|
Xem ra trong văn học, cái dễ gây tranh luận là về văn thể, về hình thức văn chương, về ngôn từ (cổ điển, tân kỳ, mới một cách táo bạo). Thành công cũng do ở đó (như bài Tình Già của Phan Khôi, thơ lục bát của Cung Trầm Tưởng, thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền). Và ít có tranh luận về nội dung văn chương nếu tư tưởng trong văn thơ không đá động đến chính trị hoặc niềm tin tôn giáo. Nội dung đi lừng lững vào văn chương mà không có gì cản trở, chẳng hạn nội dung lãng mạn cá nhân trong văn chương Việt Nam thập niên 1930 - 1940, nội dung đổi mới phong tục tập quán trong tiểu thuyết nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nội dung triết lý hiện sinh ở miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến tranh trước năm 1975, nội dung lưu vong và hải ngoại trong văn chương người Việt ở nước ngoài sau năm 1975. Các nội dung trên đến với văn chương một cách tự nhiên, vì đó là lẽ tất yếu của một thời kỳ.Những năm cuối thế kỷ 20 bước sang thế kỷ 21, có vài vấn đề trọng đại đến đức tin tôn giáo, như khám phá vũ trụ đang giãn nở do trận nổ Big Bang, liên hệ đến niềm tin Sáng Thế Ký (GENESIS); như việc đúc sinh vật thành nhiều phó bản giống hệt nhau (CLONING), liên hệ đến quyền thiêng liêng của tạo hóa. Đây là những vấn đề đang được tranh luận giữa các nhà bác học và tôn giáo, hơn là giữa đại chúng. Thuyết Big Bang và những khám phá thiên văn vật lý khác, mặc dù là những khám phá do vệ tinh quan sát từ dụng cụ thăm dò thu nhận được tia hồng ngoại hay tia cực tím, nhưng vẫn còn ở ngoài tầm kiểm chứng ở phạm vi toàn diện vũ trụ, một vũ trụ vô bờ. Văn chương chỉ nên trình bày những khám phá mà không ý kiến, vì các nhà bác học còn không dám quả quyết, huống gì phải có ý kiến cho nội dung văn thơ. Kỳ diệu của vật lý hạch tâm, kỳ diệu của vật lý vũ trụ, kỳ diệu của cái nhìn y khoa về cơ thể con người, đó chưa phải là thơ. Nếu đồng hóa, chính là vì tác giả quá cảm kích, tưởng kỳ diệu khoa học đã là thơ. Ví dụ kỳ diệu của trọng lực khủng khiếp nơi vực trời Black Hole, có người đồng hóa điều đó với thơ. Xin nói rõ: Đối với sức hút còn tương đối nhẹ như sức hút của Trái Đất thì khoảng cách từ đầu đến chân ta không có gì đáng kể, cả thân ta đều rớt xuống cùng một lúc khi ta nhảy lên bị mặt đất hút xuống. Nhưng với sức hút mạnh gấp trăm triệu lần nơi một Black Hole thì khoảng cách đó đã đủ ghê gớm làm cho thân ta bị kéo dài nhằng ra và tơi tả thành hơi bụi ngay tức khắc. Điều này được nói đến qua đoạn văn xuôi của nhà vật lý học danh tiếng Stephen Hawking, trong cuốn "A brief history of Time", trang 88: "Trọng lực càng yếu khi anh càng ở xa một ngôi sao, cho nên sức hút vào đôi chân một phi hành gia táo bạo (giả dụ dám đến ngôi sao đó) luôn luôn mạnh hơn sức hút đối với đầu của anh ta trước khi ngôi sao (đến giai đoạn) co rút vào mức nghiêm trọng (bị sụp vào bởi trọng lực quá lớn), từ đó biên-bờ-Black Hole được tạo thành (Biên bờ Black Holetức The Event Horizon - thuật ngữ khoa học là Chân-trời-sự-cố, Chân-trời-biến-cố). Cũng với kỳ diệu vật lý này, một nhà khoa học khác dạy ở đại học Princeton đã diễn thành thơ có vần điệu như sau đây: ĐIỀU GÌ XẢY RA KHI TA RỚT XUỐNG VỰC TRỜIKhi bạn nhảy, chân xuống trướcNhan đề bài thơ: What would happen to meBài thơ trên diễn tả quá sát với khoa học, kỳ diệu mà không huyền ảo. Bí ẩn tự nó đã là thơ, còn những khám phá khoa học dù kỳ diệu vẫn là sự thật. Vật lý hạch tâm thì quá thông thái, nhưng vật lý vũ trụ có thể vớt vát chất thơ vì từ lâu con người đã thêu dệt về vòm trời tinh tú từ cái nhìn dưới trần thế. Muốn đưa vào thơ phải tận dụng ngôn ngữ văn chương mà ẩn dụ mỹ cảm đóng vai trò chính, và bất đắc dĩ mới nhờ đến từ ngữ khoa học, có như vậy mới phục hồi thi tính cho thơ. |
