Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2017

Chuyên gia Phạm Chi Lan bóc trần thực chất của tỉ phú Việt Nam: ‘Bất động sản không thể làm chỗ dựa cho nền kinh tế’


TRÍ LÂM (nhà báo, báo điện tử Một Thế Giới)

Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, bất động sản có thể giúp cho tăng trưởng trong thời gian ngắn nhưng đây không phải là ngành mà nền kinh tế có thể dựa vào để phát triển lâu dài. Muốn phát triển lâu dài thì phải tạo ra nhiều giá trị, ra sức lan tỏa, sản phẩm phải có thể cạnh tranh được trên thế giới.

Trong số 20 người có tài sản lớn nhất trên sàn chứng khoán vừa được công bố có tới 8 đại gia trong ngành bất động sản, chiếm số lượng áp đảo đối với các ngành còn lại. Ngoài ra, những tỉ phú của Việt Nam vừa được thống kê cũng chủ yếu là đại gia bất động sản. Trao đổi với báo điện tử Một Thế Giới, các chuyên gia đã đưa ra lý giải về hiện tượng này.

- Theo bà, vì sao số lượng tỉ phú bất động sản ở Việt Nam lại áp đảo như vậy?

- Chuyên gia Phạm Chi Lan: Hai thị trường rất quan trọng là đất đai và tín dụng hiện Nhà nước vẫn kiểm soát. Trong khi tài nguyên quan trọng nhất để làm bất động sản là đất đai. Do đó, những doanh nghiệp nào có quan hệ mật thiết với chính quyền thì dễ tiếp cận được những nguồn lực này hơn, còn các doanh nghiệp khác muốn tiếp cận thì cực kỳ khó khăn.

Nếu không có quan hệ tốt với Nhà nước thì không thể nắm bắt được thông tin quy hoạch, khó có thể có được những mảnh đất đủ rộng, hoặc đủ tiềm lực mà giải tỏa, đền bù cho hàng nghìn dân cư. Dư luận xã hội gọi những mối quan hệ này là các nhóm thân hữu, nhóm lợi ích. Điều này các chuyên gia cũng đã chỉ ra trong Báo cáo Việt Nam 2035.
Kinh doanh bất động sản đòi hỏi số vốn rất lớn. Vậy số vốn đó từ đâu? Chủ yếu từ ngân hàng. Các ngân hàng của Việt Nam thì chỉ một số đối tượng tiếp cận dễ dàng, còn đa phần các doanh nghiệp làm ăn ở các lĩnh vực khác thì tiếp cận tín dụng rất khó khăn. Khi Việt Nam có bùng phát lên vì bất động sản sau khi tham gia WTO thì cùng lúc đó, thị trường tín dụng ở Việt Nam cũng bùng nổ theo.

Bất động sản và tín dụng gắn bó rất chặt chẽ với nhau, nuôi dưỡng nhau để thúc đẩy sự bùng nổ. Nguồn vốn trên thị trường tín dụng được đổ rất nhiều vào thị trường bất động sản. Bất động sản cũng trở thành kênh quan trọng nhất để tín dụng cho vay. Đây cũng là một ngành mang lại lợi ích cực kỳ lớn trong thời gian ngắn nên ngân hàng cũng rất sẵn sàng cho vay. Ngược lại, những người đã có bất động sản thì cũng rất dễ vay ngân hàng. Họ nắm tay nhau để tạo nên những tỉ phú trong thời gian rất ngắn.

- Bà nghĩ sao về yếu tố chênh lệch giá?

- Chuyên gia Phạm Chi Lan: Các doanh nghiệp bất động sản hưởng chênh lệch giá rất lớn. Khi chưa hình thành thị trường bất động sản thì giá đất rẻ như bèo, đến khi Nhà nước lấy lại giao cho doanh nghiệp thì giá được thổi lên gấp hàng trăm lần trong thời gian rất ngắn, khiến doanh nghiệp lớn mạnh rất nhanh. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến khiếu kiện đất đai rất lớn ở Việt Nam.

Nhà nước trước kia cũng không tích rụ ruộng đất cho người dân, mãi gần đây khi cần thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp thì mới nêu ra vấn đề này. Trong khi đó, doanh nghiệp bất động sản thì Nhà nước sẵn sàng hỗ trợ giải phóng mặt bằng, cho tích tụ đất đai thoải mái. Doanh nghiệp bất động sản nhiều khi chưa cần đầu tư gì, chỉ cần phân lô bán nền cũng đã thu hồi được tiền của mình rồi.

- Quan hệ thân hữu có thể xuất hiện ở bất cứ ngành nào, nhưng vì sao những ngành khác lại ít xuất hiện tỉ phú, thưa bà?

- Chuyên gia Phạm Chi Lan: Việt Nam từ khi tiến hành cải cách vẫn đi những bước tương đối chậm và lạc hậu so với các nước khác. Ở nước ta, kinh tế nhà nước vẫn được coi là chủ đạo, dẫn dắt công cuộc phát triển, còn đối với khu vực tư nhân thì vẫn nhiều dè dặt. Trước kia, doanh nghiệp muốn làm bất cứ thứ gì đều phải xin phép, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh rất hạn hẹp. Đến năm 1999 có Luật Doanh nghiệp mới, mang tinh thần cởi mở hơn, trả quyền tự do kinh doanh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp được hoạt động ở nhiều lĩnh vực hơn, địa bàn cũng rộng hơn trước. Từ đó doanh nghiệp tư nhân mới có được sự phát triển.

Bên cạnh đó, môi trường cạnh tranh ở Việt Nam đến giờ vẫn chưa được bình đẳng, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn được ưu tiên số 1, rồi đến các nhà đầu tư FDI. Bản thân người đứng đầu các DNNN thì không thể là tỉ phú được, bởi họ chỉ là người làm thuê cho Nhà nước mà thôi.

Còn trong khu vực tư nhân, trong điều kiện không có sự cạnh tranh bình đẳng thì rất khó có thể hình thành được những doanh nghiệp thực sự lớn. Đó là hạn chế chung khiến cho Việt Nam khó có thể có được tỉ phú ở các ngành khác.

Về công nghiệp, từ đầu DNNN được giao cho nhiệm vụ dẫn dắt công cuộc công nghiệp hóa của Việt Nam, cho nên bao nhiêu ưu đãi dành cho DNNN cả. Khi mở cửa thì doanh nghiệp nước ngoài thì vào biến Việt Nam thành cứ điểm làm hàng xuất khẩu, hoặc làm sản phẩm cung cấp cho Việt Nam…Trong khi đó, doanh nghiệp tư nhân Việt Nam thì lại không có được những ưu đãi tương tự nên chỉ có thể làm theo được thôi. Giờ thì hàng nước ngoài đã vào Việt Nam quá nhiều, cơ hội phát triển của doanh nghiệp Việt cũng bị thu hẹp.

