Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ nói gì ở Việt Nam?
























VOA - Người đứng đầu Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương của Hoa Kỳ tuyên bố “không thể xem thường” vấn đề an ninh biển khi tham dự lễ khánh thành cơ sở bảo dưỡng và sửa chữa tàu của cảnh sát biển Việt Nam.

Trong chuyến thăm Việt Nam, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ, Đô đốc Harry B. Harris, hôm 28/10, đã cùng với các quan chức Mỹ và Việt Nam như Thiếu tướng Bùi Trung Dũng, Phó Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam, Tổng Lãnh sự Hoa Kỳ Mary Tarnowka và Đại tá Đào Hồng Nghiệp, Tư lệnh Vùng Cảnh sát biển 2, đã dự lễ khánh thành một cơ sở sửa chữa bảo dưỡng tàu cảnh sát biển Việt Nam tại Quảng Nam.

Theo thông cáo của Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội, cơ sở này được xây dựng “với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ”, và “giúp nâng cao năng lực của Cảnh sát biển Việt Nam trong việc huấn luyện nhân viên và bảo dưỡng tàu nhằm ngăn chặn hiệu quả và đối phó với các mối đe dọa trên biển dọc theo bờ biển của Việt Nam”.

Phát biểu tại lễ khánh thành, Đô đốc Harris nói: “Các cơ sở này thể hiện cam kết của Hoa Kỳ trong việc tăng cường hợp tác song phương và cam kết của Việt Nam đối với an ninh hàng hải của nước mình. Hoạt động đào tạo các sĩ quan cảnh sát biển Việt Nam sẽ mang lại tác động lâu dài và là biểu tượng cho cam kết bền vững của chúng tôi dành cho Việt Nam và khu vực”.

Hoa Kỳ tuyên bố rằng cơ sở bảo dưỡng trên “chứng rõ ràng của quan hệ đối tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, thể hiện cam kết chung trong việc tăng cường quan hệ quân sự song phương, đặc biệt trong các lĩnh vực an ninh biển, thực thi luật pháp và các nỗ lực tìm kiếm, cứu hộ”.

Đô đốc Harris nói thêm: “An ninh biển là lĩnh vực ảnh hưởng đến tất cả chúng ta và là điều chúng ta không thể xem thường. Những cơ sở tốt này là một minh chứng cho công việc vất vả và sự cống hiến của rất nhiều người nhằm nâng cao khả năng chung của chúng ta trong việc đối phó với các thách thức an ninh biển”.

Trong thời gian thăm Việt Nam, Đô đốc Harris có các cuộc nói chuyện với lãnh đạo Việt Nam ở Hà Nội, thăm Bệnh viện Quân y 175 và chùa Ngọc Hoàng ở thành phố Hồ Chí Minh và gặp gỡ lãnh đạo Ủy ban Nhân dân và Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân ở Đà Nẵng.

Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ tới thăm Việt Nam đúng tuần người được cho nhiều khả năng lên kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng tới thăm Hoa Kỳ, sau khi hội kiến Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ở Bắc Kinh.

Phát biểu bên cạnh ông Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư của Việt Nam, hôm 25/10, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đề cập tới tới “các sáng kiến mới liên quan việc phản ứng trong tình thế khẩn cấp, hợp tác chống khủng bố cũng như khả năng thúc đẩy pháp quyền ở biển Đông”.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bí thư Hà Tĩnh 'ngã ngửa' khi thuỷ điện xả lũ


Lê Minh
VNN - Trực tiếp kiểm tra thuỷ điện Hố Hô sáng nay, Bí thư Tỉnh uỷ Hà Tĩnh Lê Đình Sơn cho biết thuỷ điện này xả lũ khi chưa có sự chỉ đạo của tỉnh.

Ông Sơn cho biết, từ hôm qua đến nay, tỉnh Hà Tĩnh chưa có chỉ đạo xả lũ, kể cả hồ Kẻ Gỗ. Thế mà sáng nay, khi kiểm tra tại công trình thuỷ điện Hố Hô thì đoàn kiểm tra rất bất ngờ vì công trình này tự ý xả nước từ tối qua.

“Tôi khẳng định là tỉnh chưa ban hành lệnh xả, tuy nhiên, khi kiểm tra, thuỷ điện Hố Hô đã xả và thay đổi lưu lượng xả từ đêm qua. Việc này đã vi phạm chỉ đạo của tỉnh”, ông Sơn nói.

Theo ông Sơn, qua kiểm tra ban đầu, thuỷ điện Hố Hô chấp hành không nghiêm túc. Kiểm tra sâu hơn, thuỷ điện Hố Hô chưa kiểm soát, điều tiết lưu lượng nước xả của hồ đồng thời không tính toán được việc xả lũ vùng hạ lưu ngập lụt như thế nào.

“Chúng ta phải có bản đồ ngập lụt, chưa có hệ thống cảnh báo để người dân chủ động phòng tránh. Từ nay đến cuối năm cứ lặp lại như thế này thì vùng hạ lưu của Hà Tĩnh vẫn cứ tiếp tục ngập lụt. Tôi đề nghị sau việc này cần phải có giải trình cụ thể” - ông Sơn nói.


Đại diện thuỷ điện Hố Hô cho biết, do nước lũ về quá nhanh nên buộc phải xả. Tuy nhiên lưu lượng xả rất thấp, chỉ xả ở mức 126 m3/giây.

Trong đêm, do nước về quá cao, xấp xỉ khoảng 800 m3/giây nên công ty đã tăng lưu lượng xả.

“Việc này chúng tôi đã xin chỉ đạo cả đêm, không điều tiết thì sẽ tràn mất”, vị đại diện thuỷ điện Hố Hô nói.

Ông Sơn cho rằng, việc xả lũ hoàn toàn phải có tính toán, chứ không thể 2h đêm mới xả. Xả lũ thì phải tính toán xả ban ngày, chứ không thể trong đêm tăng lượng xả, người dân sẽ không chủ động tránh được.



