Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 4 tháng 3, 2017

Vũ điệu của cái bô!

Vũ Thư Hiên: Để nhớ một người vừa từ biệt chúng ta - Nguyễn Quang Thân
Lưu Trọng Văn: Chả có gì thơm bằng cứt trẻ con!...
Tao thà đi đổ bô cho con nít còn hơn bưng bê hầu rượu bợ đỡ tụi vua quan.
Vì sao ư?
Vì tao là đứa con cầu tự.
Tao là con của Trời .
Nguyễn Quang Thân, tuổi 82, mới đó cười như giai trẻ. Mới đó khoe với gã ra Vũng Tàu bơi thi, ối giai thua.

Mới đó, mới đó thôi mà, quần bò áo thun, ngực vạm vỡ.
Mới đó thôi mà, anh em gặp nhau câu đầu tiên ông ghé vào tai gã;
Mày thế nào ?
Thế nào là thế nào? Gã hiểu chỉ là hỏi chuyện... ấy ấy.

Không thèm nghe gã giả nhời vì gã hiểu chàng u80 ấy hỏi chỉ để mồi cho có cớ... khoe:

Tao nhiều đêm khó ngủ vì tức...quần quá.
Mãnh liệt yêu.
Mãnh liệt viết.
Và rồi chính lúc sải cánh như kình ngư mãnh liệt ông nhắm mắt lại.

Tao là con của Trời. Trời gọi tao rồi.
Tạm biệt nhé trần gian!
Chiếc bô còn hằn đít con trẻ rớt xuống đất.
Đâu đó vang lên tiếng cười :





CHẢ CÓ GÌ THƠM BẰNG CỨT TRẺ CON!

Nhà văn Nguyễn Quang Thân
Thế là không hy vọng gì nữa rồi. Nhà máy đóng giầy phá sản. Cả năm nay Hảo sẽ không có việc làm. Đề tài, số tiền trợ cấp ban đầu và bản quyền bán cho nhà máy tan thành mây khói. Khách hàng đã tẩy chay thứ giầy bong mũi của nhà máy trước khi loại keo dán tuyệt vời của Hảo qua được bát quái trận thủ tục.

Vậy mà cũng phải ăn, phải gửi tiền cho con gái lên Hà Nội học thêm, phải nuôi cái xe đạp tàng, hễ mó đến là ăn vạ tiền nghìn. Rồi chén cà-phê đen mỗi sáng, quên nó một bữa là Hảo thấy mình đang mọc đuôi ra.

Thế nào cũng phải làm một cái gì! Nhưng ngoài cái chuyên môn được ghi trong mảnh bằng phó tiến sĩ, Hảo không biết làm gì khác. Cũng không thể như Tứ, hoạ sĩ ở tầng dưới. Tứ thường không biết ngày mai mình ăn gì, ăn ở đâu. Tứ nói: “ Đói là con hổ, đừng nhìn nó, nhìn là nó vồ ngay”.

Nhưng Tứ đã bước vào phòng đúng lúc Hảo đang nghĩ đến anh, nhem nhuốc như cái xơ mướp nhúng vào thùng bột màu.

– Này cậu, có việc này hợp với cậu lắm. Nhưng pha cà-phê uống cái đã.

Hảo lóng ngóng múc cà-phê vào phin. Hay là Tứ rủ mình làm bạc giả? Trông mặt y như đang thu vén quần áo để vào Hoả Lò.

– Việc gì thế?

– Giữ trẻ! Tháng một trăm tì, có ăn trưa. Được chưa?

– Tốt quá. – Hảo nghi ngờ, chùm rẽ quạt toé từ mắt xuống đôi gò má – Món thơm thế đâu đến phần mình. Với lại còn cơ quan...

– Thì đã bảo người ta cần mà. Chăn một thằng bé ba tuổi rưỡi, nói tập toẹ. Vừa chăn vừa dạy tiếng Anh để lớn lên biết đọc tên các công ty trong phố và phân biệt được nhà vệ sinh nam nữ ở sân bay. Việc cơ quan thì để tớ gà cho. Đăng ký một đề tài thật kêu, đại khái thế này: “Ném một cái nhìn vào quy trình chế tạo keo dán mũi giầy ở địa phương ta”, nhớ là phải có chữ ta, không cần xin trợ cấp, xin hai năm ngồi nhà nghiên cứu, được chưa?

Không bị Tứ rủ đi làm bạc giả là phúc rồi. Hảo đăng ký đề tài, anh có chữa lại vài chữ của Tứ. Ném một cái nhìn, không được. Cuối cùng: Tiếp cận hyperbole tính duy vật biện chứng... song ngữ: Faire une hyperbole.... (tiếng Pháp) và To take a hyperbola... cộng thêm hai trang đề cương (cũng song ngữ). Được rồi, rất có e! Hảo qua mặt được chủ nhiệm Uỷ ban khoa học kỹ thuật tỉnh vốn trước là giáo viên cấp III. Trong bản dịch đề cương tiếng Anh có mấy tiếng khó dịch, Hảo bịa ra, nhưng chắc là ông không biết. Ông thường bắt cán bộ làm thuyết minh song ngữ nhưng bản thân ông không phân biệt được tiếng Pháp với tiếng Anh, trừ tiếng Nga nhờ những chữ N ngược kỳ lạ của nó. Ông nói: “ Cậu khá lắm, tính tư tưởng, tính địa phương, đề tài của cậu ưng cái bụng mình lắm rồi. Nhưng có xin trợ cấp không đấy ? Không hả. Tốt, nhớ khao nhé!”. Ông ký một cái rẹt, chữ ký như con bọ cạp đang bò.

Thế là Hảo có hai năm rỗi rãi. Sẽ khao, sẽ khao. Ông chủ nhiệm và cả Tứ nữa, những nhà Mạnh Thường Quân của khoa học.

Một chú chó Nhật sủa lách nhách rồi te tái tuồn dưới chân hai người. “Ê, Mi-mô-sa, Mi-mô-sa, ngoan nào... Xin mời hai bác...”. Chị chủ nhà nhặt vội con chó lên, nghi ngại nhìn cái ống quần lem nhem của anh hoạ sĩ dắt mối. Tứ xăng xái:

– Tôi dẫn anh Hảo đến như đã hứa với chị. Bây giờ tôi phải đi treo cờ mồng một tháng năm. Xin hai vị cứ tự nhiên.

Hảo nhìn chị chủ nhà. Chị đẹp, sang trọng và thừa thãi. Áo quần, mỡ phần, không gian và thời gian.

– Chắc anh Tứ đã nói với anh. Cháu cần một người có học trông nom, bố cháu nói ở Nhật người giữ trẻ đều phải qua đại học. Tôi giao cháu cho anh ban ngày, anh ở lại ăn trưa, ngủ với nó hai giờ mỗi ngày, nhất thiết phải cho nó ngủ hai giờ như ở nhà trẻ. Và dạy tiếng Anh cho cháu. Tôi muốn mướn một cô giữ trẻ. Nhưng chồng tôi lại muốn có một người đàn ông, anh ấy nói cháu phải có nam tính mạnh mẽ để đua ganh với đời.

Mọi việc đã xong xuôi. Chị nói: “ Ban đầu hẵng biết thế. Còn sau này...” Rồi chị nhìn xoáy vào mắt anh (anh khẽ rùng mình), khuôn mặt lặng lẽ buồn chán và sung mãn của chị bỗng bừng sáng. Có lẽ chị cũng có học, không phải loại mướn vua về múa như anh nghĩ. Anh hỏi: “Cháu đâu? ”. Rõ ràng là chị đã quên mất thằng bé. Chị ừ hữ: “Tôi cho cháu về bên ngoại. Anh cứ gọi nó là thằng Cu. Chúng tôi vẫn gọi cháu thế cho dễ nuôi. Mai xin mời anh đến”.

Sáng hôm sau chị chủ nhà và thằng Cu đón anh ở cửa. Con Mi-mô-sa đứng cạnh. Nó có vẻ ngạc nhiên khi thấy anh dám dắt một chiếc xe đạp như thế vào cái sân rải sỏi. Chị thì nuột nà trong bộ mút-xơ-lin màu thiên lý, thoa sơ sài một lớp phấn mỏng lên mặt. Chị đẩy thằng Cu lại cho anh: “Nào, Cu chào bác đi, chào thầy đi!” Cố gắng như một cái máy không nhạy, nó nói: “Cháu chào cô ạ!” Chị chữa: “Chả là tôi đã cho cháu vào nhà mẫu giáo mấy ngày, con nói lại đi, chào chú ạ!” Chị dẫn anh và nó sang một phòng nhỏ cạnh phòng khách. Một cái bàn học cho trẻ. Chiếc đi văng gỗ mà anh sẽ ngả lưng buổi trưa. Cốc và những chai nước lọc.

Chị nói: “Nghe anh Tứ bảo anh nói tiếng Anh như người Anh phải không? Hôm nào về mà hai bố con bi bô được với nhau là anh ấy mừng lắm. Anh ấy nói tiếng Anh như gió”. Hảo định cải chính: “ Tôi nói tiếng Anh như người Việt” nhưng thằng Cu đòi ị. Nó nhăn mặt, duỗi tay ra và lấy tay bưng đít. Chị chủ nhà nói: “ Bác để tôi – chị nhăn mũi – quên đưa vào đây một cái bô, bà Múi ơi!” Người nấu bếp chưa vào chị đã bế thằng Cu ra ngoài. Lát sau chị vào, tay thằng bé, tay cái bô. “ Dọc hành lang một đoạn là toa lét. Anh cứ đổ vào đó rồi giật nước là được” . Chị đặt cái bô vào góc nhà như người nhạc trưởng cất gậy lên giá. Điệu vũ chấm dứt. Hảo nhìn cái biểu tượng nhà nghề trắng muốt, chỉ mong chị chủ nhà đi khuất.

Năm năm trước đêm nào anh cũng mơ thấy mình xúng xính trong bộ quần áo tiến sĩ cổ truyền. Chị đưa anh hai chiếc chìa khoá: “Đây là khoá phòng. Đây là cổng. Thỉnh thoảng bác dẫn cháu đi chơi, tuỳ ý bác”. Rồi chị lên lầu, vẻ tự hào đã hoàn thành nhiệm vụ người đạo diễn.

Hảo hỏi thằng Cu: “Oắt xi o nêm mơ?” Nó nhìn anh trân trân một giây rồi tái mặt: “ Đ...bu mày!” Nó tưởng anh vừa chửi nó. Phải nói là nó chửi rất du dương. Ngày hôm nay phải dạy bằng được câu này cho nó: “Oắt xi o nêm mơ, tên cháu là gì chứ không phải câu chửi tục. Nhân loại chưa đổ đốn đến mức biến một câu vấn danh thành câu chửi”. Chấm dứt buổi học tiếng Anh đầu tiên.

Mọi thứ dù phi lý đến đâu mà lặp đi lặp lại mãi thì vẫn chấp nhận được dễ dàng. Việc anh thành người giữ trẻ thì cũng chỉ cần một tuần để trở thành dĩ nhiên. Dĩ nhiên như một giáo sư nổi tiếng ốm đau kéo dài phải đốt sách để sưởi, như việc cái xe đạp nào cũng phải tòn teng một tấm biển số thời nào. Hai mươi tờ giấy năm ngàn đủ sức mạnh biến Hảo thành người giữ trẻ mẫn cán trong ba mươi ngày. Chị chủ nhà không chú ý đến anh hơn bà Múi, người nấu bếp lầm lũi như cái bóng.

Từ ngày có anh đến làm, chị được giải phóng khỏi thằng con trai nên rỗi rãi hơn. Chị lên lầu xuống lầu, đọc sách trong khi anh túi bụi trong phòng với thằng Cu và cái bô, đã bắt đầu nhớ cái giá sách và những ngày nhàn rỗi đọc chữ thánh hiền. Thỉnh thoảng chị pha một một cốc nước chanh mời anh với dáng vẻ của người làm việc từ thiện rồi cũng tiện mồm kể lể chuyện nhà chuyện cửa. Chồng chị trước đây là thuyền trưởng viễn dương. Nhờ anh mà chị được nhìn thấy đồng đô-la xanh rờn đầu tiên và hình những tổng thống Mỹ quá cố. Khi túi đã hơi nặng, anh tìm cách lên bờ. Anh bảo chị: “ Thời nay chỉ leo được lên mới thắng, dưới đất bao giờ cũng thua”. Anh biết đầu tư chiều sâu và lên dần. Bây giờ anh phụ trách một văn phòng đại diện ở Hồng Kông, môi giới mua những con tàu hàng vạn tấn đến những chiếc nịt vú. Anh nói: “Một chuyến đi Nhật cứt đái cùng mình chỉ thắng một hai cây. Bây giờ ký xạch một cái tôi có bạc triệu!” Hảo không biết chị kể một cách thành thực những chuyện ấy với anh để làm gì, chị có tâm đầu ý hợp với người chồng ở xa hay không. Chị kể một cách buồn chán, mệt mỏi; là người tiêu tiền, chị không có cái say mê của những con sói săn mồi. Chị là con kền kền cái lười biếng rỉa xác một con voi. Chồng chị thỉnh thoảng có viết thư nhưng hai năm nay anh không hẹn ngày về. Hảo cảm thấy, với chị thì anh vĩnh viễn không về nữa.

Thằng Cu có người trông, sạch sẽ hơn. Nó học tiếng Anh cũng khá và mến thầy. Để giải quyết chuyện cái bô, Hảo đã tập cho nó ra toa-lét mỗi khi có nhu cầu. Cuối tháng đầu chị trả lương cho anh, đưa luôn cả tháng sau, tặng thêm cho anh năm mươi ngàn. Thấy anh lưỡng lự, chị nói: “Anh cầm đi. Chúng tôi giàu lắm . Anh không tưởng tượng được chúng tôi giàu như thế nào đâu. Nhưng ở cái đất hay nhòm ngó nhau thế này mình cũng phải giữ ý".

Một sáng anh đang ở trong phòng với thằng Cu thì ông Vị đi xe máy đến. Qua cửa sổ anh nhìn thấy ông chải chuốt hơn ngày thường tuy ít đường bệ hơn so với những lúc ông đi lại dọc hành lang nghe một cán bộ khoa học thuyết minh cái gì đó sau lưng mình. Chị ngồi tiếp ông hàng giờ trong phòng khách. Buổi chiều trước khi Hảo ra về, chị mời anh uống trà. Chị nói: “ Ngày mai tôi phải vắng nhà mấy ngày. Anh giúp tôi ngủ lại và trông hộ cháu được không ?” Anh đáp được. Suy nghĩ một lúc chị hỏi: “Anh có biết cái ông hồi sáng đến thăm tôi không?” Anh nói: “ Không”. Chị nhìn anh vẻ tin cậy: “Thôi chẳng giấu anh làm gì, sợ anh nghĩ tôi không đàng hoàng. Ông ấy là bồ tôi đó”. Thấy Hảo cảm động vì lời thổ lộ ấy, chị duyên dáng níu nhẹ vào ống tay áo anh: “ Nhưng tôi đã quyết định dứt ông ấy ra. Ngày mai chúng tôi cùng đi Sầm Sơn. Lần cuối cùng rồi thôi. Anh giúp tôi nhé?” Chị kể trước đây mấy năm chồng chị khéo léo đưa chị đến với ông ấy. Đối với sự nghiệp của anh, cũng là của thằng Cu, chị không nề hà gì. Ông ấy giúp đỡ chồng chị đến nơi đến chốn nhưng không hề để mắt đến chị, món mỡ trước miệng mèo. Đã có ai ở thành phố này dám coi chị như củ khoai cơ chứ? Lòng tự ái nổi lên, chị tìm cách khám phá con người mẫu mực kia và chị yêu ông ấy lúc nào không biết. Khi chị hiểu ra sự cao đạo của ông là một cái bẫy chinh phục nguy hiểm của những người có tuổi thì cũng là lúc chị chán ông ta. “ Cuối cùng thì chồng tôi thắng, nhưng tôi chẳng được gì. Anh giúp để tôi làm chuyện chia tay với ông ấy trót lọt” . Anh đáp: “Vâng, tôi trông nhà hộ và kín miệng nữa”. Chị cười buồn: “Chẳng cần đâu. Cả thành phố biết chuyện tôi với ông ấy rồi. Họ chưa đưa lên ti-vi là may”. Hảo nói: “ Chị đừng mang theo con chó nhỏ”. Chị ngạc nhiên: “Vì sao vậy?” Bỗng chị mỉm cười: “ Tôi nhớ ra Sê-khốp rồi. Anh yên tâm. Thời nay không ai dùng chó làm môi giới cho yêu đương đâu!” Ngừng một chút, lần thứ hai Hảo thấy khuôn mặt chị rạng lên. Chị nói hấp hổi: “ Tôi sẽ mang theo con chó. Tôi là một con mù mà lại muốn đi tìm ngọc quý. Mi-mô-sa sẽ dẫn đường cho tôi” . Chị mang Mi-mô-sa đi thật. Chị còn tin có một người nào khác đang chờ chị ở Sầm Sơn ư?