Còn công nghiệp khai khoáng thì chỉ đào tài nguyên lên bán, trong khi phân bổ tài nguyên vẫn trong tay Nhà nước, mãi sau này có một số tư nhân làm mỏ lẻ tẻ. Muốn được khai thác mỏ thì cũng phải có quan hệ thân hữu. Rồi khai thác xong Việt Nam lại chỉ bán tài nguyên thô, sau này luật điều chỉnh nhưng vẫn không chấm dứt được. Mà chỉ xuất khẩu tài nguyên thô thì không thể có tỉ phú được.

- Như vậy, về lâu dài thì bất động sản không có lợi cho nền kinh tế?

- Chuyên gia Phạm Chi Lan: Dù sao thì bất động sản cũng có vai trò nhất định trong nền kinh tế, giúp cho tăng trưởng trong thời gian ngắn nhưng đây không phải là ngành cơ bản mà nền kinh tế có thể dựa vào để phát triển lâu dài. Muốn phát triển lâu dài thì phải tạo ra nhiều giá trị, ra sức lan tỏa, sản phẩm phải có thể cạnh tranh được trên thế giới.

Thời kỳ đầu, doanh nghiệp bị bó buộc nhiều không thể phát triển. Khi cởi mở cho doanh nghiệp hơn lại đúng vào thời điểm bất động sản bùng lên và lợi ích của bất động sản quá lớn, khiến một số doanh nghiệp đang làm trong lĩnh vực khác cũng nhảy vào bất động sản. Họ nghĩ bất động sản có nhiều lợi ích như vậy thì tội gì mà không làm. Đến khi thị trường bất động sản vỡ bong bóng, có những doanh nghiệp chết vì bất động sản thì những ngành công nghiệp, dịch vụ cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Việt Nam lại thích chạy theo tốc độ tăng trưởng chứ không chú trọng vào xây dựng nền tảng cho phát triển. Cứ ai đóng góp cho tăng trưởng là thích nên khi bất động sản gặp khủng hoảng, đóng băng thì lại dùng các gói tín dụng để hỗ trợ, giải cứu.

Trong khi đó, đóng góp từ bất động sản cho nền kinh tế không cao, chưa kể nó hút nguồn lực đất đai và tín dụng, khiến các doanh nghiệp khác cũng khó khăn hơn. Bản thân bất động sản phát triển lại đóng góp cho kinh tế không được bao nhiêu.

Cách phát triển bất động sản của chúng ta lâu nay vẫn là chạy theo các nhóm lợi ích chứ không phải vì lợi ích của nền kinh tế. Nếu chạy đua phát triển bất động sản thái quá thì kinh tế cũng sẽ nảy sinh nhiều vấn đề như môi trường, quy hoạch, chênh lệch giàu - nghèo…

Các tỉ phú bất động sản chỉ có thể cạnh tranh ở thị trường nội địa thôi chứ khó có thể vươn ra thế giới được, trong khi một số lĩnh vực khác dù còn nhỏ nhoi nhưng cũng đã mạnh dạn vươn ra thế giới để phát triển rồi.

********

"Họ ăn chênh lệch giá đất và đó cũng là sự chia chác giữa họ với nhũng người có chức quyền. Những người có chức quyền đã dùng quyền lực của mình để thu hồi đất của người nông dân với giá rẻ rồi giao lại cho doanh nghiệp, doanh nghiệp lại bán lại với giá trên trời cho những người có nhu cầu.

Họ thực sự không đóng góp gì lớn cho nền kinh tế, không đóng góp về khoa học công nghệ nhưng họ huy động được vốn, không tạo được nhiều giá trị hay sự lan tỏa. Như vậy sẽ không thể cạnh tranh được trên thị trường quốc tế. Đây là xu hướng đáng lo ngại".


TS Lê Đăng Doanh (nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương)

Trí Lâm

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Một đôi đũa ngà lại có thể làm mất cả giang sơn

Từ trước đến nay Đát Kỷ được cho là nguyên nhân gây nên sự sụp đổ của nhà Thương vì đã mê hoặc Trụ Vương, khiến ông trở thành hôn quân bạo chúa. Tuy nhiên, nếu truy tra căn nguyên thì thật ra Trụ Vương mất cả giang sơn chỉ vì một đôi đũa.