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Siêu lạm phát khiến người Venezuela phải cân tiền


Nhiều người Venezuela đang đối mặt với tình cảnh trớ trêu: họ có nhiều tiền mặt, nhưng chẳng thể mua nổi thứ gì...
 >> Lạm phát ở Venezuela có thể phi mã lên mức 1.500% trong năm 2017
 >> Khủng hoảng kinh tế: Người dân Venezuela chặn xe tải bắt gà vì đói
 >> Venezuela - Khủng hoảng kinh tế chó chết đói đầy đường


Người dân Venezuela cân tiền
Người dân Venezuela cân tiền
Trong một cửa hàng biến đồ ăn chế biến sẵn ở phía Đông thủ đô Caracas của Venezuela, người chủ có tên Humberto Gonzalez nhận một tệp tiền Bolivar từ tay khách hàng rồi đưa lên chiếc cân đĩa.
Đồng nội tệ Bolivar của Venezuela đã mất giá đến nỗi mỗi lần mua hàng, người dân nước này phải dùng một số lượng lớn tờ tiền - hãng tin Bloomberg cho biết. Việc đếm một lượng tiền “khủng” tốn quá nhiều thời gian và công sức, nên thay vì đếm, nhiều cửa hàng ở nước này đã chuyển sang cân tiền.
“Điều này thật đáng buồn. Vào thời điểm này, tôi nghĩ là pho mát có giá hơn số tiền có cùng cân nặng”, ông Gonzalez nói.
Đây được xem là một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất về tình trạng siêu lạm phát ở Venezuela - quốc gia từ chối công bố dữ liệu về giá tiêu dùng theo định kỳ.
Cảnh tượng cân tiền tại quốc gia Nam Mỹ giàu tài nguyên dầu lửa này gợi nhớ đến siêu lạm phát từng hoành hành ở một số quốc gia trong vòng một thế kỷ qua: ở Đức thời hậu chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Nam Tư hồi thập niên 1990, và Zimbabwe cách đây một thập niên.
“Khi người ta cân tiền, thì đó là một dấu hiệu của lạm phát vượt khỏi tầm kiểm soát”, ông Jesus Casique, Giám đốc tài chính của công ty tư vấn Capital Market Finance, nhận xét. “Nhưng người Venezuela không biết lạm phát nghiêm trọng tới mức nào vì Chính phủ không chịu công bố số liệu”.
Từng là một trong những đồng tiền mạnh nhất thế giới, đồng Bolivar giờ đây đã trở thành một mối phiền toái đối với người sở hữu. Chỉ cần mua một món đồ cơ bản cũng phải cần tới hàng trăm tờ tiền Bolivar.
Người dân Venezuela đi siêu thị hiện nay phải vác theo những túi tiền lớn, trong khi trên đường phố đầy rẫy tội phạm. Tại các cửa hiệu, nhân viên thu ngân phải dùng tới những thùng lớn để đựng tiền bởi những ngăn kéo thông thường không còn đủ sức chứa.
Trong bối cảnh không có dữ liệu chính thức, các chuyên gia kinh tế phải đoán tỷ lệ lạm phát ở Venezuela. Theo nhiều ước tính khác nhau, tỷ lệ lạm phát năm 2016 ở Venezuela dao động từ 200-1.500%.
Dù khủng hoảng kinh tế khiến đồng tiền rớt giá thảm hại, Chính phủ Venezuela đến nay vẫn từ chối in tiền mệnh giá lớn hơn. Tờ 100 Bolivar, đồng nội tệ có mệnh giá lớn nhất của nước này, chỉ tương đương chưa đầy 1/10 USD.
Tuy nhiên, theo một số nguồn tin, cách đây vài tuần, Chính phủ của Tổng thống Nicolas Maduro đã âm thầm đề nghị 5 công ty in tiền đấu thầu in những tờ tiền có mệnh giá lớn hơn, gồm tờ 500, 1.000, 5.000, và 10.000 Bolivar, thậm chí là cả tờ 20.000 Bolivar. Yêu cầu được đưa ra là tiền mới phải được in kịp cho đợt thưởng dịp Giáng sinh.
Thông thường, những đơn đặt hàng in tiền như vậy phải mất 4-6 tháng mới hoàn tất, và đến nay vẫn chưa có đơn vị nào trúng thầu. Để giảm thiểu thời gian và chi phí, Chính phủ Venezuela tính chỉ đổi màu, chứ không đổi thiết kế, của những đồng tiền hiện tại. Thay vào đó, những số 0 sẽ được thêm vào để tăng mệnh giá - nguồn tin cho hay.
Theo nhà kinh tế học Steve Hanke, việc đổi tiền là một dấu hiệu cho thấy Chính phủ Venezuela đang “giương cờ trắng đầu hàng. Không ai muốn điều này, nhưng họ vẫn buộc phải làm”.
Nhiều người Venezuela đang đối mặt với tình cảnh trớ trêu: họ có nhiều tiền mặt, nhưng chẳng thể mua nổi thứ gì. Trên thực tế, việc mang được đủ tiền để đi siêu thị đã là một thử thách. Trước khi bắt đầu hành trình đi siêu thị đầy gian khổ, những khuôn mặt mệt mỏi phải xếp hàng dài ở ngân hàng chờ tới lượt rút tiền, bởi số lượng máy ATM ngày càng giảm trong khi hạn mức rút được áp dụng.
Có nhiều ý kiến cho rằng người Venezuela sẽ còn ở trong nghịch cảnh này cho tới khi Chính phủ in những đồng Bolivar có mệnh giá cao hơn.
Vào lúc này, những người Venezuela như anh Bremmer Rodrigues, 25 tuổi, chủ một cửa hiệu bánh ở ngoại ô Caracas, tiếp tục bối rối với những túi tiền lớn. Mỗi ngày, cửa hiệu của Rodrigues thu về hàng trăm nghìn tờ Bolivar, và anh phải giấu số tiền này trong cửa hàng trước khi xếp vào hộp và đem tới gửi ngân hàng.
Rodrigues nói, nếu ai đó nhìn thấy anh lúc anh vận chuyển tiền, rất có thể họ nghĩ anh là một trùm ma túy.
“Tôi có cảm giác như mình là [trùm ma túy khét tiếng] Pablo Escobar. Ngày nào tôi cũng có cả một núi tiền, và số tiền mỗi ngày một lớn hơn”, người chủ tiệm bánh cho hay.
Theo: An Huy
Vneconomy

