Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 17 tháng 12, 2016

"KẺ SĨ TRƯỚC THỜI CUỘC", BẢN LĨNH NGƯỜI CẦM BÚT


Đặng Văn Sinh




   
Hoàng Quốc Hải không chỉ nổi tiếng với hai bộ tiểu thuyết“Vương triều sụp đổ” và “Tám triều vua Lý” mà ông còn là cây bút tản văn có hạng đề cập đến nhiều lĩnh vực đời sống xã hội như lịch sử, văn hóa, chân dung văn học và bình giải văn chương.
Trên cơ sở hàng trăm bài viết của một đời cầm bút, năm 2014, Hoàng Quốc Hải cho xuất bản cuốn “Kẻ sĩ trước thời cuộc” do NXB Phụ nữ ấn hành, dày 596 trang, khổ 14,5 x 20,5 cm, bìa gập, do họa sĩ Văn Sáng trình bày với ý tưởng khá độc đáo.
Hoàng Quốc Hải là nhà văn có tầm văn hóa dày dặn, nên bất cứ bài nào của ông cũng được viết một cách cẩn trọng, đầy chất trí tuệ, nội hàm phong phú, thông tin chính xác, quan điểm cấp tiến, toát lên tinh thần học thuật nghiêm túc.
“Kẻ sĩ trước thời cuộc”, nói một cách hình ảnh, nó giống như giai phẩm văn chương được hình thành từ một phương pháp luận đặc thù, trong đó có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cách cảm và cách tư duy phản biện của một cây bút từng trải. Chẳng những thế, Hoàng Quốc Hải còn là nhà văn am hiểu thời cuộc sâu sắc. Ông nắm được nhiều vấn đề phức tạp của xã hội, nhận diện và lý giải nó bằng đầu óc phân tích khách quan rồi quy chiếu vào những trường hợp cụ thể mà ông cho rằng, đó chính là nguyên nhân gây ra những hệ lụy.
“Kẻ sĩ trước thời cuộc” gồm 65 bài, trong đó nhiều nhất là chân dung văn học (26 bài), tiếp đến văn hóa, lịch sử (24 bài), cảm nhận, bình giá tác phẩm (7 bài), cuối cùng là vấn đề thời sự, tham luận và phản biện (10 bài).
Ở mảng chân dung văn học, loạt bài viết về nữ sĩ Ngân Giang (“Ngân Giang với bài Trưng nữ vương”; “Thơ Ngân Giang”; “Ngân Giang là thế”), “Gặp bà Thục Oanh nhớ Vũ Hoàng Chương”, “Những dấu hiệu khả ái trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly”, và “Còn luân hồi thì ta còn gặp gỡ”..., là những bài viết có hàm lượng trí tuệ cao bằng bút pháp tài hoa, làm người đọc xúc động.
Trong phần văn hóa, lịch sử, những bài “Đi tìm một Ngọa Vân am”, “Trắng án Nguyễn Thị Lộ” hay “Việc đạo việc đời và phương lược xuất xử tùy duyên” đều có giá trị về mặt học thuật, chẳng khác gì những công trình khảo cứu đem đến cho bạn đọc những nhận thức mới về lịch sử, tôn giáo trong các triều đại phong kiến Việt Nam cách nay nhiều thế kỷ.
Bên cạnh đó, những bài phản biện xã hội cùng với tham luận từ các hội thảo khoa học hay Đại hội Nhà văn lại có một vị trí đáng kể trong việc làm nên diện mạo cuốn sách. Các phản biện xã hội của Hoàng Quốc Hải đều mang nội dung tích cực, có ý nghĩa khai mở lối tư duy độc lập hình thành từ những luận chứng có sức thuyết phục, khách quan và tiếp cận chân lý được chuyển tải bằng lối hành văn trong sáng của tiếng Việt hiện đại.
Phong cách văn chương trong “Kẻ sĩ trước thời cuộc” luôn tương thích với từng thể tài. Với chân dung văn học, Hoàng Quốc Hải bao giờ cũng nhìn nhận tác giả ở phần bản chất nhất là sự đóng góp của họ vào quá trình phát triển của nền văn học nước nhà mà không câu nệ các tiểu tiết bởi các học thuyết và hệ ý thức chi phối. Ông thường tìm về những phần khuất lấp từng bị thời cuộc bỏ quên với sự đánh giá khách quan, công bằng như là một nghĩa cử chiêu tuyết cho người bị hàm oan, đồng thời cũng ngầm chỉ ra những thế lực nào đã cố tình vu oan, hãm hại văn nghệ sĩ vốn được coi là thành phần tinh hoa của dân tộc.
Tuy nhiên, cách viết chân dung văn học của Hoàng Quốc Hải không cố định ở bất cứ hình thức nào, mà luôn xuất phát từ nguồn cảm hứng sau khi đọc tác phẩm cũng như nhân cách nghệ sĩ của tác giả. Chân dung văn học của ông bao giờ cũng có sự kén chọn nghiêm ngặt. Ông chỉ viết về những văn nghệ sĩ có thực tài và nhân cách lớn. Sách của Hoàng Quốc Hải không có chỗ cho bọn bất tài, cơ hội và tư cách nhếch nhác.
Đọc chân dung văn học của Hoàng Quốc Hải, ta có cảm giác như là ông viết để trả nợ đời, món nợ không phải do ông còn thiếu mà không hiểu sao cứ như là mình có lỗi. Cho nên, chân dung văn nhân hiện ra qua ngòi bút của ông có cái gì đó như nỗi buồn xa vắng, như lời cảm thán về nhân tình thế thái, về một “đấng cao xanh” không đủ độ khoan dung, nên bỏ phí một tài năng. Mỗi chân dung văn học là một mảnh đời nghệ sĩ ba chìm bảy nổi, được Hoàng Quốc Hải đào bới từ quá khứ, làm thức dậy trong khoảnh khắc lịch sử, vụt lóe sáng như mảnh sao băng. Nữ sĩ Ngân Giang là một điển hình. Về nhà thơ Ngân Giang, Hoàng Quốc Hải có đến ba bài, chứng tỏ ông vô cùng mến mộ và cảm phục tài năng, nhân cách nữ sĩ.
Qua những dòng tản văn mang phong cách cổ điển viết về một người phụ nữ đa đoan gần như bị cuộc đời lãng quên, Hoàng Quốc Hải đã phần nào khắc họa được chân dung nghệ sĩ của bà sau mấy chục năm lặng lẽ ẩn cư xứ “Giang biên”. Ngân Giang có một quá khứ hào hùng, một tài năng thơ bẩm sinh, một bậc “quốc sắc thiên hương”. Bà đã từng sắm vai nữ sĩ vào thẳng Bộ tư lệnh gặp tướng Lư Hán ở Hà Nội giải cứu nhạc sĩ Đỗ Nhuận và nhiều cán bộ cách mạng khác bị quân Tàu Tưởng giam giữ. Và cũng vẫn Ngân Giang còn được chủ tịch Hồ Chí Minh tặng thơ, vậy mà, cuối cùng bị chính những người lẽ ra phải chịu ơn, lại biến giai nhân - nữ sĩ một thời thành cái cái bóng vật vờ bên lề cuộc nhân sinh. Thế nên, Hoàng Quốc Hải hạ bút cảm thán về thận phận bà: “Có lẽ rất ít trong số các nhà thơ nữ của Việt nam cùng thời với Ngân Giang, lại sớm nổi tiếng như bà. Và cũng sớm đạt tới vinh quang trần thế như bà. Nhưng cũng ít ai vận hạn triền miên cay đắng đủ đường như bà. Đất nước vừa được giải phóng, bà liền bị rơi vào quên lãng. Nghe nói bà chỉ được Hội Nhà văn mời tới họp có một đôi lần, rồi bỏ bẵng” (“Thơ Ngân Giang”, tr. 82). Nỗi cô đơn ấy lặn vào thơ tạo nên những hình ảnh ngậm ngùi thương cảm, được tác giả trích dẫn trong bài viết của mình: “Đâu thuở đề thơ nơi tướng phủ/ Đây ngày quét lá chốn giang biên”, và đây nữa: “Mười năm quét lá bên sông/ Hình hài để lại cái còng trên lưng” (“Thơ Ngân Giang”, tr. 83).
Đọc Hoàng Quốc Hải, người ta còn nhận ra sự phong lưu, đài các của một nữ sĩ Hà thành mỗi khi tiếp bạn văn chương: “Đài các đến tới mức, hễ cứ tiếp khách là bà đốt trầm. Nghe nói salon (phòng văn) của bà, vào những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỷ này, mở tiếp khách vào các ngày thứ sáu hàng tuần (...). Nhà văn Nguyễn Tuân, một tay hào hoa và cầu kỳ có hạng, mỗi lần bước vào PHÒNG VĂN NGÂN GIANG, thay vì chào hỏi các bạn, ông bước thẳng tới chỗ lư trầm, rắc thêm trầm vào lư, miệng ngâm khổ thơ đầu trong bài Vương Tườngcủa Ngân Giang: “Khơi đỉnh trầm lên! Kìa thái giám!/ Cho hương tỏa quyện điệu tỳ bà” (“Ngân Giang là thế”, tr. 89).
Thế nhưng, cái “thời oanh liệt ấy, nay còn đâu”. Ngân Giang giờ chỉ còn là cái bóng liêu xiêu của ngày xưa. “Bởi vậy bà cứ nằm ở nhà rên rẩm, mặt quay vào tường, đôi lúc tủi thân, nước mắt chảy dàn dụa. Chán rồi bà lại làm thơ. Thơ vứt vương vãi khắp nhà, kể có ngàn bài, mà bài nào cũng có thể in báo, in sách được. Chắc cái đám thơ ấy, sớm muộn sẽ mai một thôi” (“Ngân Giang là thế”, tr. 95).
Phong cách viết chân dung của Hoàng Quốc Hải khác người ở chỗ, không bao giờ ông “ăn theo” những tác giả đã được nhà nước ta “chăm sóc” chu đáo, nhất là vào những ngày lễ lạt, kỷ niệm, được vinh danh bởi hàng loạt bài giống nhau như cùng một khuôn đúc trên các báo chí chính thống. Ông có cách đi riêng của mình, đến với những văn nghệ sĩ bị “bỏ quên” bắt nguồn từ những “tai nạn nghề nghiệp” hay văn nghệ sĩ ở “phía bên kia” cho dù vẫn là đồng bào Việt tộc máu đỏ da vàng. Cặp vợ chồng “Thục Oanh - Vũ Hoàng Chương là minh chứng cho nhận định trên.