Đát Kỷ, trụ vương, mặt nước, Bài chọn lọc,
Đát Kỷ được cho là người đã khiến Trụ Vương trở nên tàn nhẫn và bại hoại.
Chuyện kể rằng khi Trụ Vương vừa lên ngôi không hề hoang dâm, tất cả mọi người đều cho rằng là một minh quân. Nhưng có một ngày, sau khi kết thúc nghị sự trên triều, ông bỗng nhiên đưa ra một đôi đũa ngà voi được chế tạo rất khác người, mời các đại thần cùng chiêm ngưỡng. Sau khi xem xong, tất cả đều cảm thấy nó được làm tinh xảo trang nhã, chạm hoa khắc mây có phần duyên dáng, vì thế Trụ Vương rất cao hứng.
Nhưng có một vị đại thần sau khi nhìn thấy đôi đũa lại giống như gặp quỷ, sợ tới mức cả buổi nói không ra lời. Mọi người hỏi ông nhớ đến chuyện gì, nhưng răng miệng của ông cứ run bần bật, nói không ra lời. Vị đại thần này hóa ra là chú Ky Tử của Trụ Vương. Sau khi bãi triều Ky Tử mới nói với các đại thần hướng cầu kiến mình rằng: “Ta nhìn thấy đôi đũa ngà voi này, liền lo lắng Trụ Vương sẽ đồi bại!
Đát Kỷ, trụ vương, mặt nước, Bài chọn lọc,
Không ngờ một đôi đũa ngà lại nguy hại đến vậy!
Chúng thần khó hiểu nói một nhà vua đường đường chính chính như thế làm sao có thể đồi bại chỉ vì một đôi đũa? Lúc này Ky Tử mới nói quan điểm của mình cho chúng thần nghe. Ông nói, chư vị ngẫm lại xem, đôi đũa tốt như vậy, Trụ Vương chắc chắn sẽ không đặt trên cái chén được làm bằng đất, như vậy có vẻ khó coi mà cũng quá ủy khuất đôi đũa ngà này. Nó phải được đặt trên chén đĩa ngọc mới hiện ra vẻ đẹp của mình. Mà đã có chén ngọc, đũa ngà thì nên ăn cái gì đây? Sử dụng những dụng cụ tinh mỹ thế này tất nhiên muốn đựng thịt trâu già, thịt voi, thai báo gấm thì ăn mới cảm thấy có ý nghĩa. Mà sau khi đã có những cái này, Trụ Vương chắc chắn sẽ không chịu mặc quần áo vải thô, ở trong nhà tranh lều cỏ ăn những món này, ông sẽ yêu cầu người dưới mất thời gian dệt y phục, xây phòng.
Nếu nhà vua cẩm y ngọc thực lâu dài sẽ khiến mọi người bất mãn, quở trách. Một khi ông trấn áp những người bất mãn, thì tất nhiên sẽ trở nên tàn bạo. Khi đó, chúng ta còn có thể đứng trên triều đình này sao? Thế nhưng những đại thần này nghe xong đều không cho là đúng, mà chỉ cười to. Thấy thế, Ky Tử không nói gì nữa, chỉ lắc đầu, thở dài.
Đát Kỷ, trụ vương, mặt nước, Bài chọn lọc,
Trụ Vương đã cho xây dựng nhiều công trình để mình hưởng lạc.
Quả nhiên, không qua vài năm Trụ Vương đã xây nên Nhục Lâm, treo thịt trong đó, bên cạnh còn bố trí bào lạc. Ngoài ra, ông còn cho đào một cái ao rất lớn, chứa đầy rượu ngon được gọi là Tửu Trì, khi nào muốn uống, đến ao là có thể uống thỏa thích. Thấy vậy quần thần khuyên can, dần dần nhà vua phiền chán, sau đó phát động trận đại sát phạt, khiến chúng thần quy Chu. Bởi vì Trụ Vương hoang dâm vô đạo nên cuối cùng bị Chu Vũ Vương ép lên Lộc Đài, mất vương vị.
Một đôi đũa ngà lại có thể làm mất cả giang sơn, giáo huấn như thế tất nhiên gây đau xót khắc sâu, có thể làm bài học rất tốt cho người đời sau. Như vậy, mọi người đặt câu hỏi: Một đời đế vương tại sao có thể bị hủy chỉ vì một đôi đũa ngà đây? Mấu chốt không nằm tại bản thân đôi đũa, mà nằm ở suy nghĩ của người thống trị muốn cái gì, tôn trọng cái gì, cá nhân ông ta đối xử với các đồ vật tương tự đôi đũa ngà như thế nào, hơn nữa chính mình lại dùng tác phong sinh hoạt dạng nào ảnh hưởng đến chúng thuộc hạ.
Đát Kỷ, trụ vương, mặt nước, Bài chọn lọc,
Trụ Vương (trái) hoang dâm vô đạo nên cuối cùng bị Chu Vũ Vương ép lên Lộc Đài, mất vương vị.
Thời đại của Trụ Vương có điều kiện sinh hoạt cực kém, nên bậc đế vương có thể sử dụng đũa ngà chính là một loại biểu hiện tôn quý, là một chuyện vinh quang sự tình, cũng là chuyện đương nhiên. Thế nhưng ông không nhận thức được rằng dùng đũa ngà là một hành vi phóng túng sự xa xỉ, phóng túng sự truy đuổi dục vọng – tựa như rất nhiều người thời nay, đã có đũa ngà còn muốn dùng chén ngọc, cứ như vậy tiếp tục phối hợp thì bữa ăn nhất định phải toàn món ngon vật lạ, mỗi ngày mặc hàng hiệu, đeo trang sức quý báu, đi xe Lamborghini, ở nhà mấy chục triệu một mét vuông… Như thế chắc chắn sẽ khiến chính mình đi vào ngõ cụt, mệt mỏi theo đuổi dục vọng.
Thật ra tài vật của mỗi người, bất kể là nhà ở, xe, tiền… dù là hữu hình hay vô hình, không có cái nào thuộc về chính bạn. Những vật kia bất quá chỉ tạm thời ký thác với bạn, để bạn tạm thời sử dụng, tạm thời bảo quản mà thôi, đến cuối cùng vật quy về người chủ nào còn chưa biết. Cho nên các bậc trí giả đều xem hết thảy tài phú này chỉ là vật ngoài thân, khi sinh không mang đến được khi chết chẳng thể mang theo.
Rất nhiều người thân ở nghịch cảnh, gập ghềnh, nhưng dựa vào cố gắng của mình cuối cùng có thể đi tới thành công. Tuy nhiên, nếu đổi thành một số người thường bị hấp dẫn bởi lợi ích trước mắt mà đánh mất phương hướng tiến lên, thì cả đời vô duyên với thành công.
Dù cho có được cả thế giới, chúng ta một ngày cũng chỉ có thể ăn 3 bữa cơm, mỗi lần ngủ cũng chỉ có thể nằm trên một chiếc giường. Ban đầu là người tốt, nhưng nếu không thể khắc chế dục vọng của chính mình mà để cho lòng tham lớn lên thì người tốt cũng có thể biến thành người xấu.
Trên thế giới thật sự có rất nhiều thứ tốt đẹp tính không hết nổi. Chúng ta luôn hy vọng đạt được thật nhiều thứ tốt, nhưng dục vọng quá nhiều ngược lại sẽ thành vướng bận, có cái gì có thể khiến bản thân thỏa mãn ngoài tấm lòng không màng danh lợi?
Iris, theo Sound of Hope

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Facebook ngày nay được hình thành từ ý tưởng của cậu sinh viên năm 2 Mark Zuckerberg bên trong căn phòng ký túc xá tại đại học Harvard nổi tiếng.