Phần nhận xét hiển thị trên trang

QUẢNG BÌNH QUÊ TÔI




Tháng 10 ba cái lụt to
Chà đi, xát lại đôi bờ sông Gianh,
Lấm lem bùn đất vây quanh,
Xác xơ thôn xóm, mỏng manh phận người.
Thiên tai biết có chừa ai
Nhà, bò, gà, lợn
Trôi rồi
Trắng tay!
Gian lao quá với đất này
Sống trong khắc nghiệt mà xây cuộc đời.
Dân tôi rắn rỏi chống trời
Củ khoai, củ sắn cầm hơi lũ về
Mì tôm trộn lẫn bùn quê
Nuốt trong nước mắt mà tê tái lòng.
Thương ơi, biết mấy miền Trung
Vừa qua cá chết lại cùng lũ giăng!
Hỡi ai có biết cho rằng
Sức dân có hạn
Nên chăng
Hãy vì…
31/10/2016
HÀ BÌNH MINH

Phần nhận xét hiển thị trên trang

XEM "TÌNH CÁT" CỦA NGUYỄN QUANG LẬP


             
                         HOÀNG TUẤN CÔNG

Độc giả từng phát cuồng với những tạp văn đặc sắc của Nguyễn Quang Lập, có thể sẽ thất vọng khi đến với "Tình cát". Bởi "Tình cát" không dễ đọc như tạp văn. Tuy nhiên, nếu biết thưởng thức, "Tình cát" lại hay và hấp dẫn chính ở chỗ không dễ đọc đó.

            Không dễ, bởi người đọc phải động não trước một "Tình cát" có tính khái quát, biểu tượng, ẩn ý cao. Nếu chạy theo cốt truyện, có thể vô tình lướt qua hình ảnh con cú què bay qua liệng lại như nối hiện tại với quá khứ, cất tiếng kêu tựa tiếng nấc oan hồn người dân Xóm Cát. Hay tiếng đàn cò đêm đêm như than, như oán của ông Rúm...Tiếng chim "Đi...soạn cho hết" khắc khoải nhắc nhớ quá khứ đau thương... 


               Hiện tại và dĩ vãng, đời thực và mộng mị theo đó cứ chợt ẩn, chợt hiện trong cơn mê sảng của Hoàng, có khi đẫm mồ hôi ác mộng, đầm đìa nước mắt khổ đau, dằn vặt, ám ảnh...

            Thực tại đáng buồn buộc người ta phải nhớ, phải đau với quá khứ. Người sống gợi nhớ kẻ đã chết. Kẻ chết hiện về day dứt, ám ảnh người sống. Kẻ chết, người sống cứ thoắt ẩn, thoắt hiện, khiến ta phải dán mắt vào từng câu, từng chữ để phân biện đâu là mộng mị, đâu là hiện thực. Vậy mà bỗng dưng cứ mê man đi lúc nào không hay, cho đến đỉnh điểm ác mộng hoặc cơn cực khoái ái ân, nhân vật ú ớ thoát khỏi cơn mơ, ta cũng mới giật mình choàng tỉnh...

            Đó là cái tài của Nguyễn Quang Lập. Ông chuyển cảnh cho những "thước phim đen trắng" hồi ức, và "phim màu" hiện thực của mình cực nhuần nhuyễn, tự nhiên, kín đáo như chính những cơn mộng mị triền miên của Hoàng.  
 
            Không phải là tiểu thuyết chiến tranh, nhưng trong "Tình cát", nỗi buồn chiến tranh vẫn hiện lên với những số phận bi thảm, những cái chết đủ mọi tư thế, đủ mọi hoàn cảnh. Chết như chưa từng sống. "Chết như không chết". Chết, mà không kịp hiểu tại sao mình chết. Chết, không để lại một dấu vết, dù chỉ là sợi tóc. Chết, khi vồng ngực thanh tân còn tươi hồng mãn nguyện sau phút giây khao khát vồ vập ái ân... Chết tức tưởi, khi trước đó, dù đã " quỵ xuống, mềm đi trong vòng tay riết chặt", "mặc kệ đời, mặc kệ bom đạn, mặc kệ đói khát" của người trai, mà trinh nữ vẫn "kiên quyết khép chặt đùi" run rẩy...

            Chỉ dựa vào chiến tranh thì Thần Chết mới có quyền bắt người ta phải vội vã tử biệt, sinh ly khi da thịt hãy còn nóng ấm làn môi, hơi thở của người tình!

            Đúng như cái tên "Tình cát", Nguyễn Quang Lập đem đến cho bạn đọc không chỉ là "tình" với gió cát, xứ cát, xóm cát, mà còn "tình" thực sự bởi những màn ái ân, yêu đương nóng bỏng.

            "Tình cát", mở ra đã thấy sex.

             Lính sex; thanh niên xung phong sex; Có lúc sex thật, có khi sex trong mơ. Sex với người tình; sex với người mới gặp; sex bằng môi nóng bỏng; sex bằng mắt khát khao; sex trên cát mù mịt trận tình; sex dưới suối sùng sục gân cơ; sex dưới trăng thanh lồ lộ da ngà; sex vì yêu xoắn xuýt; sex để giải tỏa ngùn ngụt; sex chữa bệnh, ngại ngùng bối rối; sex chỉ vì người van xin...sex!...