Ba ngày sau chị và ông Vị về nhà. Một chiếc Toyota đậu trước cổng. Nghe tiếng còi Hảo ra mở cổng như một người gác gian mẫn cán. Anh bất ngờ chạm mặt ông Vị. Nhưng cả hai không chào nhau, không nói gì. Ôi tiền giấy và sắc đẹp, những lá bài của số phận éo le.

Nhìn nét mặt cau có, dồn nén và thân thể sung mãn của tuổi già đang chín một lần trước khi rụng của ông Vị, Hảo biết là mấy ngày ở Sầm Sơn ông chỉ được xơi thịt thỏ. Túi tiền có thể vơi chút ít, nhưng cái túi tục luỵ kia thì chắc vẫn còn nguyên. Nó làm ông cáu giận. Hảo nghe tiếng cãi cọ trên lầu, ở phòng khách.

Nhưng rồi ông cũng phải ra đi. Chị gọi dây nói cho xe đến đón ông, tươi tỉnh, lịch sự đưa ông ra đàng hoàng. Ông thì hầm mặt vì tiền mất tật mang, chỉ biết tự an ủi là đã giữ gìn được phẩm chất trong chuyến đi biển đầy rẫy những trò ăn chơi tư sản.

Hảo biết không mấy người vui vẻ khi bị người tình buộc về hưu.

Chị chạy đến gặp Hảo sau khi ông đi khỏi, mời anh sang phòng khách uống trà. “Thế là trút được món nợ Liễu Thăng!” Chị nói, ve vuốt con Mi-mô-sa, nó liếm tay chị, kiêu hãnh vì đã giành lại được chị và tự hào vì ông già giàu có, oai vệ kia đã ao ước được một số phận như nó hôm nay mà không có: được chị ve vuốt, nâng niu. “Sao có một dạo ông ấy dễ thương thế.– Chị nói. – Bây giờ thì chỉ dạy dỗ, khuyên bảo suốt ngày !” Chị lại ve vuốt con Mi-mô-sa, thì thầm: “ Sầm Sơn năm nay đẹp lắm, mày có nhớ Sầm Sơn không con, Mi-mô-sa?” Hảo thầm đoán là ở Sầm Sơn con chó nhỏ này đã đóng được một vai trò gì rồi.

Anh không nhầm. Ba hôm sau, một chàng trai, trẻ hơn chị vài tuổi, đến nhà. Anh ta dắt chiếc CBT 125 màu nòng súng vào sân, cởi chiếc mũ mô-tô khỏi đầu rồi nhoẻn miệng cười với ngôi nhà. Hảo vì nể nhìn chiếc xe mới thấy lần thứ hai trong đời, lần đầu Tứ giới thiệu nó cho anh ỡ bãi xe, nói rằng ở cái thành phố ăn chơi đồ Nhật này chỉ mới thấy xuất hiện vài cái. Anh gọi chị xuống, bàn giao khách cho chị rồi vào phòng với thằng Cu. Người khách nhìn anh không chút ngạc nhiên như chính anh ta đã từng mướn vài chục thằng đầy tớ cỡ đó.

Họ nói chuyện với nhau trong phòng khách. Rồi chị thét bà Múi ra chợ. Bữa trưa có bún chả, ốc nhồi thịt và một chai Giôn bộ 1 giá nửa chỉ vàng khách mang tới và những gói kem vừa đông lạnh trong chiếc máy làm kem sau cốp xe. Hảo cùng ngồi ăn với họ. Hợp đồng đã ghi có ăn trưa. Chị uống vài hớp rượu quý nói luôn mồm, cười luôn miệng, trông chị trẻ ra mấy tuổi so với ngày hôm qua.

Chị giới thiệu khách với Hảo: Anh X. đây là con ông Y., gọi ông Z. bằng bác họ (Hảo nghe tiếng họ từ lâu), tốt nghiệp đại học ở Ba Lan, mười năm nay đi đi về về, không quốc tịch, không hộ khẩu, hộ chiếu ba năm đổi một lần (cái khoản này thì chính tôi cũng không hiểu vì sao mình có – anh nói – lúc cần cứ hỏi pa-pa), nay là nhà kinh doanh bự, nguồn vốn không xác định rõ nhưng lớn lắm và đảm bảo là không có chuyện Nguyễn-Văn-Mười-Hai 2, buôn bán từ đầu vi-đê-ô đến chổi đót xuất khẩu... Anh đây còn có một căn hộ ở Vác-xa-va, giữ thường xuyên một phòng ở Pa-lat Sin-ga-po và vừa bay từ đó về tuần trước. Chị nói: “ Ở Sầm Sơn ông Vị tâm sự với tôi rằng, không có các ông thì bọn trẻ bố láo đảo lộn cơ đồ lên mất. Nhưng khốn nỗi ông ấy khôn g phân biệt được cá thu khô với cá thu tươi ở chợ cá Sầm Sơn, phải không Mi-mô-sa?” Con chó vắt ngang trên đùi chị ư hử đồng tình. Chị tiếp: “ Theo tôi những người như anh X. đây...”Anh X. đây đưa bàn tay lên. “Hẵng khoan, hồi nãy em nói gì nhỉ. À, ông ấy đã, đang và sẽ... còn anh thì ngay cả khi dùng tiếng Anh, anh không bao giờ chia động từ theo thì quá khứ và tương lai cả. Tôi đang nói, tôi đang sống. Thì hiện tại muôn năm!” Anh hạ bàn tay xuống và nhón một con ốc nhồi thịt. “Để em nói hết đã mà! Theo em thì chính những người như các anh sẽ đưa chúng ta ra khỏi cuộc khủng hoảng. Có phải thế không anh Hảo?” Hảo nghĩ, không biết chị nói cuộc khủng hoảng nào, của đất nước hay của chị? Anh đáp : “Tôi không sành chính trị nhưng tôi biết chắc muốn giải quyết vấn đề thì ai cũng phải cứng rắn”. Chị là người thông minh. Chị cười hồn nhiên: “Anh nói đúng chóc! Phải thế, chứ như ông Vị thì... như con sứa ấy!” Người khách tỏ ra kém thông minh và ghen tị nhỏ nhen khi thấy chị vừa khen anh người làm nói leo. Anh mím cái miệng đỏ hồng riết róng, nhìn đĩa trứng vịt lộn chưa ai đụng tới rồi quay sang chị: “Vấn đề là tiền! Em mua quả vịt lộn này bao nhiêu ? Bảy trăm à? Tôi hứa, nếu em ra lệnh, trong ngày mai tôi sẽ (lại sẽ rồi – Hảo nghĩ) có đủ tiền hạ giá trứng vịt lộn ở thị trường thành phố này xuống một nửa. Và tôi giữ giá đó trong một tuần, em chịu không?” Chị lại cười ré lên, lần này vì lòng tự ái được ve vuốt. Hảo nhăn mặt cố nghĩ xem vị anh hùng này làm cách gì và sẽ bỏ ra bao nhiêu để hạ giá trứng vịt lộn xuống còn một nửa. Nếu anh ta làm được như thế, Hảo sẽ cố tranh thủ ăn lấy vài quả, mấy lâu nay anh quên mất thứ thực phẩm dành riêng cho những tay bá chủng heo nọc này rồi. Nhưng thật ớn những trò nói khoác. Suy cho cùng là do lỗi của đế quốc Anh. Chúng sản xuất ra thứ Johnny Walker ngon quá. Sau khi chấm nước mắt do trận cười, và không ngừng bị ám ảnh bởi từ “cứng rắn” anh vừa phát hành, chị hỏi Hảo: “ Còn anh, anh nói nữa đi, ý anh thế nào?” Hảo đáp: “Xin lỗi, tôi không sành chính trị”. Nhà kinh doanh giơ tay lên như ông giáo trẻ dạy cho chú học trò chậm hiểu: “Đây không phải là chính trị. Đây là chuyện làm cường dương cả một thành phố. Chúng ta x ẹp như dán quá lâu rồi!” Chị lại cười, làm một cử chỉ e lệ gọi là, rồi nói: “Anh yêu, thế thì anh hạ giá trứng vịt lộn đi!” Hảo muốn kìm sự hưng phấn đang quá đà do chai rượu Anh gây ra. Anh hỏi anh yêu: “Bao giờ thì anh định cư hẳn trong nước để làm ăn?” Anh yê u lấy khăn lau miệng, nói qua kẽ răng: “ Khi nào chúng tôi có đại biểu trong quốc hội – Anh cười tinh quái – Nếu không thì ai bảo vệ vốn liếng của chúng tôi chứ?”

Sau bữa trưa, họ lên phòng của chị. Hảo trở về cái đi-văng. Thằng Cu đã ngủ, cạnh nó là một cái bô đầy. Anh múa tiếp điệu vũ của mình rồi nằm xuống cạnh nó. Tiếng nhạc êm dịu lọt qua bức trần xuống tai anh. Đó là những bài hát tiền chiến rất quen thuộc. Anh nhớ mẹ lạ lùng. Cái hố trống trong ngực anh to dần ra, to mãi đến hư vô. Bữa cơm quá tải làm anh khó ngủ. Anh nhớ mẹ cũng giàu, cũng sang trọng, sang trọng cả lúc không còn giàu nữa. Cả trong những ngày chiến tranh liên miên. Tất cả vàng bạc, hạt xoàn mẹ đưa anh, lúc đó mới ba tuổi, để tự tay anh thả vào khe của cái hộp gỗ sơn son trong Tuần lễ vàng. Mẹ bảo với bố: “ Tôi gánh gạo đường xa cho các con”. Miếng vườn cả nhà vỡ hoang ven bờ suối dưới sự chỉ huy của mẹ, tiếng vo gạo buổi sáng, nước gạo chảy men bờ như sữa. Chim hoạ mi hót sau mấy cây ổi mẹ trồng, con rắn mai gầm lâu lâu lại xuất hiện, chạy qua sân rồi biến mất trong đám hương nhu, làm thành một sự kiện trọng đại. Rồi cái tang đầu tiên: bố chết vì bom bi trong một trận oanh kích. Cái tang thứ hai, người anh cả ở Trường Sơn. Đến lượt anh, đứa con yêu của mẹ cũng biến mất ở chân trời Đông Âu, mang theo hy vọng về một cuộc sống tử tế của cả nhà. Lúc anh về thì mẹ đã mất. Và cùng với mẹ là cả một vũ trụ đáng kiêu hãnh và nuốt tiếc cũng mất nốt.

Hảo như đui mù. Anh không được chuẩn bị cho sự nghèo khổ và bệ rạc, không được chuẩn bị để sống với người vợ trước đây để sống trong cảnh ngộ hiện nay. Không chuẩn bị để thành người ở, làm công cho người đàn bà thông minh nhưng tinh quái, có lương tri và dâm đãng nữa. Anh cố nghĩ một tính từ khác nhưng không được. Thú thực là anh ghét và ghê tởm khi chị dám cả gan và sai lầm khi đồng loã đánh giá nền chính trị thông qua những người đàn ông liệt dương trên giường mình, dù trong đó có cả một ông xếp không ra gì của Hảo. Và cũng thật khó chịu thấy mắt chị sáng lên khi con dê cỏn dằm đô-la kia đòi có ghế trong quốc hội của nền vô sản chuyên chính. Khi đó anh tưởng nếu có cuộc bầu cử thì chị sẽ bỏ cho y ta mười phiếu một lúc. Nhưng tại sao chị vẫn phát tiền công cho anh hàng tháng? Tại sao chị vẫn làm cho anh có cảm tình và nhiều lúc thèm muốn chị nữa? Tại sao chiếc CBT 125 giá ba mươi triệu ở ngoài sân kia vẫn đè cái bóng cao cả của nó lên những giấc mơ nghèo khổ của anh? Tại sao cái thế giới êm dịu và lung linh những ước mơ của mẹ, và cũng cả của anh nữa lại biến mất dễ dàng đến thế? Phải chăng sau một sự kiện kinh hoàng năm đó, lời lão thầy bói đã ứng nghiệm? Mùa hè ấy, thời tiết bình thường, mẹ cho ấp một ổ gà, khi nhấc xuống, trong ổ lúc nhúc một bầy rắn con, còn mấy cây ổi sau nhà thì ra mười ba quả bứa chua loét. Hôm ấy một lão thầy bói ôm tay nải qua làng. Mẹ làm thịt một con gà giò, ông ta xem chân gà rồi nói: “ Ông tổ nhà này ngày xưa nhiều thất đức. Bà hãy cẩn thận. Trong nhà này rồi sẽ có người đi ở !” Ông ta còn nói những chuyện nhảm nhí khác. Dân quân xóm trói ông vào một cái cọc, phơi nắng nửa ngày rồi mới cho đi. Năm đó bố chết, rồi đến anh cả. Gia đình trĩu nặng tang tóc. Bây giờ đứa con út của mẹ đi ở.

Tiếng nhạc buồn phòng trên ngừng bặt. Cái đầu vi-đê-ô bắt đầu rên rỉ những pha phim xếch (trước đây chị vẫn dùng cái hộp nhựa Nhật Bản ấy để khởi động nhà đạo đức luống tuổi của chị). Rồi tiếng rên điện tử cũng im nốt nhường chỗ cho nhạc đời hang động. Con Mi-mô-sa bị bỏ rơi buồn bã vào phòng, liếm bàn tay Hảo thõng xuống đi văng. Anh nhấc nó lên, kéo tai nó, tên ma cô mất dạy, thằng mối lái vô phúc, những con chó nhỏ vô tích sự thời Sê-khốp hay thời hiện đại đều thế cả. Nằm trong lòng Hảo, nó nhìn lên trần như anh, có thể nó còn thấu suốt hơn anh bằng bản năng chó của nó.

Một tuần lễ liền ngôi nhà yên tĩnh ở góc phố ròn rã tiếng CBT 125. Những bữa cơm trưa quá tải với sự đồng loã tội lỗi của những chai rượu Anh và kỹ nghệ vi mạch Nhật Bản. Nhưng chủ nhật anh ta không đến. Chị đưa tiền lương cho Hảo, tăng lên hai trăm ngàn (để bù trượt giá, chị nói) và giữ anh ở lại ăn cơm tối với chị. Chị buồn, nét mặt căng thẳng tuy vẫn kiêu sa. Hảo đã nếm mùi những cơn cớ tâm sự của chị. Họ lấy ghế vải ra ngồi ở sân sau. Chị nói: “ Anh tiên tri thật! Giá không mang Mi-mô-sa đi thì tôi đâu có rước ngữ ấy về nhà!”

Chị nhìn anh với đôi mắt của người vừa thoát khỏi tai nạn. Như một nhà thám hiểm Nam cực sống sót, chị kể cho Hảo nghe chuyện mấy ngày ở Sầm Sơn. Hôm ấy, chị để Mi-mô-sa trên bờ biển để xuống tắm với ông Vị. Họ tìm một góc vắng. Vì hễ hai người mặc áo tắm đi vào đám đông là y như lũ trẻ la lối: “Bố ơi, bố nhường chúng con đi bố!” Tuy khó chịu vì thứ ngôn ngữ máy nước ấy, nhưng từ cái góc vắng kia chị vẫn nhìn về phía một bộ phận nhân loại trẻ trung và thô bỉ một cách chân thành ấy. Còn ông Vị thì tìm mọi cách để sử dụng đôi bàn tay vàng. Ông càu nhàu: “ Tại sao em lại không mặc bộ bi-ki-ni hai mảnh của Thái ấy?” Ông vẫn thường phàn nàn mốt Hà Nội dạo này quá hở hang, nhưng trong một chuyến đi Băng Cốc về, chính ông đã mua tặng chị hai bộ bi-ki-ni ấy. Hôm đó chị cố ý mặc bộ đồ tắm cổ điển được mậu dịch quốc doanh đứng đắn của chúng ta phát hành những năm bảy mươi sau khi mẫu đã được sở văn hoá xét duyệt. Một bộ đồ tắm có thể cấp bằng tiết hạnh khả phong.