13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Căn phòng Mark Zuchkerberg ở từng thuộc về Wallace Shawn – diễn viên lồng tiếng cho chú khủng long Rex trong phim Toy Story. Tại đây vào cuối năm 2002, Mark đã viết ra trang web mang tên “FaceMash”.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
“FaceMash” lấy ý tưởng từ trang Hot or Not đang nổi tiếng khi đó và sử dụng ảnh của các sinh viên mà anh hack được từ dữ liệu trường Harvard. Dù vi phạm quy chế thông tin sinh viên của Harvard, “FaceMash” đã thể hiện khái niệm sơ khai nhất của Facebook – mọi người có thể tìm được nhau online.
13 năm phát triển của fecabook,
MOCLAN
(ảnh internet)
Được hưởng ứng từ sinh viên Harvard, Mark vẫn bị kỷ luật và buộc phải gỡ trang “FaceMash”. Ngày 4/2/2004, anh tiếp tục tạo trang TheFacebook.com, mạng xã hội lớn nhất hành tinh (khi đó chỉ xuất hiện trong đại học Harvard) được ra đời.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Một tuần sau đó, Mark bị 3 sinh viên khóa trên là Divya Narendra, Cameron và Tyler Winklevoss kiện do đã đồng ý thực hiện website mang tên HarvardConnection.com cho họ nhưng anh hủy cam kết và đem ý tưởng đó tạo ra TheFacebook.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Trong vòng một tháng, nửa số sinh viên Harvard đã đăng ký thành viên của TheFacebook. Đến tháng 3, website mở rộng sang các trường đại học Yale, Columbia và Standford. Cùng những người bạn học của mình, Mark quyết định phát triển trang mạng xã hội theo hướng kinh doanh.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Vài tháng sau đó, TheFacebook bắt đầu xuất hiện quảng cáo, nhằm chi trả cho chi phí liên quan đến máy chủ, cơ sở dữ liệu của người dùng. Cũng trong năm 2004, Mark Zuckerberg bỏ học tại Harvard để tập trung phát triển trang mạng xã hội của mình và đổi tên nó thành Facebook.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Công ty Facebook của Mark có chủ tịch đầu tiên là Sean Parker, người đồng sáng lập dịch vụ chia sẻ nhạc Napster. Sau đó, Facebook dời trụ sở đến văn phòng nhỏ tại thành phố Palo Alto thuộc California, Mỹ.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Facebook khi đó được 500.000 USD đầu tư từ Peter Thiel và Elon Musk – 2 cựu điều hành của PayPal. Đây là cột mốc cho sự phát triển nhanh chóng của mạng xã hội này.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Tháng 5/2005, Facebook gây quỹ đầu tư được 13,7 triệu USD. Năm 2006, tính năng News Feed được tung ra, cho phép người dùng theo dõi hoạt động của nhau theo thời gian thực.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Đầu năm 2008, Sheryl Sandberg gia nhập Facebook và trở thành COO của công ty. Đây cũng là thời điểm smartphone bắt đầu nở rộ, mang lại nhiều người dùng hơn cho Facebook. Công ty dời trụ sở đến Standford Research Park tại Palo Alto.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Cuối năm 2010, Facebook có đến 1 tỷ lượt truy cập mỗi tháng. Trụ sở công ty nhanh chóng trở nên chật chội, Facebook tiếp tục dời quân đến một khuôn viên thuộc quản lý của Oracle.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
2011 là thời điểm Facebook thể hiện sức mạnh của mình trong chính trị, đến mức mạng xã hội này bị cấm tại Ai Cập vì người dân phản đối chế độ của tổng thống Hosni Mubarak. Mark Zuckerberg bắt đầu gặp gỡ các lãnh đạo chính trị để bàn về cung cấp internet toàn cầu.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Các luật hôn nhân và quyền con người cũng được Facebook để ý và ủng hộ. Tháng 5/2012, công ty phát hành cổ phiếu công chúng lần đầu (IPO) và huy động được 5 tỷ USD. Sự phát triển của Facebook khi đó được nhận xét là không thể ngăn cản.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Cùng với Facebook, những tên tuổi khác bắt đầu nổi lên như dịch vụ chia sẻ ảnh Intargram, thực tế ảo Oculus hay WhatsApp. Công ty quyết định loại bỏ tất cả “mối đe dọa” bằng việc mua lại các công ty này với tổng số tiền 22 tỷ USD.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Năm 2014, tròn 10 năm Facebook ra đời, mạng xã hội có đến 1,23 tỷ lượt truy cập mỗi tháng, một tỷ trong số đó đến từ thiết bị di động. Để đáp ứng lượng người dùng khổng lồ, Facebook phải nâng cấp cơ sở hạ tầng và nhân lực. Trong năm 2016, công ty đã mở rộng thêm khuôn viên cho 2.800 nhân viên.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Dưới sự lãnh đạo của Mark Zuckerberg, Facebook đang thực hiện sứ mệnh cung cấp Internet cho mọi người trên thế giới. Anh cũng nhắn nhủ với các nhà đầu tư của mình “Chúng ta không tạo nên dịch vụ để kiếm tiền, chúng ta kiếm tiền để phát triển dịch vụ tốt hơn”.
13 năm phát triển của fecabook,
(ảnh internet)
Tháng 12/2015, quỹ Chan Zuckerberg Initiative được thành lập nhằm hỗ trợ phát triển các giải pháp chữa bệnh. Dù đầu tư gần hết tiền bạc của mình vào quỹ từ thiện nhưng Mark vẫn có thể điều hành Facebook tiếp tục phát triển và sinh lời.
Tổng Hợp 


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mười chuyện tiếu lâm hay nhất thời Liên Xô do báo The Times - Phạm Nguyên Trường dịch


Giải nhất: Ba công nhân vừa bước vào nhà tù, hỏi nhau vì sao bị tù. Người thứ nhất: “Ngày nào tôi cũng đi muộn 10 phút, họ bảo tôi phạm tội phá hoại”. Người thứ hai: “Ngày nào tôi cũng tới sớm 10 phút, họ bảo tôi là gián điệp”. Người thứ ba: “Ngày nào tôi cũng đến đúng giờ, họ bảo tôi có đồng hồ ngoại”. 


Nhà tù ở Liên Xô
Sau đây là 9 giải còn lại:

2) Trong một túp lều ở thảo nguyên có một ông lão đang hấp hối.
Có tiếng gõ cửa dồn dập
- Ai đấy? – ông lão hỏi.
- Thần chết, - có tiếng đáp.
- Lậy chúa tôi! – ông già nói – Cứ tưởng là KGB

3) Báo Sự Thật nói rằng tất cả thư từ gửi tới tòa soạn đều được tiếp nhận một cách trọng thị. Người gửi cần ghi rõ họ tên, địa chỉ của mình và của những người thân nhất trong gia đình.

4) Tại sao bao giờ KGB cũng đi thành nhóm 3 người? Trả lời: một người biết đọc, một người biết viết, người thứ ba có nhiệm vụ theo dõi hai tay có học đó.

5) Leonid Brejnev thăm chính thức Pháp. Người ta đưa ông thăm quan Paris. Ông được đưa đến Điện Élysée, nhưng cũng như mọi khi, mặt ông vẫn lạnh như tiền. Rồi người ta đưa ông đến viện bảo tàng Louvre, nhưng vẫn không ai thấy phản ứng gì. Rồi người ta đưa ông tới Khải hoàn môn, nhưng vẫn không thấy một tí biểu hiện nào trên nét mặt hết. Cuối cùng, đoàn xe đến tháp Eiffel. Brejnev vô cùng kinh ngạc. Ông ta quay sang những người dẫn đường Pháp và hỏi: “Này, ở Paris có đến 9 triệu người… Các vị chỉ cần một tháp canh thôi ư?”

6) Stalin quyết định vi hành quanh thành phố xem công nhân sống như thế nào, một lần ông ta bí mật ra khỏi Điện Cẩm Linh. Sau đó ông rẽ vào rạp chiếu bóng. Phim vừa hết thì quốc ca vang lên và trên màn ảnh xuất hiện hình Stalin. Tất cả đều đứng dậy và hát quốc ca, riêng Stalin vẫn tiếp tục ngồi, tỏ vẻ rất hài lòng. Rồi ông ta thấy một người ngồi phía sau ghé vào tai thì thầm: “Này đồng chí, tất cả chúng tôi đều cảm thấy như thế, nhưng hãy tin tôi đi, đứng dậy sẽ an toàn hơn rất nhiều”. 

7) Một công dân Liên Xô tiết kiệm đủ tiền mua ô tô. Sau khi trả tiền, người ta nói với anh là ba năm nữa sẽ được nhận xe.
- Ba năm nữa lận! – Anh ta nói – Tháng mấy?
- Tháng tám.
- Tháng tám à? Ngày mấy?
- Ngày 2 tháng tám.
- Buổi sáng hay buổi chiều?
- Buổi chiều. Mà chuyện gì vậy?
- Buổi sáng sẽ có một thợ sửa ống nước đến nhà tôi.

8) Tại sao các cựu sĩ quan Stasi lại là những người lái taxi thông thạo nhất ở Berlin? Vì anh chỉ cần nói tên là họ đã biết anh sống ở đâu rồi.