            Sex từ đầu đến cuối, nhưng sex trong "Tình cát" không phải sex rẻ tiền.

            Chiến tranh đồng nghĩa với chết chóc. Nhưng chiến tranh trong "Tình cát" không chỉ là cái chết, mà còn hiện lên bởi "nỗi thống khổ của đàn bà", "những thèm khát lương thiện",  khát vọng được yêu đương vốn đã bị "giáo lý đương thời bủa vây", càng bị đè nén, bịt chặt, càng bung lên hừng hực dưới khói lửa khốc liệt của chiến tranh.

            Ba chục lính "ém mình" bên bờ suối, "mắt mở, mồm há" nhìn xuống "hơn hai trăm cô gái khỏa thân đang ngụp lặn trước mắt họ. Những thân hình trắng nõn nà uốn lượn...Tất cả đang phồng lên óng ả, dập dềnh những đường cong trắng mềm, đến phật cũng muốn tụt quần nhảy ào xuống suối. (...) họ sờ mó, nắn bóp nhau như trai gái làm tình, cười rúc rích, tiếng cười sực nức mùi dâm..."

            Chẳng biết thần giao cách cảm, hay sức hút của hai nửa âm dương dồn nén thế nào, bỗng dưng, "một cô nhảy đại lên tảng đá, dạng háng vỗ bem bép. Đàn ông mô cả rồi bay!...Chết hết cả rồi há!" Rồi "có đến mấy chục cô thi nhau nhảy lên các tảng đá giữa suối, dạng háng vỗ bem bép, vỗ và hú hét và cười ré. Đàn ông mô cả rồi bay!...Chết hết cả rồi há!".

            Màn khiêu khích như điên như dại khiến lính tráng cũng "điên cuồng..."

            Rồi chuyện trớ trêu của Đại đội nữ thanh niên xung phong, khiến Hoàng phải "ôm ấp hầu hết các cô gái trong hang đá, sờ nắn hết thảy những bộ ngực trinh nữ. Những bộ ngực được giữ gìn nâng niu, gói ghém giấu giếm kỹ càng suốt tuổi thanh nữ, bỗng chốc bị bóc trần trong một giờ lâm bệnh."...

            ..."Chị biết em khinh chị lắm. Nhưng em không biết đâu...các chị cực lắm em ơi! Chị nói như rên. Hai tiếng "em ơi" chua xót nghẹn ngào với lên giữa rừng chiều nghe như tiếng vọng mơ hồ một linh hồn đã chết."

            Những màn sex trong "Tình cát" diễn ra bất ngờ, chóng vánh. Không thô thiển, lộ liễu, phô bày; thấy rõ mồn một mà lại như chẳng thấy gì hết.

            "Lý kéo cổ Hoàng xuống suối, riết lấy anh trong hổn hển. Những chiếc hôn sặc nước, đốt nóng cả hai trong làn suối ban mai...Một quầng màu hồng chậm rãi tan vào trong vắt...Rốt cuộc Lý đã mất và đã được, dù mất cái chưa đáng mất, được cái chưa nên được. Thôi mặc. Biết sống chết thế nào mà tính toán thiệt hơn."...

            "Chị Nụ khuỵu xuống, từ từ lựa chiều...Anh hối hả dấn sâu vào, thúc mạnh...chị bật cong nhịp nhàng cùng với những tiếng hức hức như tiếng nấc hờn dỗi của trẻ con...Hoàng thúc như điên, đâm tan nát đóa diêu bông người chị can trường suốt đời anh ngưỡng mộ."

            Nếu "Tình cát" được chuyển thể phim truyện, chắc hẳn, đạo diễn phải học cách dàn dựng những cảnh sex nửa kín, nửa hở mà vẫn khô khát, nóng bỏng thịt da của Nguyễn Quang Lập.

                                                                                       HTC/29/10/2015 


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Sự vĩ đại của nước Mỹ ở chỗ… không có “lãnh tụ vĩ đại”!