Viết về Vũ Hoàng Chương, Hoàng Quốc Hải sử dụng thủ pháp “bắc cầu”, dùng hình ảnh phu nhân Thục Oanh, như một tri kỷ tri âm để khắc họa chân dung một trong những “người thơ” nổi tiếng của nhóm “Dạ Đài”. Và cũng lại từ nhà thi sĩ lắm tài nhiều tật này, tác giả tìm ra được mối quan hệ đặc biệt thân thiết với nữ sĩ Ngân Giang, từ đó khẳng định, Ngân Giang, Vũ Hoàng Chương là hai cây bút chân tài, tuy mỗi người một vẻ, nhưng đều có những đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển ngôn ngữ thi ca hiện đại Việt Nam: “Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Vỹ, Trần Huyền Trân, Ngân Giang, Lê Văn Trương..., là một trong những nhóm các bậc tài danh được người đương thời mến mộ. Trong đó, Lê Văn Trương là người lớn tuổi hơn cả. Và nơi ông có phong thái của một người hùng...” (“Gặp bà Thục Oanh nhớ thi tài Vũ Hoàng Chương”, tr. 23). Và đây là cái tình cố cựu của người bạn thơ ở mãi phía trời nam gửi đến nữ sĩ Ngân Giang nghèo túng trên bãi sông Hồng: “Trước năm 1975, Vũ Hoàng Chương sống tàm tạm, là nhờ ở sự tần tảo và cần kiệm của bà Thục Oanh. Nhà nghèo, thế mà khi ông Vũ Hoàng Địch (em trai nhà thơ) vào thăm sau 30.4.1975, Vũ Hoàng Chương còn cố gom góp đủ tiền mua được mười mét gấm gửi tặng nữ sĩ Ngân Giang ngoài Hà Nội” (“Gặp bà Thục Oanh nhớ thi tài Vũ Hoàng Chương”, tr. 24). Nhưng buồn thay, cho đến lúc qua đời, Ngân Giang không bao giờ được mặc áo gấm. Quà tặng của Vũ quân, bà phải bán đi đong gạo cho con khỏi đứt bữa.
Trong loạt chân dung văn học của Hoàng Quốc Hải còn có một trường hợp ngoại lệ, được ông đặt cho một tựa đề khá đặc biệt “Còn luân hồi thì ta còn gặp gỡ”. Đó là vị tu sĩ mang cốt cách của một kẻ ẩn cư: nhà thơ Minh Đức - Triều Tâm Ảnh. Điều kỳ lạ khiến bạn đọc quan tâm trong thiên tạp bút này là tác giả và thi sĩ trụ trì “Huyền Không sơn thượng” chưa từng gặp nhau một lần mà lại rất có duyên với nhau. Tập thơ “Chèo vỡ sông trăng” vị ẩn sĩ Cố Đô gửi Hoàng Quốc Hải cùng lời đề tặng vô cùng trân trọng đã phần nào đã tỏ rõ mối lương duyên “thiên tải nhất thì”: “Về Hà Nội ít lâu sau, tôi thấy vợ tôi đem về nhà bản thảo tập truyện ngắn: Người trồng hoa và chàng tu sĩ của Triều Tâm Ảnh. Tôi bèn đọc, và sững sờ về bút pháp nghệ thuật cũng như ý tưởng thâm trầm được thể hiện qua các trang văn.
Không lâu sau đó, tôi nhận được tập thơ Chèo vỡ sông trăngcủa thiền sư gửi tặng với lời đề: Kính tặng nhà văn Hoàng Quốc Hải, một người ‘chưa biết mặt’ mà ‘quen văn’ thì khá nhiều.
Huyền Không sơn thượng 9.4.1995
Ký tên: Minh Đức - Triều Tâm Ảnh” (“Còn luân hồi thì ta còn gặp gỡ”, tr. 207).
Chỉ với vài nét phác thảo về chân dung một ẩn sĩ, không có thêm bất cứ lời bình luận rườm rà nào mà làm tâm hồn ta rung động. Có lẽ nguyên nhân sâu xa là những trang văn ấy mang phong vị “Thiền” chăng? Mà với “Thiền” thì Hoàng Quốc Hải đã có thâm niên nghiên cứu mấy chục năm, còn Minh Đức - Triều Tâm Ảnh vốn là đệ tử chân truyền: “Điều thú vị là thơ, văn của tu sĩ Minh Đức - Triều Tâm Ảnh có phong vị thơ Thiền của các đời Lý - Trần. Qua thơ văn ông, ta thấy ông là người hiếu Đạo nhưng không lìa bỏ thế gian. Trái lại, nhân sinh quan của thi sĩ là tích cực. Và việc ông xuất gia là để nhập thế...” (“Còn luân hồi thì ta còn gặp gỡ”, tr. 208).
Tạp văn Hoàng Quốc Hải có nhiều thành tựu về đề tài văn hóa, lịch sử. Cả cuộc đời cầm bút của ông gắn với tiểu thuyết lịch sử, nên quan niệm của ông về lịch sử, nhất là chính sử, phải rõ ràng minh bạch và công bằng. Có nghĩa là, lịch sử dân tộc phải được ghi chép đúng như những gì đã xảy ra trong quá khứ. Thật không may, lịch sử Việt tộc cho đến ngày nay vẫn còn những khoảng trống. Tham vọng của Hoàng Quốc Hải là góp phần của mình làm đầy những khoảng trống ấy mà không bẻ cong ngòi bút “sáng tác” những chiến công “hoành tráng” bất chấp hiện thực khách quan, biến lịch sử dân tộc thành bản thống kê thành tích của một vương triều. Vì vậy, thái độ của nhà cầm quyền cũng như những người làm giáo dục đối với lịch sử dân tộc như thế nào luôn là nỗi trăn trở của người cầm bút như ông. Không ít bài tham luận trình bày trong nhiều hội thảo khoa học, Hoàng Quốc Hải đã từng cảnh báo, nếu không có phương pháp đúng đắn, giáo dục chỉ chạy theo thành tích ảo, sợ rằng, các thế hệ học sinh Việt Nam sẽ mù sử Việt, ngược lại, rất thông thạo sử Tàu qua hàng loạt bộ phim dã sử dài tập được công chiếu trên hàng trăm kênh truyền hình từ trung ương đến địa phương.
Những bài viết góp phần giải mã một số bí mật lịch sử, hay tháo gỡ những bế tắc do quan điểm giáo điều chi phối của Hoàng Quốc Hải gần đây được dư luận chú ý phải kể đến “Đi tìm một Ngọa Vân am”, “Trắng án Nguyễn Thị Lộ” và “Việc đạo việc đời và phương lược xuất xử tùy duyên”. Theo chúng tôi, bộ ba tản văn này được xem là phần nổi bật nhất của cuốn sách với tư liệu điền dã phong phú, đa dạng, lập luận thuyết phục, chứng cứ xác đáng và nghệ thuật phản biện hấp dẫn, khiến không những độc giả bình thường mà ngay các nhà chuyên môn cũng phải tâm phục khẩu phục bởi tính khoa học hiển nhiên của nó.
“Đi tìm một Ngọa Vân am” là thiên tạp bút lịch sử giàu chất thơ nhưng cũng hàm chứa năng lực “bút chiến” của người cầm bút chân chính, bất bình trước sự vô trách nhiệm của những người làm sử. Từ đó, tác giả tỏ ra nghi ngờ độ chính xác và sự trung thực của các công trình nghiên cứu, biên khảo, thậm chí cả sách giáo khoa, tiêu tốn nhiều tỷ tiền thuế của dân, nhưng chất lượng yếu kém, mà hậu quả của nó là tác hại khôn lường.
“Đi tìm một Ngọa Vân am” được lấy cảm hứng từ việc tìm nơi Phật hoàng Trần Nhân Tông viên tịch và nơi an táng ngài. Trước khi chuyến điền dã vất vả diễn ra, các nhà sử học quan phương đã xác định Ngọa Vân am ở nhiều địa điểm khác nhau, rất tùy tiện, theo một thói quen cũng rất vô trách nhiệm. Các nhà sử học Việt Nam mấy chục năm qua, có một phương pháp làm giới học giả thế giới nghi ngờ là chỉ quan tâm đến định tính mà không chú ý đến phần định lượng của các dữ kiện lịch sử. Chính vì thế mới có chuyện, mấy vị giáo sư sử học hay một quan chức quản lý ngành văn hóa, chỉ tay phán lung tung mỗi người một phách về vị trí Ngọa Vân am. Và đây là lời ông Thanh Sĩ, giám đốc sở văn hóa tỉnh Quảng Ninh, sau cuộc hội thảo khoa học về Yên Tử, tháng 11 năm 1981, chỉ định nơi Phật hoàng về cõi niết bàn vô cùng liều lĩnh, được Hoàng Quốc Hải dẫn ra trong bài viết : “Rất may, nơi trang 33 lại có đoạn hướng dẫn tìm Ngọa Vân như sau: “Men theo con đường phía trái chùa Hoa Yên, một bên là sườn núi, một bên là vực thẳm, dưới đáy vực là rừng dáo tre vút lên thẳng tắp, ta sẽ đến am Ngọa Vân (am trong mây). Thác Tử từ trên lèn đá cao 10 mét, đổ nước xuống sôi réo vọt qua con đường này, rồi lao xuống vực ào ạt...”.
Tôi tìm đến nơi mà hai vị chỉ dẫn. Nhưng chẳng thấy một chút dấu tích gì. Dù là một viên gạch vỡ, một tấm bia sứt” (“Đi tìm một Ngọa Vân am”, tr. 268). Còn ông Trần Trương, trưởng Ban quản lý di tích Yên Tử thì phán đoán: “Theo em, có khi Ngọa Vân chính là chùa Hoa Yên, chỗ anh em mình đang đứng đây” (“Đi tìm một Ngọa Vân am”, tr. 268). Tức cười hơn nữa, giáo sư Lê Văn Lan, người thường xuyên xuất hiện trên màn ảnh nhỏ, giải đáp những thắc mắc về lịch sử cho công chúng, thì khẳng định một cách rất chi là vô tư: “Ngọa Vân chính là khu vực Tháp Tổ” (“Đi tìm một Ngọa Vân am”, tr. 268). Còn vị giáo sư đáng kính khác, ngài Hà Văn Tấn, lại có quan điểm “thoáng hơn” các đồng nghiệp bằng cách “xếp” “Ngọa Vân” ở gần Am Dược.