9) Moskva những năm 1970. Mùa đông giá rét. Có tin đồn là ngày hôm sau cửa hàng bán thịt số 1 sẽ có thịt.
Ngay hôm đó trước cửa hàng đã có hàng chục ngàn người với áo khoác ấm, giày cao cổ, rượu và bàn cờ đứng thành hành dài.
Lúc 3 giờ chiều một người bán thịt đi ra và nói: “Thưa các đồng chí, Ban chấp hành trung ương vừa gọi xuống, thông báo rằng không đủ thịt bán cho tất cả mọi người vì vậy mà dân Do Thái nên về nhà”.
Dân Do Thái nhẫn nhục bước ra khỏi hàng. Những người khác tiếp tục đợi.
Lúc 7 giờ tối người bán thịt lại bước ra và nói: “Thưa các đồng chí, Ban chấp hành trung ương vừa gọi xuống, thông báo rằng hóa ra là không có thịt vì vậy mọi người nên về nhà”.
Đám đông tản ra, vừa đi họ vừa lầm bầm: “Bọn Do Thái khốn nạn lúc nào cũng gặp may!”.

10) Sĩ quan KGB vào công viên và trông thấy một ông già đang cầm cuốn sách. Người sĩ quan hỏi: “Ông già đang đọc gì đấy”. Ông già đáp: “Tôi đang tự học tiếng Ivrit”. “Ông học tiếng Ivrit làm gì? Thị thực đi Israel phải chờ mấy năm lận. Ông sẽ chết trước khi làm xong giấy tờ”. “Tôi học tiếng Ivrit để khi lên Thiên đàng tôi có thể nói chuyện với Abraham và Moïse. Trên Thiên đàng chỉ nói bằng tiếng Ivrit thôi”. “Thế nếu ông xuống địa ngục thì sao?” – Người sĩ quan hỏi. “Tiếng Nga thì tôi biết rồi” – ông già trả lời. 


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Người Việt đầu thế kỉ 20 ngang người Nhật, mà nay...


Người Việt đầu thế kỉ 20 trong hồi ký của một vị Toàn quyền Đông Dương
Người An Nam chắc chắn là tộc người ưu trội so với các dân tộc xung quanh. Người Cao Miên, Ai Lao và Xiêm La đều không thể chống lại được họ. Không một dân tộc nào trong Đế quốc các xứ Ấn Độ có những phẩm chất như họ. Phải tới tận Nhật Bản mới có tộc người có phẩm chất của người An Nam và giống như người An Nam. Người An Nam và người Nhật Bản chắc chắn có mối quan hệ thân tộc từ xa xưa. Cả hai đều thông minh, cần cù và dũng cảm. Người lính An Nam là một người lính giỏi, có kỷ luật và dũng cảm.
Paul Doumer từng giữ chức Toàn quyền Đông Dương từ 1897 đến 1902
Nhằm cung cấp thêm một tài liệu về người Việt trong giai đoạn thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, dưới đây là một vài trích đoạn trong quyển “Xứ Đông Dương” để bạn đọc có thể tham khảo thêm góc nhìn khác từ một viên chức cao cấp của Pháp.
Những cuốn sách viết về lịch sử Việt Nam của người Trung Quốc, người Pháp, người Mỹ… xưa nay không ít. Lẽ dĩ nhiên, là sách của người nước ngoài nên cách nhìn bao giờ cũng đối nghịch ít nhiều với quan điểm của chúng ta. Nhưng nếu ta biết “gạn đục khơi trong”, phê phán có chọn lọc thì đó sẽ là một nguồn tài liệu đáng quý, giúp ta nhìn nhận sự việc được khách quan hơn.

Đôi nét về Paul Doumer


Paul Doumer là một chính khách người Pháp, sinh năm 1857. Ông làm Toàn quyền Đông Dương từ 1897-1902. Cuốn hồi ký “Xứ Đông Dương” là một tài liệu quý viết riêng về hành trình, nhận định và trải nghiệm của ông trong giai đoạn 5 năm ở Đông Dương, mà phần lớn là ở Việt Nam (thời đó gọi là An Nam).
Về con người của Paul Doumer, ông là người có kiến thức nhiều lĩnh vực, là Bộ trưởng tài chính Pháp trước khi sang Đông Dương nhận chức Toàn quyền. Sau này ông còn làm Tổng thống Pháp từ 1931-1932. Quyển “Xứ Đông Dương” ghi lại nhiều nhận định của ông về nhiều mặt: địa lý, kinh tế, hành chính, con người, văn hóa… ở những nơi ông đi qua.
Để phục vụ nước Pháp hết mình, Doumer đã ra sức chấn chỉnh bộ máy quản lý ở các xứ thuộc địa, đồng thời xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng tại Việt Nam, đáng chú ý như: cầu Doumer (sau đổi tên thành cầu Long Biên) – được coi là một kỳ quan của Đông Dương thời ấy, cầu Thành Thái (tức cầu Tràng Tiền) bắc qua sông Hương ở Huế và cầu Bình Lợi bắc qua sông Sài Gòn.
Ông cũng chính là người đã ủng hộ và hậu thuẫn công việc nghiên cứu của Yersin, đồng ý xây dựng thành phố Đà Lạt và đưa cây cao su vào trồng. Dưới thời cai trị của Paul Doumer, Hà Nội là thành phố châu Á đầu tiên có điện.
Paul Doumer hành động hoàn toàn vì lợi ích của nước Pháp. Nhưng ông là một nhà kinh tế có tài và có tầm nhìn. Chính do vậy, người Pháp có lợi nhưng xứ thuộc địa cũng được hiện đại hóa, Tây phương hóa.

Một số trích đoạn trong “Xứ Đông Dương” nói về người Việt Nam trong giai đoạn giao thời giữa thế kỉ 19 và 20:

Xin lưu ý rằng, vì là trích dẫn, nên bài viết chịu ảnh hưởng một phần bởi tính chủ quan của người chọn, không thể mang tính bao quát như trong toàn bộ hồi ký. Các đoạn văn được trích dẫn toàn vẹn, chứ không cắt nhỏ, để đảm bảo tốt nhất giữ nguyên ý của tác giả.
sach-xu_dong_duong_1
Nói về người Việt:
Người An Nam chắc chắn là tộc người ưu trội so với các dân tộc xung quanh. Người Cao Miên, Ai Lao và Xiêm La đều không thể chống lại được họ. Không một dân tộc nào trong Đế quốc các xứ Ấn Độ có những phẩm chất như họ. Phải tới tận Nhật Bản mới có tộc người có phẩm chất của người An Nam và giống như người An Nam. Người An Nam và người Nhật Bản chắc chắn có mối quan hệ thân tộc từ xa xưa. Cả hai đều thông minh, cần cù và dũng cảm. Người lính An Nam là một người lính giỏi, có kỷ luật và dũng cảm. Họ cũng là những người lao động mẫu mực, những nông phu giỏi việc đồng áng, những người thợ lành nghề, những nghệ nhân khéo léo và thông minh. So với các dân tộc khác ở châu Á, trên tư cách người thợ và người lính, người An Nam vẫn xếp cao hơn một bậc. Vả chăng, đó là một quy luật chung mà tôi đã kiểm chứng trên khoảng 20 chủng tộc của nhân loại, và tôi cũng thấy rất đúng ở châu Âu: những người dũng cảm trong lao động cũng là những người dũng cảm trong chiến tranh; nói khác đi, can đảm là một tính cách thống nhất. Nếu người nào can đảm trước sự mệt mỏi, người đó sẽ can đảm trước nguy hiểm và trước cái chết.
Về thiên nhiên Nam Kỳ:
Lớp đất trẻ, tương đối nông của Nam Kỳ đặc biệt thuận lợi cho việc trồng cấy. Rất dễ canh tác trên đất đó, và đất đặc biệt phì nhiêu. Thời vụ diễn ra rất đều đặn. Thu hoạch hằng năm, chủ yếu là lúa, có biến đổi ít nhiều do những nguyên nhân không đáng kể; sản lượng năm này có thể cao hơn hoặc thấp hơn năm khác về số lượng hoặc về chất lượng nhưng ít nhất cũng luôn luôn được đảm bảo. Sản lượng thu hoạch đó dao động quanh một mức trung bình cao và không bao giờ xuống thấp hơn mức tối thiểu, vẫn còn cao hơn nhiều mức tiêu thụ của dân Nam Kỳ. Gạo bán ra nước ngoài, tức xuất khẩu, trong những năm tệ nhất không bao giờ dưới 700.000 tấn. Gạo xuất khẩu có thể đạt đến một triệu tấn, tính ra thành tiền từ khoảng 80 đến 100 triệu phờ-răng. Hồ tiêu xuất khẩu cũng là một nguồn tài nguyên giá trị.
Gạo là nguồn tài nguyên to lớn có thể thu được không mấy khó khăn; mỗi năm nông dân ở đây chỉ làm một vụ, và công việc đồng áng chỉ tập trung trong ba hoặc bốn tháng. Cả đến vận tải cũng được thực hiện trong những điều kiện dễ dàng và cực rẻ.
Đất Nam Kỳ chằng chịt hàng nghìn con sông lớn nhỏ, kênh, rạch chạy theo mọi hướng. Nam Kỳ là nơi bằng phẳng nên thủy triều ảnh hưởng như nhau tới tất cả các tuyến đường thủy. Như thế mỗi ngày hoạt động của triều lên và triều xuống làm cho các dòng chảy cứ sáu tiếng chảy theo chiều này và sáu tiếng chảy theo chiều ngược lại. Người An Nam lợi dụng điều đó để vận tải hàng hóa mà không mất công mất sức gì nhiều. Ghe xuồng của họ xuôi dòng với sự trợ lực của buồm hoặc mái chèo vừa đủ để có thể lái được chúng. Khi thủy triều đổi hướng mà chưa tới được điểm đến thì họ bỏ neo hoặc buộc những chiếc tam bản vào bờ, bình tĩnh chờ thủy triều đưa dòng nước thuận đến, và cứ như thế cho cả chuyến đi lẫn chuyến về. Vận động thủy triều cung cấp lực miễn phí cho ngành giao thông đường thủy. Có lẽ không có quốc gia nào trên thế giới mà cư dân lại được thiên nhiên ưu đãi như Nam Kỳ.
Về thành phố Sài Gòn:
Một nhóm binh sĩ hải quân Pháp trên đường phố Sài Gòn. Hình ảnh nằm trong loạt ảnh Đông Dương năm 1901 do nhiếp ảnh gia người Pháp Jules Gervais-Courtellemont thực hiện.
Một nhóm binh sĩ hải quân Pháp trên đường phố Sài Gòn. Hình ảnh nằm trong loạt ảnh Đông Dương năm 1901 do nhiếp ảnh gia người Pháp Jules Gervais-Courtellemont thực hiện.
Ở Sài Gòn cũng có người Hoa, và nhiều là đằng khác, buôn bán to nhỏ đủ loại. Bên cạnh các cửa hiệu Pháp giống như các cửa hiệu ở tỉnh lẻ bên Pháp, tôi thấy các cửa hiệu Trung Hoa khiêm tốn hơn nhưng năng động hơn. Tất cả mọi thứ có trong cửa hiệu của thương nhân châu Âu và cả những thứ khác nữa đều có bán tại cửa hiệu của người Hoa; nơi này sản xuất thứ gì thì nơi khác cũng sản xuất thứ đó. Đây là một cuộc cạnh tranh có lợi cho người tiêu dùng. Đối với các mặt hàng rẻ tiền, đối với các công việc đơn giản, sự cạnh tranh không còn nữa vì chỉ còn lại người Hoa. Khi ta muốn có những bộ quần áo lịch sự, một chiếc đầm đi dạo hoặc ăn tối, một bộ smoking mà không cần đặt từ Pháp sang thì thay vì tìm cô thợ may người Pháp, ta cứ đặt người Hoa ở đây may những chiếc váy nhẹ, những bộ quần áo bằng vải lanh. Các dịch vụ giặt, là, mạng vá cũng là nghề của họ. Họ là những thợ khéo léo và quý hóa không từ chối một yêu cầu nào. Họ chịu làm mọi việc. Người An Nam ở Nam Kỳ không tranh việc với họ. Nam Kỳ quá giàu có, cuộc sống quá dễ dàng nên chỉ gắng sức tí chút là người ta đã tìm được việc. Người ta thấy chỉ có sự gia tăng dân số của người An Nam có thể dẫn tới việc dòng người đổ vào thành phố và đẩy lùi người Hoa. Nhưng cho đến nay, sự gia tăng đất canh tác thậm chí còn nhanh hơn sự gia tăng dân số nên hiện tượng trên không thể xảy ra.
dinh-toan-quyen