Hiến pháp nước Mỹ được viết ra để bảo vệ người dân. Nguồn: interet
CON QUÁI VẬT
Nước Mỹ, luôn là một quốc gia vĩ đại, không phải bởi họ tự nhận mình như vậy, mà bởi họ biết cách chỉ trích mình và biết lắng nghe để tự làm tốt lên mỗi ngày.
Với họ, không một ai được coi là hay mô tả như một hình tượng theo nghĩa lãnh tụ, là cha già dân tộc hay trở thành một hình mẫu của quốc gia, ngay cả người khai quốc là Washington, cũng chỉ được coi là một nhân vật lịch sử vĩ đại trong số 4 vị tổng thống tiếp theo tính cho đến nay mà được trạm khắc trên vách đá để ghi nhớ công ơn của họ.
Điều vĩ đại của nước Mỹ, đó là sự tự do tư duy, sự khai sáng trí tuệ, sự rộng mở đối với mọi thành phần và chủng tộc, bất kể thân phận hay gốc gác, và điều vĩ đại hơn cả phần còn lại của thế giới chính là bản Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tồn tại vững chãi trong suốt gần 230 năm kể từ khi được thông qua năm 1789 và có hiệu lực năm 1791.
Bản thân nước Mỹ, cũng tồn tại trong lòng của nó đầy những mâu thuẫn, nhược điểm và cả những bất cập, như từ thuở đầu lập quốc vẫn còn duy trì chế độ nô lệ, sự phân biệt chủng tộc, nội chiến, hay người da màu không được bầu cử, tham gia chính trị, bị đối xử tệ bạc và thậm chí ngược đãi. Cho đến những năm 1960s thì Martin Luther King (đứng đầu LBJ) mới giải thoát và chấm dứt cơn đau kéo dài 100 năm cho tình trạng ấy của nước Mỹ.
Họ vẫn có tình trạng vi phạm Hiến pháp, tổng thống vẫn có lúc lạm quyền, nhưng điều làm nên nước Mỹ vĩ đại là ở đó, bản Hiến pháp, được cả thế giới học thuật đánh giá là vĩ đại nhất trong những điều vĩ đại, luôn được bảo vệ khắt khe, nghiêm ngặt, ở đó có cơ chế để kiểm soát mọi thứ không cho nó trở nên tha hoá, suy thoái – tất thảy mọi người đều bình đẳng và có thể thực hiện những quyền chính trị ngang nhau, mặc dù có thể trước đó nó đã từng bị ngăn cản hay hạn chế vì lý do văn hoá hay ý thức hệ còn tồn tại như một trở ngại thực tế.
Để nghiên cứu về nước Mỹ, có lẽ sẽ luôn là quá thiếu thời gian để có thể tìm hiểu một cách cặn kẽ hay thấy hết được mọi ngóc ngách và sự vĩ đại của nó, tôi vẫn đặt tên cho nước Mỹ là con quái vật của thế giới. Chưa bao giờ con quái vật ấy ngừng lớn mạnh mà ngày càng bứt phá một cách khủng khiếp trong mọi mặt, đặc biệt là sự phát triển về khoa học công nghệ và sự dân chủ một cách ngày càng điên rồ, mà tất cả mọi quyền lực đúng nghĩa hoàn toàn thuộc về nhân dân của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ.
Ở đó, họ kiểm soát quyền lực chứ không kiểm soát con người. Họ khống chế chính trị chứ không cấm cản hay loại trừ con người.
Cơ chế tam quyền phân lập, đối trọng và kiểm soát, đa đảng phái, tư pháp đại diện cho công lý mà không sinh hoạt chính trị, báo chí tự do ngôn luận một cách mạnh mẽ nhất, người dân có thể tước bỏ quyền lực của những nhánh quyền lực nhà nước nếu có dấu hiệu đủ cho họ thấy rằng nó có xu hướng xâm phạm Hiến pháp, những đạo luật hoặc đe doạ tới nhân dân của mình, mà họ là một phần trong đó. Cơ chế bầu cử tự do, công khai, đã lựa chọn được người mà họ cho rằng đủ xứng đáng để đặt niềm tin mà đứng vào vị trí lãnh đạo, nhưng ở đó cũng có cơ chế để phế truất họ nếu không còn đủ tín nhiệm, mà vốn chỉ được đảm nhận hai nhiệm kỳ liên tiếp với tối đa 8 năm tại vị, nếu trúng cử vào nhà trắng.
Ở Mỹ, không có ai là lãnh tụ, không ai là tinh hoa đến mức không thể thay thế, cũng chẳng có ai là đại diện cho nước Mỹ về trí tuệ, vì không ai được tuyên truyền hay khắc hoạ như một vị vua tối cao, phải đời đời nhớ ơn, mà ở đó mỗi con người chỉ là một phần của lịch sử và với chức phận nào đó của mình, khi hoàn thành sẽ được ghi nhận như một sự đền đáp của quốc gia dành cho họ.
Một anh lính hy sinh trên chiến trường, một người lái tàu ngăn cản đoàn tàu lao xuống vực, một người quét dọn ngăn được một vụ tấn công khủng bố hay một vị tổng thống nào đó ban hành ra đạo luật nâng cao an sinh cho dân nghèo, đều được đánh giá như nhau về tính biểu tượng đối với công lao mà họ đã thực hiện.
Ở nước Mỹ, người cống hiến và làm việc là nhân dân Mỹ, không phải một người hay một vài người, nhất là với cương vị người lãnh đạo – vì với họ, lãnh đạo hay chính trị chỉ đơn thuần là một nghề được trả lương, nếu có nhu cầu và được nhân dân tín nhiệm và bầu lên, đó là chức trách họ phải hoàn thành, chứ hoàn toàn không phải họ ở đó là từ trên trời rơi xuống với sứ mệnh thiên chúa nào cả.
Nhân dân Mỹ tin vào Chúa, nhưng Chúa lại không đặt niềm tin vào một ai, mà họ đặt vào trong Hiến pháp của họ, ngay cả trên những đồng tiền dollar, đều có dòng chữ “In God We trust”, và Bồi thẩm đoàn ở mỗi phiên xử tại toà án đều là 12 người (là số thành viên trong buổi tiệc cuối cùng của Chúa, người thứ 13 là tín đồ Judas đã phản bội Chúa để hãm hại Jesu – kẻ dối trá và lừa gạt) để quyết định đến số mệnh một con người trước vòng lao lý.
Điều mà người Mỹ họ tin, không phải một vài cá nhân xuất chúng nào, mà là ở thứ mà có thể khiến người ta ít phạm sai lầm nhất và nếu phạm phải thì làm sao để ngăn cản hay phế bỏ thứ đó đi, chỉ có thứ đó mới được đặt niềm tin, mà cuối cùng nhất và cũng là quan trọng nhất, chính là bản Hiến pháp vĩ đại của họ và được canh chừng và bảo vệ nghiêm ngặt cũng như tối cao nhất bởi một toà án hoàn toàn độc lập.
Và mọi thứ, sẽ đều bị xét xử theo Hiến pháp của họ.
Còn chúng ta, khi nào có thể thiết lập nên một bản Hiến pháp tương tự như thế cho quốc gia mình?
___

