Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 12 tháng 3, 2017

TÌNH NGƯỜI VÀ SỰ TỬ TẾ SẼ CỨU RỖI…


Hôm qua, đài CNN đưa tin, chính quyền Trung Quốc đã chấp nhận cho đăng ký 38 thương hiệu, nhãn hiệu cầu chứng mới cho gia đình Trump, mở đầu việc thiết lập nhiều dịch vụ mới ở TQ. Đúng là xứng đào xứng kép, anh Trung (Đỗ Nam Trung) và anh Trung Quốc. Quan điểm của Trump đang gây ra những chia rẽ sâu sắc trong lòng nước Mỹ. Và người Mỹ đang…
CÚT KHỎI NƯỚC MỸ ĐI!
Ngày 22/2/2017, tại một quán rượu có tên Austin Bar and Grill ở Kansas, một người đàn ông Mỹ tên Ian Grillot đã nhảy ra can thiệp khi một cựu chiến binh Mỹ nổ súng bắn hai kỹ sư người Ấn Độ. Ông Grillot đã chờ cho đến khi (ông nghĩ là) tên sát nhân đã hết đạn thì nhảy ra vật hắn xuống. Nhưng không, tên sát nhân vẫn còn một viên đạn trong khẩu súng trên tay và hắn lập tức bắn phát còn lại vào Grillot. Ông kể lại: “Trời, lúc ấy quả là tôi hơi bị shock vì tưởng khẩu súng đã hết đạn và tôi thấy ngay là…chắc chết. Nhưng cũng lúc đó, tôi chỉ kịp nghĩ, bằng mọi cách phải giúp các nạn nhân – họ đáng được hưởng công lý, và tôi tấn công kẽ nổ sung là bởi điều ông ta làm không đúng.”
Ông Grillot còn kể: ông đã thường gặp hai kỹ sư này, ông Kuchibhotla và Madasani trong những lần đi uống rượu khác và đã có lần chúng tôi nói đùa với nhau” . Ông Srivinas Kuchibhotla, 32 tuổi, nhân viên của công ty Garmin làm máy định vị GPS, đã thiệt mạng khi bị kẽ sát nhân nổ súng và la lớn “cút khỏi nước tôi đi.” Bạn ông, Alok Madasani, 32 tuổi, may mắn, chỉ bị thương.
Báo chí đăng rộng rãi câu chuyện khiến Grillot nổi tiếng, nhưng Grillot nói, ông phải cảm ơn mọi người đã khuyến khích ông là đã “cung cấp cho người ta hy vọng – đó là cái luôn đã thiếu thốn lâu nay.” Sau khí báo đăng, ông nói thêm: “tôi cũng cám ơn là nhờ vậy mà đã có mấy trăm thông điệp khuyến khích tôi và đã có cả vài triệu người Ấn Độ nhận tôi là bạn. Những pphản ứng của mọi người thật là quá cỡ và làm tôi thật xúc động. Những lời nói tử tế gửi đến cho tôi làm tôi …phát khóc.”
Madasani cũng kể lại là, một người Mỹ tên là Brad (nếu mà là Brad Pitt thì câu chuyện còn ly kỳ nữa?) đã xé áo của mình ra để cột vào chân của ông chặn máu khỏi chảy khi thấy viên đạn trúng đùi và ông tin là hành động của Brad đã cứu mạng ông.
Sau cùng, Grillot nói: “Không ai có thể nói là đáng bị đối xử như vậy, bố mẹ tôi dạy tôi rằng mọi người đều bình đẳng… Mọi người đều là con người, hãy đối xử với mọi người như vậy. Thành ra tôi cảm thấy tôi không có lựa chọn nào khác. Tôi chỉ hy vọng là một ai khác sẽ làm điều đó cho tôi.”
NGƯỜI MỸ- DO THÁI BẢO VỆ ĐỀN THỜ VÀ TÍN ĐỒ HỒI GIÁO
Chuyện này xảy ra khi có một loạt đe dọa bỏ bom các trung tâm cộng đồng Do Thái. Một số tín đồ Hồi giáo đã lên Internet đề nghị sẽ đến canh chừng cho những địa điểm Do Thái Giáo. Những người Mỹ-Do Thái giáo này thuộc đủ ngành nghề, một số cựu quân nhân, luật sư và một phát thanh viên nổi tiếng của truyền hình.
Cựu Thủy Quân Lục Chiến Tayyib Rashid “tuýt” rằng: “Nếu đền thờ của quý vị hay các nghĩa trang Do Thái cần ai đứng canh, hãy cho tôi tham gia. Hồi Giáo của tôi dạy tôi như vậy.” Tweet của ông nay đã có 12,000 người “thích” và đã tạo ra phản ứng từ rất nhiều người Do Thái. Một người mời ông đến ăn bữa tiệc Seder, một bữa tiệc nghi thức được tổ chức trong hai đêm đầu của Lễ Passover (Lễ Vượt Qua) và thường không mời người lạ.
Và họ không hứa suông mà mở chiến dịch quyên góp tiền sửa chữa các nghĩa trang Do Thái giáo. Chiến dịch này quyên được $150,000. Cũng vậy, trước đó khi một đền thờ Hồi Giáo ở Florida bị kẻ xấu nổi lửa đốt, tổ chức Hồi giáo ở New Tampa đã quyên được $70,000 nhưng điều đặc biệt là… Hãy nghe ông Adeel Karim phụ trách quyên góp kể: “lúc đầu, tôi không hiểu tại sao người ta tặng những món tiền lẻ thật kỳ lạ. Có những món tiền $18, $36 và $72 v.v… Rồi tôi chợt hiểu sau khi thấy tên của họ là Avi, Cohen, Goldstein, Rubi, Fisher… Người Do Thái tin rằng làm việc thiện theo bội số của con số 18 thì được phước, sống lâu”.
Những câu chuyện thật này cho chúng ta niềm tin: sự tử tế và tình người cũng là sức mạnh bền sâu trong nội tại nước Mỹ, giữ cho nước Mỹ vững bền, cân bằng, chứ không chỉ có “tam quyền phân lập” và “truyền thống dân chủ”…
Còn Việt Nam? Sự tử tế và tình người cũng sẽ neo giữ xã hội chúng ta lại, khi mà những sự băng hoại, thối rửa đang lan rộng do sự hoành hành của một thứ đang thống lĩnh: TIỀN. Hôm đi đám tang một đồng nghiệp ở Hà Nội, tôi nghe các cán bộ về hưu của VCCI kể nhiều câu chuyện rất khổ tâm vì đang là thời “Tiền khởi nghĩa”. Thoạt nghe, tôi chờ xem là vụ khởi nghĩa gì thì chỉ sau vài câu, chợt phì cười hiểu ra , tiền không phải là trước, mà chính là hắn, kẻ thống soái xã hội hiện nay, đồng TIỀN. Vâng, chống lại đồng tiền bẩn, còn cần có sự tử tế và tình người.
Xin cám ơn nhà báo Lê Phan đã kể câu chuyện về nước Mỹ.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chuyện người lính Vị Xuyên.