Một di tích thuộc hệ thống Phật giáo Thiền tông có giá trị lịch sử như vậy mà mỗi nhà khoa học định vị một chỗ theo ý kiến chủ quan của mình, khiến một nhà văn như Hoàng Quốc Hải thất vọng. Từ đó, trong ông nảy sinh ý tưởng, phải tìm bằng được Ngọa Vân am theo cách của riêng mình. Phương pháp ấy chinh là tra cứu chính sử, tìm hiểu lịch sử Phật giáo Thiền tông và đi khảo sát thực tế, nghĩa là trên cơ sở định tính, chuyển sang nghiên cứu định lượng để tìm ra sự thật lịch sử.
Các cuốn sách công cụ như “Đại Việt sử ký toàn thư”, “Trúc Lâm tam tổ”, “Thánh đăng lục” và “Tam tổ hành trạng” đã phần nào chỉ ra phương hướng tổng quát. Còn chuyến đi thực tế do Phòng Văn hóa huyện Đông Triều cử người làm hướng đạo đã đưa đến kết quả bất ngờ. Ngọa Vân am đã được tìm ra, không phải ở khu quần thể di tích phía đông, mà ở mãi sườn phía tây, nơi mà vị Bảo Sái phải đi bộ hai ngày đường mới đến. Có thể nói, Hoàng Quốc Hải là người đầu tiên trong giới văn nghệ sĩ tìm đến được Ngọa Vân am đích thực, nên ta không lạ gì tâm trạng phấn chấn của ông khi biết mình đang đứng trước một di tích Phật giáo thiêng liêng sau chuỗi thời gian dài bị quên lãng: “Hết rừng trúc lại leo lên đồi tranh. Đập vào mắt tôi một khung tường lở lói, một căn nhà hoang phế. Cỏ tranh và cây dại trong nền nhà đã mọc cao vượt cả khung tường. Hỏi ra mới biết đây là ngôi chùa của quần thể Ngọa Vân. Chúng tôi hết sức vui mừng. Dường như bao nỗi nhọc mệt, khát, đói, gối mỏi chân chồn đều tan biến đi. Theo lối mòn đi lút vào vạt rừng lưa thưa cây cối độ vài trăm bước, sừng sững trước chúng tôi là đỉnh núi Ngọa Vân” (“Đi tìm một Ngọa Vân am”, tr. 277). Và cảm xúc choáng ngợp ấy được tác giả “Bão táp cung đình” nhớ lại: “Sừng sững trước tôi là Đoan Nghiêm tháp. Không hiểu trong đó chứa xá lị của vị thiền sư nào. Bởi ngoài ba chữ đó, không có một thông tin nào về ngôi tháp này. Nhích sang phía trái, một ngôi tháp gạch nhỏ hơn tháp Đoan Nghiêm, có ghi chữ Phật Hoàng tháp. Đích thị là tháp của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Phía trước tháp có tấm bia ghi năm tháng trùng tu. Chính giữa có hàng chữ to, nét còn rất sắc Trần Nhân Tông hoàng đế lăng sắc kiến. Bên cạnh ghi năm tháng trùng tu: Minh Mạng nhị thập nhất niên, cửu nguyệt, sơ lục nhật phụng” (“Đi tìm một Ngọa Vân am”, tr. 278).
Như vậy, từ đây, Ngọa Vân am đã được định vị chính xác trên bản đồ quần thể di tích Yên Tử, tạo điều kiện thuận lợi cho các thiện an tín nữ cũng như khách du lịch thập phương đến viếng thăm. Công lao ấy, có một phần không nhỏ của nhà văn Hoàng Quốc Hải: “Việc các nhà khoa học lịch sử và quản lý văn hóa chỉ ra một Ngọa Vân mơ hồ như trong sách Cõi thiêng Yên Tử, khiến các địa điểm như Am Hoa, Am Dược, Am Lò Rèn..., cũng trở nên mông lung, khó tin; bởi tất cả đều không có một chứng cớ khảo cổ nào làm bằng.
Mong sao nước ta có một đội ngũ các nhà khoa học lịch sử nghiêm túc và trung thực, để nhân dân có thể tin những gì họ nói và viết. và cũng mong sao các thế hệ nối tiếp thừa kế xứng đáng sự nghiệp của tổ tông” (“Đi tìm một Ngọa Vân am”, tr. 285).
Với “Trắng án Nguyễn Thị Lộ”, Hoàng Quốc Hải có cách nhìn lịch sử từ quan điểm phê phán qua những đoạn văn đầy trách nhiệm công dân. Ông đồng tình với dư luận thời đại, bênh vực nữ sĩ Nguyễn Thị Lộ, lên án chế độ phong kiến độc tài, tàn bạo nhẫn tâm xuống tay hạ sát công thần vì những xung đột quyền lực. Nhưng, cũng như “Đi tìm một Ngọa Vân am”, ông không chịu dừng lại ở những kết luận chỉ có giá trị định tính, mà phải dày công lục lọi trong chính sử, ngoại sử, dã sử, thậm chí tham khảo cả gia phả các dòng họ lớn từng có người là trọng thần thời kỳ Lê sơ. Từ đó tác giả tìm được nguyên nhân cái chết của gia tộc Nguyễn Trãi, và hệ lụy của hành vi lạm sát đó đối với xã hội đương thời. Thực ra, vụ án Lệ Chi Viên, từ hàng trăm năm nay, đã được nhiều thế hệ các nhà sử học nghiên cứu, phân tích và đánh giá, và kết luận cuối cùng đều có một mẫu số chung là minh oan cho vợ chồng Ức Trai, lên án chế độ phong kiến dã man. Tuy nhiên, đến Hoàng Quốc Hải, ông có cách làm hầu như không giống ai. Đó là mở rộng biên độ vụ án, đặt vụ án trong mối quan hệ phức tạp giữa các thế lực cầm quyền , từ đó tìm ra bản chất của hệ ý thức phong kiến triều Lê dẫn đến cái chết không thể tránh khỏi của các công thần khai quốc như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn...
Cách phân tích, luận giải về các nhân vật lịch sử và thời cuộc trong bài tản văn của Hoàng Quốc Hải đầy sức thuyết phục với những chứng cứ chắc chắn, không thể lật ngược. Đương nhiên, với lịch sử không thể có chuyện “nếu”, bởi các sự kiện đã xảy ra từ cách đây nhiều thế kỷ. Điều cần làm là, phải tìm ra bản chất sự việc, nghĩa là, vào thời điểm thập kỷ bốn mươi của thế kỷ XV, thế lực nào thao túng triều chính nhà Lê, và nhóm quyền thần nào thủ lợi sau cái chết của vợ chồng Nguyễn Trãi.
Xét lại vụ thảm án “Vườn Vải” cách đây gần sáu trăm năm, Hoàng Quốc Hải chỉ ra hai điều phi lý quy tội cho Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ cùng cái chết đột ngột của Lê Thái Tông, đồng thời ông cũng xác định hai nguyên nhân làm cho vợ chồng Ức Trai phải chết. Đây là những phát hiện không mới, nhưng cái mới là, người viết đã tạo được các mối liên kết giữa các sự kiện lịch sử đơn lẻ, chính thống cũng như phi chính thống, thành một hệ thống, tạo ra bước đột phá trong quá trình lật lại vụ án, nhằm chiêu tuyết cho hai nhân vật lịch sử nổi tiếng. Công bằng mà nói, khi Lê Thánh Tông chấp chính, Nguyễn Trãi đã được minh oan, nhưng thật ra, ông vua hay chữ này mới chỉ dám giải oan một nửa cho Ức Trai, còn Nguyễn Thị Lộ thì không. Hoàng Quốc Hải có tham vọng lớn hơn nhiều. Ông muốn “Trắng án Nguyễn Thị Lộ” nên đã viết:
“Hầu hết tướng lĩnh Lam Sơn đều xuất thân từ ruộng đồng, nên họ không ưa gì một kẻ sĩ như Nguyễn Trãi. Hơn nữa, Nguyễn Trãi tuy là người có học thức cao, nhưng về tụ nghĩa sau họ, thế mà suốt thời kháng chiến được Lê Lợi ưu trọng. Mọi công việc bang giao và văn thư giao tế đều do một tay ông chủ trương. Hòa bình, các tướng tâm phúc quê Thanh ấy được Lê Lợi trọng dụng. Bọn họ chỉ lo kéo bè kết cánh đục khoét dân và đua nhau hưởng lạc. Kiến thức họ không phân biệt nổi lục súc trong nhà, thế mả chúng lại xin vua cho được sửa sang nền quốc nhạc. Được vua hỏi đến, Nguyễn Trãi vừa vạch tội bọn này vừa tỏ nỗi bất bình: Nay nhà vua để cho bọn bầy tôi hèn mọn ở trong cung chuyên việc xếp đặt lễ nhạc, như vậy chẳng tủi nhục cho nước nhà lắm sao?” (“Trắng án Nguyễn Thị Lộ”, tr. 307).
Lý do thứ hai Nguyễn Trãi phải chết là ông can thiệp vào việc tranh giành quyền lực nơi hậu cung, nhằm cứu mẹ con tiệp dư Ngô Thị Ngọc Dao và tìm cách ngăn cản Bang Cơ lên ngôi, chỉ vì vị hoàng tử nhí này không phải con đẻ Thái Tông, bởi lẽ hoàng hậu Nguyễn Thị Anh có thai trước khi nhập cung.
Một vấn đề nữa được tác giả nhấn mạnh trong bài viết là, dù vô tình hay hữu ý, các sử gia đương thời, một trong số đó là Ngô Sỹ Liên, đã tiếp tay cho đám quyền thần xóa đi vết máu từng thấm đẫm những trang chính sử thời Lê sơ. Hoàng Quốc Hải phê phán gay gắt Tổng tài Quốc sử quán kém cỏi về nhân cách kẻ sĩ, a dua xu nịnh, bẻ cong ngòi bút phụng sự kẻ tiếm quyền, hãm hại công thần, dẫn đến khủng hoảng chính trị trước khi Lê Tư Thành được đưa lên ngai vàng. Điều đáng chú ý là, phê phán Ngô Sỹ Liên, Hoàng Quốc Hải dùng ngay những lời quở mắng thậm tệ của Lê Thánh Tông đối với vị sử quan này trong “Đại Việt sử ký toàn thư”. Giấy trắng mực đen, tuyệt đối chính xác, không thể chối cãi.