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

Nguồn gốc tiếng Việt




Tĩnh Túc
Tiếng nói là nhịp cầu cảm thông để trao đổi tư tưởng trong sinh hoạt xã hội giữa con người cùng dòng giống xứ sở. Có con người là có ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn tự có ảnh hưởng rất lớn và quan hệ mật thiết đến sự hưng vong của giống nòi. Dân tộc có một trình độ văn hóa cao, càng văn minh thì họ lại càng chú trọng đến ngôn ngữ văn tự.
Dân tộc ta, ngót năm ngàn năm lịch sử, có cùng chung một gốc, cùng chung một tiếng nói. Từ Bắc chí Nam, ngoại trừ một số dân thiểu số còn dùng thổ âm và một số địa phương dùng phương ngữ hay phát âm có đôi chút sai biệt, chúng ta đều nói, nghe và hiểu một thứ tiếng, đó là tiếng Việt Nam.
Vậy tiếng Việt có tự bao giờ!?
Tiếng Việt bắt nguồn từ đâu!?
Tiếng Việt có phải tự ngàn xưa đã là một tiếng nói thật sự thuần Việt hay là một kết quả của sự hỗn hợp trại lẫn của nhiều tiếng nói khác nhau ?!
Trước khi tìm về cội nguồn tiếng Việt, việc phải làm đầu tiên là ta phải đi ngược dòng thời gian để tìm ra gốc tích của tổ tiên Việt Nam. Qua đó, ta mới có thể truy nguyên được tiếng nói của dân tộc. Vì thời gian lịch sử xa xăm mù mịt, vấn đề nguồn gốc Việt Nam, cũng như nguồn gốc tiếng Việt thật khó mà khẳng định một cách chính xác. Kê cứu theo sử ký, truyền thuyết, giả thuyết và nhất là những ý kiến, lập luận, ức thuyết của các học giả, sử gia Việt, Pháp, Tàu thì vấn đề này càng rẽ ra trăm mối, bất nhất và mâu thuẫn. Tuy nhiên, tôi cũng ghi chép lại những điều đã đọc để các bạn rộng đường thảo luận và kính xin các bậc thức giả sửa sai hoặc góp ý giùm cho.
Nguồn gốc dân tộc Việt
Tiếng Việt vào thời đại sơ cổ:
Kể từ trời mở viêm bang
Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra
Cháu đời Viêm Ðế thứ ba
Nối dòng Hỏa Ðức gọi là Ðế minh
Quan phong khi giá Nam hành
Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam Kiều
Vụ Tiên vừa nở đào yêu
Xe Loan nối gót, tơ điều kết duyên
Dòng thần sánh với người tiên
Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra
Phong làm quân trưởng nước ta
Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương
Hóa Cơ dựng mối luân thường
Ðộng Ðình sớm kết với nàng Thần Long
Bến hoa ứng vẻ lưu hồng
Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì(1)
Theo truyền thuyết (tục truyền) thì khai mở họ Hồng Bàng (2879 – 258 tr. CN) là Lộc Tục, con trai vua Ðế Minh. Sau Ðế Minh nhường ngôi lại cho con trưởng là Ðế Nghi làm vua phương Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nước Xích Quỷ phía bắc giáp Ðộng Ðình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Ðông hải. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm tuất (2879 tr. CN) và lấy con gái Ðộng Ðình Quân là Long Nữ đẻ ra Lạc Long Quân Sùng Lãm.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Ðế Lai tên Âu Cơ, sanh được 100 con trai. Chia 50 đứa con theo mẹ lên núi, 50 đứa con theo cha xuống bể Nam Hải. Lạc Long Quân phong cho con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương, tức Quốc tổ của dân tộc Việt Nam ngày nay. (2)
Tuy nhiên, theo sách Ðại Việt Sử Lược do Tiền Hi Tộ đời nhà Thanh hiệu đính, có ghi một đoạn rất quan trọng như sau:
“Ðến đời Trang Vương nhà Chu, năm 696-682 tr. CN, ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật, áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu nước là Văn Lang… Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương.”(3)
Như vậy là Hùng Vương đã xuất hiện ở thế kỷ thứ 7 tr. CN. Từ đó cho tới năm 257 tr. CN thì nước Văn Lang bị Thục An Dương Vương thôn tính. Tính ra họ Hùng trị vì được 439 năm, nếu đem ra 18 đời, thì mỗi đời trung bình từ 25 tới 30 năm. Như thế có phần xác thực hơn là nói họ Hồng Bàng và họ Hùng cai trị cả mấy nghìn năm như truyền thuyết ghi chép.
Thế nhưng trong truyện số 10 của Lĩnh Nam Chích Quái nói về chim Bạch trĩ, lại thấy ghi rằng: về đời vua Thành Vương nhà Chu, Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là họ Việt Thường đem chim trĩ sang cống hiến. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu công phải dùng ba lần thông ngôn mới hiểu nhau được. Căn cứ vào sử ký của Tư Mã Thiên, bộ sử xa xưa nhất của Trung Hoa có ghi chép như sau:
“Năm Tân Mão thứ 6 (nhằm năm 1110 tr. CN) đời Thành Vương nhà Chu, phía nam bộ Giao Chỉ có họ Việt Thường, qua ba lần sứ dịch, dâng chim trĩ trắng.”(4)