Giải thích cho rõ nghĩa trong thơ, một điều rất tối kỵ. Nhưng xét cho cùng, bài thơ nào cũng có ít nhiều dấu vết của biện biệt. Bởi vì thơ cần ở sự thông cảm của trái tim, của tâm hồn, mà cũng cần sự thông qua của trí hiểu. Tuy nhiên, sự giải thích nếu có ở trong thơ phải diễn ra một cách tiềm ẩn, càng dấu mặt càng hay, càng lược bỏ đi những giới từ biện giải, thường có trong văn xuôi như bởi vì, do đó, cho nên...Thơ Haiku của Nhật là thể thơ cô đọng nhất, rất ít lời. Tác giả tạo ra những khoảng trống giữa các câu thơ, giữa các sự kiện mô tả, để ta bắt gặp những ẩn chứa. Vậy mà, nếu xét kỹ, ta vẫn thấy có dấu vết của sự giải thích. Như sự sáng rõ dưới đây thể hiện dưới dạng một so sánh:Vỏ trai tách rờiTa biết thơ Haiku qua bản dịch từ Nhật Ngữ, và ta tưởng rằng càng ít lời và thu gọn trong ba câu là cấu trúc của thơ Haiku. Thực ra, thu gọn trong ba câu mà còn quy định chỉ gồm có 17 âm vận. Mười bảy âm vận đối với tiếng độc âm của Việt Ngữ là 17 lời, nhưng đối với Nhật Ngữ là tiếng đa âm nên số lời lại càng ít ỏi. Ít lời như vậy, nên tinh thần của thơ Haiku không cốt ở mô tả, mà chính là vận động thể nghiệm trong tâm linh của độc giả: Khi nhìn kỹSự thể nghiệm ở tâm linh này có thể kinh qua được khi ta ngồi tịnh tâm trong khu vườn cổ trên 500 năm thường thấy ở Nhật. Nơi đó chỉ có vài tảng đá nằm rải rác trong một sân vuông phẳng phiu, chung quanh là những dãy nhà trệt mái ngói rêu phong. Phía ngoài nữa là ngàn cây im vắng. Ngồi đó, ta lắng nghe mối tương quan giữa những cái đơn giản mà khai lộ về huyền diệu của siêu hình.Tạo ra khoảng trống giữa các câu thơ để dành cho sự thể nghiệm trong tâm linh của độc giả. Tuy vậy, đọc các bài thơ tuyệt tác của Basho như bài "Ao Cũ" hay "Con Quạ", ta vẫn thấy sự giải thích qua mối tương quan nhân quả giữa những sự kiện được nói đến trong bài thơ. Huống chi là ở các thể thơ khác. Ví dụ trong bài thơ "Thề Non Nước" của Tản Đà: Non cao đã biết hay chưaĐây là một kiến thức phổ thông về sự vận chuyển nguồn nước cứ muôn đời tiếp diễn giữa núi non và biển cả. Thời hòa bình, đó là một ẩn dụ về tình gắn bó của phu thê. Thời chiến tranh, đó là ẩn dụ về tình non sông đất nước. Sự giải thích ở trong thơ mang đến niềm hân hoan hội ngộ, lạc quan trong lẽ tuần hoàn: Sông kia dù hãy còn điThi sĩ Tản Đà hướng về quần chúng, hướng về độc giả, nên có sự giải thích ở trong thơ. Tuy nhiên, có những người làm thơ chỉ cho mình hiểu, hoặc chỉ dành cho một nhóm nào đó, ví dụ riêng cho nhóm nhà nghiên cứu khoa-học qua bài thơ dưới đây của nữ thiên-văn-gia Nancy Abrams: Trong thành phố Santa Cruz,Tác giả không giải thích thế nào là vũ-trụ-giãn-nở và vật-chất-tối-lạnh (cold dark matters). Không phải ai cũng đã đọc qua những khám phá mới đây về môn thiên văn vật lý. Thật khó khăn cho Thơ khi phải giải thích, và đã là văn chương thì phải tránh dùng từ ngữ khoa học (bất đắc dĩ phải nhờ đến nó). Lấy ví dụ thông thường như khi ta ăn một ổ bánh mì: trong đó có những miếng thịt thái mỏng, và dưa cà hành ớt được cắt xẻ gọn gàng. Thái và cắt, ví như những giải thích ở trong thơ. Tự chúng, không làm thành miếng ngon, không làm thành cái hay cho bài thơ, nhưng chúng là những cần thiết để đưa tới một thưởng thức trọn vẹn, khỏi bị gián đoạn tìm đọc chú thích dưới bài thơ. |
Đã khá lâu, từ thời mới vào trường trung học, ta đã học văn phạm. Và vì đã khá lâu nên đến nay ta ngờ ngợ giữa liên từ và giới từ, giữa từ và chữ... Ta thử ôn lại ẩn dụ và hoán dụ. Ví dụ khi ta viết: "Chiến tranh giáng xuống một cơn giông bão thời cuộc". Ta đã so sánh chiến tranh với cơn giông bão, sự so sánh không cần liên từ "như" làm trung gian đứng ở giữa. Đó là một ẩn dụ, một so sánh tương đương. Còn như khi ta viết "chiến tranh, cơn khói lửa" hay "cơn đao binh", thì khói lửa hay đao binh chỉ là một phần của chiến tranh, một sự so sánh không phải tương đồng. Đó là một hoán dụ.Vậy hoán dụ là sự so sánh do tương quan kết hợp. (Xin xem phần mỹ từ pháp trong cuốn "Việt Nam Văn Phạm" của Trần Trọng Kim, và phần tu từ pháp trong cuốn "Cấu Trúc Thơ" của Thụy Khuê). Ẩn dụ hay hoán dụ có thể chỉ ở vài từ, mà có khi gồm trọn bài thơ hay cả một tập truyện. Trọn bài thơ "Thề Non Nước" của Tản Đà, truyện "Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời" của Mai Thảo, đều là những ẩn dụ. Ta cần lưu ý ẩn dụ và nhân cách hóa, vì cả hai thường đứng cận kề nhau. Ví dụ "Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông" (Nguyễn Du). Hoa đào là ẩn dụ, so sánh với người đẹp. Nhưng "hoa đào cười" là nhân cách hóa, coi sự vật sinh hoạt như con người.Ta cũng nên phân biệt ẩn dụ thường và ẩn dụ mỹ cảm. "Ẩn dụ thường" chỉ dùng để tránh điệp ngữ, nghĩa là dùng một sự so sánh để tránh lặp lại những từ đã dùng nhiều lần. "Ẩn dụ mỹ cảm" cần thiết cho thơ. Ẩn dụ mỹ cảm cần phải sáng tạo riêng, đừng lặp lại của người khác để tránh khuôn sáo. Khi đặt vấn đề thơ phải tận dụng ngôn ngữ văn chương (vì cảm hứng về đề tài khoa học) thì ẩn dụ mỹ cảm sẽ đóng vai trò chính. Ví dụ khi ta viết về đề tài những thiên thể vĩ đại có trọng-lực hút lẫn nhau. Thiên thể vĩ đại hơn hết trong vũ trụ là các Thiên-hà. Ngân-hà cũng là một Thiên-hà, có tên riêng như vậy vì chi-chít sao của nó trông xa giống như một con sông bạc màu sữa ngà. Các Thiên-hà khác cũng chi-chít tinh tú, nhưng ở quá xa nên ta không thể thấy được bằng mắt thường. Các Thiên-hà tụ thành do hàng tỉ tinh tú, và những khối hàng tỉ tinh tú ấy quay quần như từng hòn đảo riêng và phân bố rải rác trong vũ trụ rất xa nhau, nhưng đôi khi có hai khối lại tao ngộ chỉ cách nhau một hay hai triệu năm-ánh-sáng. Khoảng cách ấy kể như rất gần đối với vũ trụ bao la vô tận. Gần kề, nên trọng-lực hai Thiên hà hút nhau, nhưng đồng thời lại bị sức giãn nở sau trận Big Bang làm cho tất cả đều bị trôi giạt ra ngoài rìa vũ trụ. Ta so sánh điều này như một đôi-lứa keo-sơn, gắn bó cùng đi trên chuyến-tàu-thời-gian, cứ đi mãi cho đến tàn cuộc đời. Thiển nghĩ đây là một ẩn dụ mỹ cảm do diễn tả bằng biểu tượng có chất thơ. Cố công thi-hóa những khám phá vật lý vũ trụ, người viết bài này đã đôi lần thử-nghiệm sáng tác, xin giới thiệu bài thơ dưới đây (những bài thơ khác cùng loại, đã tuyển chọn lại, trong http://www.tranvannam.com):Đỉnh núi xanh với Viễn-vọng-đàiRất may mắn (vì thật hiếm hoi) khi tìm được một bài thơ ẩn dụ mỹ cảm rất sát với vấn đề đang bàn tới: bài thơ của thi sĩ John Updike cảm hứng về những tia vật chất tàng hình trong vũ trụ. Khoa học gọi là Dark Matter (chất tối), đó là loại vật chất (có thể là những hạt vô cùng nhỏ, có thể là những thiên thể vô cùng vĩ đại) mà khoa học chưa thể dùng viễn-vọng-kính mặt gương để thâu nhận hình ảnh vì nó không phát ra ánh sáng. Nó cũng không phát ra những tia vũ trụ khác để thâu nhận hình ảnh qua vô tuyến viễn vọng (Radio-telescope), hồng-ngoại-viễn-vọng (Infrared-telescope), cực-tím-viễn-vọng (Ultraviolet-telescope), quang-tuyến-viễn-vọng (X-Ray-telescope). Vì vậy nó là vật chất tàng hình. Tàng hình nhưng nó lại chi phối sự vận hành trong vũ trụ, có tới 90% vật chất trong vũ trụ là tàng hình. Nếu không có 90% vật chất đó thì vũ trụ (bao gồm những-thấy-được bằng viễn vọng kính mặt gương nắm bắt ánh sáng; và những-thấy-được bằng các loại viễn vọng nắm bắt tia vũ trụ); tất cả gọi là vũ trụ đó vẫn không đủ trọng lực để hãm bớt đà bành trướng giãn nở sau trận Big Bang. Một trong những thứ vật chất tàng hình là trùng trùng lớp lớp hạt Neutrinos. Chúng đang đi xuyên qua thân thể con người, xuyên qua cả Trái Đất, chỉ có thể đặt các máy dò tìm chúng ở dưới đáy biển sâu, hoặc dưới các hầm mỏ thăm thẳm trong lòng đất. Một đoạn trong bài thơ như dưới đây: Những hạt Neutrinos vô cùng nhỏMột vấn đề khoa học, một khám phá kỳ diệu về vật chất, lại được diễn tả bằng hình ảnh rất gần với nhân sinh, gần với thế gian phàm tục, khác với khoa học viễn tưởng của ngành vật lý lý thuyết. Vật lý lý thuyết gần kề với truyện khoa học giả tưởng, nhưng tưởng tượng của nhà bác học dựa vào các phương trình toán học cao cấp; không phải hoàn toàn giả tưởng. Thuyết tương đối của Einstein, Baby Universes được hình thành sau khi các Black Holes tiêu thụ vật chất của vũ trụ này (do Stephen Hawking nghĩ ra); wormholes (lỗ con sâu) tức là những đường hầm thông qua các vũ trụ thuộc kích thước thứ tư thứ năm... đều là những vấn đề của Vật Lý Lý Thuyết (Theoretical Physics). Đây là một bài thơ viễn tưởng cảm hứng từ vật lý lý thuyết: Có một cô nàng tên là Hào Quang(Xin dịch thoát câu cuối cho dễ hiểu điều nghịch-lý thời-gian trong Thuyết Tương Đối) (There was a lady named BrightDựa vào vật lý lý thuyết hay dựa vào những khám phá vật lý vũ trụ mà viết thành truyện hoang đường thì đó là văn chương khoa học giả tưởng. Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn với tập truyện "Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn" (xuất bản 1960 tại Sài Gòn) dựa vào thuyết tương đối của Einstein. Truyện con người đi với tốc độ ánh sáng làm thời gian chậm lại mà trở về thế kỷ 18, trở lại Thăng Long vào năm vua Quang Trung lâm bệnh nặng, cứu sống nhà vua để hoàn tất phần lịch sử đã bỏ dở do cái chết lúc còn quá trẻ của ngài: "Một lít huyết thanh khô đóng bánh ở ngân hàng máu thành phố Nữu Ước, được Khang cho pha loãng trở lại và chảy dần dần vào huyết quản vị anh hùng Tây Sơn" (trang 222, sách đã dẫn). Cũng như loạt phim khoa học giả tưởng "Star Trek" đã dựa vào những khám phá mới đây của vật lý vũ trụ, qua phân tích của giáo sư thiên văn Lawrence Krauss của trường đại học "Case Western Reserve University", rất rõ ràng dễ hiểu trong chương 9 của cuốn "The Physics of Star Trek", xuất bản năm 1995 tại Hoa Kỳ (New York).
TRẦN VĂN NAM
(Kèm theo dưới đây là 9 bài thơ với đề-tài vật-lý vũ-trụ) |
Phần nhận xét hiển thị trên trang