Phần cuối bản tham luận đọc tại Hội thảo khoa học về Nguyễn Thị Lộ, do Hội khoa học lịch sử Việt Nam chủ trì này, còn được tác giả đưa ra lời đề nghị hết sức táo bạo, nhưng xem ra lại rất hợp tình hợp lý, ấy là, “Tòa án Nhân dân tối cao nên ra một phán quyết đặc biệt, phủ nhận tính bất hợp pháp của án quyết Lệ Chi Viên năm Nhâm Tuất (1442), để trả lại sự trong sáng cho bà Nguyễn Thị Lộ, đồng thời làm sáng tỏ tính nghiêm minh của lịch sử” (“Trắng án Nguyễ thị Lộ”, tr. 317).
Cũng trong tập tản văn này, Hoàng Quốc Hải còn có loạt bài mang tính phản biện xã hội, phản biện văn học rất ấn tượng, gợi ra những vấn đề bất cập trong sự vận hành guồng máy xã hội, từ đó nảy sinh nhiều mâu thuẫn như một lực cản vô hình kìm hãm tiến trình phát triển đất nước. Loạt tản văn này có lúc được tác giả diễn đạt như một bài chính luận, không đao to búa lớn nhưng lập luận sắc bén, chứng cứ thuyết phục, thái độ ôn hòa, khoan dung, khiến người đọc phải nghiêm túc suy ngẫm, nhất là đối với những nhà hoạch định chính sách ở cấp vĩ mô. “Thư ngỏ gửi ông Chủ tịch Hội Golf Việt Nam” là một trong những bài thuộc dạng trên.
Bức thư ngỏ được viết vào tháng 7 năm 2008, như một lời cảnh tỉnh đối với các nhà quản lý đất nước, khi mà hội chứng sân golf đã gây bao thảm cảnh cho người dân mất đất mất nhà sau khi nhận một mớ tiền đền bù rẻ mạt, để rồi tương lai chẳng biết về đâu. Đó là chưa kể đến hậu quả hệ sinh thái bị phá vỡ, môi trường ô nhiễm nặng nề bởi các loại thuốc bảo vệ thực vật độc hại duy trì sự sống cho thứ cỏ nhân tạo, phát tán khắp nơi.
Bài viết ngắn gọn chưa đến 6 trang nhưng đầy ắp số liệu thống kê chuyên môn khiến bất cứ ai đọc qua cũng phải rùng mình bởi một đất nước đang thiếu trầm trọng không gian sinh tồn, diện tích canh tác bình quân đầu người thuộc loại thấp nhất thế giới, mà các vị lãnh đạo thích chơi sang, ký duyệt đến 123 dự án sân golf. Có lẽ Việt Nam ta cũng muốn lập thành tích đưa sân golf vào kỷ lục Guiness cùng với vô số tượng đài nghìn tỷ chăng? Chúng tôi không dám chắc, khi đọc được những thông tin dưới đây, các vị trong ban quản trị Hội golf liệu có tỉnh ra sau cơn mê sảng triền miên về một “không gian xanh, thân thiện với môi trường, là nơi nghỉ dưỡng lý tưởng” như ông phó Chủ tịch Hội từng trả lời báo chí: “Thưa ông. Có phải cỏ trồng trên sân golf phải nhập ngoại. Và đây là một loại cỏ được tạo ra hết sức đặc biệt bởi nó phi tự nhiên, vì nó phải sử dụng rất nhiều loại thuốc trừ sâu, trừ nấm, trừ cỏ dại và phân bón hóa học để chăm sóc nó luôn xanh mướt trên mặt sân. Số hóa chất dùng cho mối ha sân golf nghe đâu cao gấp 5 lần số thuốc trừ sâu và phân bón để chăm sóc ruộng đồng. Trung bình mỗi ha sân golf dùng tới 1,5 tấn hóa chất trong một năm. Như vậy một sân golf có diện tích 300 ha mỗi năm dùng tới 450 tấn hóa chất. Và một sân golf 20 lỗ, mỗi tháng phải dùng tới 150.000 mét khối nước” (“Thư ngỏ gửi ông Chủ tịch Hội Golf Việt Nam”, tr. 387). Và đây là những tác hại khôn lường từ trò chơi đế vương các đại gia lắm tiền: “Nước trên sân golf một phần ngấm vào lòng đất, một phần chảy trôi xuống các đầm ngòi, ao hồ, sông suối hoặc cánh đồng mà nó tiếp cận. Các hóa chất diệt sâu nấm và cỏ dại được máy móc phun lên phần không nhỏ khuếch tán vào không khí. Do đó việc nuôi dưỡng sân golf đã làm cho môi trường xung quanh từ mặt đất, trong lòng đất, nguồn nước và cả không khí bị ô nhiễm nặng nề. Nó không chỉ hủy hoại môi sinh, làm cạn kiệt nguồn nước và sau khi sân golf không còn khai thác nữa thì đất khó có thể dùng trở lại làm đất nông nghiệp bởi độ xốp, độ phì của nền đất cũ không còn nữa cùng với hệ vi sinh vật bị tiêu diệt hoàn toàn. Khoa học đã chỉ ra rằng, để có tầng đất màu dày khoảng 20 cm, thiên nhiên phải tạo dựng và tích lũy đến cả triệu năm” (“Thư ngỏ gửi ông Chủ tịch Hội Golf Việt Nam”, tr. 387-388).
Là người cầm bút chuyên nghiệp, Hoàng Quốc Hải luôn trăn trở về “nỗi niềm tác phẩm đỉnh cao” trong nền văn học Việt Nam. Tuy nhiên muốn có tác phẩm đỉnh cao lại phải có tự do sáng tác. Tự do sáng tác là chìa khóa mở cửa mọi thành công đối với văn nghệ sĩ, nhưng điều này dường như vẫn là sự cấm kỵ ở Việt Nam mấy chục năm qua. Chuỗi tham luận đọc trước các hội nghị lý luận phê bình qua các thời kỳ của Hoàng Quốc Hải đều nhấn mạnh vào điểm cốt yếu này.
“Nỗi niềm tác phẩm đỉnh cao” là một tham luận đọc tại Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII, năm 2005, Hoàng Quốc Hải nhận định: “Tình hình hiện nay, phải thừa nhận điểm yếu của văn chương Việt Nam là đơn điệu quá. Trên nửa thế kỷ qua tất cả chỉ nói theo một giọng điệu, viết theo một thi pháp. Bản thân nghệ thuật là khám phá, là luôn luôn tìm tòi đổi mới. Vậy mà 60 năm qua chỉ đi mỗi một con đường để cùng đến một mục đích làm gì chẳng cũ kỹ, sáo mòn. Lẽ ra phải tạo điều kiện để có nhiều con đường khác nhau, cùng đến chung một mục đích; đó là dân tộc, là Tổ quốc, là chủ nghĩa yêu nước” (“Nỗi niềm tác phẩm đỉnh cao”, tr. 351). Chưa dừng lại ở đây, bản tham luận còn nhấn mạnh nguyên nhân làm nên hiện tượng “văn học đồng phục” bởi nhà văn không có quyền tự do công bố tác phẩm. Tình trạng kiểm duyệt tùy tiện và “lệnh miệng” một cách ngẫu hứng khiến không ít người cầm bút rơi vào hội chứng “tự kỷ ám thị”, nghĩa là nỗi sợ hãi thường trực khiến tác giả phải tự kiểm duyệt bản thảo của mình trước khi bị cơ quan tuyên giáo kiểm duyệt.
Trên diễn đàn văn chương, Hoàng Quốc Hải công khai đưa ra giải pháp: “Để chấm dứt tình trạng mù mờ đó cần phải xây dựng một xã hội đối thoại, xã hội dân chủ. Vì vậy, mọi thứ phải được minh bạch trên tinh thần thượng tôn pháp luật. Tôi đề nghị nhà nước hãy trả lại cho văn chương, báo chí quyền tự do sáng tác, mà nhà nước đã trưng dụng trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vừa qua. Đó không chỉ là quyền tự do sáng tác của nhà văn, nhà báo mà còn là quyền được thông tin khách quan của công chúng. Chiến tranh đã chấm dứt 30 năm rồi mà văn chương, báo chí vẫn sống trong cảnh mù mờ. Cả nước có tới gần 1000 tờ báo và tạp chí, nhưng quy về chỉ có mỗi một tổng biên tập, tránh sao khỏi sự đơn điệu và sáo mòn” (“Nỗi niềm tác phẩm đỉnh cao”, tr. 352).
Như phần trên chúng tôi đã nói, Hoàng Quốc Hải là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết lịch sử nên ông rất quan tâm đến lịch sử dân tộc và cách ứng xử với lịch sử dân tộc của các thế hệ người Việt. Tình trạng học sinh “đói sử” nhưng không thích học sử mà lại chỉ thích sử tàu qua các bộ phim nhại sử nhảm nhí, cho thấy nền giáo dục Việt Nam đang có vấn đề nghiêm trọng. Từ việc chối bỏ lịch sử thậm chí làm biến dạng lịch sử, đến việc đánh mất cả một nền văn hóa chỉ còn là vấn đề thời gian. Trả lời phỏng vấn tạp chí Văn hóa Nghệ An, Hoàng Quốc Hải đưa ra những nhận định hết sức quan ngại: “Bảo tàng Lịch sử thì quy mô nhỏ, hoạt động rời rạc như bị chìm khuất, còn Bảo tàng Cách mạng thì từ trung ương xuống các tỉnh ngày một phình to và cứ xem cách họ trưng bày hiện vật, cách hướng dẫn khách tham quan, khiến ta có cảm giác lịch sử dân tộc được đồng hóa với lịch sử cách mạng (...). Việc làm đó không chỉ là việc làm phản khoa học lịch sử, mà nó còn tiềm ẩn nguy cơ suy thoái về mặt đạo lý, chắc sẽ phải gánh chịu hậu quả lâu dài...” (“Nỗi niềm tác phẩm đỉnh cao”, tr. 500).
Tản văn của Hoàng Quốc Hải như một tập đại thành những yếu tố văn hóa xã hội được trình bày với bút pháp đa dạng. Phong cách văn chương “Kẻ sĩ trước thời cuộc” hàm chứa nhiều thông tin nghệ thuật từ sự dấn thân của một ngòi bút tài hoa, đầy bản lĩnh cùng vẻ đẹp cổ điển của tiếng Việt hiện đại. Đó là thứ văn chương “ma mị” nhưng tiềm ẩn năng lượng sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào khiến ta không thể không đọc./.
Chí Linh, 4.12.2016
Đ.V.S.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

“Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”: Cái giá đắt đỏ của nước nghèo, không chịu lớn lên



Các thay đổi cơ bản của nền kinh tế tri thức đang dẫn đến nguy cơ các nước giàu hút rỗng ruột các nước nghèo như nhện thò vòi hút sạch máu của con mồi cho đến khi chết mà không cần phải trực tiếp sang xâm chiếm. Các nước nghèo có thể vẫn giữ được những giếng dầu, mỏ than nhưng là các giếng dầu, mỏ than rỗng ruột.

Các nước nghèo có thể vẫn giữ được những giếng dầu, mỏ than nhưng là các giếng dầu, mỏ than rỗng ruột. Ảnh minh họa. newszing.




Gần đây, có nhiều ý kiến bàn về cái gọi là “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4” sẽ tạo ra các lợi ích hết sức to lớn từ các sản phẩm và dịch vụ mới với chi phí không đáng kể phục vụ người tiêu dùng, làm cho cuộc sống của con người trở nên dễ dàng hơn và năng suất hơn. Cuộc “Cách mạng” này dự báo sẽ là một xu thế lớn có tác động đến phát triển kinh tế - xã hội toàn cầu, của mỗi quốc gia, khu vực, trong đó có Việt Nam.

Điều hết sức đáng lo ngại, thậm chí là nguy hiểm nếu chúng ta không có sự hiểu biết rõ ràng và cái nhìn tỉnh táo về bản chất của cái gọi là “cuộc cách mạng” này vì nếu chấp nhận nó mà thiếu hiểu biết thấu đáo sẽ dẫn đến những sai lầm trong việc  hoạch định chính sách, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, có thể ảnh hưởng đến vận mệnh tương lai của đất nước.

Năm 2011, thuật ngữ “Công nghiệp 4.0” xuất hiện lần đầu tiên trong một chiến lược về công nghệ cao của Chính phủ Đức nhằm thúc đẩy tin học hóa sản xuất thông qua kết nối máy móc và hệ thống điều khiển thông minh. Chưa đầy 5 năm sau, khái niệm “Công nghiệp 4.0” đã được mở rộng và Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN4) đã được lựa chọn làm chủ đề của Diễn đàn Kinh tế Thế giới diễn ra vào tháng 1/2016 tại Davos, Thụy Sỹ.

Nhiều tổ chức quốc tế, học giả, điển hình là Klaus Schwab, người sáng lập và là chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới 2016 dự báo “cuộc cách mạng này sẽ làm thay đổi căn bản cách con người sống, làm việc, và quan hệ với nhau”[1], do vậy nhiều quốc gia và đã và đang xem xét xây dựng các chiến lược, chính sách mới để tương thích với CMCN4.

Mặc dù vậy, cho đến nay chưa có một định nghĩa nào rõ ràng về cái gọi là cuộc cách mạng này ngoài một số ý kiến cho rằng nó dựa trên một số công nghệ như Internet of Things, Internet of service (Internet vạn vật và Internet dịch vụ) [2], trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây hay công nghệ in 3D…[3]

Trước hết, để nói một hiện tượng trở thành một cuộc cách mạng đặc biệt là cách mạng có tính chất toàn cầu, một trong những phương thức cổ điển nhưng đáng tin cậy nhất là nghiên cứu bản chất kinh tế chính trị của hiện tượng.

Theo định nghĩa, cách mạng là sự xóa bỏ cái cũ để thay thế bằng cái mới tiến bộ hơn. Nó hàm chỉ những thay đổi cơ bản, triệt để, có ý nghĩa và ảnh hưởng rộng khắp xảy ra trong khoảng thời gian tương đối ngắn, và đặc biệt, có sự thay đổi căn bản về lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX) trong đó có sở hữu tư liệu sản xuất (TLSX), công cụ sản xuất (CCSX) cũng như phân công lao động.

Lực lượng sản xuất

Từ trước đến nay, lịch sử nhân loại đã chứng kiến 03 cuộc cách mạng là cách mạng nông nghiệp, cách mạng công nghiệp và cách mạng CNTT, tạo ra các nền kinh tế nông nghiệp, công nghiệp và tri thức tương ứng, làm thay đổi căn bản cách thức con người lao động và sản xuất. CMCN 4 được cho là dựa trên sự phát triển của nhiều công nghệ, đặc biệt là Internet of Things, điện toán đám mây và công nghệ thông tin (CNTT)[4], của trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ in 3D, tự động hóa…, như vậy xét về mặt công nghệ, đó chính là CNTT. Do đó, có thể nói cái gọi là CMCN4 là giai đoạn phát triển tiếp theo của cách mạng CNTT chứ không phải là gì khác.

Những thay đổi về phương thức sản xuất nhờ CNTT như làm việc từ xa, học tập từ xa, kinh doanh từ xa, chính phủ từ xa (hay dưới thuật ngữ quen thuộc hơn là thương mại điện tử, chính phủ điện tử), máy móc thay thế con người, ảo hóa… đã được bàn nhiều trong các bài viết học thuật về cách mạng CNTT nên tác giả xin không được trình bày ở đây.

Điều khác biệt lớn nhất nếu có xảy ra so với các cuộc cách mạng về nông nghiệp, về công nghiệp, chính là nằm ở trong sự thay đổi về quan hệ sản xuất, đặc biệt là sự sở hữu, chiếm hữu về công cụ và tư liệu sản xuất và phân công lao động, mặc dù những sự thay đổi này diễn ra từ khi cách mạng về dịch vụ ra đời những năm 1960 của thế kỉ 20, được phát triển đặc biệt mạnh mẽ nhờ CNTT trong những năm cuối thế kỉ 20 và đầu thế kỉ 21 này, trong một cái gọi là “kinh tế tri thức”.

Nước nghèo và những giếng dầu, mỏ than rỗng ruột

Nói một cách khái quát, kinh tế tri thức là nền kinh tế tạo ra giá trị tư bản con người (human capital), bao gồm hàng hóa, dịch vụ dựa trên tri thức, có tính chất vô hình, phi trọng lượng và giá trị trao đổi cao (ví dụ thiết bị điện tử, phần mềm máy tính, đào tạo, tư vấn, vốn vay…) để trao đổi với các hàng hóa khác, trong đó có hàng hóa vật chất, chủ yếu là tư bản thiên nhiên (natural capital). Các trao đổi này được bảo hộ thông qua các định chế quốc gia, đa quốc gia và quốc tế như các hiệp định thương mại, điển hình là các hiệp định thương mại trong WTO.

Nếu như trong nền kinh tế công nghiệp thế kỷ 19, tư liệu sản xuất thuộc giới chủ, người lao động là công nhân không nắm giữ trong tay TLSX và cả 2 giới này chủ yếu ở trong cùng một quốc gia thì trong nền kinh tế tri thức hiện nay, TLSX và CCSX thuộc các nước giầu, người giầu hoặc các doanh nghiệp đa quốc gia của các nước giầu; người làm thuê, lao động thuộc các nước nghèo.

Như vậy trong nền kinh tế tri thức của thế kỉ 21, có sự thay đổi về phân công lao động mang tính toàn cầu thay vì sự phân công lao động trong lãnh thổ một quốc gia dẫn đến phân hóa giữa nước giầu và nước nghèo thay thế cho sự phân hóa giữa giai cấp tư bản và giai cấp vô sản của thế kỷ 19 và mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ một quốc gia dần dần được thay thế bằng mâu thuẫn giữa các quốc gia.

Dường như sẽ ý kiến cho rằng lập luận này đi ngược với trào lưu toàn cầu hóa với nhiều loại hiệp định thương mại tự do kiểu mới. Tuy nhiên, những hiện tượng dân tộc chủ nghĩa, bảo hộ nội địa đang dần lan rộng ở nhiều nước như Trung quốc, Nga, gần đây là Brexit ở Anh, Durtete ở Philippines hay Trumph ở Mỹ là những minh chứng rõ ràng cho xu thế này. Những người nghèo ở nước nghèo muốn tìm cách chống lại xu thế này bằng cách sang nước giầu để trở thành công dân của nước giầu như trào lưu nhập cư diễn ra mạnh mẽ ở Châu Âu cũng là một thí dụ điển hình khác của trào lưu bảo hộ và dân tộc kiểu mới.

Một điểm mới trong nền kinh tế tri thức là, có sự thay đổi về cách thức chiếm đoạt TLSX, tài nguyên thiên nhiên: nhiều học giả cho rằng nền kinh tế tri thức là nền kinh tế phi trọng lượng, trong đó hàng hóa tri thức thức có giá trị cao quan trọng hơn nhiều so với hàng hóa vật chất, do vậy những ngành kinh tế dựa trên công nghệ cao phải chiếm những vị trí cao hơn các  ngành truyền thống như nông nghiệp, khoáng sản, các chiến lược phát triển kinh tế do vậy cũng luôn có ưu tiên cho các ngành công nghệ mới như CMCN4 này…

Câu hỏi đặt ra là người nước giàu có cần ăn, có cần mặc, có cần sử dụng hàng hóa vật chất không? Tôi chắc chắn rằng câu trả lời là có, họ đều phải ăn, mặc, và có nhu cầu sử dụng hàng hóa vật chất. Tuy vậy, họ sẽ đạt được bằng cách nào? Bằng phương thức trao đổi hàng hóa tri thức hay dịch vụ để lấy hàng hóa vật chất (mà tôi gọi là đổi trí tuệ lấy vật chất - exchange of Mind for Mass).

Điều đặc biệt cần lưu ý là phương thức trao đổi luôn luôn bất bình đẳng, phân biệt đối xử giữa hàng hóa vật chất và hàng hóa phi vật chất. Các “tiêu chuẩn kép” trong toàn cầu hóa thể hiện qua một loạt định chế của WTO như Hiệp định về thương mại dịch vụ GATS, Hiệp định về nông nghiệp AoA, Hiệp định về thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ TRIPS[5].

Những tiêu chuẩn kép này còn thể hiện rõ ràng hơn trong các hiệp định thương mại tự do kiểu mới như Hiệp định xuyên Thái Bình dương TPP. Trong các hiệp định này, nếu hàng hóa vật chất phải chịu đánh mã HS để kiểm soát qua biên giới, chịu thuế cũng như kiểm soát về chất lượng cũng như qua các tiêu chuẩn, rào cản chất lượng thìi các hàng hóa tri thức, dịch vụ như dịch vụ CNTT và thương mại điện tử không chịu một mã HS nào, do vậy khi trao đổi qua biên giới không chịu kiểm soát, không chịu áp thuế, cũng như khó có thể đưa ra rào cản về chất lượng.

Một điểm quan trong nữa trong nền kinh tế tri thức là hàng hóa vật chất luôn có giá trị rẻ (mặc dù giá sử dụng có thể rất cao), thậm chí rất rẻ so với hàng hóa phi vật chất. Một thí dụ dễ nhìn là 2,6 tấn gạo Việt Nam xuất khẩu đổi được 1 chiếc iPhone 7+, còn bán bao nhiêu tấn gạo để mua được 1 chiếc Boing 787 Dreamliner cho Vietnam Airline? Sự khác biệt về giá này đi ngược lại hoàn toàn những quy luật căn bản nhất của nền kinh tế truyền thống là quy luật giá trị và quy luật cung cầu trong các học thuyết kinh tế, trong đó có học thuyết Marx.

Theo quy luật giá trị thì sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, còn theo luật cung cầu thì giá hàng hóa phụ thuộc vào sự điều chỉnh của thị trường khi đạt mức cân bằng giữa cung và cầu. Theo các quy luật này, hàng hóa có giá trị cao là hàng hóa có nhu cầu sử dụng cao hoặc là cung khan hiếm hoặc có hao phí lao động xã hội cao và ngược lại giá rẻ thì nhu cầu thấp hoặc do cung thừa hoặc hao phí lao động thấp.

Tuy nhiên thực tế thì hàng hóa vật chất luôn có nhu cầu cao, nhiều hàng hóa chỉ một người sử dụng được một lần, do vậy ngày trở nên khan hiếm, thậm chí cạn kiệt vĩnh viễn (không như ở thế kỷ 19 thời sự khan hiếm mang tính tương đối, tạm thời). Hàng hóa tri thức thì không khan hiếm. 1 phần mềm, một dịch vụ, một sản phẩm trí tuệ có thể sao chép để rất nhiều người sử dụng nhiều lần. Sự khan hiếm này được tạo ra một cách nhân tạo thông qua các quy định về bảo hộ về sở hữu trí tuệ.