Nếu đúng như vậy thì họ Hùng Vương đã trị vì ít nhất là trên 800 năm. Không đúng theo sử ký của Tiền Hi Tộ, trong Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh. Lại càng không đúng với Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim hoặc của truyền thuyết.
Ðó là chiếu theo sử ký và tục truyền để tìm ngọn ngành tổ tiên dân Việt, mà chúng ta cũng đã thấy nhiều điều không trùng khớp hoặc bất đồng kiến với nhau. Nhưng cũng nhờ qua tài liệu quan trọng nêu trên, ta có thể chắc rằng dân tộc Việt bấy giờ có một ngôn ngữ riêng biệt. Chính vì thế mà vua Chu đã phải ba lần kiếm tìm người thông ngôn mới có thể hiểu nhau được.
Về gốc tích của dân Việt, theo sự ghi chép của ông Trần Trọng Kim, dựa vào lập luận của các nhà nghiên cứu nước Pháp, viết rằng:
“Theo ý kiến của những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt theo sông Hồng Hà lần xuống đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ. Còn người Thái thì theo sông Mê kông, lập ra nước Tiêm La (Thái Lan) và các nước Lào.”
Lại có nhiều người Tàu và người Việt cho rằng, nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống dân Tam Miêu ở, sau đó giống Hán tộc ở phía Tây bắc đến đánh đuổi, chiếm giữ vùng sông Hoành hà lập ra nước Tàu, rồi lấn dần xuống phương nam. Người Tam miêu phải lẩn tránh vào rừng núi hoặc đào tị xuống miền Việt Nam ta bây giờ. (5) Tuy nhiên, ngay chính ông Trần Trọng Kim cũng không tin vào giả thuyết này.
Trong quyển Văn Phạm Việt Nam của Bùi Ðức Tịnh (tr. 171 – 188) khi viết về lịch sử tiếng Việt, ngay câu đầu tiên ông Bùi Ðức Tịnh tán thành thuyết của các học giả cho rằng Việt ngữ là một thứ tiếng thuộc về dòng Thái. Vì dòng tiếng Thái có hai đặc điểm: giọng trầm bổng như tiếng Trung Hoa, vừa có ngữ pháp đặt xuôi của loại tiếng Ấn độ – Mã Lai. Nhà bác học Schmidt cho rằng dòng tiếng Thái thuộc về tông-chi rộng-rãi bao trùm các ngôn ngữ của những thị tộc Ðông Nam Á và Ðại dương châu thời sơ cổ, và đề nghị đặt tên cho tông chi ngôn ngữ này là ”tông chi Úc – Á”. Nhưng thuyết của ông không được chứng minh một cách đầy đủ. Bác sĩ Rivet, trong đại hội các nhà tiền sử học họp tại Hà Nội vào năm 1932 cũng có đưa ra một ức thuyết: Từ miền nam châu Á hoặc từ Nam dương quần đảo, vào một thời đại tối cổ, đã có những đoàn di dân tản mác đi theo hình rẻ quạt, vượt trùng dương đến ở những đảo rải rác trên Thái bình dương và Ðại tây dương … Người ta thường gọi chung họ là các giống Ðại dương nhân (Océaniens). Ðó là những người Ne’gritos, Me’lane’sien (Australien), Indone’sien và Mông cổ. Theo các nhà nhân chủng học, có lẽ trước tiên, tại bán đảo Ðông dương có hai giống người Me’lane’sien và Indone’sien. Do đó, có thể ức đoán rằng vào thời sơ cổ, đã có những thị tộc người Indone’sien ở vùng trung châu Bắc Việt và miền bắc Trung Việt. Một mặt khác, trước đời nhà Chu (khoảng 1050 đến 771 tr. CN) khắp vùng lưu vực sông Dương Tử, từ miền Vạn Huyện tỉnh Tứ Xuyên cho đến dọc miền biển cũng đã có chi nhánh của chủng tộc Indone’sien, mà sử gia Tàu gọi họ là giống Man di. Những phần tử Việt tộc này đã di cư lần xuống miền Nam theo đường sông hoặc đường biển.
Theo Ðào Duy Anh, có lẽ nhóm Việt tộc ở miền bờ biển Phước Kiến, hằng năm dùng thuyền gỗ hoặc mảng tre giăng buồm, nhân gió bấc vượt biển đến các miền duyên hải phương nam, đại khái vùng Hải nam, vùng trung châu sông Nhị và sông Mã phía Bắc Việt ngày nay. Ðến mùa gió Nồm, họ lại vượt biển trở về nguyên quán. Thế là ngay từ những ngày rất xưa, đã có sự tiếp xúc người Indonesian ở dọc theo bờ biển nước Bắc Việt với những người Indonesian, chi nhánh Việt tộc, ở vùng Phước Kiến. Khi nước Việt bị nước Sở diệt (333 tr. CN) làn sóng Việt tộc tràn xuống miền nam càng nhiều. Nhóm Việt tộc vùng Phước Kiến di cư vào miền bắc Việt nam, là nơi đã quen biết trước. Họ đem theo cái thị tộc cũ là Lạc, và một nền văn hóa tuy có chỗ tương đồng với thổ dân trước nhưng đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của giống Mongolic ở phương Bắc. Sở dĩ có tên Lạc Việt ấy là vì trong các cuộc vượt biển hàng năm, nhóm Việt tộc vùng Phước Kiến đi và về đồng thời với một giống hậu điểu thuộc loại ngỗng trời gọi là chim Lạc. Có lẽ họ đã nhận giống chim ấy là vật tổ .(6)