Đỗ Trường.



Tôi trở về quê vào một chiều chớm đông. Cái nắng hanh khô cuốn theo từng cơn gió, như rắc vàng lên đồng ải bên sông. Vẫn đàn chim sẻ đang cần mẫn tìm sâu, bắt bọ trên những luống đất xốp thẳng tắp, ngả màu. Nước đã mấp mé cửa sông. Có lẽ, cống ngoài đê sắp mở để nước tràn vào đồng ngậm ải, và báo hiệu mẻ rươi đầu mùa đã đến. Mùa của sự vần vũ, mà tạo hóa thiên nhiên đã ban tặng cho con người một sản vật, một món ăn dân dã, nhưng dường như gói trọn cả cái hương hoa tinh túy của đất trời…
Tiếng xe máy sau lưng chợt cắt ngang dòng suy nghĩ. Tôi quay người, xe chồm đến trước mặt, tiếng phanh khô dầu như xiết vào tai. Giật bắn cả người, tôi chưa kịp định thần, thấy Ân, ông bạn thời trẻ trâu ngồi trên xe, cười khùng khục:
-Bú sữa Tây nhiều, tưởng đã quên nhau rồi!
Vỗ vai hắn, tôi cười:
-Thế ai về thăm ông đây?
Hắn đế tiếp:
-Nói vui vậy thôi, nghe tin ông về, trưa đến giờ tôi cứ thấp thỏm. Lên xe đi. Hôm nay, giỗ mãn tang con gái đầu.
Mấy chục năm gặp lại, Ân vẫn vậy, vồn vã, ồn ào, và yêu quí bạn bè. Định bảo Ân xuống xe cùng đi bộ, nhưng bất chợt nhìn thấy chiếc chân gỗ của hắn, tôi đành phải lên xe.
Nhà Ân đã chuyển xuống cạnh nhà của vợ chồng chị Hậu. Ngôi nhà tềnh toàng, lộn xộn, dường như thiếu bàn tay của người phụ nữ. Mâm cơm cúng được đặt trên chiếc tủ chè mất cánh. Hương khói đã tàn, cho tôi cảm giác lạnh lẽo, rờn rợn. Nghe tiếng động sau nhà, ngỡ là vợ hắn, tôi quay lại. Ân bảo:
– Anh Cu Lớn chồng chị Hậu đấy, vợ tôi vào Sài Gòn làm Osin, nuôi thằng út học đại học đã mấy năm rồi.
Nhà chị Hậu trước ở trung tâm xã, ngày Mỹ ném bom miền Bắc, tôi có ở một thời gian. Hết chiến tranh, chị bị cán bộ, chính quyền lừa chiếm đất, buộc phải đổi nhà xuống cuối làng, cạnh khu nghĩa địa này. Chị kiện cáo khắp nơi, còn anh Cu Lớn chồng chị, cứ rượu vào, giắt dao vào bụng đi tìm cán bộ, nhưng cũng chỉ như đá tõm ao bèo. Sau đó, có lẽ quá uất ức, chị phát bệnh và qua đời.
Đứng ở cửa nhà, nhìn thấy tôi, anh Cu Lớn cầm chai rượu và mấy chiếc bánh đa nướng, ngật ngưỡng đi tắt vườn sang. Tôi chưa kịp chào, anh đã bảo:
-Chú nhắn hôm nay về, làm xong cơm cúng, anh bảo, thằng Ân lòng vòng mấy lần ra đầu làng đón từ trưa đến giờ.
Tôi xúc động, cúi xuống nắn nắn vào đôi chân thương tật của anh:
-Vậy là, chỉ còn hai ông, hai thế hệ múc nhau với Mỹ và Tàu, trở thành thương phế binh què cụt ở nhà.
Anh Cu Lớn và Ân mắt đỏ ngầu, quay mặt đi, rồi cùng cười:
-Không sao…không sao, quen rồi!
Thời chiến tranh, mảnh đất nơi đây, không có đàn ông, mà chỉ còn phụ nữ và trẻ con. Rồi sau hòa bình mấy chục năm, dường như đổi ngược lại, làng không còn đàn bà, thiếu tiếng trẻ thơ mà chỉ còn lại những người đàn ông tật nguyền, thương phế binh. Và nhìn anh Cu Lớn, nhìn Ân, chợt làm tôi nhớ đến câu thơ của Lưu Quang Vũ đã vẽ ra hình ảnh, thân phận của những người lính nông dân ấy, ngay từ ngày đầu của cuộc chiến tang thương nhất của dân tộc:
 “Người mài mực cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô
Quang Trung trên bành voi, Người cầm giáo xông lên phía trước
Quang Trung lên làm vua, Người về nhà cày ruộng
Bị lão Trương tuần bắt nạt cũng run…”
Thấy tôi đứng ngẩn tò te, Ân vỗ vai:
-Thôi ngồi xuống làm chén rượu cho ấm cái bụng đã.
Tuy đói, nhưng quả thật, đồ cúng đã lạnh tanh, nhạt nhẽo, khó nhai, không thể nuốt, tôi bảo Ân:
-Có đề nghị với ông đây, nhưng không được giận nhé!
-Không giận, có gì nói đi.
-Đồ cúng lạnh quá, hơn nữa ông đếch biết nấu, nên không nuốt được. Bây giờ bê mâm xuống bếp, tôi sẽ nấu lại đồ ăn. Trải chiếu ở đó, chúng ta trò chuyện, và nhấc lên nhấc xuống cho ấm áp.
Ân nhìn xéo tôi cười diễu:
-Mấy ông “Vịt Cừu“ hay nói phét lắm đấy. “Trông ngon lành, cành đào“ thế này, bảo biết viết văn tôi tin, chứ vào bếp, và những công việc nặng nhọc, làm thế quái nào được?
-Ông cứ đùa. Những thằng ở Đức càng lâu, nấu ăn càng giỏi. Cái gì cũng phải học, phải biết. Và những thằng tự hành nghề lâu năm như tôi, ở Đức gọi là: Những kẻ không được quyền nghỉ ốm nhé!
-Vậy thì, tôi mang chậu thau với kiềng bếp lên giữa nhà ngồi cho sạch. Củi than còn một đống ở góc sân, vô tư đốt hết đêm nay.
Nhìn vẻ ngoài, và lần đầu tiếp xúc, có lẽ ai cũng nghĩ, Ân là người cứng rắn, ăn to nói lớn. Vậy mà, mới vài tuần rượu, con người hắn hoàn toàn đổi khác. Thấy hắn trầm ngâm, nhưng rượu cứ nhát một, tôi buột miệng hỏi, nguyên do về cái chết của con gái hắn. Hắn bảo:
-Chuyện đau đớn và rắc rối lắm, nếu muốn hiểu, thì phải bắt đầu từ mấy chục năm về trước.
-Vậy thì kể đi, và khóc được thì cứ khóc, tức thì chửi, tôi nghe. Đỡ ấm ức một chút cũng nhẹ người, có khi ông giảm được nỗi đau, tôi lại viết được một truyện ngắn chứ chẳng chơi…
Tháng mười 1976, tròn mười bảy tuổi, hắn đã trở thành một người lính, và là một trong những người lính mới đầu tiên, kể từ sau 30-4- 1975 của Sư 31 Quân đoàn 3. Đang theo các đàn anh đánh đấm ở biên giới Tây Nam và Campuchia, được tin giặc Tàu bất ngờ tấn công và tàn sát nhân dân sáu tỉnh biên giới. Chiến tranh bùng nổ. Đơn vị hắn nhận lệnh hành quân gấp ra chi viện cho mặt trận phía Bắc. Sau một thời gian phòng thủ tuyến bắc Sông Cầu, hắn nhận lệnh chuyển đơn vị, và chiến đấu trên mặt trận Vị Xuyên. Và từ đó, hắn trở thành một trung đội trưởng dạn dày kinh nghiệm, với những trận đánh kinh hoàng trên các cao điểm 772, 685… được mệnh danh là đồi băm thịt, trong cuộc phản công tái chiếm đất vào những năm 1984, 1985. Có trận trung đội chỉ còn vài, ba người sống sót, trên mình găm đầy những vết thương. Và hắn đã phát điên, nhưng nhắc đến tên đồng đội hắn giật mình tỉnh lại. Trung đội bổ được sung quân, phần đông vẫn là lính mới. Những người lính này, bước vào trận, mà dường như vẫn còn ngơ ngác, vô tư như vừa xong một tiết học. Giữa năm 1985 Trung đoàn đã chiếm lại được một số chốt, hình thành thế phòng ngự xen kẽ, bám chặt địch, giành giật với chúng từng tấc đất. Trung đội hắn cách bộ binh của địch gần nhất, có lẽ chỉ chừng mười mét…
Đến đây, giọng hắn dường như hơi bị méo. Với chai rượu, tôi chưa kịp mở nắp, hắn đã giằng lấy, tự rót, và ực liền tù tì mấy ly. Anh Cu Lớn gật gù bảo: Những trận đánh của chú ở Vị Xuyên kinh hoàng, tàn bạo không khác gì bọn anh ở Cổ Thành Quảng Trị 1972. Nhưng các chú hơn bọn anh là được nhằm thẳng vào kẻ thù, bọn xâm lược mà bắn. Còn bọn anh, dù họng súng nào, viên đạn nào cũng là của quân ta giết quân mình. Cái đau và day dứt là ở chỗ đó, tuy cùng là những thằng lính.
Ân ngồi thu người lại, lặng im, lim dim hai tròng mắt mọng như treo những bọng nước… Không gian chùng xuống. Về khuya, trời sẫm đặc. Ngoài kia không xa, bãi tha ma với những vệt lân tinh vẫn quẹt sáng lên, thập thò như ma trơi. Gió luồn vào luồng ống của kèo nhà rít lên. Những cành cây, lá chuối đập nơi đầu hồi cứ phành phạch.
Đột nhiên, hắn quay người, tháo chiếc chân gỗ đút xuống gầm giường, miệng lẩm bẩm: Vì mày mà tao phải mất cái chân này.
Nghĩa là sao? Tôi hỏi lại hắn.
Chụm thêm mấy nhánh củi vào bếp, không trả lời tôi, nhưng câu chuyện của hắn lại được tiếp nối… như vậy…
Tuy đã chiếm lại được chốt, nhưng màu xanh của cây lá đã bị đạn pháo phạt ngang, và thiêu rụi, chỉ còn lại núi đá thẳng đứng, bị vạt bay mất chỏm. Trung đội Ân dường như phải treo mình vào những hốc, vách đá để tránh pháo kích của địch. Từ trên đỉnh đồi nhìn xuống, dưới chân trống trải như cánh đồng vừa gặt. Việc tiếp tế thức phẩm, vận chuyển tải đạn dược, thương bệnh binh vô cùng nguy hiểm dẫn đến bế tắc. Hỏa lực của địch mạnh, pháo kích dày như nan rá, không kể giờ giấc ngày đêm. Đạn pháo cày nóng ran cả sườn núi, đá vỡ vụn từng mảnh như sôi lên ùng ục, trắng xóa cả vùng đồi. Nhìn vào, Ân nghĩ, trận chiến này chẳng khác gì cái lò nung vôi nơi quê nhà.
Chưa tìm được con đường hậu cần, nên Ân nhận được lệnh, tạm thời rút quân bảo toàn lực lượng. Đánh lên đã gian nan, chết chóc khổ cực, rút xuống cũng hiểm nguy trùng trùng. Trung đội được chia ra từng nhóm nhỏ, để vượt qua tầm pháo địch, và Ân vẫn là người rút cuối cùng. Thật ra, vượt qua bãi trống, dưới tầm đạn pháo của địch, ngoài kinh nghiệm chiến trường, số phận, may rủi quan trọng không kém. Bởi, pháo kích của giặc Tàu hoàn toàn không theo giờ giấc cố định. Nhưng có lẽ, người rút cuối, thường khó khăn, nguy hiểm hơn chăng. Và đôi khi còn, mất chỉ bằng cảm tính của người lính lâu năm thực tế trên chiến trường, chứ thật khó diễn tả được bằng lời. Biết là vậy, nhưng bao giờ hắn cũng căn dặn anh em tính toán hết sức cẩn thận, nhất là lính mới.
Về đến nơi tập kết, rất may chỉ có mấy người bị thương, đã được đồng đội chuyển vào trạm phẫu thuật dọc đường. Và khi điểm lại, hắn thấy vẫn còn thiếu Ngọc Con. Nghe người cùng nhóm kể, khi nghe tiếng pháo nổ, mỗi thằng dạt ra một phía, nhưng không nghe thấy tiếng kêu, hay gọi của nó.
Có lẽ, nó đã dính… rồi. Một đồng hương của Ngọc Con, hai mắt đỏ ngầu, nói như vậy.
Ngọc người Nghệ Tĩnh trùng tên với Ngọc trung đội phó, và là lính mới, nên đồng đội ghép chữ Con vào tên cúng cơm cho dễ phân biệt. Ngọc Con được bổ sung vào đơn vị cùng với ba lính mới cùng quê. Trận đầu Ân cho Ngọc Con đi cạnh để kèm cặp. Nhưng thấy Ngọc Con run lên bần bật, lóng ngóng, đầu súng cứ chúi xuống, lại ngỏng lên, hắn văng tục, quát:
-Đ.m! Thằng C nào không sợ chết. Bom đạn có chừa thằng chó nào đâu. Tao cũng đang sợ ỉa ra quần đây. Nhưng không nhằm thẳng vào nó mà bắn, nó sẽ bắn chết tao và mày, vậy thôi.
Sau vài trận như vậy, tuy còn một chút học trò tính, nhưng  Ngọc Con đã dạn, và khá bình tĩnh.
Bàn giao trung đội cho cấp phó, Ân và Hải Nghệ Tĩnh quay lại tìm Ngọc Con. Trời rạng sáng, pháo kích của địch cũng thưa dần, nhưng đạn còn vèo vèo trên đầu. Sương mù loãng hơn. Trăng hạ huyền sáng đục, treo lơ lửng trên mỏm núi cao 1059 mờ mờ trước mặt. Đến bãi trống, hắn và Hải căng mắt nhìn. Lúc sau có tiếng động, hắn khẽ gọi, và như có tiếng trả lời. Xác định đúng là Ngọc Con, hắn và Hải bò vào. Ngọc Con bị thương ở đùi khá nặng. Có lẽ, bò về đến đây nó bị đuối sức rồi. Cả hai khoác tay Ngọc Con lên vai, kéo bò nhích từng bước. Một tràng súng nổ, đạn xéo rát bên tai, và hắn thấy lạnh nơi ống chân. Lết được vào con đường nhỏ hắn mới biết đạn đã găm ở chân, máu ra nhiều. Băng bó xong, hắn và Hải dìu Ngọc Con. Lúc này mới thấy đau, nhưng hắn vẫn nghiến răng bước đi. Được một đoạn, mồ hôi vã ra, chân hắn như khựng lại. Rất may, đơn vị cho thêm người đi tìm, cũng vừa đến nơi. Họ đưa hắn và Ngọc Con vào trạm phẫu thuật.
Cứ nghĩ, chỉ điều trị vài ba tuần, Ân sẽ trở về đơn vị. Nhưng không ngờ, vết thương tưởng là xoàng này, đã chấm dứt gần mười năm lăn lộn trên chiến trường, và đưa hắn đến đường cùng, ngõ cụt. Bởi, nơi chiến trường khốc liệt, thuốc men, phương tiện kỹ thuật hoàn toàn thiếu thốn cùng với trạm phẫu thuật di động, dẫn đến chân hắn bị nhiễm khuẩn nặng. Khi hắn được chuyển về Quân khu, thì đã muộn. Bệnh viện không thể cứu được chân của hắn, nên buộc phải cắt bỏ. Điều trị, an dưỡng, tập luyện mấy năm ở trại thương binh, Ân về phục viên.
Tôi hỏi cắt ngang lời hắn:
-Sao ông không học tiếp, rồi học đại học, hoặc học cái nghề gì phù hợp với sức khỏe. Theo tôi biết Bộ, các Sở thương binh đều có trường văn hóa, và trường đào tạo nghề?
-Ông không thể hình dung được tâm trạng chán chường của những thằng thương phế binh lúc đó. Đang chạy nhảy, đánh đấm ầm ầm, tự nhiên cụt chân, cụt tay, tập đi, tập nói như một đứa trẻ. Đêm đêm giật mình nghe những tiếng hú, tiếng kêu la, chém giết… rùng rợn của những thằng nửa tỉnh nửa mê cùng phòng, hoặc đang cởi truồng chạy nhông nhông ngoài sân, và có khi cũng là của chính mình. Ban ngày, tôi cũng thấy đồng đội tôi, thằng mất đầu, thằng mất chân, thằng bị phạt mất nửa người gọi cứu. Chúng khóc, chúng gào chúng đòi về quê hương bản quán… nhưng tôi bất lực. Và dù lúc mê hay tỉnh, tôi luôn muốn thoát, muốn từ bỏ tất cả hiện tại và dĩ vãng, để trở về với lũy tre xanh, với những con rươi, con hến…
Tôi đờ đẫn ngồi nghe, bất chợt hắn chỉ tay vào anh Cu Lớn:
-Và quả thật, đến bây giờ tôi không hiểu và cũng không thể tin, cứ ngày 30-4 hàng năm, hoặc trận Cổ Thành Quảng Trị, hay những ngày tết lễ, họ rầm rộ tổ chức mời gọi, tuyên dương công trạng những thế hệ, người lính như anh Cu Lớn đây. Còn ngày 17-2- 1979, ngày 28-4- 1984 trên mặt trận Vị Xuyên họ quên, và quên hẳn những thằng lính còn sống què cụt như chúng tôi. Và cả những thằng lính bơ vơ, lạnh lẽo vĩnh viễn nằm lại nơi biên thùy. Không biết hồn cốt họ giờ này trú ngụ nơi đâu…Cùng là thằng lính mà cũng có thứ hạng sao?
Anh Cu Lớn đè sự xúc động của hắn xuống, an ủi:
-Chú nói thế chỉ đúng mặt nổi, mặt ngoài của những kẻ đánh trống, khua chiêng. Còn sự thật, không riêng anh, bạn bè anh, mà có lẽ cả một thế hệ muốn quên hẳn những ngày ấy. Nhớ lại càng cảm thấy buồn và đau thôi. Những người lính chống giặc Tàu xâm lược như chú, nhân dân và lịch sử chắc chắn không bao giờ quên.
Trời gần sáng. Tiếng đôi thạch sùng đuổi cắn nhau chí chóe trên mái nhà, dường như  làm cho Ân bực mình. Cầm chiếc dép hắn ném thẳng lên đó. Rồi lắp chân gỗ, hắn đứng dậy, tập tễnh đi tìm ấm đun nước pha trà. Khi quay lại, hắn giật giọng hỏi:
-Này, Đỗ Trường, đi nhiều, đọc nhiều, ông có tin vào số phận cũng như luật nhân quả không?
-Thú thật với ông, trước đây tôi hoàn toàn không tin. Nhưng từ sau 1993, tôi đã tin, và viết ngay truyện ngắn Qủa Báo, về số phận, kết cục của những kẻ đã, đang cỡi lên đầu, lên cổ người dân lương thiện, không chỉ ở Đức, mà còn cả ở trong nước. Kẻ gây gió dứt khoát sẽ gặt bão, không trước thì sau thôi.
– Nói là vậy, nhưng cái ác ngày một sinh sôi nảy nở, và những kẻ làm ác vẫn nhởn nhơ, thách thức xã hội, con người. Đến nỗi người dân đếch phân biệt được ai là chính quyền, ai là xã hội đen. Nó cứ chập chờn như một thứ ma trơi vậy. Câu chuyện của tôi và gia đình là một ví dụ:
Tròn ba mươi, mẹ già thúc giục, mối lái, Ân mới lập gia đình với cô gái làng bên. Rồi con cái lần lượt ra đời. Cái thiếu cái đói quấn lấy vợ chồng hắn. Tiền trợ cấp thương tật không đủ cho hắn mua thuốc khi vết thương tái phát, hoặc trái gió trở giời. Con cái lớn, học hành cao, gánh nặng càng nặng thêm trên đôi vai lệch của hắn. Khi Trâm, con gái đầu thi đỗ đại học, Ân mừng lắm. Công việc gì hắn cũng làm, từ chạy xe chở hàng đến đan lát thủ công, miễn là có tiền gửi cho con. Cũng từ tình yêu thương chiều chuộng hết mực này, bước đầu hắn góp một phần đưa con gái mình đến chỗ đua đòi, hưởng lạc. Khi nhu cầu, sự đòi hỏi quá khả năng của vợ chồng hắn, thì cô con gái sinh viên từng bước trở thành gái bao, vợ hờ cho những kẻ rửng mỡ lắm của, nhiều tiền là lẽ đương nhiên. Và từ đó, Trâm đã vuột ra khỏi tầm tay của vợ chồng hắn.
Năm học cuối, Trâm có thai, nghe đâu với gã buôn đất, gốc gác người Nghệ Tĩnh. Dù đã xác định trước điều này, nhưng hắn vẫn sốc và đau. Cố nín nhịn, vợ chồng Ân về Hà Nội tìm con gái. Đứng trước căn biệt thự có hai con Becgie to vật vã gác cửa gầm gừ, như ăn tươi nuốt sống hắn. Tiếng cãi cọ, mạt sát nhau của con gái và gã tình nhân vọt ra cửa, hắn cảm thấy như bị xúc phạm. Mấy lần định bước đi, nghĩ đến con, vợ chồng hắn cố dằn lòng.
Trâm ngạc nhiên, và bối rối khi thấy bố mẹ đột ngột đến. Có lẽ, nghe thấy tiếng người lạ, từ trên lầu gã tình nhân huỳnh huỵch chạy xuống. Ân quay người, làm cho gã đứng khựng lại. Ngẩn người một lúc, Ân cũng nhận ra, và sửng sốt chưa kịp kêu tên Ngọc Con, thì gã đã đi như chạy ra cổng.
Vậy là, sau hơn hai chục năm, kể từ ngày cứu Ngọc Con, rồi bị thương cụt chân, và trở về với đời thường, hắn không hề gặp lại, hoặc có tin tức gì về nó. Để rồi, hôm nay gặp lại nó trong hoàn cảnh tréo ngoe, thật khó khăn và nhục nhã này. Mãi đến mấy tháng gần đây, gặp lại một số đồng đội cũ, hắn mới biết rõ hơn về Ngọc Con. Hết thời gian an dưỡng ở trại thương binh, Ngọc Con tiếp tục học đại học. Sau khi tốt nghiệp, gã về làm cho Chi cục Hải quan Nghệ Tĩnh một thời gian, rồi bỏ việc, nghe nói, sang Lào buôn bán, làm ăn. Không ai biết, Ngọc Con làm gì. Nhưng mấy năm sau, thấy gã xuất hiện toàn với những tai to mặt lớn trong giới sang giàu, ôm vai bá cổ tuốt tuồn tuột từ cấp trung ương đến các cấp lãnh đạo đầu tỉnh, thành địa phương. Thế là đất đai, dự án rót cả vào túi gã. Dọc đất nước này, trong giới bất động sản, có lẽ không ai, không biết Ngọc Con, và cái tính bệnh hoạn của gã. Bởi, gã chỉ mồi chài bồ bịch, bao nuôi nữ sinh viên đại học, và ở hầu hết các thành phố lớn.
Khuyên con gái trở về quê sinh nở, năm sau sẽ học tiếp, không được, vợ chồng Ân chán nản. Và dường như có linh cảm chẳng lành, hắn nhiều lần liên lạc, muốn nói chuyện với Ngọc Con, nhưng gã đều trốn tránh. Vài tháng sau, vợ chồng hắn đứng người, nhận tin con gái bị chết đuối nước dưới hồ. Vậy là, một người chết hai mạng đi. Hắn hoàn toàn không tin như vậy, bởi con gái hắn sinh ra lớn lên trên miền sông nước, nên bơi lội rất giỏi. Mẹ hắn biết chuyện trở nên lẩn thẩn, mấy tháng sau cũng qua đời…
Và đến đây, có lẽ quá xúc động hắn dừng lại, nhưng vẫn quay sang tôi bảo:
-Con gái hư hỏng, xa đọa dẫn đến cái chết là lỗi tại vợ chồng tôi thiếu quan tâm và quản giáo, có lẽ ân hận cho đến chết ông ạ.
Trời sáng hẳn, tôi nhìn rõ hơn nước mắt còn chưa kịp khô trên quầng mắt thâm nhăn của hắn, và chỉ biết an ủi:
-Ông không nên dằn vặt mình nữa. Cháu đã là sinh viên đại học, đủ nhận thức, và trách nhiệm những hành động, việc làm của bản thân. Mình làm sao theo nó mãi được.
Sao lúc đó ông không thuê luật sư làm rõ cái chết của cháu?
Hắn im lặng, rồi trả lời nhát gừng:
-Chính quyền là nó, xã hội đen cũng là nó, kiện vào mắt à…
Leipzig ngày 8-3- 2017
Đỗ Trường


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Còn bao nhiêu "khu phố" Trung Quốc tại Đà Nẵng?

>> 'Tôi từng viết mà không được xuất bản'

>> 5 ca khúc dừng lưu hành không có vấn đề tư tưởng, chính trị
>> Dọn xong vỉa hè, quận 1 sẽ mở phố Hàng rong
>> Chuyện bất ngờ của quý ông gõ cửa phòng khám nam khoa


Nguyễn Quang Vinh
(Dân Việt) Dọc bờ biển Đà Nẵng, còn nhiều khu đất nữa cũng kín cổng cao tường, tường cao cả chục mét, kín như bưng, và liệu trong những khu đất được rào dậu kín mít bí hiểm này, còn có những công trình nào đang xây?

Trước đây, báo chí đã đưa tin và ảnh về "phố" Trung Quốc ở Đà Nẵng bao vây sân bay quân sự. Bài báo này nêu các cơ quan chức năng TP.Đà Nẵng đã khoanh vùng hàng trăm lô đất ở sát sân bay Nước Mặn (quận Ngũ Hành Sơn) vào diện nghi vấn.Trong hồ sơ, đây là những lô đất do các cá nhân Việt Nam đứng tên nhưng phía sau lại là người Trung Quốc. Thời điểm đó, các tướng lĩnh quân đội về hưu đều tỏ ra lo lắng vì đây là vùng "nhạy cảm" liên quan đến an ninh quốc phòng. 

Sau khi hợp thức hóa, chủ các lô đất đã xây dựng khách sạn, nhà nghỉ cao khoảng 18 - 20 tầng. Chỉ cần đứng ở tầng 7 các tòa nhà này, có thể thấy hết mọi hoạt động trong sân bay. "Đây là vấn đề hết sức nguy hiểm, vì sân bay này vẫn là nơi tác chiến phòng thủ của các đơn vị quân đội" - Thiếu tướng Trần Minh Hùng - nguyên Phó tư lệnh Quân khu 5 lo lắng. Còn Đại tá Nguyễn Lành - nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 375 - Quân chủng Phòng không không quân, cho biết: "Tuyệt đối không được để cho bất cứ cá nhân, đơn vị nào xây dựng các tòa nhà cao hơn 12 m sát sân bay". Theo đại tá Lành, việc xây các khách sạn sát sân bay như thế này sẽ vô hiệu hóa sức tấn công, phòng thủ của tên lửa, pháo phòng không; việc cất hạ cánh các máy bay chiến đấu cũng không thực hiện được. 

Chuyên gia quân sự khác cũng nói rằng, cách tốt nhất là chính quyền Đà Nẵng có giải pháp thu hồi lại các lô đất nghi đã rơi vào tay người Trung Quốc. "Đất ở sát sân bay, không được bán cho bất cứ ai. Nếu rơi vào tay kẻ khác thì rất nguy hiểm. Tuyệt đối không để họ xây khách sạn, lấy vợ sinh con và thành lập phố Tàu ở tuyến đường ven biển Đà Nẵng" - thiếu tướng Trần Minh Hùng gay gắt.

Từ lúc đó tới giờ, chưa rõ Đà Nẵng xử lý như thế nào.

Giờ thì, các cơ quan chức năng Quận Cẩm Lệ (Đà Nẵng) tới kiểm tra tại kho hàng 1.000 mét vuông của công ty Việt May Home mới tá hoả phát hiện cả một khối công trình xây dựng đồ sộ, quy mô, theo kiểu dáng nhà cổ Trung Quốc, có vườn, có đường đi, có đèn chiếu sáng, tất cả được che đậy bởi một bức tường cao 10 mét bao bọc bên ngoài. Để xây dựng được công trình này, chắc chắn phải làm trong nhiều tháng. Lượng xe cộ vào ra, thợ xây chắc chắn nhộn nhịp.

 Kỳ lạ là không cơ quan chức năng nào phát hiện ra cho tới khi người dân báo tin. Tìm hiểu mới biết công ty Việt May Home thuộc Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, công ty này lại dùng đất của mình cho Công ty TNHH Liên Hợp Thế Duy thuê lại. Công ty Thế Duy đã lặng lẽ xây dựng công trình không phép trên. Người ta ngờ rằng, Công ty Thế Duy đứng tên hộ cho người Trung Quốc.

Vì thế, khi kiểm tra đột xuất, cơ quan chức năng phát hiện thấy 5 người Trung Quốc (có phiên dịch người Việt) đang chỉ đạo thi công...Thậm chí có người Trung Quốc còn dám trưng hộ chiếu có in hình lưỡi bò, thứ hộ chiếu đã  bị chính phủ Việt Nam nghiêm cấm nhập cảnh.

Lỗ hổng trong quản lý hay sự vô trách nhiệm của địa phương để xảy ra những vụ việc ngao ngán như thế, vi phạm pháp luật như thế?

Dọc bờ biển Đà Nẵng, còn nhiều khu đất nữa cũng kín cổng cao tường, tường cao cả chục mét, kín như bưng, và liệu trong những khu đất được rào dậu kín mít bí hiểm này, còn có những công trình nào đang xây?

Đà Nẵng không chỉ đình chỉ công trình xây dựng trái phép nói trên, và chắc chắn phải đập bỏ, không nương tay, nhưng liệu đây có phải là công trình đầu tiên?

Có điều khuất tất nào giữa các quyết định bán đất, cho thuê đất mà người Trung Quốc đang đứng ở phía sau?

Nhân sự việc này, Đà Nẵng cần một cuộc tổng rà soát rộng lớn để phát hiện thêm những sai phạm, để tìm ra những kẻ hở, những dấu vết ẩn náu của người Trung Quốc sau lưng người Việt, công ty Việt, vì đây không chỉ là vi phạm luật, nó còn là vấn đề an ninh quốc gia, chủ quyền đất nước, là chuyện rất lớn, không thể quản lý hời hợt, thiếu trách nhiệm như vậy.

Và cần một chế tài xử lý nghiêm với những đơn vị phía Việt Nam đứng ra "bảo kê" bằng cách đứng tên hộ cho người Trung Quốc với bất cứ mục đích nào.

Người dân cần Đà Nẵng hành động nhanh và dứt khoát với những vụ việc này.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

MÂM CƠM GIỮA ĐẤT TRỜI TƯỞNG NIỆM 64 LIỆT SĨ GẠC MA




Dương Phong
9 .3 .2017

Cụ Hoàng Nhỏ, 88 tuổi ở làng biển Tân Định, xã Hải Ninh, huyện Quảng Ninh, Quảng Bình là cha của liệt sĩ Gạc Ma, Hoàng Văn Túy hy sinh ngày 14.3.1988 đang làm lễ giỗ cho 64 liệt sĩ hy sinh ở trận thảm sát do quân Trung Quốc gây ra với chiến sĩ hải quân Việt Nam năm 1988. Năm nào cụ cũng làm lễ giỗ cho 64 liệt sĩ. 64 cái bát. 64 đôi đũa. 64 bộ áo binh. Con cháu của cụ ở làng biển về giúp cụ một tay. Năm 2012 khi vợ cụ còn sống, tôi đã biết về đám giỗ hiếm có này và viết ngiều bài báo. Sau đó các đồng nghiệp khác cũng viết. 

Năm nay vợ cụ đã mất, nhưng cụ Nhỏ vẫn khói hương cho 64 liệt sĩ. Cụ xem đó là con cái của mình. Máu thịt của mình, những trai tráng ra đi ấy đến ngày cụ lập trang cúng, nấu nướng mâm bát, kêu gọi con cháu góp gạo để thờ cúng bữa giỗ bên bờ biển đông. Cụ đã 88 tuổi. Đốt nén hương bên cát làng, cụ lo đã tuổi xế chiều, sau này thác xuống có còn ai nấu nướng đến bữa cho 64 đứa con liệt sĩ hy sinh ở Gạc Ma hay không.
 




Tin và ảnh: Dương Phong

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đem khoe


Giàu sang khoe của
Thợ vẽ khoe tranh
Tôi khoe cái nỗi buồn tình của tôi
Còn gì khoe nữa người ơi ?
Văn hay chữ tốt , nụ cười cái duyên ?
Dại hay khôn mà khoe phiền
Lo bò răng trắng láo liên sự đời
Thế nhân người biết lâu rồi
Nói làm chi nữa –
Nực cười tôi không ?
Thôi thì gánh đổ biển đông
Hay nhờ sóng chở sang sông cái phiền
Dở hay ta hãy làm quen
Sống chung với lũ một phen đã đời !
Khoe rồi
mệt lắm bạn ơi
Ai về quê cũ
cho tôi theo cùng !

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Phía sau ống kính


Trước ống kính của anh
Mọi vật có thể trở nên đẹp đẽ
cũng có thể tầm thường
Đâu phải vì anh muốn thế?
Anh làm theo lời đề nghị
Theo hầu bao của người trả tiền
Người ta nuôi anh ăn
có cách gì để làm khác được ?
Xem ra
Nghệ thuật cũng thường thôi nhỉ
Quẩn quanh câu chuyện áo cơm
Dẫu sao cũng là đáng quý
khi người ta khen ,
anh biết lặng thinh !

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ngày xưa



Ngày xưa tôi có cây đàn
Bên dòng sông sáng trăng vàng dạo chơi
Người yêu tôi đẹp nhất đời
Mắt đen, tóc óng
bồi hồi tâm can
Bởi tôi mê mải nắng vàng
Lỡ quên lời hẹn nàng sang độ hè
Xe hồng người đón nàng đi
Đàn tôi dây thiếu, tôi về bến sông
Hồng Hà nước chảy mênh mông
Càng trông càng mất,
càng không rõ bờ !
Bao giờ
“cho tới ngày ngày xưa..”
Để tôi chuộc những dại khờ đã qua ?

Phần nhận xét hiển thị trên trang