Ông Vị đành phải đầu hàng bộ đồ ông đã từng duyệt mẫu trước đây. Bực bội vì ông lão sắp bị giảm biên chế ngầy ngà, chị quên mất con Mi-mô-sa. Trời lại đổ một trận mưa nữa. Thế là họ lạc mất con chó. Đến chiều tối, sau khi ăn cơm xong, khi ông Vị đang càu nhàu lên án bộ đồ tắm khốn nạn, trút lên nó những từ người ta thường chỉ dùng trong các cuộc tranh luận triết học và đạo đức thì anh ta đến. Anh ấy ôm con Mi-mô-sa trên tay. Trong khung cảnh biển sau cơn mưa, chàng trai thật tuyệt vời.
Chiều hôm sau, trong khi ông Vị đi nói chuyện về vai trò người phụ nữ mới (bài tủ của ông) cho công đoàn công ty du lịch thì chị với anh đi vào rừng thông. Chị cám ơn anh vì đã tìm hộ con Mi-mô-sa. Anh cám ơn vì chị đã làm cuộc đi biển cô đơn của anh có ý nghĩa. Anh gọi chị là bà làm chị kiêu hãnh, sau đó là chị làm chị ấm lòng và cuối cùng là em làm chị sung sướng. Cuộc cách mạng về xưng hô ấy chỉ diễn ra trong vòng mười lăm phút. Phút thứ mười sáu thì anh nói là anh đã thuê hai hec-ta rừng thông chiều nay để không ai được phép lai vãng qua. Phút thứ mười bảy thì lưng chị đã lấm đầy cát và sau đó chị bắt đầu cuộc hành trình vào thiên đường lần đầu tiên trong đời. Trước đây ông Vị chỉ mô tả cái thiên đường ấy cho chị bằng lý thuyết. Những pha mô tả của bọn nhà văn ba xu thường được thay bằng những dấu chấm chấm cũng không làm thoả mãn chị.

Tối đó, chị sang phòng ông Vị (họ vẫn thuê hai phòng từ lúc đến Sầm Sơn). Ông rất mừng vì chị đã tự nguyện nộp xác, vì buổi diễn thuyết thành công, “ chị em nuốt từng lời” và theo cá nhân ông thì cần phải khôi phục khí thế của phong trào ba đảm đang trước đây. Chị ngắt lời ông: “Anh yêu em đi!” Chị quyết định tặng ông một bữa tiệc chia ly no xôi chán chè như bữa cơm người ta vẫn thường cho tử tù ăn trước ngày ra trường bắn. Ông sững sờ vì hạnh phúc cũng như kẻ tử tù kia đang nằm mơ thấy cái cọc thì bỗng thấy trước mắt mình một con gà mái quay, nghẹn ngào nhìn nhưng không ăn được. Ông đổ tội cho tính đãng trí, bỏ quên chai rượu tắc kè ở nhà, chửi sự quản lý khách sạn xuống cấp vì cái giường cứ kêu cót két, chửi rủa cả cái váy ngủ của chị, làm gì mà phải dùng đến hai cửa ra vào làm ông lầm lẫn lung tung, sự xa xỉ điển hình của nền dân chủ tư sản!

Cũng như mọi lần, ông chẳng bao giờ chịu trách nhiệm về bất kỳ sự thất bại nào. Tuy vậy ông vẫn trấn an chị: “Em hãy tin, tôi đã, đang và sẽ cố gắng...”

Sáng hôm sau chị giục ông ra về để kịp ngày hẹn với anh ấy, người đã mua hai hec-ta rừng thông một chiều cho chị.

Chị thở dài:

– Nhưng tôi lại chán ngấy anh ta rồi! Thằng tư sản mới cũng chẳng hơn gì lão già đạo đức giả? Sao cái số tôi nó nhọ thế này hả anh!

Hảo tự chửi mình vì quả thật trong anh có loé lên một chút hả hê dễ hiểu. Anh đứng lên, xin phép chị ra về. “Đừng vội, anh. – Giọng chị thân mật khác lạ – Anh về bây giờ thì tôi chết buồn mất. Tại sao tôi chỉ gặp phải lũ dở hơi? Chúng chui ở đâu ra lắm thế hả anh?”

Hảo cảm thấy sự chán chường của chị là thành thật. Nó lan toả trên da thịt anh cùng mùi nước hoa Pháp và hơi thở thơm tho của chị. Suy cho cùng thì chị cũng đáng thương. Ít nhất chị cũng có cái can đảm và hào phóng làm việc phân phối lại của cải đã trấn được của những thằng dại gái. Chị đã nuôi được một phó tiến sĩ bằng ba lần số lương chính của y, vớt y ra khỏi cảnh thất nghiệp dài dài được mã hoá bằng cụm từ nghiên cứu có tính chiến lược trong cái vỏ những đề tài không ai cần đến. Nhưng anh cứng rắn trở lại, kiên trì sự đố kỵ muôn thuở của người nghèo, sự ghê tởm của hàn sĩ bị phỉ báng. Rồi anh khôn khéo đứng lên.

Số phận xô đẩy anh theo hướng khác. Mấy tuần sau chị ốm. Thóc mách như một thằng ở thực thụ, anh đoán thầm nhà kinh doanh không quốc tịch kia đã kịp đầu tư một vật lạ vào nội địa trước khi bị trục xuất. Anh lên thăm chị, vừa là phải phép vừa bị lòng nhân ái thúc bách. Chị nằm bất động trên giường, tay duỗi ngoài chiếc chăn mỏng. Chị đập nhẹ bàn tay như cánh bướm bảo anh ngồi xuống mép giường cạnh mình. Vì mấy cái ghế xếp Nhật Bản đã bị thu lại và cũng không thể ngồi lên cái táp-đờ-nuy, vật duy nhất có thể ngồi lên trong phòng, anh đành chiều ý chị. Tay anh run lên khi nắm lấy cái mép giường. Chị nhìn thấy tất cả trong một cái liếc mắt rồi cầm lấy tay anh, bàn tay chị dịu dàng như cánh bướm cầu xin sự giúp đỡ. Chị nói: “Anh có thể thu xếp đi với tôi một vài ngày không?”. Anh nhìn con Mi-mô-sa nằm duỗi dưới chân không đáp.

Rồi anh đi với chị sau khi hai người đã thu xếp được người trông thằng Cu và nhà cửa. Anh sẽ phải đưa chị về một bệnh viện nhỏ nào đó ở Hà Nội. Đúng như anh đoán, chị cần tống khứ nhanh chóng giọt máu được đầu tư một cách vội vã của nhà kinh doanh trẻ. Chị cần anh đóng vai một người chồng cho đỡ tủi thân và hợp lý. Từ khi mới đi lại với nhau, ông Vị đã yêu cầu chị làm việc này ở bất cứ chỗ nào cũng được trừ ở thành phố ông đang nổi tiếng và có quyền lực. Bởi vì dù đứa con trong bụng chị là của ai thì dư luận cũng sẽ nghĩ là của ông, điều ấy rất bất lợi cho ông trong những cuộc bầu cử. Vậy là quá đủ lý do để anh phải đưa chị đi.

Họ xuống tàu vào lúc sẩm tối rồi vào một khách sạn gần nhà ga. Cô tiếp tân nhìn họ một cách tình tứ, bảo họ có thể thuê một phòng cũng được. Chị thuê hai. Anh ghi nhận với chị cách làm ăn thoáng của ngành du lịch. Rõ ràng mọi việc đang đổi mới. Chị nói: “ Nhà trống thì phải thoáng!” Họ ở đêm đầu tiên trong bầu không khí hoà hoãn, không xâm lấn biên giới của nhau. Hôm sau chị vẫn không vào nhà thương ngay. Chị đòi anh đưa thăm các địa điểm nổi tiếng của Hà Nội. Anh đưa chị đi Văn Miếu để tỏ lòng yêu mến văn hoá nước nhà, đến cầu Thăng Long để ngưỡng mộ tình hữu nghị Xô-Việt. Cuộc đi chơi kết thúc ở hàng chả cá nổi tiếng giữa những ông tây bà đầm trả bằng đô-la. Thế là nhờ chị mà anh đã hoàn thành vượt mức kế hoạch 9 năm trước thời hạn. Anh định đúng vào năm 2000 sẽ tập trung toàn lực đi ăn một bữa chả cá đầu tiên và cuối cùng trong đời. Ăn xong, uống cà-phê xong, cái hoá đơn đặt lên bàn làm anh suýt ngất tưởng như mình vừa mua cả tháp Ép-phen. Nhưng chị rút ví ra kịp thời, trên bộ mặt hơi xanh xao không chút cảm xúc. Anh nhẹ nhõm thầm nhận ra rằng, chị là người đàn bà đầu tiên đi ăn với anh mà anh không phải mó tay vào ví lần nào. Chị đòi đi Hồ Tây. Họ lên Hồ Tây. Cô bán hàng mang đến cho họ hai cái ghế mây cạnh gốc cây tù mù và hai chai nước ngọt do Viện kiểm sát nhân dân thành phố X. sản xuất. Chị nắm tay anh: “Anh mệt không?” Anh nói: “ Văn hoá chỉ khác tình dục ở chỗ nó làm cho con người ta hào hứng mà không mệt”. Chị mỉm cười: “ Thế thật! Ở Hà Nội có người đã chi cho tôi hai triệu một ngày nhưng không hề dẫn tôi đến một di tích văn hoá. Trí thức các anh dễ thương thật” . Anh nghĩ: có lẽ công thức trước đây của họ là: Quán đặc sản - giường ngủ. Còn trí thức: Văn Miếu - Nhà triển lãm Ngô Quyền. Vào cửa hai trăm đồng một vé, kem que cạnh đó cũng hai trăm mà những ba màu. Trí thức nói chung là ít phải trả tiền dù đi với mỹ nhân. Chỉ hơi tốn nước bọt mà thôi. Thời nào cũng vậy.

Chị không để anh có thì giờ suy nghĩ lan man. Chị xiết mạnh tay anh, bàn tay chị ấm nóng: “ Vậy mà tôi chưa bao giờ lọt được vào mắt xanh một anh trí thức”. Anh nói: “Vì chị quá đẹp còn họ thì quá nghèo. Thánh nhân đãi khù khờ chứ đâu có phù hộ người hay chữ”. Chị bình luận: “ Thánh ghen tỵ đấy mà! Chắc cũng có một nữ thánh nào đó ghen ghét tôi. Tôi cố tìm lấy một người mà không thấy...” Chị thở dài. Cái khuynh hướng phủ nhận sạch trơn ba bốn mạng đàn ông một lúc của chị làm anh khó chịu. Nhưng anh thấy mủi lòng, bản chất hay dao động của trí thức. Anh nói: “Rồi chị sẽ tìm thấy”.

Chị đột ngột nhìn vào mắt anh: “Anh có biết tại sao chồng tôi cứ nằm lỳ ở Hồng Kông không về? Anh thử đoán xem!” Anh im lặng. Chị nói:

– Anh ấy bị SIDA! Thật tồi tệ. Hành động yêu nước cuối cùng của anh ấy là đề nghị HU 3 đăng ký mình vào danh sách bệnh nhân của Hồng Kông chứ không phải nước ta. Gian lận thêm cho bọn tư bản một người sa đoạ cũng chẳng oan gì.

Anh cảm thấy chạm được bằng xúc giác nỗi đau khổ của chị. Giọng chị trở lại bình thường:

– Tôi đòi ly dị, nhưng ông Vị khuyên tôi: “ Đừng có đánh mất lòng tin. Khoa học sẽ chữa được cái bệnh tai quái đó. Rồi ngày nào đó chồng em sẽ về”. Như thơ Xi-mô-nốp vậy. Tôi thì biết thừa tim đen của ông. Nếu ly dị lỡ tôi đòi lấy ông, như thế thì sự nghiệp ông tan tành. Vả lại ngân sách ái tình của ông ấy được tư bản Hồng Kông trợ cấp một nửa, nửa kia moi ruột nhà nước thì tiện bao nhiêu. Tôi nói về ông ấy như vậy anh có coi thường tôi không?

Anh đáp: “Tôi là nhà khoa học. Tôi thích có dữ kiện trong mọi vấn đề”

– Tôi căm ghét ông ấy còn vì câu chuyện khủng khiếp này nữa. Hôm đó chúng tôi đi xem xi-nê với nhau. Lúc chen chúc vào rạp, một bà nọ dẫm guốc bảy phân lên chân tôi. Tôi la trời. Đáng lẽ một câu xin lỗi là xong, chị ta lại chối bay biến và còn chửi tôi nữa. Chúng tôi túm tóc nhau lời qua tiếng lại. Không biết vì vô tình hay cố ý, chị ta chửi tôi là “ con đĩ non xí xớn với thằng dê già!”. Ông Vị tím mặt. Người ta mời chúng tôi vào phòng bán vé. Khai tên tuổi, nơi làm việc và xin lỗi nhau. Tối hôm ấy trên giường nhà tôi, ông ấy chỉ vặn hỏi tôi về người đàn bà ngoa ngoắt nọ. Ông rút sổ tay ra ghi. Ba tháng sau, tôi gặp lại chị, thân tàn ma dại ngồi bán rau. Chị buộc phải thôi việc, chồng chị nghỉ bảy mươi phần trăm, hai con nhỏ. Tôi hỏi chị vì sao nên nỗi thế. Chị làm thủ kho, để thất thoát hai mươi mốt miếng xà phòng bảo hộ lao động. Tôi thì tôi biết con nhện nào đã dệt tấm lưới bắt con ruồi cái ốm đói kia. Tôi van xin ông ấy. Nhưng ông chỉ cười gằn: “ Phải nghiêm để nâng cao dân trí”. Thế đấy. Ông trả công tôi bằng cái quyền chính là thứ tôi và anh, cả chị thủ kho kia nữa đã cho ông ấy. Còn thằng cha đầu tư? Nó làm tôi sung sướng nhưng nó trả tiền tôi từng ngày, có khi hàng triệu, nhưng trả từng bữa, nghĩa là trả theo sản phẩm. Nó bảo cả thế giới người ta đều làm như thế.

Chị buông tay anh, ôm mặt. Anh không thể ngồi im. Anh lặng lẽ lấy tay vuốt tóc chị, trong lòng trào lên thứ tình cảm của người anh trai. Chị ngước mắt nhìn anh vẻ biết ơn: “Anh khác họ nhiều lắm!” Rồi chị vòng tay qua cổ anh, chị hôn anh.

Đêm ấy chị sang với anh. Ngon lành và thơm như một múi mít và thanh thản nữa. Anh không dối mình đã hơn một lần anh thèm muốn chị. Nhưng giờ đây anh lạnh băng. Cũng chẳng phải anh trinh bạch như gã chăn cừu của Đô-đê nâng niu giấc ngủ của cô chủ trên vai mình. Chị cũng không phải là một vì sao lạc. Chị phô bày cái bản năng dữ dội nhưng bao giờ cũng hồn nhiên của một người đàn bà. Nhưng anh không thèm chị. Giá chị để cho anh bình tĩnh, anh sẽ an ủi chị như một người anh. Nhưng chị đã quýnh lên và cáu: “Trí thức chỉ là thế này thôi à? Trong sách người ta không dạy anh ư?” Chị hạ mình trước anh, làm cả những điều chị chưa hề làm với người khác. Nhưng anh chỉ rúm ró lại trong nỗi đau của một hàn sĩ. Chị trần truồng đi ra cửa để về phòng mình, ném đại mảnh vải Thái Lan nhỏ xíu vào mặt anh rồi rít lên trong cơn giông bão đàn bà: “ Lại một con sứa nữa! Tôi còn căm ghét anh hơn cả ba thằng kia!”

Một tháng sau, khi đã bình phục sau trận ốm, chị cho một anh xích-lô gửi nhờ xe. Anh ta kể: nhà, vợ con anh bị cháy thành tro, hai tháng nay anh ngủ trong xe ở sân ga, chân cầu. Bà Múi thầm thì với Hảo: “Cứ cách một đêm hắn lại lên phòng ngủ với cô. Thằng khốn nạn!” Hảo bảo bà: “Ơ -rê-ka! Cô chủ đã tìm thấy!” Bà ta chưa được học tiếng Hy Lạp, tưởng anh điên, chạy biến vào bếp.

Tiếng Anh cuối cùng Hảo dạy cho thằng Cu là The Man – người đàn ông. Hôm sau anh thôi việc. Anh lững thững đi bộ về nhà. Trời sẩm tối. Một đoàn tàu hàng dừng lại sân ga. Anh nhìn thấy công nhân xếp dỡ đang chuyển xuống đất mười hai toa tàu trứng vịt lộn. Những sọt trứng toả ra một vòng hào quang, những quả trứng nhú khỏi đám cọng rơm như đầu những dương vật của một loại người hùng mạnh chưa từng có. Cũng chưa từng có công ty nào ở thành phố này buôn về một số lượng nhiều ghê gớm như thế.

Sáng hôm sau trên các phố nhan nhản biển hàng viết bằng phấn: vịt lộn – hạ giá năm mươi phần trăm! Người ta lo ngại xì xào rằng, một năm nữa dân số của thành phố chắc sẽ phát triển vô tội vạ.

Trại sáng tác văn xuôi Hải Phòng
Tháng 7. 1991
Nguyễn Quang Thân

(Văn Nghệ, số 43 (1659), 1991


Phần nhận xét hiển thị trên trang

BÁO CHÍ BÍ ĐỀ TÀI?


Các bạn làm báo cứ than ra tết bí đề tài. Trời đất.
Cứ gắn cái camera trước cúc áo ngực, đến bất kỳ cơ quan công quyền nào, theo chân một người dân đi làm thủ tục gì đó, chắc chắn có một clip hay mà chỉ cần đặt tít, viết câu dẫn, không phải thêm một lời bình nào. Bảo đảm view cao ngất trời.
Mỗi ngày một clip.
Gặp chuyện không tốt cũng hot, gặp chuyện tốt thời buổi này càng hot.
Cao siêu gì cho lắm, cứ cái gì đụng đến dân thì làm, làm thì dân ủng hộ, tin tưởng.
Làm báo xét cho cùng là thế thôi.
(Gặp mấy tay bảo vệ hạnh họe cũng đã hay rồi. Anh nào dắt xe, tận tình chỉ dẫn cho ta càng hay hơn)
***
Clip đính kèm chẳng cần bình luận cũng nói lên rất nhiều điều: Về câu chuyện phóng sinh- Về kết luận của cơ quan chức năng là cá chim này vô hại...http://kenh14cdn.com/57036d4cd2/2015/08/11/4A7p7aa-d21d8.gif

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chuyện riêng nhưng phải nói ra để tránh hiểu nhầm


Tôi theo nghiệp làm báo đã hai mươi mấy năm. Thời gian qua, dù đã "nghỉ chế độ" sau thời gian phục vụ ở báo Thanh Niên, tôi có cộng tác với báo điện tử Một Thế Giới, một tờ báo trẻ nhưng phát triển nhanh. Nay đến lúc tự cảm thấy sức khỏe không đáp ứng được công việc chữ nghĩa nặng nề, tôi đã chính thức xin nghỉ, không làm công việc sự vụ gì nữa, từ ngày 1.3.2017. 

Tôi thỉnh thoảng viết trên blog này bày tỏ những suy nghĩ, quan điểm của mình, xin nói ngay đó hoàn toàn là quan điểm cá nhân, tôi tự chịu trách nhiệm về những điều mình viết, không có liên quan gì đến báo Một Thế Giới cả. Tôi thấy cần phải nói rõ như vậy để không ảnh hưởng đến ai hoặc tờ báo mà tôi từng phục vụ, tôn trọng.

Chúc cho báo ngày càng có nhiều bạn đọc.

Nguyễn Thông

Phần nhận xét hiển thị trên trang

THẬT KHÓ TƯỞNG TƯỢNG RA ĐIỀU NÀY


Bị ném bom nguyên tử, vì sao người Nhật không hô hào tiêu diệt nước Mỹ?

Vụ nổ bom nguyên tử ở Hiroshima. (Ảnh: Internet)
Tướng quân MacArthur là danh tướng của Mỹ. Năm 1942 tướng MacArthur dẫn đại quân tấn công Nhật Bản, từ Melbourne xa xôi đánh thẳng đến Tokyo, hai tay nhuộm máu người Nhật Bản. Vì thế vô số người Nhật muốn xé xác ông, còn ông cũng hận người Nhật thấu xương.
   Vào 2:5 chiều ngày 30/8/1945, tướng quân MacArthur ra khỏi máy bay và đặt chân lên đất Nhật Bản, cho dù ông không mặc quân phục và không mang theo vũ khí gì, cũng không có người tổ chức duyệt binh, nhưng thời khắc đó với 70 triệu người Nhật Bản là thời khắc kinh hoàng mà họ không thể quên, trong tâm trí mọi người chỉ còn nghĩ được hai chữ “mất nước, mất nước, mất nước”.

Nhưng tướng MacArthur mang quân đến vì hòa bình, chính nghĩa, khoan dung và dân chủ
Nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh rơi vào suy sụp, đến bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, cái đói bao phủ khắp nơi. Lúc này tướng MacArthur gây áp lực khiến chính phủ Mỹ phải hỗ trợ Nhật Bản, thế là 3,5 triệu tấn lương thực và 2 tỷ Mỹ kim tức tốc được gửi đến Nhật. Ông không chỉ giữ lại chính quyền Nhật Bản mà còn gây áp lực đặc xá cho Thiên hoàng, thậm chí còn quan tâm đến số phận của từng người lính bình thường của Nhật Bản, giúp họ tìm con đường sống.
Theo sau ông, 400 nghìn lính Mỹ đã dùng thiện ý và tinh thần hy sinh để chinh phục người Nhật Bản. Khi đó các con hẻm trong thành phố của Nhật vô cùng chật hẹp, một người Nhật bình thường và một người lính Mỹ to lớn nếu gặp nhau cũng khó khăn để đi qua nhau, vì thế thường thì người lính Mỹ sẽ nép vào một bên cho người Nhật đi trước. Người Nhật không thể không băn khoăn tự hỏi, nếu họ là kẻ chiến thắng thì họ có làm được như thế không?
Sau khi tướng MacArthur đến Nhật Bản, ông lập tức ra lệnh thả tội phạm chính trị, trong đó có rất nhiều Đảng viên Cộng sản, bị chính phủ Nhật bắt giam trong thời gian dài.
  Ngày 25/8/1945, quân chiếm đóng của Mỹ cho phép phụ nữ Nhật xây dựng tổ chức của mình; tháng 9 cho công bố Dự luật về vai trò trong bầu cử của phụ nữ Nhật Bản; đây là lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, phụ nữ được quyền bầu cử và ứng cử.
   Lúc này tại Tokyo có cô kỹ nữ được chọn làm Nghị viên thành phố, nhiều thị dân cảm thấy khó chấp nhận. Nhưng tướng MacArthur nói, mọi người chọn cô ấy để cô ấy phục vụ mọi người, đừng vì cô ấy là kỹ nữ mà kỳ thị bỏ qua. Khi đó mọi người chợt hiểu người được chọn trong bầu cử dân chủ phải là người thay mặt cho mình để vì mình làm việc, thế là sau khi hiểu ý nghĩa vấn đề họ đã quyết định chọn bầu cô kỹ nữ kia. Kết quả sau khi trở thành Nghị viên, cô đã không phụ lòng mọi người, làm được rất nhiều việc có ý nghĩa.
   Vào ngày 11/10/1945, tướng MacArthur tuyên bố bỏ lệnh cấm báo chí, Nhật Bản được tự do thông tin và tự do ngôn luận. Ngày 22/12/1945, ban hành “Luật Công hội”, giai cấp công nhân thực sự có tổ chức của mình. Ngày 1/9/1947, ban hành “Luật lao động”, quy định tiêu chuẩn tiền lương thấp nhất và thời gian làm việc nhiều nhất.
   Ngày 3/2/1946, tướng MacArthur chỉ thị cho Tổng bộ Liên minh khởi thảo Hiến pháp Nhật Bản. Chính phủ Mỹ truyền đạt nguyên tắc chế định Hiến pháp cho tướng MacArthur là: Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri. Ngày 3/5, quân liên minh giao ra Bản dự thảo Hiến pháp. Ngày 7/10, Quốc hội Nhật Bản thông qua Hiến pháp. Ngày 3/11, Thiên hoàng cho ban hành Tân Hiến pháp.
Đây là Hiến pháp do kẻ chiếm lĩnh chiếu theo giá trị quan phương Tây áp đặt cho kẻ bị chiếm lĩnh, nhưng lại là bản Hiến pháp đem lại phúc lợi cho nhân dân quốc gia bị chiếm lĩnh. Bản Hiến pháp nhấn mạnh quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật Bản, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt vô cớ.

Ngày 21/10/1946, Quốc hội đã thông qua “Luật Cải cách ruộng đất”. Chính phủ Nhật Bản mua lại đất đai dư thừa của giới địa chủ, sau đó bán đất lại cho nông dân không có ruộng. Với những nông dân không có tiền mua đất, chính phủ cho vay thế chấp. Tất cả diễn ra không đổ một giọt máu, một mạng người, những người nông dân ai nấy đều có được một phần đất cho mình.

   Ngày 31/3/1947, ban hành “Luật Giáo dục”. Theo đó mục tiêu hàng đầu của giáo dục là “tôn trọng sự tôn nghiêm của cá nhân, bồi dưỡng cho mọi người có lòng nhiệt huyết vì chân lý và hòa bình”. Trường học của Nhật Bản không còn nằm trong kiểm soát của chính phủ mà là do Ủy ban Giáo dục do dân chúng bầu ra quản lý. Việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn toàn do người dân tự chủ quyết định.
   Năm 1952, quân chiếm đóng Mỹ trả chính quyền về cho chính phủ Nhật Bản. Sau 7 năm chiếm đóng, người Mỹ cải cách triệt để con đường phát triển của Nhật Bản, chủ quyền quốc gia từ trong tay kẻ chuyên chế trao lại cho người dân Nhật Bản, những tiền đề tiến bộ đầu tiên này giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang. Hơn 10 năm sau, Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, quốc gia phồn vinh, nhân dân giàu có, xã hội ổn định. Có thể nói thêm một câu, quân chiếm đóng của Mỹ không chi một đồng tiền thuế nào của người dân Nhật Bản, chi phí của họ là lấy từ tiền thuế của người Mỹ.

Người Nhật tổ chức buổi lễ long trọng đưa tiễn tướng quân MacArthur
Trong thời gian chiếm đóng Nhật Bản, rất nhiều người Nhật đã viết thư gửi cho tướng MacArthur yêu cầu biếu tặng điền sản của họ. Nhiều phụ nữ can đảm viết thư đề nghị được hiến thân cho tướng MacArthur, nhiều người còn viết “xin hãy cho tôi được sinh con cho ngài.”
   Sáng ngày 16/4/1951, Tổng thống Truman phế bỏ chức Tư lệnh quân chiếm đóng, tướng MacArthur phải về nước, sự kiện này chỉ thông báo cho một số quan chức cấp cao người Nhật biết. Nhưng khi ông ngồi lên ô tô thì mới phát hiện, từ nơi dinh phủ ông ở đến Sân bay Atsugi có hàng triệu người Nhật Bản đứng hai bên đường đưa tiễn. Đoàn xe hộ tống đi qua những hàng nước mắt cùng tiếng hô vang dậy của người dân Nhật Bản: Đại nguyên soái!
  Người dân Tokyo đứng chật kín hai bên đường, ai nấy rơi nước mắt, họ như hoàn toàn quên chuyện tướng MacArthur là kẻ chiếm đóng đã đánh bại quân đội quốc gia mình. Thiên hoàng đích thân đến sứ quán đưa tiễn MacArthur, tướng MacArthur cũng xúc động rơi nước mắt, nắm chặt hai tay của Thiên hoàng Hirohito.
Khi đưa tiễn, Thủ tướng Yoshida của Nhật nói: Tướng quân MacArthur đã cứu chúng tôi ra khỏi nỗi sợ hãi, lo lắng và hỗn loạn của thất bại để đưa chúng tôi vào con đường mới do ông xây dựng, chính Ngài đã gieo trồng hạt giống dân chủ trên đất nước chúng tôi để chúng tôi bước trên con đường hòa bình, tình cảm ly biệt mà nhân dân chúng tôi dành cho Ngài không lời nào có thể diễn tả được.
Uy lực quả bom nguyên tử của Mỹ tàn phá thành phố và nền kinh tế của Nhật Bản, nhưng về phương diện tinh thần, nước Mỹ đã hoàn toàn chinh phục được người Nhật Bản.
                                             Theo ĐẠI KỈ NGUYÊN

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bàn về một đại chiến lược cho Việt Nam trong TK 21


Để đối phó với những thách thức an ninh hiện nay, Việt Nam nên tiếp tục kiên trì đại chiến lược đa phương vốn là kim chỉ nam cho chính sách đối ngoại của Việt Nam kể từ khi đất nước mở cửa đến giờ. Cho đến khi cục diện thế giới thay đổi một cách cơ bản và trận chiến ở Biển Đông giữa Mỹ và Trung Quốc kết thúc, đại chiến lược đa phương vẫn là con đường tối ưu nhất để Việt Nam có thể bảo vệ được lợi ích quốc gia cốt lõi của mình.

Mục đích chính của bài viết này là đưa ra nhận định về những thách thức chiến lược tiềm tàng cho Việt Nam trong thế kỷ XXI và phác hoạ một số nét chính về bốn đại chiến lược khả dĩ để chúng ta có thể đương đầu với những thách thức này. Bên cạnh đó, tác giả cũng hi vọng rằng bài viết này sẽ giúp khái niệm “đại chiến lược” trở nên gần gũi hơn với các độc giả, đồng thời thôi thúc các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu đề tài đại chiến lược Việt Nam một cách có khoa học và hệ thống hơn.

Bài viết sẽ này có năm phần chính như sau. Phần thứ nhất sẽ giới thiệu một cách tổng quát về khái niệm đại chiến lược. Tiếp theo tác giả sẽ xác định các lợi ích quốc gia cốt lõi của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Trong phần thứ ba, tác giả sẽ phân tích và đánh giá môi trường chiến lược của Việt Nam trong thế kỷ XXI. Phần thứ tư sẽ điểm qua một số nét chính về những đại chiến lược khả dĩ cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Cuối cùng, tác giả sẽ tóm tắt lại đại ý của toàn bài và đưa ra một số nhận định về đại chiến lược hợp lý nhất cho Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay.

I/Tổng quan về đại chiến lược

Đại chiến lược (grand strategy) là một khái niệm thường được các học giả quan hệ quốc tế và chiến lược gia quân sự dùng để chỉ một tổ hợp các nguyên tắc và quan điểm mang tính định hướng chính sách đối ngoại và quốc phòng của một quốc gia. Đại chiến lược chỉ rõ đâu là những lợi ích cao nhất của một quốc gia và đâu là những mối đe dọa chính đối với những lợi ích đó. Một đại chiến lược tốt sẽ xác định rõ thứ tự ưu tiên của các mục tiêu mà một quốc gia muốn theo đuổi và chỉ ra cách tốt nhất để các nhà hoạch định chính sách tận dụng nguồn tài nguyên có hạn của mình nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Hơn nữa, đại chiến lược có thể giúp tránh được sự mâu thuẫn trong các chính sách, đồng thời tạo ra tính kế tục và mạch lạc trong các chính sách ngắn, trung và dài hạn của các quốc gia. Chính vì vậy, việc có được một đại chiến lược rõ ràng, mạch lạc và phù hợp với thời thế là một trong những yếu tố quyết định sự trường tồn và phát triển thịnh vượng của mọi quốc gia.

Nhưng cũng cần phải nói rằng có một đại chiến lược trên “giấy tờ” khác với việc đưa đại chiến lược đó vào thực tiễn. Dù đại chiến lược có tốt đến mấy mà không có nguồn lực để thực thi một cách triệt để thì sẽ không mang lại hiệu quả. Do đó quốc gia càng hùng mạnh, càng có nhiều nguồn lực và tài nguyên thì càng có khả năng hoạch định và triển khai các chính sách theo đúng những gì đã vạch ra trong đại chiến lược.

Mặc dù vậy, điều này không có nghĩa là đại chiến lược chỉ hữu dụng đối với các nước lớn. Các nước lớn có thể mắc một vài sai lầm nghiêm trọng như Mỹ đã từng gặp ở Việt Nam hay Iraq nhưng họ sẽ vẫn tồn tại. Các nước nhỏ như Việt Nam tuy có ít khả năng để thực hiện được triệt để đại chiến lược hơn so với các nước lớn nhưng lại cần đại chiến lược hơn bởi một sai lầm dù nhỏ vẫn có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường, gây nguy hại tới sự tồn vong của quốc gia. Do đó, đại chiến lược thậm chí còn thiết yếu đối với các nước nhỏ hơn các nước lớn. Trong bối cảnh tình hình an ninh khu vực hết sức phức tạp hiện nay, Việt Nam buộc phải có một đại chiến lược của riêng mình.

II/Lợi ích quốc gia của Việt Nam

Tất cả các chiến lược và chính sách được đều tạo ra để phục vụ lợi ích quốc gia. Do đó, phải nắm vững được lợi ích quốc gia trước khi phân tích, đề xuất chiến lược và chính sách. Tuy nhiên để có thể “dĩ bất biến, ứng vạn biến” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy thì chúng ta trước tiên phải đánh giá chính xác xem những yếu tố “bất biến” này là gì. Từ góc nhìn của các nhà lãnh đạo Việt Nam thì có thể nói rằng trong thời điểm hiện nay nước ta có ít nhất ba lợi ích quốc gia cốt lõi như sau:

Thứ nhất, và quan trọng hơn hết, là đảm bảo được an ninh quốc gia. Ở đây an ninh quốc gia được hiểu là bảo vệ được chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ cùng sự bình an của các công dân Việt Nam. Trên thực tế, điều này có nghĩa là chúng ta không bị quân đội nước khác tấn công xâm lược và chính quyền Việt Nam không bị thao túng bởi bất kì thế lực nào từ bên ngoài. Đây là lợi ích quốc gia cao nhất và lợi ích nền tảng vì nếu không đảm bảo được hai điều này thì đất nước và dân tộc Việt Nam không còn là chính mình và không còn khả năng tự quyết định vận mệnh của mình nữa.

Không có đạo quân xâm lược nào quan tâm, chăm lo cho cuộc của người dân nước họ chiếm đóng. Mọi cường quốc dù dưới bất kì hình thức hay màu cờ nào cũng đều chỉ muốn làm lợi cho riêng mình trên lưng nhân dân Việt Nam. Lịch sử ngàn năm Bắc thuộc cho thấy nếu chúng ta muốn một cuộc sống ấm no hạnh phúc thì nhất định người Việt Nam phải làm chủ đất nước của mình và phải đảm bảo chiến tranh không xảy ra. Chỉ cần có chiến tranh nổ ra thì dù kết quả thế nào đi chăng nữa, người dân Việt Nam cũng sẽ luôn phải chịu vô cùng nhiều đau thương và mất mát. Một đất nước xảy ra chiến tranh triền miên sẽ không thể nào phát triển kinh tế và đảm bảo cuộc sống ấm no hạnh phúc cho người dân được. Chính vì vậy mục tiêu số một luôn phải là đảm bảo an ninh quốc gia.

Thứ hai, là duy trì thể chế chính trị hiện nay và đảm bảo ổn định chính trị trong nước. Từ góc nhìn của những nhà lãnh đạo ở Hà Nội, việc duy trì thể chế chính trị hiện nay có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định chính trị trong nước bởi nếu có bất kì sự thay đổi đột ngột nào, bạo loạn gần như chắc chắn sẽ xảy ra. Tuy nội chiến không nhất thiết sẽ nổ ra nhưng nó sẽ là một nguy cơ chúng ta không thể loại trừ.

Lịch sử ngàn năm của Việt Nam cho thấy khi đất nước bị chia rẽ, các cường quốc ở bên ngoài sẽ luôn chớp lấy thời cơ thao túng nước ta để trục lợi. Nhìn vào lịch sử của người láng giềng Trung Quốc chúng ta cũng thấy điều tương tự. Khi chính quyền trung ương suy yếu, các thế lực trong nước nổi dậy xưng hùng tranh bá gây ra chiến tranh triền miên. Khi triều đình nhà Thanh suy yếu vào cuối thế kỷ XIX, các đế quốc phương Tây lặp tức nhảy vào xâu xé, chia chác lợi ích. Do đó, có thể nói rằng việc duy trì ổn định chính trị quốc nội và chính quyền vững mạnh là yếu tố mang tính then chốt để đảm bảo an ninh quốc gia.

Thứ ba, là đảm bảo môi trường hòa bình trong khu vực, nhằm tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Khu vực càng ít biến động, các cường quốc càng hạn chế tranh giành quyền lực thì Việt Nam càng có thể tập trung nguồn lực phát triển kinh tếvà đầu tư cho giáo dục, an sinh xã hội. Khi nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định chính trị sẽ đi theo.

Rất nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học chính trị so sánh (comparative politics) đã cho thấy rằng sự thay đổi chế độ sẽ ít xảy ra hơn ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển ổn định. Khi người dân cảm thấy nhu cầu vật chất và tinh thần của mình được đáp ứng, họ sẽ sẵn lòng ủng hộ chính quyền hơn. Vì vậy nhiều học giả từ lâu đã nhận định rằng ở Trung Quốc, tính chính danh của nhà cầm quyền kể từ khi Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền cho đến nay chủ yếu dựa vào hai trụ cột chính là chủ nghĩa dân tộc và phát triển kinh tế. Nếu những nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh muốn giành được sự ủng hộ của nhân dân, họ sẽ phải chứng minh được rằng: (i) chính phủ Trung Quốc hiện nay có thể bảo vệ an ninh – chủ quyền quốc gia, không để các thế lực ngoại bang xâm phạm lợi ích quốc gia của Trung Quốc và (ii) đảm bảo rằng kinh tế Trung Quốc tiếp tục phát triển vững mạnh bởi đây là yếu tố tiên quyết để nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Những điều này hoàn toàn đúng với trường hợp của Việt Nam.

Mặc dù vậy, cần nói thêm rằng bên cạnh ba lợi ích cốt lõi trên, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng muốn theo đuổi các mục tiêu khác nữa, ví dụ như xây dựng sức mạnh mềm cho Việt Nam, tham gia vào nỗ lực chống biến đổi khí hậu toàn cầu, phối hợp với các nước trong và ngoài khu vực Đông Nam Á xây dựng các cơ chế hợp tác đa phương, nâng cao vị thế của đất nước trong mắt bạn bè quốc tế, v.v… 


Tuy nhiên rõ ràng ba lợi ích trên là ba lợi ích cốt yếu nhất với Việt Nam bởi chúng là nền tảng để Việt Nam có thể theo đuổi các mục tiêu khác của mình.

III/Đánh giá môi trường chiến lược

1) Vị trí địa chính trị của Việt Nam

Xét từ góc độ địa chính trị của Việt Nam, có hai điểm đáng chú ý như sau:

Thứ nhất, Việt Nam có chung đường biên giới trên đất liền với ba nước duy nhất là Campuchia, Lào và Trung Quốc. Do đó có thể nói đây là ba nước sát sườn nhất với Việt Nam dưới góc độ an ninh bởi khoảng cách địa lý hết sức gần gũi đồng nghĩa với việc bất kì nước nào trong số ba nước trên sẽ đều có thể là mối hiểm họa lớn nếu họ thực thi chính sách chống Việt Nam. Tuy nhiên, trong ba nước trên chỉ có Trung Quốc là cường quốc kinh tế – quân sự và có tham vọng trở thành bá quyền. Trong thời kỳ hiện đại, Lào và Campuchia chưa bao giờ nổi lên như một thế lực quân sự đáng gờm và nhìn chung có mức độ phát triển kinh tế – xã hội thấp hơn Việt Nam.

Mặc dù vậy, trong những thập kỷ gần đây, chỉ có Lào là có quan hệ tương đối hữu hảo với Việt Nam và khó có khả năng trở thành mối đe dọa an ninh trực tiếp cho Việt Nam trong ngắn hạn, dù lợi ích giữa hai nước không phải lúc nào cũng song trùng. Campuchia tuy từng là một trong những đối tác quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nhưng dưới thời Pol Pot trở thành lực lượng tay sai của Trung Quốc. Từ sau Chiến tranh biên giới Tây Nam đến giờ, có thể nói rằng mối quan hệ Việt Nam – Campuchia đã chuyển sang mối quan hệ bạn – thù, tương đối giống với mối quan hệ trong những năm gần đây Việt – Trung bởi cả hai có sự lệ thuộc lẫn nhau tương đối lớn nhưng vẫn luôn nghi kỵ lẫn nhau. Việt Nam buộc phải dè chừng trước Campuchia khi một bộ phận đáng kể trong giới lãnh đạo Campuchia lâu nay có thái độ thù hằn, chống Việt Nam.

Hơn nữa, chính sách ngoại giao của Campuchia trong những năm gần đây, cho thấy rằng nước này ngày càng chịu sự chi phối lớn hơn từ chính quyền Bắc Kinh. Điều này trở nên đặc biệt rõ rệt trong năm Campuchia nắm vai trò chủ tịch luân phiên ASEAN khi nước này đã ngăn chặn khối ASEAN ra tuyên bố chung về vấn đề Biển Đông tại Hội nghị bộ trưởng ngoại giao vào năm 2012 và mới đây nhất, Campuchia lại một lần nữa ngăn ASEAN đạt đồng thuận về vấn đề Biển Đông trong các phiên họp của khối diễn ra tại Lào vào năm 2016. Trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng rót nhiều tiền cho các dự án phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng ở Campuchia, có thể thấy rõ rằng nước này đang giới lãnh đạo ở Phnom Penh ngày càng chịu sự ảnh hưởng lớn hơn từ phía Bắc Kinh, một điều vô cùng nguy hiểm đối với Việt Nam. Nếu như Trung Quốc đổi chiến lược ngoại giao của mình trong tương lai và thiết lập liên minh quân sự với Campuchia thì Việt Nam sẽ phải đặc biệt cảnh giác.

Mặc dù vậy, trong ba nước láng giềng này thì rõ ràng Trung Quốc là vẫn là nước đặt cho Việt Nam nhiều thách thức nhất từ trước đến giờ. Trung Quốc là nước láng giềng duy nhất từng tấn công xâm lược và đô hộ Việt Nam nhiều lần trong lịch sử ngàn năm của nước ta. Trung Quốc là mối đe dọa lớn đối với Việt Nam xuất phát từ hai nguyên nhân chính là sự gần gũi về mặt địa lý và sự bất đối xứng về sức mạnh giữa hai nước. Hơn nữa, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc trong thế kỷ XXI, tham vọng bá quyền của nước này ở Châu Á nói chung và ở Biển Đông nói riêng, bên cạnh sự lệ thuộc kinh tế một chiều của Việt Nam vào Trung Quốc đồng nghĩa với việc Trung Quốc sẽ luôn là một đối tác quan trọng nhưng cũng là một mối đe dọa an ninh tiềm tàng đối với chúng ta.

Thứ hai, tuy Việt Nam là một nước nhỏ ở Đông Nam Á nhưng phần lãnh thổ lại trải dài, gần như bao quanh một cạnh của Biển Đông. Nhìn vào bản đồ có thể thấy rằng Việt Nam là nước duy nhất ở Đông Nam Á có lãnh thổ vừa nằm trên lục địa Á Châu lại vừa giáp với Biển Đông. Việt Nam hiện cũng là nước kiểm soát số lượng đảo lớn nhất ở khu vực Quần đảo Trường Sa.

Hơn nữa, quân cảng Cam Ranh ở Nha Trang là một trong những cảng nước sâu lý tưởng bậc nhất thế giới, rất được ưa chuộng bởi “hải quân các nước bởi điều kiện thủy văn, địa chất rất thuận lợi, thủy triều trong vịnh khá đều đặn, tương đối đúng giờ. Đáy vịnh bằng phẳng, chủ yếu là cát phù sa khá chắc. Ngoài cửa vịnh có các đảo và cù lao chắn gió nên vịnh lặng sóng, thuận tiện cho thuyền neo đậu, tàu có trọng tải 100.000 tấn ra vào dễ dàng”. 

Nói cách khác, cảng Cam Ranh là một căn cứ hải quân với vị trí phòng thủ cực kỳ vững chắc, đồng thời là bệ phóng lý tưởng để cho các lực lượng hải quân kiểm soát Biển Đông. Là quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên với dân số trẻ trung và lớn thứ ba ở Đông Nam Á, đồng thời sở hữu một trong những quân đội thiện chiến bậc nhất ở Châu Á, Việt Nam rõ ràng là một thế lực tiềm tàng trong khu vực. Không phải tự nhiên mà trong lịch sử, nước ta thường được xem như “lực lượng trấn giữ con đường nam tiến cả trên bộ lẫn trên biển của Trung Quốc”.

Nhưng rõ ràng vị trí của Việt Nam đối với Biển Đông sẽ không có gì đáng nói nếu như Biển Đông không phải là một vùng biển quan trọng. Mặc dù vậy, trên thực tế Biển Đông là một vùng biển có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng đối với nhiều quốc gia trong khu vực. Về mặt kinh tế, Biển Đông có giá trị đáng kể bởi đây là một vùng biển tương đối giàu tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ và khí ga tự nhiên. Theo ước tính của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) thì có tới11 tỷ thùng dầu và 190 nghìn tỉ mét khối ga tự nhiên đang chờ được khai thác ở Biển Đông. Trong khi đó phía Trung Quốc ước tính có tới 900 tỉ mét khối khí ga tự nhiên và 130 tỷ thùng dầu ở Biển Đông. Nếu như ước tính của Trung Quốc đúng thì trữ lượng dầu thô ở Biển Đông lớn tương đương với toàn bộ trự lượng dầu mỏ của Iraq – nước có trữ lượng dầu mỏ lớn thứ năm trên thế giới theo EIA. Hơn nữa, với dân số khổng lồ của mình và tốc độ phát triển như hiện nay, nhu cầu về năng lượng của Trung Quốc là rất lớn. Và dù trữ lượng dầu khí trên thực tế thế nào đi nữa thì Biển Đông cũng là vùng biển đánh cá truyền thống của nhiều ngư dân trong khu vực. Thế nên không có gì ngạc nhiên khi nhiều quốc gia cạnh tranh lợi ích kinh tế ở vùng biển này.

Về địa chiến lược, Biển Đông nắm giữ một vị trí hết sức trọng yếu. Theo một số đánh giá thì Biển Đông được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới bởi có đến hơn 1/2 lượng vận tải thương mại cùng với 1/3 lượng dầu thô của thế giới đi qua Biển Đông. Chính vì vậy, trong tương lai xa, khi Trung Quốc đã có một hạm đội “hải dương xanh” và kiểm soát được toàn bộ Biển Đông, nước này sẽ có đủ khả năng để đe doạ ít nhiều sự an toàn của các tàu thuyền đi qua các eo biển chiến lược như Malacca, Lombok hay Sunda. Khi đó, rất có thể các tàu thuyền sẽ phải đi đường vòng và chi phí vận chuyển sẽ tăng gấp bội. Điều sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động kinh doanh nói riêng, đến tăng trưởng và ổn định của kinh tế của khu vực Đông Á nói riêng và thế giới nói chung. Nếu kiểm soát được Biển Đông, Trung Quốc sẽ có khả năng uy hiếp các đồng minh của Mỹ ở Châu Á, kể cả khi hải quân Trung Quốc không thể đóng các eo biển này. Ở góc độ quân sự, việc Trung Quốc kiểm soát được Biển Đông sẽ giúp nước này nâng cao hiệu quả của chiến lược chống tiếp cận A2/AD (anti-access/area-denial), giúp đẩy lùi hải quân Mỹ ra khỏi chuỗi đảo thứ nhất. Điều này sẽ làm suy yếu khả năng răn đe và ngăn chặn xung đột của quân đội Mỹ ở Châu Á và gia tăng nguy cơ Trung Quốc dùng vũ lực để gây sức ép với các nước láng giềng trong khu vực.

Vì Biển Đông có giá trị rất lớn về nhiều mặt nên Việt Nam gần như chắc chắn sẽ bị cuốn vào các “cuộc chơi lớn” của các cường quốc ở khu vực này. Do đó vị trí địa chính trị chiến lược của nước ta là một ưu điểm rất lớn nhưng nếu chính sách ngoại giao không khéo léo có thể sẽ biến Việt Nam thành trận địa nơi các cường quốc tranh giành ảnh hưởng.

2) Cục diện thế giới hậu Chiến tranh Lạnh

Sự phân bổ quyền lực (distribution of power) tuy không phải là yếu tố duy nhất quyết định chính sách đối ngoại của các quốc gia nhưng nó sẽ quyết định xem một quốc gia có thể làm gì và không thể làm gì. Một quốc gia càng mạnh thì càng có nhiều lựa chọn, một quốc gia càng yếu thì càng có ít sự lựa chọn. Câu nói nổi tiếng trong “cuộc đối thoại ở Melos” của sử gia người Hy Lạp Thucydides cho đến giờ vẫn không hề sai: “kẻ mạnh làm bất cứ những gì mình có thể, còn kẻ yếu thì phải chấp nhận những gì họ phải chấp nhận”.

Trên thực tế vì đa số các quốc gia dù ở đâu và dưới chế độ chính trị nào đều có lợi ích trong việc đảm bảo tối đa an ninh và sức ảnh hưởng của mình trên trường quốc tếnên chỉ cần dựa sự phân bổ quyền lực cũng có thể dự đoán được một số đường lối chính trong chiến lược đối ngoại của các quốc gia. Vì vậy trong chính trị quốc tế, yếu tố quan trọng nhất có lẽ vẫn là sự phân bổ quyền lực giữa các quốc gia, nhưng đặc biệt là giữa các cường quốc bởi họ là những nhân tố có ảnh hưởng nhất tới cục diện thế giới.

Sau sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh vào năm 1989 và sự tan rã của Liên Xô hai năm sau đó, Mỹ bước vào kỷ nguyên đơn cực (unipolar era) mà trong đó Mỹ là siêu cường (superpower) duy nhất với sức mạnh kinh tế – quân sự – khoa học kỹ thuật vượt xa tất cả những nước còn lại. Tuy nhiên, khoảnh khắc đơn cực của Mỹ đã không kéo dài được bao lâu bởi chính quyền Bush đã phung phí sức mạnh quân sự và hàng nghìn tỉ đôla cho hai cuộc chiến tranh trường kỳ ở Afghanistan và Iraq.

Trong khi Mỹ sa lầy ở Trung Đông, Trung Quốc lại trỗi dậy mạnh mẽ về mọi mặt. Kể từ khi Đặng Tiểu Bình thực hiện chính sách mở cửa, nền kinh tế Trung Quốc đã duy trì được tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 10% trong nhiều năm. Vì giữ được đà phát triển này nên chỉ sau ba thập kỷ, Trung Quốc đã soán mất ngôi vị nền kinh tế lớn thứ hai thế giới của Nhật Bản. Thậm chí, nhiều nhà kinh tế từ lâu đã dự đoán rằng nền kinh tế Trung Quốc sẽ vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới trước năm 2050.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc không chỉ sử dụng nguồn lực kinh tế để đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng đời sống của người dân nước mình mà còn đầu tư rất nhiều vào công cuộc hiện đại hóa quân đội, đặc biệt là hải quân. Ngân sách chi tiêu quốc phòng Trung Quốc nay lớn thứ nhì trên thế giới, chỉ sau ngân sách quốc phòng Mỹ. Đáng lo ở chỗ một phần rất lớn trong số tiền này được đầu tư vào việc nâng cấp và hiện đại hóa hải quân, giúp hải quân Trung Quốc trở thành lực lượng hải quân lớn thứ hai ở Châu Á, chỉ sau Mỹ. Mục tiêu xa hơn của những chiến lược gia quân sự Trung Quốc là xây dựng một hạm đội “hải dương xanh” (blue ocean navy) giúp Trung Quốc trở thành một thế lực hải quân đủ mạnh để có thể thách thức sự thống trị của hải quân Mỹ trên biển cả. Chính vì vậy, Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều vào các tàu ngầm thế hệ mới và cả tàu sân bay để tăng cường khả năng viễn chinh (power projection) của mình. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng tiếp tục phát triển các hệ thống tên lửa chống hạm như hệ thống tên lửa DF-21D với mục đích răn đe, hạn chế tầm hoạt động của hải quân Mỹ. Những bước đi này sẽ làm suy yếu ít nhiều các cam kết an ninh của Mỹ đối với các đồng minh ở Châu Á và làm gia tăng mối quan ngại về an ninh của các nước láng giềng của Trung Quốc, đặc biệt là những nước đang có tranh chấp với Trung Quốc như Nhật Bản, Việt Nam, v.v…

Nhận thấy mối đe doạ này, chính quyền Obama đã triển khai chính sách xoay trục về Châu Á (pivot to Asia) để tái phân bổ nguồn lực của Mỹ về khu vực này và củng cố các mối quan hệ ngoại giao – quốc phòng của Mỹ với các đối tác quan trọng ở Châu Á – Thái Bình Dương. Tuy sức mạnh của Mỹ đã suy yếu ít nhiều so với giai đoạn hậu Chiến tranh Lạnh nhưng cho đến giờ Mỹ vẫn là siêu cường số một thế giới. Quân đội Mỹ vẫn là quân đội thiện chiến nhất và được trang bị vũ khí tối tân nhất. Hơn nữa, có lẽ trong thời điểm hiện nay chỉ có quân đội Mỹ mới có đủ sức mạnh để tham chiến vào hai cuộc chiến tranh lớn ở hai mặt trận hoàn toàn độc lập và giành được chiến thắng. Với vị trí địa chính trị “trời phú” của mình cùng với kho vũ khí hạt nhân lớn nhất nhì thế giới, nước Mỹ là một pháo đài bất khả xâm phạm đối với bất kì đội quân xâm lược nào. Hơn nữa, hải quân Mỹ vẫn đang ngày đêm tuần tra và kiểm soát tất cả các vùng biển trọng yếu nhất trên thế giới. Mỹ là nước duy nhất có mạng lưới đồng minh và căn cứ quân sự trên toàn cầu. Những yếu tố này giúp quân đội Mỹ có được sức mạnh viễn chinh vô song và vì vậy có khả năng can thiệp vào bất kì cuộc xung đột vũ trang nào ở bất kì nơi đâu trong dưới 24 giờ đồng hồ.

Thế giới ngày nay không còn là thế giới đơn cực, không còn là một sân chơi của riêng Mỹ nữa nhưng chắc chắn nó chưa phải là thế giới đa cực. Ở Châu Âu, Nga đang tìm lại vị thế cường quốc mà mình đã đánh mất sau những năm 90 với những nỗ lực can thiệp vào cuộc khủng hoảng ở Ucraina và Xi-ri. Điều này đang biến Nga trở thành một trong những thách thức an ninh lớn nhất đối với nhiều đồng minh Châu Âu của Mỹ, đặc biệt là các nước vùng Ban-tic và Đông Âu. Tuy nhiên cần nhìn nhận một cách thực tế rằng nước Nga của ngài Putin không phải là Liên Xô của Stalin. Liên Xô từng là một thế lực quân sự ngang ngửa với Mỹ với một hệ tư tưởng có sức hút toàn cầu và có tham vọng bá quyền thật sự. Nước Nga ngày nay chỉ là một cường quốc khu vực thuần túy và chỉ còn là cái bóng của đế chế Xô-viết.

Kể từ khi thành lập đến nay, Liên minh Châu Âu (EU) chưa bao giờ là một thế lực độc lập trên chính trường quốc tế. Đa số các quốc gia thành viên của khối EU là đồng minh NATO của Mỹ và các quốc gia thành viên của khối chưa bao giờ xây dựng thành công một chính sách đối ngoại đơn nhất cho tất cả. Hơn nữa, với cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm gần đây và sự rạn nứt trong khối với quyết định rời EU của nước Anh, EU gần như chắc chắn sẽ không có tương lai như một thế lực có thể chi phối chính trị quốc tế, càng không thể là một đối trọng thực thụ trước sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Đức và Nhật Bản tuy là hai cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới nhưng không phải là cường quốc chính trị – quân sự. Đây là hai quốc gia bại trận trong Thế Chiến II và là hai quốc gia duy nhất trên thế giới có Hiến pháp cấm việc sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp. Nhất cử nhất động của hai quốc gia này, dù chỉ với mục đích hoàn để tự vệ đi chăng nữa, đều luôn bị theo dõi sát sao bởi cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các nước láng giềng bởi hơn ai hết, họ là nạn nhân của hai cuộc Thế Chiến và không ai muốn lịch sử lặp lại, dù chỉ một lần nữa. 

Bản thân người dân Nhật hay người dân Đức cũng ý thức được điều này nên phong trào hòa bình phát triển rất mạnh ở cả hai nước. Vì những lý do này nên dù cả hai quốc gia này hoàn toàn có đủ năng lực khoa học kỹ thuật để phát triển vũ khí hạt nhân để tự đảm bảo an ninh của mình nhưng các nhà lãnh đạo Đức và Nhật đều không theo đuổi lựa chọn này bởi họ biết rằng sẽ vấp phải sự phản đối hết sức quyết liệt của người dân. Cả hai quốc gia này sẽ tiếp tục là những thế lực kinh tế – chính trị đáng gờm nhưng ngày nào họ còn bị ám ảnh bởi quá khứ của mình, cả hai sẽ không thể trở thành những siêu cường sánh vai được với Mỹ hay Trung Quốc. Đây sẽ không phải là hai nước có thể trở thành đối trọng độc lập với Trung Quốc trong thời gian trước mắt.

Còn Ấn Độ thì sao? Ấn Độ là nền dân chủ lớn nhất thế giới với số dân đông thứ hai, chỉ kém Trung Quốc. Ấn Độ cũng là một cường quốc hạt nhân như Mỹ, Nga và Trung Quốc và là một trong những nước có tham vọng trở thành cường quốc hải quân. Hơn nữa, do Ấn Độ có tranh chấp trên đất liền với Trung Quốc nên nước này cũng là một trong những đối tác an ninh quan trọng của Việt Nam trong những năm gần đây. Tuy nhiên điểm yếu của Ấn Độ đấy là sự chia rẽ trong nội bộ bởi sự đa văn hóa, đa sắc tộc và đa ngôn ngữ trong cộng đồng người Ấn. Điều này đồng nghĩa với việc các nhà lãnh đạo Ấn Độ sẽ luôn phải dành rất nhiều thời gian và công sức để giải quyết các vấn đề đối nội trước khi có thể tập trung toàn ý cho các vấn đề đối ngoại. Hơn nữa, Ấn Độ có một đối thủ truyền kiếp là người láng giềng Pakistan, vốn là một đối tác an ninh được Trung Quốc duy trì để làm đối trọng với Ấn Độ. Vì vậy, ngày nào Ấn Độ còn phải đương đầu với mối đe dọa hạt nhân trực tiếp từ Pakistan, ngày đó Ấn Độ vẫn còn chưa thể tập trung nguồn lực để kiềm chế Trung Quốc.

Do đó, trong bối cảnh hiện nay, nếu như có bất kì quốc gia nào có đủ khả năng ngăn chặn được tham vọng bá quyền của Trung Quốc ở Châu Á thì chỉ có thể là Mỹ.

3) Đánh giá tình hình an ninh khu vực trong những năm gần đây

Đối với Việt Nam, khu vực quan trọng nhất về mặt an ninh tại thời điểm hiện nay là khu vực Đông Á nói chung và khu vực Biển Đông nói riêng. Nhìn vào khu vực này, có thể thấy một vài mối đe dọa an ninh tiềm tàng như sau:

Mối đe dọa tiềm tàng thứ nhất, là xung đột vũ trang ở Biển Đông.

Như đã phân tích ở trên, vì Biển Đông có tầm quan trọng đặc biệt đối với an ninh của Việt Nam nên chắc chắn chúng ta sẽ không muốn để Trung Quốc thâu tóm vùng biển này. Tuy nhiên vì sức mạnh quân sự của Trung Quốc vượt trội hơn nhiều so với Việt Nam nên nếu có xung đột vũ trang xảy ra, Việt Nam chắc chắn sẽ chịu thua thiệt. Việt Nam có lợi ích trong việc ngăn chiến tranh không xảy ra vì trên bàn đàm phán đa phương chúng ta sẽ có khả năng bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ cao nhất. Hơn nữa, như đã phân tích ở trên, một trong những lợi ích cốt lõi của nước ta là đảm bảo môi trường an ninh hoà bình, tạo điều kiện để phát triển kinh tế. Do đó xung đột vũ trang ở Biển Đông sẽ là một nguy cơ lớn mà chúng ta muốn tránh.

Xung đột vũ trang ở Biển Đông có thể xảy ra trong những hoàn cảnh nào? Nói cách khác, những nguyên nhân nào có thể châm ngòi cho một cuộc chiến tranh ở Biển Đông?

Nguyên nhân số một là tính toán sai lầm của các nhà lãnh đạo. Trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền đang diễn ra hết sức gay gắt do Trung Quốc đang ngày đêm bồi đắp đảo nhân tạo trái phép ở một số đảo trên Biển Đông và quân sự hóa tranh chấp thì việc có xô xát giữa lực lượng vũ trang hay cảnh sát biển dẫn đến khủng hoảng ngoại giao và leo thang xung đột là điều không thể tránh khỏi. Khi mà sự nghi kỵ giữa các quốc gia đủ lớn thì những hành động dù chỉ hoàn toàn với mục đích tự vệ cũng sẽ gây căng thẳng và có thể dẫn đến những cuộc khủng hoảng nói trên. Thế nên kể cả trong trường hợp không có bất kì bên nào muốn dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp, chiến tranh vẫn có thể nổ ra nếu các lãnh đạo các nước đọc sai ý đồ của nhau và đưa ra các quyết sách sai lầm.

Nguyên nhân thứ hai là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Một khi các nhà lãnh đạo Bắc Kinh cảm thấy đủ tự tin vào sức mạnh quân sự của mình, rất có thể họ sẽ dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp, đặc biệt khi quá trình đàm phán ngoại giao gặp bế tắc. 

Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin vào điều này bởi sự xác quyết trong những năm gần đây của Trung Quốc chỉ bắt đầu sau giai đoạn khủng hoảng kinh tế 2008-09, khi người Trung Quốc cho rằng kỷ nguyên Mỹ đã kết thúc và họ đã đủ mạnh để thách thức Mỹ ở Châu Á. Hơn nữa, rất có thể một lúc nào đó các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ kết luận rằng sức mạnh hải quân của họ đã lên tới đỉnh điểm và rằng nếu họ không dùng vũ lực để giải quyết tranh chấp ngay lúc này, họ sẽ mất đi lợi thế quân sự của mình trong khu vực. Điều này có thể dẫn tới một cuộc chiến tranh ở Biển Đông mà Việt Nam không mong muốn.

Nguyên nhân cuối cùng là sự suy yếu trong nội bộ của Trung Quốc. Tuy Trung Quốc đang nổi lên như một siêu cường thứ hai nhưng trên thực tế nội bộ Trung Quốc đang gặp rất nhiều vấn đề hóc búa. 

Thứ nhất, nền kinh tế của Trung Quốc rất lớn nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đang chậm lại đáng kể. Đã qua rồi cái thời tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số. Thứ hai, vì phát triển kinh tế “phi mã” nên hệ quả là môi trường bị tàn phá nghiêm trọng. Mỗi năm Trung Quốc đang chứng kiến hàng chục nghìn cuộc biểu tình ở nhiều cấp độ khác nhau ở khắp các tỉnh thành chủ yếu về các vấn đề an sinh xã hội. Thứ ba là nguy cơ các vùng tự trị như Tân Cương và Tây Tạng ly khai khỏi Trung Quốc. Dù bị đàn áp ác liệt và đối mặt với chính sách đồng hoá của người Hán song phong trào đòi ly khai ở những vùng tự trị như Tân Cương hay Tây Tạng vẫn rất mạnh mẽ. Mất hai nơi này thì Trung Quốc sẽ đại loạn và sẽ suy yếu nghiêm trọng bởi đây là những vùng đất vô cùng giàu tài nguyên khoáng sản mà Trung Quốc thì rất phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên này. Hơn nữa, nếu các khu vực này trở thành những quốc gia độc lập và một ngày gia nhập liên minh với các quốc gia thù địch với Trung Quốc thì an ninh Trung Quốc sẽ bị đe doạ nghiêm trọng.

Để tránh những nguy cơ này dẫn đến một cuộc khủng hoảng lớn trong xã hội Trung Quốc, rất có thể các nhà cầm quyền Bắc Kinh sẽ muốn hướng sự chú ý của dư luận trong nước ra bên ngoài bằng việc phát động một cuộc chiến tranh đánh lạc hướng (diversionary war) ở Biển Đông. Đó cũng là một con đường mà chiến tranh có thể xảy ra ngoài ý muốn của chúng ta.

Mối đe dọa tiềm tàng thứ hai, là Mỹ quyết định rút lui khỏi Châu Á, chuyển sang đại chiến lược biệt lập (isolationist grand strategy).

Dưới thời Trump, đây là một nguy cơ không thể loại trừ, mặc dù khả năng xảy ra trên thực tế rất thấp vì bộ máy chính quyền Mỹ nói chung và cộng đồng chính sách đối ngoại nói riêng lâu nay vẫn ủng hộ một vai trò dẫn dắt của Mỹ ở quy mô toàn cầu. Tuy nhiên, việc Mỹ trong những những năm tới hoặc thậm chí trong thập kỷ tới đây sẽ chuyển sang đại chiến lược “cân bằng khơi xa” là một viễn cảnh hoàn toàn rất thực tế trong bối cảnh nợ công của chính phủ Mỹ ngày càng gia tăng chóng mặt và người dân Mỹ ngày càng muốn chính phủ Mỹ đặt lợi ích của nhân dân Mỹ lên trên hết.

Khác với đại chiến lược biệt lập, cân bằng khơi xa sẽ không yêu cầu Mỹ rút lui về pháo đài của mình và bỏ trống vị trí lãnh đạo thế giới mà Mỹ nắm giữ bấy lâu nay nhưng nó sẽ yêu cầu Mỹ tinh giản sự hiện diện quân sự của mình ở nhiều nơi. Dù không rũ bỏ hoàn toàn các cam kết đối với an ninh của các đồng minh ở Châu Á và không rút toàn bộ quân lính về nước thì bản thân việc Mỹ gửi đi tín hiệu rằng Washington không còn mặn mà với các đồng minh và rằng họ không còn sẵn lòng hy sinh của cải và mạng sống của công dân Mỹ để bảo vệ các quốc gia khác rất có thể sẽ khiến Trung Quốc cảm thấy tự tin hơn và sẵn sàng theo đuổi chính sách ngoại giao cứng rắn hơn ở Biển Đông.

Chắc chắn đây là điều bất lợi cho Việt Nam bởi một khi Trung Quốc tin rằng kể cả họ sử dụng vũ lực để bắt nạt các nước yếu hơn đi nữa cũng sẽ không ai sẵn lòng trừng phạt họ thì những nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ càng có cớ để “ỷ lớn hiếp bé”. Nên nhớ rằng những nhà lãnh đạo Trung Quốc là những người hết sức thông minh và họ thường tính toán rất kĩ lưỡng trước khi đưa ra các quyết sách lớn. Chính vì vậy trước khi tiến hành tấn công xâm lược nước ta vào năm 1979, Đặng Tiểu Bình trước đó đã có một chuyến công du tới một loạt các nước như Nhật Bản, Malaysia rồi Mỹ để thăm dò cũng như tranh thủ sự ủng hộ về mặt ngoại giao của cộng đồng quốc tế. Ngày đó nếu Tổng thống Jimmy Carter quyết liệt phản đối và cam kết sẽ trừng phạt Trung Quốc nếu nước này tấn công xâm lược Việt Nam thì nhiều khả năng ông Đặng sẽ phải tính toán lại nước đi của mình. Đáng tiếc rằng Mỹ lúc đó đang trong quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc nên về cơ bản đã lờ đi hành vi xâm lược của Trung Quốc. Vì vậy một khi cam kết của Mỹ đối với khu vực suy yếu, rất có thể Trung Quốc sẽ thừa thời cơ lấn tới và gia tăng sức ép lên Việt Nam, buộc chúng ta phải nhượng bộ ở Biển Đông.

Mối đe dọa tiềm tàng cuối cùng, là một thỏa thuận hòa hoãn Mỹ – Trung.

Vì sao điều này lại có hại cho Việt Nam? Lý do tương tự như một sự thoái lui của Mỹ và thậm chí còn nguy hại hơn vì trong hoàn cảnh này,hai nước đã có thỏa thuận chia chác lợi ích bất chấp an ninh của Việt Nam. Nếu như chỉ cần Mỹ lờ đi những hành động hiếu chiến của Trung Quốc mà Bắc Kinh đã cảm thấy an tâm để tấn công Việt Nam rồi thì chúng ta càng có lý do để tin rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ càng sẵn sàng o ép Việt Nam nếu Mỹ – Trung hoà hoãn với nhau và Mỹ “bật đèn xanh” cho Trung Quốc tự thiết lập một bán cầu ảnh hưởng (sphere of influence) của mình ở Châu Á.

Tuy nhiên đây là một mối hiểm hoạ tương đối xa vời trong thời điểm hiện nay vì Mỹ – Trung hiện đang đối đầu trực tiếp ở Châu Á. Khi hai bên đang đối đầu trực tiếp với nhau và có xung đột rõ ràng về lợi ích chiến lược trong khu vực thì việc có thể thoả hiệp được với nhau là một nhiệm vụ gần như bất khả thi. Dưới thời Nixon – Kissinger, Mỹ đã theo đuổi chính sách hoà hoãn tương đối thành công với cả Liên Xô và Trung Quốc. Nhưng điều này không có nghĩa là hiện nay Mỹ sẽ hoặc có khả năng thực thi chính sách hoà hoãn thành công với Trung Quốc. Sở dĩ ngày đó hoà hoãn Mỹ-Trung và hoà hoãn Mỹ-Xô thành công là bởi Mỹ lúc đó có nhiều lợi ích song trùng với cả hai: với Liên Xô, cả hai đều có lợi ích trong việc kiểm soát vũ khí hạt nhân; với Trung Quốc, cả hai đều có lợi ích trong việc kiềm chế Liên Xô và Mỹ rút quân khỏi Việt Nam. Quan trọng hơn hết, đó là thời điểm cao trào của mâu thuẫn Trung – Xô trong khi Mỹ – Trung lại không có xung đột trong lợi ích chiến lược. Đó là lý do vì sao Mỹ có thể hoà hoãn với Trung Quốc tại thời điểm đó nhưng không thể thực thi chính sách này trong thời điểm hiện nay bởi những điều kiện vô cùng thuận lợi lúc đó đang không hiện diện vào lúc này.

Hơn nữa, trong bối cảnh tình hình quốc tế hiện nay, đặc biệt dưới chính quyền Trump, dù Mỹ và Nga đang có một số lợi ích chiến lược song trùng nhưng quyết định từ chức của cựu cố vấn an ninh quốc gia Michael Flynn sau scandal với Nga mới đây cho thấy vẫn còn lực cản rất lớn đối với một sự hoà hoãn Mỹ – Nga ở Washington. Nếu như hoà hoãn Mỹ – Nga đã khó như vậy rồi thì một thoả thuận hoà hoãn Mỹ – Trung ở Châu Á càng là một triển vọng viển vông khi hai nước này đang đối đầu trực tiếp ở đây. Do đó, tuy đây là một mối đe doạ có thật đối với Việt Nam, nhất là vì Mỹ đã từng hoà hoãn với Trung Quốc trong những năm 70, nhưng tại thời điểm này, đây chưa phải là mối đe doạ lớn nhất và trực tiếp nhất đối với an ninh của Việt Nam.

IV/Đánh giá các lựa chọn đại chiến lược của Việt Nam

Câu hỏi lớn nhất mà các nhà lãnh đạo của Việt Nam buộc phải trả lời trong quá trình hoạch định chiến lược cho nước nhà đó là: cách tốt nhất để đảm bảo an ninh cho Việt Nam là liên kết với một siêu cường hay theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập – tự chủ?

Nếu câu trả lời là Việt Nam nên tìm kiếm một siêu cường để bảo đảm an ninh cho mình thì hai lựa chọn đại chiến lược khả dĩ sẽ là đại chiến lược thân Mỹ và đại chiến lược thân Trung Quốc.

Nếu câu trả lời là Việt Nam nên theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập thì hai lựa chọn đại chiến lược khả dĩ sẽ là đại chiến lược đa phương và đại chiến lược biệt lập.


Các lựa chọn đại chiến lược cho Việt Nam trong thế kỷ XXI

1) Đại chiến lược thân Mỹ (pro-U.S. grand strategy)

Đại chiến lược thân Mỹ sẽ phù hợp khi Trung Quốc đặt ra mối đe doạ trực tiếp đối với an ninh của Việt Nam. Điều này sẽ xảy ra khi chính phủ kết luận rằng mọi biện pháp ngoại giao đã thất bại và Trung Quốc đã hạ quyết tâm sử dụng sức mạnh quân sự để giải quyết tranh chấp tại Biển Đông và thậm chí có ý đồ đưa quân sang tấn công xâm lược lãnh thổ của Việt Nam trên đất liền. Nếu Trung Quốc và Campuchia ký kết hiệp ước liên minh quân sự thì rất có thể phía Việt Nam cũng phải tự tìm kiếm một liên minh của riêng mình với Mỹ.

Nếu Việt Nam theo đuổi đại chiến lược thân Mỹ thì việc hợp tác an ninh quốc phòng một cách sâu sắc và thực chất với Mỹ (kể cả nếu không trở thành đồng minh hiệp ước của Mỹ) là một điều bắt buộc. Phía Hà Nội cần cho phép Washington đồn trú quân Mỹ ở Việt Nam và quyền sử dụng các căn cứ quân sự như Cam Ranh để khống chế Trung Quốc ở Biển Đông. Chính sách đối ngoại của Việt Nam về cơ bản sẽ không được mâu thuẫn với chính sách đối ngoại của Mỹ, đặc biệt là ở Châu Á và trong những vấn đề trực tiếp liên quan đến Trung Quốc. 

Rất có thể đại chiến lược này sẽ yêu cầu Việt Nam gia tăng chi tiêu quốc phòng và thậm chí gửi một số lượng binh lính nhất định đi tham chiến ở nước ngoài nếu Mỹ yêu cầu. Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ phải tích cực giảm sự lệ thuộc kinh tế của Việt Nam vào Trung Quốc và thậm chí sẽ phải thay đổi ít nhiều về mặt chính trị trong nước để phù hợp với yêu cầu của phía Mỹ.

Điểm mạnh của đại chiến lược thân Mỹ là nó sẽ giải quyết được bài toán an ninh cho Việt Nam ngày nào chúng ta còn là đồng minh của Mỹ.Cho đến nay, chưa có một đồng minh thân cận nào mà Mỹ cam kết bảo vệ lại bị một bên thứ ba tấn công dù ở Châu Âu, Châu Á hay Châu Mỹ. Tuy nhiên điểm yếu rất lớn đấy là chúng ta sẽ phải đánh đổi sự tự do trong việc hoạch định đường lối và thực thi chính sách của quốc gia ở một mức độ nhất định. Điều này sẽ có hại khi Mỹ yêu cầu ta làm những gì họ muốn nhưng lợi ích của hai nước lại không song trùng hoặc thậm chí xung đột. Hơn nữa, đến khi thời thế thay đổi, Mỹ sẵn sàng hoà hoãn với Trung Quốc thì rất có thể Việt Nam sẽ bị đưa ra làm con bài để hai bên mặc cả với nhau và dĩ nhiên điều này sẽ có hại cho phía chúng ta.

Đại chiến lược thân Trung Quốc (pro-China grand strategy)

Từ góc nhìn của các nhà lãnh đạo Việt Nam, có lẽ một đại chiến lược thân Trung Quốc sẽ phù hợp trong bối cảnh an ninh chính trị trong nước bị Mỹ đe doạ. Nói cách khác, đại chiến lược này sẽ được các nhà lãnh đạo Việt Nam quan tâm nhất khi Mỹ có mong muốn lật đổ chế độ hiện nay ở Việt Nam.
Nếu như Mỹ nhất quyết thay đổi chế độ thì Hà Nội sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt tay với Bắc Kinh. Vì Trung Quốc không có chính sách liên minh như Mỹ nên Việt Nam không nhất thiết phải liên minh với Trung Quốc để chống Mỹ nhưng chắc chắn chính sách đối ngoại quốc phòng Việt Nam phải đi theo đường lối của Trung Quốc, đồng nghĩa với việc không được liên minh với Mỹ hay bất kì nước nào khác. Rất có thể Việt Nam sẽ phải công nhận chính thức (de jure) chủ quyền hợp pháp của Trung Quốc ở Biển Đông, ít nhất ở một số khu vực nhất định. Đổi lại, Trung Quốc sẽ hoà hoãn với Việt Nam ở Biển Đông và cho phép chúng ta tạm thời “mượn” các đảo ở Trường Sa mà chúng ta đang kiểm soát. Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia tích cực vào các cơ chế hợp tác đa phương như LHQ, ASEAN nhưng để phục vụ lợi ích của Trung Quốc. Trên thực tế, Việt Nam sẽ phải đóng vai của Campuchia trong ASEAN, ngăn không cho khối này ra các lập trường chung về vấn đề Biển Đông ngày nào Trung Quốc còn chưa thay đổi quan điểm của mình về tranh chấp hiện nay.

Điểm mạnh của đại chiến lược thân Trung Quốc là nhiều khả năng nó sẽ thuyết phục Mỹ từ bỏ tham vọng lật đổ chế độ ở Việt Nam bởi nếu sự can thiệp của Trung Quốc có thể thuyết phục được Mỹ không can thiệp quân sự vào Bắc Triều Tiên thì nó cũng sẽ có tác dụng ở Việt Nam. Hơn nữa, ở một khía cạnh nhất định có thể nói rằng việc xích lại gần Trung Quốc hơn sẽ giúp Việt Nam giải toả sức ép ở Biển Đông, ít nhất trong ngắn hạn. 

Tuy nhiên, cũng như đại chiến lược thân Mỹ, điểm yếu rất lớn đấy là chúng ta sẽ phải đánh đổi sự tự do trong việc hoạch định đường lối và thực thi chính sách của quốc gia. Điều này sẽ có hại khi Trung Quốc yêu cầu ta làm những gì họ muốn nhưng lợi ích của hai nước lại không song trùng hoặc thậm chí xung đột. Việt Nam sẽ không muốn bị bạn bè quốc tế khác nhìn vào như một thế lực tay sai của Trung Quốc như Campuchia. Hơn nữa, đến khi thời thế thay đổi, Trung Quốc sẵn sàng hoà hoãn với Mỹ thì nhiều khả năng Việt Nam sẽ bị biến thành con bài để hai bên mặc cả với nhau và dĩ nhiên điều này bất lợi cho phía chúng ta.

Mặc dù vậy, cần nhìn nhận một cách thực tế rằng Mỹ kể từ khi bình thường hoá quan hệ với Việt Nam đến giờ gần như đã từ bỏ tham vọng thay đổi chế độ ở Việt Nam, ít nhất là trong thời gian trước mắt. Điều này có thể thấy rõ qua chuyến thăm Mỹ lịch sử của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vào năm 2015. Việc Tổng thống Obama sẵn sàng đón tiếp nồng hậu Tổng bí thư của một đảng cộng sản ở trong Nhà Trắng với đầy đủ nghi lễ cho một nguyên thủ quốc gia cho thấy Mỹ sẵn sàng theo đuổi một mối quan hệ hợp tác đôi bên cùng có lợi với Việt Nam trên tinh thần hai bên tôn trọng hệ thống chính trị của nhau.

Đại chiến lược đa phương (omnidirectional grand strategy)

Nếu như Việt Nam không phải đối mặt với mối hiểm hoạ an ninh nào trong ngắn hạn thì đại chiến lược đa phương sẽ là một trong những lựa chọn tương đối hợp lý. Để Việt Nam theo đuổi con đường đa phương, yếu tố tiên quyết là kiên trì theo đuổi đường lối đối ngoại độc lập – tự chủ. Trên thực tế, bằng cách này hay cách khác Việt Nam sẽ cần duy trì nguyên tắc “3 Không” trong đối ngoại – quốc phòng (không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia).

Tuy việc thực thi nguyên tắc này có thể linh hoạt tuỳ theo từng thời điểm và trường hợp nhưng về cơ bản, để có thể thực hiện đại chiến lược đa phương, Việt Nam không được phép tham gia liên minh quân sự với bất kì nước nào, đặc biệt là Trung Quốc hoặc Mỹ. Mặc dù một liên minh quân sự đa phương trong khối ASEAN (nếu trở thành hiện thực) sẽ khác với một liên minh Việt – Mỹ nhưng từ góc nhìn của Bắc Kinh, vì rất nhiều nước ASEAN hiện nay có tranh chấp trực tiếp với Trung Quốc ở Biển Đông nên một liên minh ASEAN dưới con mắt của người Trung Quốc sẽ là một liên minh chống Trung Quốc. Do đó, chúng ta sẽ phải tránh tham gia một liên minh quân sự trong khối ASEAN nếu nó trở thành hiện thực trong tương lai, nếu Hà Nội muốn theo đuổi đại chiến lược đa phương.

Yếu tố quan trọng không kém là giữ khoảng cách gần vừa phải giữa Mỹ và Trung Quốc. Điều này không nhất thiết yêu cầu Việt Nam giữ quan điểm hoàn toàn trung lập trong các vấn đề liên quan tới hai nước này nhưng chúng ta sẽ phải thực hiện chính sách “cân bằng động”, tức thường xuyên điều chỉnh chính sách ngoại giao một cách linh hoạt tuỳ xem cán cân quyền lực nghiêng về nước nào và nước nào đang đe doạ an ninh của Việt Nam nhiều hơn. 

Như vậy Việt Nam sẽ cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác an ninh quốc phòng với Mỹ nhưng không liên minh với Mỹ và cho phép Mỹ đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam. Việt Nam sẽ tiếp tục ủng hộ chính sách tự do hàng hải của Mỹ ở Biển Đông nhưng hạn chế đưa ra quan điểm thiên vị về phía Mỹ khi hai siêu cường có xung đột ở Biển Đông như khi Trung Quốc thu giữ thiết bị lặn của Mỹ ở Biển Đông. 

Mặt khác, Việt Nam cũng không được tiến quá sát vào Trung Quốc và cần từng bước giảm bớt sự lệ thuộc về mặt kinh tế – chính trị của mình vào nước này. Việt Nam cần tiếp tục kiên trì quan điểm giải quyết tranh chấp Biển Đông một cách hoà bình trên tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế nhưng không nhượng bộ phía Trung Quốc nếu phải mặc cả lợi ích quốc gia cốt lõi. Việt Nam cũng không được phép công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với toàn bộ Biển Đông để nhận lấy sự thừa nhận quyền kiểm soát trên thực tế (de facto) các đảo hiện nay của Việt Nam ở Trường Sa.

Cuối cùng, để bù lại cho việc không có siêu cường nào “chống lưng”, Việt Nam sẽ phải tích cực đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ đối tác của mình trên mọi lĩnh vực và tham gia một cách thực chất vào các thiết chế hợp tác quốc tế trong và ngoài khu vực. Trên thực tế đây là những chính sách Việt Nam theo đuổi bấy lâu nay. Vì vậy chúng ta không chỉ đẩy mạnh hợp tác an ninh với Mỹ mà còn cần thúc đẩy quan hệ quốc phòng với các cường quốc có năng lực tiềm tàng và có lợi ích trong việc kiểm soát tham vọng của Trung Quốc ở Châu Á như Nhật Bản, Ấn Độ và Nga. 

Hơn nữa, Việt Nam sẽ cần chủ động và tích cực thúc đẩy và tham gia xây dựng các thiết chế đa phương như ASEAN và thậm chí đề xuất các thiết chế đa phương mới nếu cần thiết để nâng cao vị thế cũng như sức ảnh hưởng thực sự của các quốc gia vừa và nhỏ trong khu vực. Điều này không nhất thiết yêu cầu Việt Nam phải đóng vai trò lãnh đạo của ASEAN nhưng sẽ yêu cầu chúng ta phải tích cực đóng góp cho cộng đồng này và đẩy mạnh quá trình cải tổ ASEAN, trước tiên bằng việc chuyển cơ chế đồng thuận sang cơ chế bỏ phiếu đa số, ít nhất trong một số vấn đề không ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các nước trong khối.

Điểm mạnh nhất của đại chiến lược đa phương là đảm bảo được gần như toàn vẹn chủ quyền của chúng ta bởi đường lối chính sách của Việt Nam sẽ do người Việt Nam quyết định. Nếu tận dụng được một cách khéo léo, chúng ta có thể dùng siêu cường để đối trọng với siêu cường kia và nhận được sự hỗ trợ của cả hai như chúng ta từng làm với Liên Xô và Trung Quốc trong những năm 60. Hơn nữa, bằng việc duy trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, Việt Nam có thể sẽ nâng cao được vị thế của mình trong mắt bạn bè quốc tế và thậm chí trở thành một thế lực đáng kể trong khu vực. 

Điểm yếu rõ rệt là chiến lược này có thể sẽ không đảm bảo được an ninh cho Việt Nam, nhất là với tình hình an ninh khu vực đầy bất ổn hiện nay. Hơn nữa, “cân bằng động” dù là một ý tưởng hay trên giấy tờ nhưng sẽ khó để thực hiện tốt dược trên thực tế và nếu không khéo chính sách của ta sẽ rất dễ bị nghiêng về một bên. Mặt khác, nếu thời thế thay đổi và chúng ta không linh hoạt điều chỉnh kịp thời thì nhiều khả năng sẽ phải đối mặt với hiểm hoạ từ Trung Quốc một mình mà không có sự trợ giúp của Mỹ.

Đại chiến lược biệt lập (isolationist grand strategy)

Lựa chọn cuối cùng cho các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam là theo đuổi đại chiến lược biệt lập. Lôgic chủ đạo đằng sau đại chiến lược biệt lập là Việt Nam càng tránh can dự sâu vào các vấn đề quốc tế thì càng dễ tránh được xung đột lợi ích với các nước khác. Về cơ bản, Việt Nam sẽ giữ quan điểm hoàn toàn trung lập giữa Trung Quốc và Mỹ ở Biển Đông và giữ vững tuyệt dối nguyên tắc “3 Không” trong quốc phòng. Việt Nam cũng sẽ chấp nhận đàm phán song phương với Trung Quốc về tranh chấp hiện nay. Điều này không có nghĩa là Việt Nam sẽ co cụm và rút khỏi toàn bộ các cơ chế đa phương và tổ chức quốc tế nhưng chúng ta sẽ chỉ tham dự ở mức tối thiểu và hoàn toàn để bảo vệ lợi ích của riêng Việt Nam chứ không nhằm mục đích thúc đẩy lợi ích chung cho cả các nước khác trong khu vực. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng sẽ hạn chế tham gia vào các hiệp định đa phương để tối đa hoá sự chủ động và linh hoạt trong hoạch định và thực thi các quyết sách.

Ưu điểm của đại chiến lược biệt lập là ít nhất trên lý thuyết, nó sẽ đảm bảo được chủ quyền của Việt Nam bởi khi chúng ta rút lui khỏi đấu trường quốc tế và giữ quan điểm trung lập, đường lối chính sách của Việt Nam sẽ chịu ít sự chi phối từ bên ngoài. Đổi lại, để áp dụng được chiến lược này triệt để thì Việt Nam phải có nội lực rất mạnh, một yêu cầu mà chúng ta chưa thể thoả mãn được tại thời điểm hiện nay. Nếu theo đuổi đại chiến lược biệt lập mà chúng ta buộc phải một mình đương đầu với một Trung Quốc hung hăng hiếu chiến thì rất khó để có thể đảm bảo được an ninh cho Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh an ninh khu vực hiện nay. Vì vậy đây là một đại chiến lược khả dĩ cho Việt Nam nhưng nhiều khả năng sẽ không phải là một sự lựa chọn đúng đắn trong lúc này.

V/Lựa chọn chiến lược nào cho Việt Nam?

Nếu có bất kì “nguyên tắc vàng” nào trong quan hệ quốc tế đối với một nước nhỏ thì có lẽ là không nên liên kết với nước lớn nào nếu không phải đối mặt với một mối đe doạ an ninh trực tiếp. Nói cách khác, một nước nhỏ chỉ nên chọn liên minh với một siêu cường và đánh đổi sự độc lập của mình khi đó là lựa chọn không thể tránh khỏi.

Trong một khu vực với một siêu cường duy nhất, việc các nước nhỏ chọn hợp tác với siêu cường này là hoàn toàn hợp lý khi siêu cường không tìm cách thôn tính các nước nhỏ. Khi đối mặt với hai siêu cường, các nước nhỏ đương nhiên nên bắt tay với bên nào có thiện chí hợp tác hơn và ít đặt ra nguy cơ về an ninh hơn. Khi cả hai siêu cường đang cạnh tranh gay gắt mà không siêu cường nào trực tiếp đe doạ an ninh của các nước nhỏ thì các nước này nên đứng về phía siêu cường có khả năng cao sẽ thắng cuộc. Mặc dù vậy, khi mà kết quả của cuộc tranh đấu giữa hai siêu cường khó dự đoán trước được trong khi siêu cường yếu hơn lại là mối đe doạ an ninh lớn hơn về lâu dài đối với các nước nhỏ thì lựa chọn khôn ngoan nhất cho những nước này là thực hiện chính sách “cân bằng động”.

Thế giới hiện nay là một thế giới hai cực (bipolar world) với Mỹ và Trung Quốc là hai siêu cường hàng đầu. Hai siêu cường này đang cạnh tranh hết sức quyết liệt để giành lấy ngôi vương ở Châu Á. Hiện nay Trung Quốc là bên yếu thế hơn nhưng trận thư hùng của thế kỷ này vẫn chưa đến hồi kết thúc. Rất khó để kết luận ngay tại thời điểm hiện nay đâu sẽ là bên thắng cuộc. Do đó, để đối phó với những thách thức an ninh hiện nay, Việt Nam nên tiếp tục kiên trì đại chiến lược đa phương vốn là kim chỉ nam cho chính sách đối ngoại của Việt Nam kể từ khi đất nước mở cửa đến giờ. Cho đến khi cục diện thế giới thay đổi một cách cơ bản và trận chiến ở Biển Đông giữa Mỹ và Trung Quốc kết thúc, đại chiến lược đa phương vẫn là con đường tối ưu nhất để Việt Nam có thể bảo vệ được lợi ích quốc gia cốt lõi của mình.

Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, đại chiến lược đa phương không phải không tiềm ẩn những rủi ro nhất định. Yếu điểm của đường lối đa phương là sự phụ thuộc lớn vào những yếu tố nằm ngoài khả năng kiểm soát của Việt Nam như kết quả của cuộc cạnh tranh Mỹ-Trung. Nếu chúng ta theo đuổi đường lối đa phương một cách cứng nhắc trong bối cảnh tình hình đã thay đổi, rất có thể Việt Nam sẽ buộc phải chuyển sang đại chiến lược thân Mỹ. Nhìn chung, đại chiến lược thân Mỹ không phải là lựa chọn lý tưởng nhất cho Việt Nam mà là lựa chọn bất khả kháng trước thách thức từ Trung Quốc nên nếu tránh được lựa chọn này thì chúng ta cần tránh.

Theo quan điểm của tác giả, cách tốt nhất để đảm bảo được rằng Việt Nam có thể tiếp tục đại chiến lược đa phương càng lâu càng tốt là nâng cao nội lực của bản thân và trở thành một đối tác đủ quan trọng với mọi cường quốc để luôn có những nước lớn sẵn sàng đảm bảo an ninh cho chúng ta trước bất kì mối đe doạ nào. Đây hoàn toàn không phải là một mục tiêu viển vông bởi trên thực tế, đây là điều mà Singapore đã làm được trong suốt thời gian qua. Quốc đảo này nhỏ hơn Việt Nam nhiều nhưng kể từ khi họ giành độc lập đến giờ, người Singapore chưa bao giờ bị tấn công xâm lược, dù là láng giềng của nhiều nước lớn hơn mình rất nhiều. Hai yếu tố quan trọng nhất đằng sau thành công này là chính sách ngoại giao khéo léo và nội lực mạnh.Các quân cảng của Singapore mở cửa cho tất cả hải quân của các quốc gia khác, tuy nhiên nó được thiết kế đặc biệt theo các chỉ số kỹ thuật của các chiếm hạm Mỹ. Do đó, dù Mỹ và Singapore không phải là đồng minh hiệp ước nhưng Mỹ vẫn có lợi ích rất lớn trong việc đảm bảo Singapore không rơi vào tay bất kể thế lực thù địch nào bởi ngày nào Singapore còn độc lập, ngày đó Mỹ còn một căn cứ quân sự và đối tác quốc phòng đáng tin cậy ở Châu Á. Đây là mô hình Việt Nam nên theo đuổi.

Một trong những con bài mặc cả vô cùng tiềm tàng mà Việt Nam đang có là chính sách quốc phòng “3 Không”. Trước mắt, Việt Nam cần duy trì nguyên tắc này nhưng khi đàm phán, chúng ta cần tuyên bố rõ rằngViệt Nam chỉ có thể duy trì “3 Không” trong chừng mực mà các cường quốc tạo điều kiện cho chúng ta giữ thế trung lập của mình. Nếu như Trung Quốc không muốn Việt Nam trở thành tiền đồn cho Mỹ, họ sẽ không dám gây sức ép lên chúng ta một cách thái quá. Do đó, dù nguyên tắc “3 Không” là cần thiết trong thời điểm này, chúng ta không nên giữ nó một cách cứng nhắc trong mọi hoàn cảnh mà nên dùng nó để mặc cả với các nước khác. Đây chính là vũ khí răn đe của một nước nhỏ: nếu anh không để tôi yên, tôi sẽ buộc phải liên minh với đối thủ của anh.

Hơn nữa, nếu tình hình tiếp tục diễn biến theo chiều hướng bất lợi cho Việt Nam, các nhà lãnh đạo ở Hà N
i nên xem xét mở cửa quân cảng Cam Ranh cho hải quân một số nước có quan hệ quốc phòng thân thiết với Việt Nam. Mục đích của việc này là tạo thêm các mối gắn kết về lợi ích giữa Việt Nam và các cường quốc trong khu vực. Điều này sẽ tạo động lực để họ bảo vệ lợi ích chính đáng của Việt Nam, dù chúng ta có là đồng minh chính thức của họ hay không.

Bài học lớn thứ hai từ Singapore là để giữ được độc lập chủ quyền thì một quốc gia phải có nội lực mạnh. Tuy Singapore là một nước nhỏ nhưng lại có nền kinh tế phát triển bậc nhất ở Châu Á. Họ có một bộ máy quan chức tương đối trong sạch và hiệu quả. Nền chính trị dân chủ của Singapore không đi theo mô hình của Mỹ hay phương Tây nhưng vẫn ổn định trong suốt những thập kỷ qua. 

Việt Nam không phải là Singapore nên chúng ta sẽ không thể bắt chước y chang nhưng gì họ đã làm và hi vọng kết quả cũng sẽ được như họ. Tuy nhiên bài học ở đây rất rõ ràng, muốn đối ngoại được tốt thì trước tiên đối nội phải tốt, muốn đối nội được tốt phải có bộ máy chính trị tốt. Đối với Việt Nam, điều này đồng nghĩa với việc phải quyết liệt chiến đấu với nạn quan liêu và tham nhũng, hạn chế phân hoá giàu nghèo trong xã hội và đồng thời nâng cao tính trạnh canh của nền kinh tế Việt Nam bằng cách đẩy mạnh tư nhân hoá và tái cơ cấu nền kinh tế theo xu hướng của thời đại. Đây sẽ không phải là mục tiêu có thể đạt được trong một sớm một chiều, tuy nhiên là điều hết sức cần thiết nếu chúng ta muốn đảm bảo được an ninh quốc gia và tiếp tục duy trì được đường lối đối ngoại đa phương hiện nay.

Trong tương lai xa hơn, khi Việt Nam đã có nội lực đủ mạnh, chúng ta thậm chí có thể tiến thêm một bước để trở thành “sức nặng quyết định” (decisive weight) trong quan hệ Mỹ-Trung. Chiến lược sức nặng quyết định sẽ là dạng chủ động nhất của đại chiến lược đa phương. Khi đó Việt Nam sẽ không còn chi là một quân bài để các cường quốc mặc cả với nhau mà sẽ trở thành một thế lực mang tính cân bằng và điều hoà trong quan hệ Mỹ-Trung. Khi Mỹ quá lấn lướt Trung Quốc, Việt Nam sẽ hợp lực với người láng giềng của mình để tạo thế cân bằng. Khi Trung Quốc có tham vọng bá quyền, chúng ta sẽ bắt tay với Mỹ để kiềm chế Trung Quốc. Việt Nam không có đủ điều kiện thuận lợi để trở thành một cường quốc nhưng chúng ta hoàn toàn có thể trở thành một công dân tích cực của thế giới, một lực lượng vì hoà bình khu vực. Đó mới là cách lý tưởng nhất để chúng ta bảo đảm an ninh cho chính mình và cho các thế hệ mai sau.

Ngô Di Lân
Ngô Di Lân là Nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Đại học Brandeis, Hoa Kỳ. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của cá nhân tác giả.
(Nghiên Cứu Quốc Tế)



Phần nhận xét hiển thị trên trang