Sài Gòn là một thành phố nhiệt đới xinh đẹp, thành phố duyên dáng nhất vùng Viễn Đông. Một số công trình nghệ thuật ở Sài Gòn rất đẹp; tất cả đều có kích thước lớn; nhà cửa nói chung khá xinh xắn, đường phố rợp bóng cây, tất cả như bị ngập trong một đại dương xanh. Nhìn từ trên cao xuống, từ chòi quan sát trên nóc một con tàu hoặc từ các tháp của nhà thờ, Sài Gòn hiện ra như một công viên rộng lớn, trong đó một vài tòa nhà quá đồ sộ hoặc quá cao vượt lên khỏi những tán cây. Này là Dinh Toàn quyền, các trại lính, bệnh viện, Sở Bưu điện, Dinh Thống đốc, Sở Thuế quan…; các công thự đó không chịu thua những tán cây muốn chiếm lĩnh trời xanh, luôn luôn vươn lên và trải rộng nhờ nhựa sống của thiên nhiên hào phóng.
Về người Bắc Kỳ:
Người An Nam ở Bắc Kỳ cần cù chịu khó, còn hơn cả người Nam Kỳ. Họ vạm vỡ hơn, cường kiện hơn. Khí hậu thì khá khắc nghiệt; họ không được thiên nhiên ban tặng những điều kiện thuận tiện cho sản xuất và vận tải. Bị bó buộc trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, nơi họ sống chen chúc, dân An Nam buộc một vùng đất chật hẹp phải sản sinh ra rất nhiều sản phẩm. Công việc đồng áng làm họ mất hầu hết thời gian trong năm. Những việc vận chuyển giao thông, hộ đê, tạp dịch và những việc vặt thường nhật lấy gần hết toàn bộ thời gian còn lại. Họ làm việc tích cực không ngừng nghỉ.
Về các thợ thủ công:
Cầu Long Biên ngày nay
Cầu Long Biên ngày nay (ảnh: vnphoto.net)
Các thợ thủ công Bắc Kỳ làm việc chăm chỉ và thuần thục. Họ thành công một cách đáng ngưỡng mộ trong các công việc đòi hỏi tỉ mỉ và tinh xảo. Họ có khiếu thẩm mỹ, và một số người trong bọn họ là những nghệ nhân thực sự. Những thợ đúc đồng, thợ kim hoàn, thợ khảm men huyền, thợ thêu, thợ điêu khắc, thợ khảm đã tạo được một tiếng tăm xứng đáng. Họ không phải là những người thợ bắt chước một nền nghệ thuật ngoại quốc. Dẫu vẻ bề ngoài của những sản vật lộ rõ mối quan hệ với những đồ vật Nhật Bản và Trung Hoa, thì chúng vẫn không phải được lấy cảm hứng từ đó; những người thợ đã tạo ra một nghệ thuật An Nam, với các hình mẫu và cách trang trí của chính họ.
[…]
Các thợ thêu trên lụa làm việc với một kỹ thuật không thể sánh được. Về mặt chăm chút và hoàn thiện công việc, đồ thêu ở Bắc Kỳ được làm tinh hơn đồ của Nhật Bản và Trung Hoa. Nhưng vào năm 1897, các bức thêu mang giá trị trang trí còn rất thấp. Đó là những bức thêu cảnh sinh hoạt của người An Nam hoặc các trận chiến huyền thoại, với một đám đông những nhân vật nhỏ xíu, con giống, đồ vật mà ta có thể ngưỡng mộ các chi tiết, nhưng về toàn cảnh chẳng có gì đẹp lẫn dễ coi. Kể từ đó trở đi, các thợ thêu An Nam đã lấy từ hệ thực vật phong phú của mình những nhân tố để tạo thành tác phẩm của họ. Họ đã thành công trong việc đem lại cho những tấm lụa thêu một hiệu ứng trang trí ngang tầm với người Nhật Bản, và họ đã không đánh mất sự ưu trội về tay nghề của họ.
Đồ gỗ gia dụng An Nam do những thợ chạm gõ chế tạo, và chủ yếu gồm ghế tựa, bàn và tủ chè, có đường nét và hoa văn rất đẹp. Các bộ trường kỷ, món đồ trang trí trong những ngôi nhà truyền thống và trong đền chùa, hầu hết đều mang những nét đối xứng hài hòa; các hình chạm khắc trang trí trên đó thì đơn giản và thường rất đẹp. Nhưng sự thành công rực rỡ của người An Nam là nghệ thuật khảm trai trên gỗ. Họ đã khiến cho những bộ tủ chè và những thứ đồ gỗ nhỏ khảm trai như vậy của vùng này trở nên thực sự đáng chú ý và họ đã nổi danh ở vùng Viễn Đông. Những thợ khảm trai Trung Hoa, những người hình như đã truyền nghề của mình cho dân An Nam thì còn lâu mới sánh ngang hàng được với học trò của mình.
Về giáo dục:
Trong các trường làng, người ta dạy các chữ cơ bản. Những quyển sách tập đọc mà họ trao vào tay lũ trẻ thì đúng là những tiểu kiệt tác thực sự, trong đó thể hiện tinh thần đạo đức của Khổng Tử với một ngôn ngữ đơn giản và đẹp, khắc ghi vào trí óc trẻ thơ. Ta chuyển từ quyển thứ nhất, hết sức đơn giản, hết sức cơ bản, dạy cho ta những phép tắc lễ nghĩa đầu tiên, lên đến quyển thứ hai là những vấn đề rộng hơn, sau đó lên quyển ba và cứ tiếp tục như thế. Đa phần các trường làng thấy rằng dạy chừng từ bốn đến năm quyển là đủ. Bọn trẻ học ở đó, cùng với một lượng chữ đủ để viết và trao đổi trong những tình huống đơn giản mà họ gặp nhau, những nguyên tắc đạo đức và những quy định ứng xử sẽ theo họ trong suốt cuộc đời. Đây hiển nhiên là một nền giáo dục chưa hoàn chỉnh; tuy nhiên nó đủ để làm cho một dân tộc cần cù, gắn bó với nhiệm vụ gia đình, hạnh phúc về mọi mặt khi những vấn đề bên ngoài không khiến họ lo lắng ưu phiền.
Về tre Việt Nam:
Người dân Đông Dương dựng nhà bằng tre; mặt khác, kể cả khi một căn nhà được xây bằng gạch thì nó vẫn được bao bọc bởi một lũy tre lớn mà bản thân nó cũng đã chính là một công trình. Bờ rào, những chòi canh để trông coi hoặc để nghỉ chân khi đi săn, những cọc cừ bằng tre để ngăn sông xói mòn đất, những chiếc tời, vó và cần câu, tất cả các loại đồ dùng và dụng cụ đều được làm bằng tre. Khi đi đường, nếu cần dựng tạm lều trại, người An Nam cũng dễ dàng làm được khi có những cây tre ở ngay gần.
Đô đốc Pottier
Đô đốc Pottier (ảnh trích từ sách)
Tôi vẫn còn nhớ một ngày nọ ngài Đô đốc Pottier đã vô cùng sửng sốt thán phục khi được cây tre cứu khỏi tình huống khó khăn trên mạn thượng lưu sông Hồng. Tôi và vị Đô đốc tài giỏi này đã gặp nhau tại Lào Cai nơi chúng tôi cùng khánh thành cây cầu mà tôi đã cho xây dựng tại Nậm Thi để phục vụ cho tuyến đường sắt và đường bộ nối với Vân Nam. Lúc đó khoảng tháng Một năm 1902. Được tháp tùng bởi hai sĩ quan phụ tá và một đội lính khố đỏ hộ tống, ngài Đô đốc lúc đi xe kéo, lúc đi kiệu trên con đường bộ bên sông hoặc tuyến đường sắt đang được xây dựng. Không phải cả 200 hay 250 cầu đường sắt đều đã thi công xong, nên việc đi lại vẫn khó khăn và chậm chạp.