Như vậy, trong nền kinh tế tri thức, các định chế đang đi ngược lại các quy luật kinh tế cơ bản nhất là cung cầu và giá trị, đang phát ra 1 tín hiệu hết sức sai lầm về sự dư thừa của hàng hóa vật chất và sự khan hiếm của hàng hóa phi vật chất trong khi đáng ra phải là ngược lại. Cũng do vậy, nền kinh tế tri thức tạo lợi ích cho tầng lớp giàu, người sở hữu TLSX trong đó có tri thức cao hơn hẳn người nghèo.

Liên quan đến lao động: lao động chân tay dần bị thay thế bởi máy móc đặc biệt bởi tự động hóa cho dù công nghệ mới cũng có thể tạo ra việc làm mới nhưng có khi không tạo ra công việc mới. Sự thay thế con người bằng máy móc, đặc biệt là CNTT và tự động hóa sẽ diễn ra khốc liệt hơn, dẫn đến nạn thất nghiệp sẽ ngày càng trầm trọng hơn đặc biệt là những lao động trình độ thấp nếu không có những sự đối phó kịp thời và phù hợp. Do vậy, việc đào tạo nhân lực về mặt công nghệ và tri thức mới cũng như xây dựng một môi trường hỗ trợ sáng tạo là sống còn để thích nghi cuộc cách mạng công nghệ này.

Các thay đổi cơ bản của nền kinh tế tri thức đã và đang dẫn đến nguy cơ suy kiệt tài nguyên dẫn đến nguy cơ về sự tồn vong của các nước nghèo trong khi các nước giầu đang giữ được tài nguyên cho tương lai, hút rỗng ruột các nước nghèo như nhện thò vòi hút sạch máu của con mồi cho đến khi chết mà không cần phải trực tiếp sang xâm chiếm. Các nước nghèo như Việt Nam có thể vẫn giữ được những giếng dầu, mỏ than nhưng là các giếng dầu, mỏ than rỗng ruột.

Như vậy, CMCN4 chỉ là một giai đoạn của cách mạng CNTT, của nền kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức là sự phát triển cao của kinh tế tư bản với những thay đổi căn bản về tạo giá trị, chiếm hữu tài nguyên và phân công lao động mang tính toàn cầu. Những thay đổi căn bản này đòi hỏi Việt Nam cần sớm có các nghiên cứu thấu đáo, toàn diện, kịp thời về nền kinh tế này nhằm có các chính sách phù hợp./.

Ts. Nguyễn Thanh Tuyên và  Ths. Trương Hữu Chung

 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Học giả Trung Quốc Lưu Á Châu Xác Nhận: Quá Trình Lịch Sử, Trung Quốc Không Có Quan Niệm về Chủ Quyền Biển




Học giả quân đội Trung Quốc Lưu Á Châu. Nguồn: internet
Học giả Lưu Á Châu [刘亚洲], Thượng tướng không quân, con rể Cố chủ tịch Trung Quốc Lý Tiên Niệm, là cây bút có tầm cở quốc tế. Trong bài nghiên cứu nhan đề Chúng Ta Ca Tụng Quang Minh Nhưng Mang Theo Ngàn Năm Hắc Ám [我们歌颂光明 却带来千年黑暗] ông có nhận xét về lịch sử như sau “Cái chìa khoá khiến Trung Quốc mất quyền ở biển, do trải qua các triều đại thống trị không có quan niệm về chủ quyền biển” [中国失去海洋的关键是历代统治者没有海权观念Trung Quốc thất khứ hải dương đích quan kiện thị lịch đại thống trị giả một hữu hải quyền quan niệm.]

Bài nghiên cứu của ông Lưu được báo mạng Trung quốc Cấm Văn đăng vào ngày 27/11/2016, giữa lúc Trung Quốc đang ra sức tranh dành Biển Đông. Ở địa vị Thượng tướng Không quân, ông không thể nêu thêm những chi tiết lịch sử trực tiếp phủ nhận chính sách hiện hành của nhà cầm quyền Trung Quốc. Bởi vậy, nhắm giúp độc giả hiểu rõ hơn, chúng tôi xin nêu lên những sử liệu liên quan đến việc “Các triều đại Trung Quốc không có quan niệm về chủ quyền biển”:

Lịch sử từng chép những chuyến hành trình trên biển của Trung Quốc xuống vùng Đông Nam Á qua các đời. Như thời nhà Tuỳ, Thường Tuấn từ tỉnh Quảng Đông [Nam Hải] vượt biển trải qua 2 tuần [20 ngày] đến đảo Tiêu Thạch Sơn, rồi tới gần nước Lâm Ấp [Chiêm Thành]:

Tháng 10 năm Ðại Nghiệp thứ 3 [607] bọn Thường Tuấn từ quận Nam Hải đáp thuyền, qua ngày đêm 2 tuần, gặp gió thuận đến đảo Tiêu Thạch Sơn, rồi qua đông nam ghé đến châu  Lăng Già Bát Bạt Ða, phía tây đối diện với nước Lâm Ấp, tại đó có đền thờ thần [大 業 三 年 十 月, 常 駿 等 自 南 海 郡 乘 舟,晝 夜 二 旬,每 值 便 風 至 焦 石 山,而 過 東 南,泊 陵 伽 鉢 拨 多 洲,西 與 林 邑 對,上 有 神 祠 焉] (1)

Dưới thời Minh, Phí Tín đảm nhiệm chức vụ Thông sự [Thông dịch viên] cho Thái giám Trịnh Hoà, kể lại cuộc hành trình xuống vùng Đông Nam Á qua tác phẩm Tinh Tra Thắng Lãm, trong đó nêu lên chi tiết tiêu biểu về cuộc hải hành đến Chiêm Thành như sau:

Năm Kỷ Sửu Vĩnh Lạc thứ 7 [1409], nhà vua sai Chánh sứ Thái giám Trịnh Hoà thống lãnh quan binh, sử dụng 48 chiếc hải thuyền, đến các nước Phiên tuyên đọc ban thưởng. Cùng năm đó, vào mùa thu tháng 9 xuất phát tại cảng Lưu Gia, huyện Thái Thương [Tô châu, tỉnh Giang Tô], đến tháng 10 ghé tại cảng Thái Bình, huyện Trường Lạc, tỉnh Phúc Kiến. Tháng 12, khởi hành tại Ngũ Hổ Môn, Phúc Kiến ra biển, trương 12 buồm thuận theo chiều gió, hàng hành 10 ngày đêm đến nước Chiêm Thành.

Những chuyến đi này chỉ là những cuộc viếng thăm, hoàn toàn không xác định quyền lãnh hải; cũng tương tự như Sứ giả Bồ Đào Nha, Fernao Perez Andrade [An Ðức Lỗ Ðức], từng đến thăm Trung Quốc dưới thời Minh [1517], nhưng người Bồ chưa bao giời dám xác nhận Trung Quốc thuộc về Bồ. Tiếp đến vào giữa triều Minh, miền duyên hải thường xuyên bị cướp biển Nhật tấn công, quân lính Trung Quốc bất lực trong các cuộc hải chiến, nên chính quyền lúc bấy giờ chủ trương di cư dân tại vùng ven biển vào trong nội địa, hoàn toàn phủ nhận chủ quyền biển.

Dưới thời Minh Gia Tĩnh thứ 26 [1547], hàng trăm thuyền Nuỵ [Nhật] đến cướp phá tại Ninh Ba [Ningbo]; mấy ngàn quân đổ bộ cướp đốt. Tuần phủ Chiết Giang Chu Hoàn điều tra biết rằng những chủ thuyền đều là những quan to, hoặc thuộc dòng họ lớn, buôn bán với Nuỵ, qua lời nói trung gian để kiếm lời to, nhưng hàng không giao đúng lúc, do vậy gây nên loạn. “Bèn cấm biển nghiêm khắc, cho huỷ thuyền, tâu xin giáng chức những người thuộc họ lớn.” _Minh Sử quyển 81, Chí 57, Hoá Thực 5_。( 乃嚴海禁,毀餘皇,奏請鐫諭戒大姓 – 卷八十一 志第57 食貨五).

Thời Thanh Khang Hy thứ 17 [1678], trong cuộc họp các Vương, Đại thần bàn việc chính trị; xét tình hình an ninh biển lúc bấy giờ; nhà vua ban dụ tiếp tục theo chính sách cũ, bỏ các đảo ven biển xung quanh Hạ Môn [Xiamen, Phúc Kiến], di cư dân chúng vào nội địa, ra lệnh triệt để cấm biển:

“ Giặc biển bàn cứ tại các xứ như Hạ Môn [Xiamen, Phúc Kiến], cấu kết với giặc trong núi, phiến động mê hoặc địa phương, nguyên do dựa vào dân ven biển tại vùng tỉnh Phúc Kiến. Đáng theo lệ vào năm Thuận Trị thứ 18 [1661] lập ranh giới, đem dân chúng ngoài ranh giới đồng loạt di cư vào nội địa; thân sức cấm biển nghiêm, tuyệt đường giao thông.” (Khang Hy Thực Lục, năm thứ 17)

(…海寇盤踞廈門諸處、勾連山賊、煽惑地方、皆由閩地瀕海居民為之藉也。應如順治十八年立界之例、將界外百姓、遷移內地。仍申嚴海禁、絕其交 通。)

Dưới thời Gia Khánh, nhắm giúp việc cấm biển được hữu hiệu hơn; qua chỉ dụ gửi cho Tổng đốc Quảng Đông, vua Gia Khánh chủ trương tra xét bọn tiếp tế trên bờ, trừng trị nghiêm khắc, để tuyệt đường liên lạc với bọn cướp biển.

Ngày 2 Kỷ Tỵ tháng 12 năm Gia Khánh thứ 12 [30/12/1807]

…Ðiều đó khẳng định rằng việc cấm bọn phỉ tiếp tế tất phải nghiêm tra trên bờ, làm vững rào dậu là biện pháp chính. Phúc Kiến nghiêm cấm tiếp tế tại cửa biển, thực hiện hữu hiệu, tỉnh Quảng Ðông cần nhất luật thực hiện...” (Nhân Tông Thực Lục quyển 189, trang 7)

Thời gian trôi qua, vào thời cuối Thanh qua sự tiếp xúc với Tây phương, giúp người Trung quốc hiểu rõ vị trí đặc thù và tài nguyên phong phú của biển cả. Một người tỏ ra bén nhạy với thời cuộc là viên Thuỷ sư đề đốc Lý Chuẩn; y lợi dụng tình trạng Việt Nam trong vòng đô hộ, nên vào năm Quang Tự thứ 33 [1907] mang các tàu như Phục Ba, Sâm Hàng đến đảo Hoàng Sa để giành chủ quyền. Điều kẹt cho y, quần đảo này chưa hề nằm trong lãnh thổ Trung Quốc nên các đảo không có tên; bởi vậy y bèn tuỳ tiện lấy tên hai tàu “Phục Ba”, “Sâm Hàng” đặt tên cho 2 đảo, lấy tên quê y là “Lãnh Thuỷ” đặt tên cho một đảo khác, rồi nhân có giếng nước ngọt trên một đảo, bèn đặt tên đảo này là “Cam Tuyền”. Nhắm khua chiêng gióng trống cho mọi người biết, y cho bắn đại bác, treo cờ; khắc bia trên hòn đảo được đặt tên là Phục Ba, với hàng chữ như sau “ Đại Thanh Quang Tự năm thứ 33, Thuỷ sư Quảng Đông Đề đốc Lý Chuẩn tuần thị đến nơi này.” (2) Đây là lần đầu tiên Trung Quốc lên tiếng dành chủ quyền biển đảo.

*

Bàn về chuyện người xong, hãy quay sang nói về mình. Tại Việt Nam dưới thời Tiền Lê, trong cuộc tiếp xúc với Sứ thần Trung Quốc Lý Nhược Truất vào năm Bính Thân [996], vua Lê Đại Hành đã khẳng định chức phận của An Nam là giữ an ninh biển Trướng Hải, Tổng sử quyển 488, Liệt truyện Giao Chỉ, trích dẫn như sau:

Hoàn ngạc nhiên dời chiếu đứng dậy nói: Hải tặc phạm biên, là tội của thủ thần; Thánh quân khoan dung, ơn quá cha mẹ, không gia tru phạt. Từ nay cẩn thận giữ chức phận đã giao, giữ yên nơi Trướng Hải.”  [桓愕然避 席,曰:「海賊犯邊,守臣之罪也。聖君容貸,恩過父母,未加誅責。自今謹守職約,保永清於漲海].”

Theo sử chí Trung Quốc như Nhĩ Nhã của Quách Phác, Phù Nam Liệt Truyện của Khang Thái, thì vị trí Trướng Hải tại miền đông nước Việt Nam, chạy dọc từ bắc chí nam; giáp với các nước An Nam, Chiêm Thành, Chân lạp thời xưa, tương đương với Biển Đông ngày nay.

Một sự kiện lịch sử khác cũng xãy ra tại Biển Đông dưới thời Minh Hồng Vũ. Lúc bấy giờ chính quyền cũ tại miền Trung Việt Nam do Vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga [tên xưng với Trung quốc là Ha Đáp Ha Giả] quản lý. Vị Vua này sai Sứ thần dâng biểu báo tin bắt được bọn cướp trên biển, Vua Minh Thái Tổ bèn khen thưởng; nội dung ghi tại văn bản dưới đây:

Ngày 29 tháng 8 năm Hồng Vũ thứ 6 [16/9/1373]

Quốc vương Chiêm Thành Ha Đáp Ha Giả sai bọn bầy tôi Dương Bảo Ma Ha, Bát Đích Duyệt Văn Đán mang biểu cống sản vật địa phương. Lại tâu rằng bọn giặc biển Lâm Nhữ Hậu, Trương Phúc tự xưng là Nguyên soái cướp phá trên biển, bị Quốc vương đánh bại. Bọn Nhữ Hậu bị chết trôi, bắt được 20 chiếc thuyền biển, 7 vạn cân tô mộc, cùng tên giặc Ngô Đệ Tứ đem đến hiến.

Thiên tử vui lòng, mệnh ban cho Vương nước này 40 tấm lụa là, lụa văn ỷ; cho Sứ giả 2 tấm lụa là, 4 tấm lụa văn ỷ, 1 bộ y phục, 1 vạn 2 ngàn đồng tiền; những người đi theo được ban thưởng có phân biệt. (Minh thực Lục, V.4, tr1505; Thái tổ quyển 84, trang 7a)

Qua những sử liệu vừa nêu thấy được các triều đại thống trị Trung Quốc tỏ ra hoan hỷ về việc các chính quyền trên lãnh thổ Việt Nam hành sử chủ quyền tại Biển Đông. Vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga được khen thưởng; riêng Sứ thần Lý Nhược Truất đời Tống lúc trở về nước, được vua Thái Tông thăng chức, chứng tỏ việc vua Lê Đại Hành hứa giữ an ninh Trướng Hải là một thắng lợi ngoại giao của Trung Quốc. Đến đời Hậu Lê, nước An Nam nhiều lần bắt giặc cướp biển và giữ yên bờ cõi phương nam, nên được vua Thanh Càn Long năm 49 [1784] ban biển ngạch với 4 chữ Nam Giao Bình Hàn [『南交屏翰』扁額] tức làm rào dậu yên bờ cõi đất Nam Giao.

Đến đời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn đã đặt các đội đặc nhiệm, như Hoàng Sa, Bắc Hải hoạt động trên Biển Đông; công việc của các đội này được ghi rõ trong các sách như Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn; Sử, Chí của triều đình như Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Chính Biên;Đại Nam Nhất Thống Chí, và Châu Bản triều Nguyễn. Nói tóm lại kể từ thời kỳ khởi đầu tự chủ tại thế kỷ thứ 10 cho đến ngày nay, chính quyền tại Việt Nam qua các đời đã kế tục hành sử chủ quyền tại Biển Đông.

Tác giả: Hồ Bạch Thảo
Đại Sự ký Biển Đông
Chú thích:
  1. Nhị Thập Tứ Sử, Tuỳ Thư.
  2. Lý Chuẩn khắc trên đá tại đảo y đặt tên là Phục Ba, như sau: 大清光绪三十三年广东水师提督李准巡视 至此” (Đại Thanh Quang Tự năm thứ 33 [1907] Thuỷ sư Đề đốc Lý Chuẩn tuần thị đến nơi này)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc trả tàu lặn lại cho Mỹ ‘đúng cách thức’



Tư liệu - Tàu khảo sát dưới mặt nước Deep Drone của Hải quân Hoa Kỳ.

Bắc Kinh lên án Mỹ hôm thứ Sáu đã “cường điệu hóa” vụ hải quân Trung Quốc “thu bắt” một thiết bị lặn không người lái của hải quân Mỹ ở hải phận quốc tế trong Biển Đông, trong lúc quân đội hai nước đang tiếp xúc để “giải quyết đúng cách thức” sự việc này.

Người phát ngôn Dương Vũ Quân của Bộ Quốc phòng Trung Quốc nói trong thông báo hôm thứ Bảy rằng Bắc Kinh cũng lên án Washington “đưa tàu thuyền vào chỗ có sự hiện diện của Trung Quốc để thực hiện những khảo sát quân sự chi tiết. Trung Quốc kiên quyết phản đối việc làm đó và yêu cầu Mỹ chấm dứt những hành động như vậy.”

Phát ngôn viên Ngũ giác đài Peter Cook cho biết hôm thứ Bảy rằng quân đội Mỹ đã nghe Trung Quốc phản hồi và đã có sự thông hiểu rằng tàu lặn sẽ được trả lại, dù ông không không cho cho biết việc này sẽ diễn ra vào lúc nào.

"Chúng tôi đã nêu lên sự phản đối của chúng tôi đối với việc Trung Quốc thu giữ trái phép tàu lặn không người lái của Mỹ hoạt động trong vùng biển quốc tế ở Biển Đông. Thông qua việc giao tiếp trực tiếp với chính quyền Trung Quốc, chúng tôi có được sự thông hiểu rằng Trung Quốc sẽ trao trả tàu lặn không người lái cho Hoa Kỳ," ông nói trong một thông cáo.

Tổng thống đắc cử Donald Trump của Mỹ sáng thứ Bảy, trên Twitter, đã lên án việc Trung Quốc thu bắt thiết bị lặn không người lái của Mỹ, và gọi đó là hành động “chưa từng có.”

Trung Quốc hôm thứ Bảy 17/12 cho hay quân đội của họ đang liên lạc với phía Mỹ để “giao trả lại đúng cách thức” một thiết bị lặn không người lái của Hải quân Mỹ bị Trung Quốc “bắt” trong hải phận quốc tế ở Biển Nam Trung Hoa, tức Biển Đông.

Bắc Kinh không cho biết khi nào vụ này mới được giải quyết.

Ngũ giác đài sử dụng các kênh ngoại giao để yêu cầu Trung Quốc ngay lập tức trả lại thiết bị lặn không người lái khảo sát đại dương và yêu cầu Trung Quốc không lập lại những vụ việc như vậy nữa. Mặc dù không có người lái, thiết bị lặn tự hành này vẫn thuộc chủ quyền và được bảo vệ của tàu hải quân Mỹ.

Đại tá Hải quân Jeff Davis, phát ngôn viên Ngũ giác đài, nói: “Đây là một hành động bất tuân luật pháp quốc tế. Rõ ràng chúng tôi không xem một quân đội chuyên nghiệp như của Trung Quốc lại đi làm một chuyện không xứng tầm như vậy.”

Đại tá Davis nói với các phóng viên báo chí rằng một tàu khảo sát hải dương có người điều khiển của Hải quân Mỹ hôm thứ Năm đang thu hồi hai thiết bị lặn không người lái “bị ngưng hoạt động dưới lòng biển” cách Vịnh Subic của Philippines khoảng 93 kilômét thì một tàu hải quân Trung Quốc xuất hiện.

Ông Davis nói tàu khảo sát của Mỹ “đã cố gắng liên lạc qua sóng radio, yêu cầu trả thiết bị lại. Tàu Hải quân Trung Quốc phản hồi có nhận sóng liên lạc radio, có nghĩa là sóng radio thông suốt, nhưng tàu chiến Trung Quốc vẫn phớt lờ yêu cầu trả thiết bị.”

Người phát ngôn của Ngũ giác đài này nói tiếp rằng Trung Quốc không cho biết lý do họ thu bắt thiết bị lặn không người lái mà ông nói trị giá khoảng 150.000 đôla này.

Thủy thủ của tàu chiến Trung Quốc trong lúc tàu của họ rời khỏi địa điểm đó đã trả lời bằng sóng radio cho tàu của Mỹ rằng “chúng tôi tiếp tục hoạt động thường nhật của chúng tôi,” theo lời Đại tá Davis.

Ngũ giác đài nói rằng hai thiết bị lặn đang thực hiện những khảo sát để tìm giải đáp cho một số thông tin, trong đó bao gồm những dữ liệu như nhiệt độ, độ trong, độ mặn của nước biển và tốc độ âm thanh lan truyền trong môi trường nước đó. Các dữ liệu giúp việc nghiên cứu về định vị dưới nước được Hải quân Mỹ khảo sát và thu thập ở các hải phận quốc tế trên khắp thế giới.