Theo nhà sử học người Pháp, ông Léonard Aurousseau, căn cứ vào tài liệu sử sách Trung Hoa, thì dân tộc Việt Nam chính là một trong các dân Bách Việt gốc ở tỉnh Chiết Giang (Trung Hoa) vào khoảng thế kỷ thứ 5 tr. CN, rồi lần xuống phía nam, hợp với dân bản xứ, nhờ vào điều kiện địa dư thuận tiện, đã chống lại sự xâm lăng của Tần Thủy Hoàng. Dưới đời Triệu Ðà, nhờ chế độ cai trị dễ dãi mà Triệu Ðà khôn khéo biệt lập, tự củng cố địa vị ở phía nam xứ Trung Hoa, tránh được ảnh hưởng của người Tàu .(7)
Nhưng lập luận này đã không đứng vững khi ông Phạm Quỳnh xét về phương diện ngôn ngữ đã chất vấn trong bài ” Xét về cội rễ tiếng Việt Nam” như sau: (8)
“Bọn dân Việt hồi đó, rợ Bách Việt là thủy tổ cho dân Việt Nam đó, nói tiếng gì? Nếu là tiếng Trung Hoa thì không hiểu làm sao mà biến mất hẳn đi mà xuất hiện ra một thứ tiếng khác hẳn tiếng Trung Hoa. Nếu không phải là tiếng Trung Hoa, thì các rợ Bách Việt ấy tất phải có một hay nhiều thứ tiếng thổ âm riêng. Như vậy thì sao trong suốt các rợ Bách Việt ấy duy có người Việt Nam, tuy sau này còn phụ thuộc Trung Hoa đến ngàn năm nữa mà vẫn giữ được tiếng nguyên âm, còn thời các rợ khác ở Nam Phương nước Tàu bỏ mất hết đi để nói tiếng Trung Hoa cả? Nếu ta thừa nhận cái thuyết của ông Léonard Aurousseau, thì cái vấn đề tiếng nói tưởng cũng khó giải quyết vậy”.
Theo ông Lê Ngọc Trụ (9) thì dân tộc Việt Nam đã có từ lâu đời sinh sống tại đồng bằng Bắc Việt. Còn nhóm người Việt (Câu Tiễn) miền Chiết Giang, sau thời loạn Xuân Thu bị nhà Sở thôn tính (333 tr. CN) đã di cư xuống miền nam theo đất liền đến chung sống với các dân tộc khác như Việt-Ðông-Hải vùng Ô Châu, Mân-Việt vùng Phúc Châu, Nam-Việt vùng Quảng Ðông, Âu-Lạc-Việt vùng phía nam tỉnh Quảng Tây và Bắc Việt Nam, một lớp vào tới cả Thanh Hoá (Cửu Chân). Nhưng họ chỉ là nhóm người thiểu số và bị đồng hóa, chứ họ chẳng phải là gốc tích tổ tiên Việt Nam như ông Léonard Aurousseau đã nêu ra. Ngoài ra, ông Lê Ngọc Trụ còn cho rằng(10), tổ tiên dân tộc Việt đã cư trú ở những vùng triền núi từ sông Ðà (Hắc giang) tới Quảng Bình, sống chung hoà với dân tộc Mường. Cho nên đến ngày nay, tiếng nói ở những vùng này có nhiều chỗ tương tợ tiếng Mường. Dân Mường là dân miền núi, cho nên họ rút lần rải rác vào sâu dãy Hoành Sơn, do đó họ không bị ảnh hưởng văn hoá của các đại cường quốc Ấn Tàu, và chính vì thế họ vẫn giữ được các cổ tục và tiếng nói của họ cũng không bị thay đổi nhiều. Nên khi so sánh hai thứ tiếng Mường Việt, ông cho rằng tiếng Việt và tiếng Mường có lẽ từ một nguồn gốc mà ra. Thí dụ:
Mường Thạch Bi Hà Tĩnh Hà Nội
ka Ga Gà
kảy Gái Gái
kốk kộk Gốc
ka?w Ga.w Gạo
Tiến sĩ Hương Giang Thái Văn Kiểm cũng có cùng quan điểm lập luận như giáo sư Lê Ngọc Trụ và cho rằng, dân Bách Việt phát xuất từ miền Duyên hải miền nam Trung Hoa và giống dân Lạc Việt sinh sống lâu đời tại đồng bằng miền Bắc Việt Nam hoàn toàn không cùng chủng tộc. Sau nhiều cuộc xung đột, hai giống tộc này đã chịu hòa đồng chung sống với nhau như một đại tộc. Về sau, người Mường, cũng là sắc dân Lạc, đã chạy vào ẩn núp trong núi rừng, cao nguyên, để tránh sự xâm lăng đô hộ của người Tàu. Nhờ đó, họ vẫn giữ nguyên được ngôn ngữ, phong tục tập quán và kỹ thuật đúc trống đồng mà trước thời kỳ Bắc thuộc đã được đúc tại miền duyên hải Bắc việt và lưu vực sông Mã (nền văn hoá thạch khí Hòa Bình và Bắc Sơn với nền văn hoá đồng đen Ðông Sơn). Do đó các nhà nhân chủng học cho rằng: ” người Mường là Tiền-Việt” (proto Vietnamiens)(11) , vì trong ngôn ngữ, tục lệ có nhiều điểm tương đồng với người Lạc. Ông có tìm được bản văn Mường-Việt nói về sự tích của sông Pờ (sông Bờ, tức sông Hồng ngày nay) trong quyển Cours de Langue Annamite của A. Cheon, do nhà in F-h Schneider, xuất bản tại Hà Nội năm 1899-1901 (nguyên văn):
“Khây khước măng pâu pô. Khi trước nghe người ta nói rằng cỏ mống ông, thên hốp là rằng có một ông tên gọi là ông Tùng, mà cở hai bợ chồng; ông Ðồng, mà cở hai bợ chồng nã rú ra tế nã lấp cải nó rủ nhau để nó lập cái ksông Pơ. Nã tan lẽ ksông sông Bờ. Nó toan lấy sông Pờ pao tất Thạch Bi. Bơ nã Bờ vào đất Thạch Bi. Vợ nó mê, ti lê ksú tê, nã lấp mới đi lấy đá, để nó lấp ksông. Lòng klởi skinh tha sông. Lòng trời sinh ra mốch ông hốp là ông Sách; một ông gọi là ông Sắt; me thuỗng mê thếch pât bởi mói xuống mới thách vật với ông Tùng. Nã me pao lò, nã ông Ðồng. Nó mới vào lò; nó tỏ ming nã pât ông Tùng đỏ mình nó mới vật ông Ðồng. Ông Tùng mê chẩi hết mìng, ông Ðồng mới cháy hết mình, mê chết. Cho đên cải ksông mới chết. Cho đến cái sông dỉ chăng lấp ản, mê dênh cải cấy chẳng lấp được, mới nên cái Thác pờ dỉ. