sống giữa núi rừng Tây bắc, nay về chốn thị thành, tiếp xúc với ai anh cũng khẽ khàng bẽn lẽn chứ không riêng gì với người băm bổ như tôi) bẽn lẽn Hạc bảo: Anh gọi em là người sưu tầm nghiên cứu văn hóa Thái Tây Bắc, em xin nhận, chứ lãnh vực thơ thì em chỉ là dân tay trái. Tôi định xổ định nghĩa thơ của riêng mình: thơ là tiếng lòng thì làm gì có tay phải tay trái, nhưng do Hạc bẽn lẽn và tôi tôn trọng bẽn lẽn ấy nên cũng đành coi thơ Hạc là khu vực tay trái. Dịp khác chúng ta sẽ vào khu vực tay phải, khu vực văn hóa Thái của Hạc. Và chúng tôi (tôi và Hạc) cùng bước vào địa hạt thơ Tây Bắc của Hạc đàm luận suốt dọc đường qua Yên Bái, qua Lào Cai, vào Sapa, lên công trời cầu Hỉ Thần năm mới.

3/ Từ máy ghi âm chép lại.
B: Thơ Tây Bắc làm nhiều thế, cho nghe một bài thật thích được chăng?
H : Trước khi đọc anh nghe bài “ Gọi bạn tình” cho em thưa vài lời.     Bài này sau khi đăng báo, em cứ nghe thấy người Thái hát như dân ca của họ. Thậm chí các nhà báo bảo đây đích thị là dân ca Thái, thì ra thơ của mình đã có chỗ đứng và được bà con thừa nhận.
Phong tục Thái xưa, thanh niên trai gái có tục “chọc sàn” – Những đôi nam nữ thanh niên chưa vợ chồng đã quen nhau qua hội xuân, qua những đêm “Hạn khuống” – nơi trai gái hát đối đáp giao duyên (còn gọi là “sàn hoa hạn khuống” ), nam thanh niên đến nhà người yêu tấu một khúc sáo – “pí”, hoặc khèn rồi nhẹ nhàng đến nơi cô gái nằm chọc nhẹ lên sàn nhà, cô gái đã chờ đợi từ lâu và cùng nhau lên phần sàn nhà nhô ra ngoài trời – gọi là “chan” để tâm sự rất lành mạnh, nhiều đôi nên vợ nên chồng. Trong bài thơ em để chàng trai dùng đầu khèn chọc sàn cho thi vị chứ thực tế chỉ dùng ngón tay… vì khèn làm bằng nứa tép dễ vỡ.


GỌI BẠN TÌNH


Dậy đi em
Dậy đi em
Anh hồi hộp nâng khèn
Trăng vàng sóng sánh
Dặt dìu dòng suối âm thanh
 
 Nhà sàn đợi chờ thao thức
Đầu khèn chạm vào hò hẹn
Sao hôm đậu xuống mái nhà
 
 Đêm trở mình da diết nhớ sàn hoa
 
 Đầu khèn chạm vào đợi chờ
Sao mai lung linh cửa sổ
Hội hái hoa ban nọong ơi 
Trái tim chung đôi e ấp lời bầy tỏ

Đầu khèn chạm vào mong nhớ 
Trăng neo khau cút bâng khuâng
 
Trinh trắng hoa ban
 
 Thắm tình hoa mạ
 
 Cầu thang rạo rực rung rinh
  Em như nàng tiên mùa xuân
 
 Bước ra từ câu khắp 

B: / Đầu khèn/ Chạm vào hò hẹn/ Sao Hôm đậu xuống mái nhà/ Đêm trở mình da diết nhớ sàn hoa/ Còn cần bình gì thêm những câu thơ làm nên Trần Vân Hạc này nhỉ?
H. Anh thích?
B: Không thích làm sao thuộc ? Câu thơ hay khi chạm vào hồn, nó như con triện ấy, đóng một dấu son. Mà này,viết bài Huyền Thoại Tắm Tiên hay thế, có bài thơ nào viết về tắm tiên ?
H: Tắm tiên tuyệt vời anh nhỉ? Nhưng em còn vụng thơ, nên Tắm tiên vào thơ em chỉ mới là Hoa Bên Suối. Tôi nhắm mắt nghe thơ Hạc mà như thấy/ Tóc búi vai trầnNgọc ngà trong trắngMắc pém nồng sayNgực trần tỏa nắngNước dần dâng caoRạng ngời dòng biếc/Trào lên cỏ mướt?Sóng lòng em ơi
B: / Noọng ơi… Đất trời Tây Bắc / Trắng ngần da em/ Cho nghe thêm một bài nữa đi.
H: Dạ. Anh nghe thêm bài “Đường Thêu Mùa Xuân” nữa nhé. “Piêu” là khăn thổ cẩm đội đầu hoặc choàng vai, cổ của con gái Thái, khi dệt vải thêu piêu người con gái đã gửi tình vào đường kim mũi chỉ. Người con trai được tặng “piêu” coi như được nhận lời trao duyên./Khăn piêu ai vắt ngang trời/Cho câu khắp bỗng đâm chồi nở hoa/Giấu câu thơ trong nụ hoa/ Cài lên mái tóc hương thoa má hồng!/ Bây giờ biết có còn không/ Áng mây thắp lửa nhuốm hồng bình minh?

4/ Một đời theo thơ, hái được đôi ba câu thơ hay đã là mừng lắm, Trần Vân Hạc không chỉ hái được nhiều những câu thơ hay, mà anh cón hái được nhiều bài thơ hay, và chùm chùm quả thơ Tây bắc của anh có thể coi là trái quí hiếm. Nói quí hiếm là bởi, những nhà thơ khác là người Kinh hái thơ Thái, hái thơ Tây Bắc, còn Hạc anh hóa thân mình là người Thái hái thơ Thái, hái thơ Tây Bắc. Nói vậy là bởi khi viết về Tây Bắc, về văn hóa dân tộc Thái, ở anh tiềm ẩn một cách riêng, cách thô mộc Thái, cách dung dị Thái, cách hồn nhiên Thái, thật như đếm, thẹn như trăng non và tình như / Giấu câu thơ trong nụ hoa.
Hạc bảo: Hạc chỉ là người làm thơ tay trái. Anh nói vậy thì ta nghe vậy, thực ra thơ anh đã có hồn và đã có sức rung cảm lan tỏa lòng người nghe. Tay trái mà được thế kể cũng là khen. Trong cái khiêm đó của anh cũng ẩn cái không khiêm của anh về cái tay phải nghiên cứu và khảo luận văn hoá Thái. Dịp khác chúng sẽ bàn về cái tay phải tự tin này của Hạc. Về phần mình, tôi tin vào sự đam mê của Hạc và những hy sinh, trả giá cho đam mê ấy, nhất định được đền bù, nhất định được thành quả.
Tôi mở máy ghi âm để chúng ta cùng nghe đoạn Hạc tâm sự về thơ.
Trần Vân Hạc:  Em thích bài “Thơ đã ra đời như thế nào?” trong loạt bài Thủng Thẳng Về Thơcủa anh. Riêng em, thơ em ra đời từ quan sát đời thường, nhiều bài em thành công từ quan sát đời thường ấy. Ví dụ: Gửi người con gái Mường Lò xa quê”. Cứ gần tết đoàn người tứ xứ tha phương cầu thực lại về, họ nhiều thành phần, nghề nghiệp nhưng quê hương lúc nào cũng dang tay đón và ấm áp, từ con đèo có thực tên là: “Ách”, qua con đèo là Mường Lò – Nghĩa Lộ thường bên nắng ấm, bên kia mưa, em nghĩ… quê hương dẫu có chưa hài lòng với một người, một hành vi nào đó thì vẫn độ lượng bao dung…

5/ Trần Vân Hạc giờ đây đã về xuôi, nhưng Tây bắc vẫn là quê anh, gần như quí nào anh cũng một đôi lần bò tầu hòa lên miền Tây Bắc hái thơ. Chuyến đi mới rồi anh hái về nhiều thơ lắm : Câu Khắp hồn quê / Tóc em Mường Lò / Tiếng Khèn/ Tình còn hội xuân… Sức viết của Trần Vân Hạc đang thì kết trái hái lượm, chắc chắn anh còn thu hái được nhiều thơ vùng miền Tây Bắc. Tin và mong thế.

Viết 2011/ Chỉnh sửa in 2014

Phần nhận xét hiển thị trên trang

KHÓC TRẦN VÂN HẠC


VANDANBNN : Bạn chúng tôi, Người đồng hành thân thiết với dự án Thơ Bạn Thơ, Nhà thơ Trần Vân Hạc đã ra đi đột ngột, khi đang dự trại sáng tác tại Nha Trang. Khóc cùng Hạt Cát, chia sẻ mất mát, đau buồn này cùng tang quyến và bầu bạn..

KHÓC TRẦN VÂN HẠC

HẠC ƠI!
Nghe tin Hạc đã về trời
 
Ù ù gió giật, rụng rời cỏ cây.

Mới đây..rồi chả còn đây
Hư vô duyên/ kiếp, vơi đầy sắc/không

hạc thênh thang cõi mông lung
Xốn xang bè bạn nỗi lòng ngổn ngang.

An lành nhé, chốn quan san
Bồng Lai cánh Hạc mây ngàn xôi xa.. 



Hình ảnh dưới đây kỷ niệm những chặng đường Nhà thơ Trần Vân Hạc đồng hành cùng dự án sách Thơ Bạn Thơ/ Văn bạn Văn, suốt từ 2011-2016
Làng cổ Đồng Lâm (Nhà Huyến)
Ảnh, trái sang: Trần Vân Hạc, Bích Ngọc, Nguyễn Tiến Lộc, BNN/LPL, Hoàng Xuân Họa.


Đền Kinh Dương Vương
Ảnh, trái sang: BNN, Nguyễn Tiến Lộc, (?) Trần Vân Hạc, Hat Cát, LPL, Mai An NAT.


 




Đền Giải Oan Nguyễn Thị Lộ/ TVH thứ 5 từ trái sang.





 

Rằm Giêng mỗi năm tại Văn Miếu Hội Thơ

Mới nhất, tại Hale Hà Nội, 8.1.2017. Chào sách Thơ Bạn Thơ 6





VANDANBNN

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Rau sam giúp làm tan sỏi thận


Rau sam là một loại thân thảo mọc hoang ở những vùng ẩm mát như bờ mương, ven đường hoặc mọc xen kẽ trong những luống hoa màu.

Theo Đông y, rau sam có vị chua tính lạnh, không có độc tính, vào ba kinh Tâm, Can và Đại trường, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết tiêu viêm, nhuận trường lợi tiểu, thường được dùng trong các chứng viêm nhiễm, lở ngứa, kiết lỵ.
Gần đây, các nhà khoa học còn cho biết, trong rau sam có nhiều axít béo Omega-3 có tác dụng rất tốt trong việc ngăn ngừa bệnh tim mạch và tăng cường sức miễn dịch của cơ thể.
Rau sam là một nguồn kháng sinh tự nhiên rất quý trong các chứng viêm nhiễm đường ruột và đường sinh dục, tiết niệu, viêm cầu thận, viêm bàng quang, đường niệu đạo với liều khoảng 500g rau tươi một ngày.
Rau sam giup lam tan soi than
Rau sam vừa là một loại rau giải nhiệt mùa hè, vừa là một cây thuốc chữa nhiều bệnh
Cách dùng rau sam chữa bệnh:
- Giun kim: Rau sam 1 nắm lớn sắc với 2 bát nước còn 1 bát, uống lúc đói.
- Sán xơ mít nhỏ: Rau sam 1 nắm, nấu lấy 1 bát nước, hoà thêm giấm uống lúc đói, ăn cả xác.
- Đại tiện ra máu tươi: Lá rau sam, lá đậu ván. Giã nát, vắt lấy nước cốt uống trong ngày.
- Đại tiện ra máu mủ: Rau sam, cỏ sữa. Dùng nước sắc uống. Nếu đại tiện ra máu nhiều thì thêm: Rau má, cỏ nhọ nồi. Dùng 4 - 5 ngày.
- Tiểu tiện ra máu: Rau sam nấu canh ăn liên tục 3 - 7 ngày là khỏi.
- Trẻ bị nổi mẩn đỏ quanh rốn, thân nóng: Rau sam rửa sạch, giã sống, vắt nước cốt cho uống, bã thì xoa đắp.
- Trẻ em chốc đầu: Giã nát rau sam tươi, thêm nước sắc đặc bôi lên hoặc đốt ra than, hoà với dầu dừa bôi.
- Lậu đái buốt: Rau sam rửa sạch, vắt lấy nước uống.
- Đi đại tiện ra máu, bụng đau, tiểu tiện bí: Rau sam rửa sạch, giã nát, vắt nước cốt, thêm mật uống.
- Mụn nhọt: Rau sam tươi, giã nhỏ đắp lên mụn nhọt, ngòi mụn dễ ra.
- Chữa sỏi thận: Uống nước nấu lá sam và cố nhịn tiểu đến khi không nhịn được nữa hãy đi. Khi đó, các hạt sỏi sẽ bị tống hết ra ngoài.
- Chữa xơ vữa động mạch, làm hạ độ cholesterol trong máu: Rau sam tươi và gừng sống 3 lát. Luộc hoặc nấu canh ăn hàng ngày. Ăn cả nước lẫn xác. Nên mỗi đợt từ 5 đến 7 ngày.
- Chữa khí hư, bạch đới ở phụ nữ: Rau sam tươi giã nát vắt lấy nước, hoà với 2 lòng trắng trứng gà, khuấy đều, hấp chín. Mỗi ngày ăn 2 lần, ăn từ 3-5 ngày.
Ngoài ra, với những bệnh như ung thư, đái đường, viêm gan, viêm túi mật, viêm thận, cao huyết áp… uống nước rau sam sẽ có hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên, đối với những người bị tỳ vị hư hàn, tiêu chảy, và phụ nữ có thai không nên dùng rau sam.
Theo Songkhoe

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ý kiến nhà báo:

Gửi anh Võ Văn Thưởng – Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương

Kính thưa anh. Em là Nguyễn Hoài Nam là nhà báo, bút danh Hoài Nam.
Hôm nay, em viết những dòng chữ này gửi đến anh, với tư cách là Nhà báo gửi đến Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, nhân vụ anh có bút phê chỉ đạo lãnh đạo Đài THVN dừng phát sóng vệt bài điều tra “Mạng lưới rút ruột dầu máy bay ở TP.HCM”.
Kính thưa anh. Vì trách nhiệm một nhà báo, suốt một thời gian dài em đã bất chấp nguy hiểm để điều tra, mạng lưới rút ruột dầu máy bay trong các xe bồn ngày càng công khai, liều lĩnh và táo bạo ở TP.HCM.
Từ chứng cứ đã thu thập được, xác định mỗi ngày có khoảng trên 10.000 lít dầu máy bay bị rút ruột từ những xe bồn vận chuyển về sân bay Tân Sơn Nhất, Buôn Mê Thuột, Liên Khương và Cần Thơ. Số dầu bị rút ruột và tiêu thụ nó không chỉ gây ra những vụ nổ cháy xe, còn là những kho “bom” nổ chậm ở khu dân cư – nơi chứa hàng ngàn lít dầu máy bay bị trộm cắp. Đặc biệt hơn, có thể gây uy hiếp an toàn cho những chuyến bay. Vì vậy, em quyết tâm làm đến cùng, làm tận gốc để triệt phá cả tổ chức mạng lưới này.
Nay mạng lưới rút ruột dầu máy bay bị triệt phá, đồng nghĩa với việc chặn đứng những hiểm họa từ dầu máy bay gây ra cho cộng đồng.
Để làm thành công vệt điều tra này, suốt 7 tháng (2 tháng điều nghiên) và 5 tháng thu thập chứng cứ, đôi lúc ớn lạnh, mình vì chứng kiến cảnh vừa rút dầu vừa phì phèo thuốc lá…
Chứng cứ thu thập được, khẳng định ở quận 2, 7, 8, Nhà Bè, (TP.HCM) hình thành một mạng lưới nhiều băng nhóm cầu kết với tài xế, rút ruột dầu máy bay từ các xe bồn táo bạo, chuyên nghiệp. Từ chứng cứ đó, em lên sơ đồ, vạch kế hoạch triệt phá cũng như tổ chức bắt quả tang những đối tượng cầm đầu, rồi chuyển cho Cục CSHS Bộ Công an.
Có lẽ nhận định mức độ quá nguy hiểm của vụ việc, Cục CSHS đã báo cáo lãnh đạo Bộ Công an xin xác lập chuyên án cấp Bộ. Suốt 3 tháng đầu năm 2017, hàng trăm cán bộ chiến sỹ thuộc các Cục như Cục CSHS, Viện Khoa học Hình sự, Cục trinh sát ngoại tuyến, Cục Kỹ thuật nghiệp vụ, vất vả đeo bám từng đối tượng trong mạng lưới này. Có những lần đối tượng manh động suýt tấn công em và trinh sát chỉ vì thấy lảng vảng gần điểm chúng hoạt động. Trong quá trình điều tra, em đã báo cáo Ban Nội chính Trung ương, Ban Nội chính TW cũng xác định đây là chuyên án đặc biệt nghiêm trọng.
Ngày 9.3 vừa qua 160 cán bộ trinh sát Bộ Công an đồng loạt bắt giữ hàng chục đối tượng trong mạng lưới, niêm phong hơn 30.000 lít dầu để giám định chất lượng. Hiện vụ việc đang được điều tra mở rộng.
Chuyên án được triệt phá thành công, hàng chục đối tượng bị khởi tố, vụ việc đang được điều tra mở rộng. Riêng em vẫn cùng Ban Chuyên án đấu tranh với những đối tượng là đồng phạm trong mạng lưới này.
Bên cạnh đó, em viết 5 bài trong suốt quá trình thâm nhập – điều tra cũng như quá trình phối hợp với Bộ Công an triệt phá, để phát sóng trên Đài THVN, nhằm tuyên truyền động viên những nhà báo khác, phát huy tinh thần đấu tranh đẩy lùi cái xấu trong xã hội hiện nay.
Tuy nhiên, khi phát đến bài thứ 3 thì em được chỉ đạo dừng 2 bài còn lại vì có bút phê của anh. Em hiểu lãnh đạo Đài THVN buộc phải chấp hành lệnh của anh, nhưng cái khó hiểu là tại sao anh lại có bút phê vào công văn của DN để dừng phát sóng vệt bài này, mặc dù vụ việc đã bị bóc gỡ, hàng chục đối tượng đã bị khởi tố bắt giam.
Kính thưa anh. Em từng là người lính, vì đam mê em đã bén duyên với nghề báo. Trước đây em công tác tại Báo Thanh Niên, chỉ vì không khoan nhượng với cái xấu đang thao túng tờ báo này, em đã bị một Phó Tổng biên tập trù dập rồi sai khiến Tổng Biên tập ký quyết định cho em nghỉ việc.
Không khoan nhượng với cái xấu, bản thân em bị mất việc, nhưng bù lại cả băng nhóm bắt tay nhau rút ngân sách từ những công trình nạo vét phải đền tội cuối năm 2016, người cao nhất 24 năm tù, đáng lắm chứ phải không anh?
Đuổi được người ngay thẳng như em ra khỏi tờ báo, Báo Thanh Niên bắt đầu lộng hành và đã phải trả giá trong vụ nước mắm. Phó Tổng Biên tập này đã bị rút thẻ Nhà báo và nay thì nghỉ việc. Trong vụ nước mắm, Võ Thị Thúy từ phó phòng lên trưởng phòng Tổ chức của Báo Thanh Niên, một phòng quan trọng của báo. Võ Thị Thúy là ai, chắc anh biết.
Bị dừng phát sóng loạt bài này, em không biết ai được lợi, nhưng triệt phá thành công chuyên án, người phấn khởi hơn ai hết chính là em, bởi công sức của em cống hiến cho cộng đồng không bị đổ xuống sông xuống biển. Tuy nhiên, em muốn biết, việc dừng phát sóng vệt bài này trên đài THVN thì người dân và cộng đồng được lợi gì hả anh? Câu hỏi ngây thơ của em mong anh quan tâm và chỉ giáo cho em được biết nhé.
Để anh hiểu được tâm huyết của em vì cộng đồng, em gửi đến anh Kế hoạch triệt phá và văn bản em cáo đề xuất Ban Nội chính Trung ương với tinh thần quyết liệt.
Kính chúc anh sức khỏe để cống hiến cho ngành Tuyên giáo được nhiều hơn nữa.

Phần nhận xét hiển thị trên trang