Hai thiết bị lặn này được lập trình để tự vận hành và dừng lại trong hải phận quốc tế ở Biển Đông để tàu khảo sát thu hồi.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đô đốc Mỹ: Washington sẵn sàng đương đầu với Trung Quốc ở Biển Đông



Dân trí Phát biểu tại Viện Lowy, Đô đốc Harry Harris, Chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân Mỹ, ngày 14/12 khẳng định nước này sẽ không để Trung Quốc tự ý hành động ở Biển Đông và sẵn sàng đương đầu khi cần thiết.
 >> Trung Quốc ngang nhiên điều máy bay ném bom H-6 tuần tra Biển Đông
 >> Ông Trump chỉ trích Trung Quốc xây căn cứ quân sự phi pháp ở Biển Đông


Đô đốc Harry Harris (Ảnh: The Australian)
Trong bài phát biểu, Đô đốc Harry Harris đã kêu gọi các quốc gia tham gia vào hoạt động tuần tra bảo đảm tự do hàng hải trong khu vực, đồng thời nhấn mạnh Mỹ sẵn sàng đương đầu với Trung Quốc khi cần thiết và sẽ không cho phép Bắc Kinh tiếp tục triển khai các hoạt động bồi đắp đảo trái phép trong khu vực.
Chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương nêu rõ: "Chúng tôi sẽ không cho phép các khu vực chung bị "đơn phương" kiểm soát, bất chấp việc có bao nhiêu căn cứ được xây dựng trên các đảo nhân tạo tại Biển Đông. Chúng tôi sẽ hợp tác trong những lĩnh vực mà chúng tôi có thể song chúng tôi cũng sẵn sàng đối đầu khi cần thiết".
Theo Đô đốc Harry Harris, Mỹ đã ký một thỏa thuận với Australia về việc Canberra đồng ý cho Washingon triển khai các khí tài tới nước này trong năm 2017. Ông cho biết có khả năng quân đội Mỹ sẽ triển khai chiến đấu cơ F-22 tại Australia trong thời gian tới và nếu điều này trở thành hiện thực, đây sẽ là thông điệp mạnh mẽ về sự hiện diện trong khu vực mà Mỹ muốn gửi đi.
Ngoài ra, Đô đốc Harry Harris cũng đề cập tới vai trò của Australia trong vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông. Theo đó, Canberra có thể đưa ra quyết định của riêng mình trong việc có tham gia tuần tra chung với Mỹ ở Biển Đông hay không. Ông cũng khẳng định rằng việc tiến hành hoạt động tuần tra bảo đảm tự do hàng hải không phải là biện pháp nhằm ngăn chặn Trung Quốc nhưng là cách để duy trì quyền lợi của tất cả các nước trong khu vực, gồm cả Bắc Kinh.
Đô đốc Harry Harris nhấn mạnh: "Trong bối cảnh Hải quân Trung Quốc ngày càng phát triển và vươn ra tới tầm toàn cầu, họ sẽ phải tôn trọng tự do hàng hải ở các nước và khu vực khác trên thế giới".
Về quan hệ đồng minh giữa Mỹ và Australia trong thời gian tới, đặc biệt là khi Tổng thống đắc cử Donald Trump lên nắm quyền, Đô đốc Harry Harris cho rằng mối quan hệ đồng minh song phương vẫn sẽ là điểm tựa cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ông nói: "Mối quan hệ này dựa trên giá trị, sự tôn trọng và phương thức giải quyết chung. Tôi tin rằng chính quyền sắp tới tại Mỹ cũng sẽ chia sẻ những nhận thức này. Không nên nghi ngờ về sức mạnh của quan hệ đồng minh giữa hai nước trong quá trình duy trì an ninh, hòa bình và thịnh vượng của khu vực".
Tuyên bố nêu trên của Đô đốc Harry Harris được đưa ra vào thời điểm căng thẳng được dự báo sẽ gia tăng trong quan hệ song phương giữa Mỹ và Trung Quốc trong thời gian tới. Mới đây, Tổng thống đắc cử Donald Trump đã có cuộc điện đàm với nhà lãnh đạo Đài Loan và tuyên bố sẽ xem xét lại chính sách "Một Trung Quốc". Còn trong tuần trước, Thượng nghị sĩ Mỹ Marco Rubio đã đệ trình lên Thượng viện một dự luật tên gọi "Đạo luật Trừng phạt Biển Đông và Biển Hoa Đông 2016", trong đó đề xuất một kế hoạch trừng phạt những thực thể và cá nhân Trung Quốc "tham gia các hoạt động bất hợp pháp ở Biển Đông và Hoa Đông".
Ngọc Anh
Tổng hợp

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc dùng vụ thu giữ tàu lặn của Mỹ ở Biển Đông để "thử" ông Trump?



Dân trí

 Một chuyên gia Mỹ cho rằng, việc Trung Quốc thu giữ một thiết bị lặn không người lái của Hải quân Mỹ tại vùng biển quốc tế ở Biển Đông có thể là một tín hiệu gửi tới Tổng thống đắc cử Donald Trump rằng Bắc Kinh sẽ không xem nhẹ cuộc điện đàm giữa ông với lãnh đạo Đài Loan mới đây.
 >> Trung Quốc chiếm giữ tàu lặn của Mỹ ở Biển Đông
 >> Trung Quốc lớn tiếng tuyên bố tiếp tục tuần tra Biển Đông và Hoa Đông



Một tàu lặn không người lái của Mỹ (Ảnh: USNS)
Một tàu lặn không người lái của Mỹ (Ảnh: USNS)
Ông Harry Kazianis, giám đốc nghiên cứu quốc phòng tại Trung tâm Lợi ích Mỹ, nói với tờ The Hill rằng dựa trên những hiểu biết về các quan chức quân đội Mỹ trong nhiều năm và cách thức các mệnh lệnh được truyền tải từ các trung tâm quyền lực cao nhất ở Bắc Kinh tới các chỉ huy trên mặt đất hay trên biển, ông cho rằng “đây rất có khả năng là một động thái theo thang và đã được lên kế hoạch nhằm chứng tỏ rằng Trung Quốc sẽ không xem nhẹ các vấn đề sau cuộc điện đàm của Tổng thống đắc cử Trump và các bình luận về Đài Loan, hay các hành động của Trung Quốc nói chung”.
Trước đó, Bộ Quốc phòng Mỹ ngày 16/12 đã lên tiếng “tố” Trung Quốc thu giữ bất hợp pháp một tàu lặn không người lái của Mỹ khi thiết bị này hoạt động trong vùng biển quốc tế ở Biển Đông và yêu cầu Bắc Kinh trả lại nó ngay tức thì.
Ông Trump đã có cuộc điện đàm với lãnh đạo Đài Loan Thái Anh Văn mới đây, trong đó bà Thái chúc mừng ông về chiến thắng bầu cử, trong một động thái nhằm phá vỡ nghi thức ngoại giao nhiều thập niên qua. Không tổng thống Mỹ hay tổng thống đắc cử nào trò chuyện với một lãnh đạo Đài Loan kể từ khi Mỹ bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vào năm 1979. Trung Bắc Kinh xem Đài Loan là một tỉnh ly khai cần thống nhất.
Cả ông Trump và bà Thái đều giảm nhẹ tầm quan trọng của cuộc điện đàm, nhưng vụ việc đã khiến Trung Quốc đưa ra sự phản đối chính thức đối với Mỹ.
Ông Kazianis dự đoán rằng Trung quốc sẽ “gia tăng thử thách” chính quyền Trump khi ông này nhậm chức vào tháng 1 tới, nhưng Bắc Kinh đã làm với các chính quyền Mỹ trước đó trong quá khứ.
Trung Quốc có thể ngang ngược lập vùng nhận dạng phòng không?
Theo ông Kazianis, Trung Quốc có thể tuyên bố một vùng nhận dạng phòng không ở Biển Đông, như nước này đã làm ở Hoa Đông vào năm 2013, như một cách để thử thách ông Trump trong 6 tháng đầu của nhiệm kỳ. Một động thái như vậy có thể làm leo thang căng thẳng với cả Mỹ và các quốc gia láng giềng của Trung Quốc, vốn lo ngại về các tranh chấp lãnh thổ.
“Tổng thống George W. Bush đã bị Trung Quốc thử thách chỉ 77 ngày sau khi nhậm chức vào năm 2001, khi một máy bay chiến đấu Trung Quốc đâm va với một máy bay trinh sát Mỹ, trong một vụ việc có tên gọi EP-3”, ông Kazianis cho hay.
“Sau đó, Bắc Kinh cũng thử thách Tổng thống Obama chỉ 44 ngày sau khi ông nhậm chức, khi các tàu Trung Quốc bao vây một tàu hải quân Mỹ. Dường như ông Trump chắc chắn cũng gặp phải tình huống tương tự”, chuyên gia trên nhận định.
Trước đó, Đô đốc về hưu James Stavridis, Tư lệnh các lực lượng NATO trong thời gian từ 2009-2013, đã dự đoán rằng các đối thủ của Mỹ nhưng Trung Quốc, Nga, Iran, Triều Tiên có thể gia tăng các hành động tiêu cực nhằm thử thách chính quyền sắp tới.
“Tôi chắc chắn rằng tất cả những nước đang gây sức ép với Mỹ giờ đây sẽ hành động thậm chí mạnh hơn đối với chính quyền mới thằm thử thách và xem đâu là giới hạn và đó sẽ là một thời kỳ nguy cơ cao nhất”, ông Stavridis, giám đốc Trường Luật và ngoại giao Fletcher thuộc Đại học Tufts, của Mỹ cho biết với The Hill trong cuộc phỏng vấn hôm 6/10.
“Sẽ có một giai đoạn thử thách không thể tránh được diễn ra sau khi chính quyền mới đi vào hoạt động và điều đó đòi hỏi sự cảnh giác hơn và một nỗ lực tiếp theo nhằm chứng tỏ rõ ràng chúng ta sẽ không nhượng bộ đối với các cuộc đối đầu dẫn tới mối nguy hiểm thực sự cho người dân hoặc nguy cơ leo thang”, ông Stavridis nói.
Hồi đầu năm nay, Tướng Joseph Dunford, Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ, phát biểu trước quốc hội rằng các đối thủ của Mỹ đang tìm cách thách thức Mỹ theo hướng sẽ không gây ra một cuộc xung đột quân sự tổng lực.
Ông Kazianis đồng tình với đánh giá trên.
“Trung Quốc rõ ràng đang cố thử thách Mỹ theo hướng rất khó để Washington đáp trả. Trong vụ thu giữ tàu lặn không người lái, Washington có rất ít phương án khả thi mà chỉ có thể yêu cầu trả lại, hoặc leo thang tình hình theo một cách làm gia tăng căng thẳng”, ông Kazianis nói.
An Bình

Phần nhận xét hiển thị trên trang