Lịch trình đã được sắp xếp sao cho đoàn có thể ăn trưa, hoặc ít nhất là ăn tối và nghỉ ngơi tại một ngôi làng, hoặc trong một đồn bốt. Buổi chiều hôm ấy, ngài Đô đốc đã thấm mệt và chỉ có thể tiếp tục hành trình khi đã khá muộn và không theo đúng lịch trình đã lập. Màn đêm dần buông trong khi cả đoàn vẫn còn cách khá xa bốt nghỉ, nơi đã chuẩn bị sẵn đồ ăn và chăn. Họ buộc phải tạm nghỉ, nơi dừng chân là vùng đất nguy hiểm có hổ rình rập nên họ không đi tiếp được khi mặt trời đã lặn. Làm sao có thể ăn uống và nghỉ ngơi ở một nơi hoang dã như thế? Đoàn hộ tống có một ít gạo dự trữ của lính khố đỏ và vài hộp thức ăn Âu, nhưng chẳng có đồ dùng nào khả dĩ để nấu ăn, và cũng không có gì để che chắn hay để tự vệ đề phòng sự tấn công của dã thú. Thật may là có những rặng tre mọc hai bên bờ sông Hồng, và những người lính khố đỏ thì không rời tay khỏi những thanh mã tấu, một loại kiếm nhỏ hay dao dài bản địa. Với những thứ đó, ngài Đô đốc có thể yên tâm: ông sẽ có một chỗ nghỉ ngơi và ăn uống.
Không để mất thời gian, những người lính bắt tay ngay vào công việc. Chỉ trong vài phút, một hàng rào bằng tre dài và chắc chắn đã được dựng lên tạo thành một khu trại đủ rộng. Họ đã giải quyết được vấn đề dã thú. Sau đó ba chiếc lều được dựng, một cho ngài Đô đốc, một cho những sĩ quan, cái còn lại cho binh lính hộ tống. Ngài Đô đốc và những viên sĩ quan trong hoàn cảnh này đã có thể nghỉ ngơi thoải mái với những chiếc chõng tre, cao khoảng 40 đến 60 xăng-ti-mét và đàn hồi như một tấm nệm lò xo cùng những chiếc gối tiện dụng. Một ống tre lớn còn nguyên cả mắt, vốn chứa nước rất tốt, được khéo léo cắt từng khúc thành một cái gáo, cũng có thể coi là bát, xô hay chậu. Nhờ đó, trong khi những căn lều lán được dựng lên và hoàn tất, những người lính đi kiếm và lấy nước vào những gáo tre, nhóm lửa và chuẩn bị bữa tối. Gạo và đồ hộp được nấu trong những chiếc nồi kỳ lạ làm từ những cây tre. Vậy là chẳng khó gì để có được một bữa ăn, nhưng khi Đô đốc Pottier nhìn những thanh mã tấu trong tay của những người lính đẽo gọt ra những chiếc đĩa, thìa và cả những chiếc dĩa bằng tre cũng có ba răng y như dĩa thật, ông thấy đó quả là một sự khéo léo phi thường! Rất lâu sau khi trở về Pháp, ngài Đô đốc vẫn kể lại câu chuyện và rất vui vẻ khoe một chiếc chăn kỳ diệu, vốn được làm ra cấp thời cũng như căn lều và bữa tối của ông trong một thung lũng ở thượng lưu sông Hồng. Ông ghi nhớ những kỷ niệm về một buổi tối mà ông bất ngờ trải qua như thế cũng như về sự khéo tay đến kinh ngạc của những người An Nam.
Về tệ nạn trong hệ thống quan lại và thái độ của Pháp:
Triều đình An Nam vẫn hoạt động tốt gần giống với tình trạng trước khi bị nước Pháp chinh phục. Hệ thống quan chế tại các tỉnh thành vẫn giữ nguyên; việc cai trị cũng vậy. Các quan lại sống tại những dinh thự đẹp đẽ được xây xựng theo kiểu hệ thống Vauban; họ cai trị, hành pháp và thu thuế dưới danh nghĩa triều đình. Quyền cai trị, hành pháp và thu thuế là những nguồn lợi trực tiếp của họ, là hối lộ biếu xén và mọi loại bổng lộc khác. Đương sự của các vụ kiện, những người nộp thuế và những kẻ nô dịch sẽ dâng lên tất cả những gì họ có; những viên quan to hay nhỏ đều cố gắng bòn rút tối đa từ dân, và phần được đóng vào quốc khố chỉ là phần còn lại mà bọn họ không thể ăn chặn được.
Đó là chế độ quân chủ quan liêu cũ trong đó các quan lại lạm dụng quyền hành trên mọi mặt, mà không có dáng vẻ trung thực tự tại như những quan lại xưa kia. Những khiếm khuyết và những tệ nạn trong hệ thống vẫn tiếp tục hoành hành. Sự kiểm soát từ cấp cao nhằm ngăn chặn tệ nạn này bùng phát bằng hình phạt nếu cần thiết, rốt cuộc đã bị vô hiệu hóa và tê liệt. Đây không phải là một cuộc khủng hoảng hay một vấn nạn mà chính quyền Pháp cần quan tâm, cũng không phải là cái cớ để chúng ta can thiệp. Và như thế, vị Khâm sứ của chúng ta tại Huế hài lòng với việc giám sát Đức vua và triều đình, mà không cần hợp tác với họ; và ngay cả các Công sứ Pháp của chúng ta tại sáu hoặc tám tỉnh lớn vốn có nhiệm vụ đảm bảo việc duy trì trật tự mà không cần hợp tác với quan lại cũng không có nhiệm vụ kiểm soát các hành vi của quan lại. Chúng ta chỉ giới hạn ở mức bảo hộ cơ bản và đã không quan tâm đến việc cai trị cũng như tác động của nó lên sự phát triển kinh tế.
Có thể cho đến lúc đó chúng ta chưa thể làm tốt hơn và tiến xa hơn. Nhưng dù sao đi nữa thì nhất định không thể để tình hình này kéo dài hơn nữa. Cho dù là vì lợi ích của nước Pháp hay là vì lợi ích của người dân An Nam, thì đều cần phải áp dụng những phương thức quản lý và những chính sách kinh tế của nền văn minh châu Âu vào đất nước này. Nhiệm vụ này đặc biệt thú vị, tất cả cần phải được thực hiện từ đầu và chúng ta có thời gian, chúng ta có thể phát triển một kế hoạch toàn diện và tiến hành nó một cách nhịp nhàng, có phương pháp, không hấp tấp, không phô trương.
Trích “Xứ Đông Dương”
Dịch bởi: Lưu Đình Tuân, Hiệu Constant, Lê Đình Chi, Hoàng Long, Vũ Thúy
Nguyễn Thừa Hỷ hiệu đính
http://trithucvn.net/van-hoa/nguoi-viet-dau-ki-20-trong-hoi-ky-cua-mot-vi-toan-quyen-dong-duong.html?utm_content=buffere06cd&utm_medium=social&utm_source=facebook.com&utm_campaign=buffer

Phần nhận xét hiển thị trên trang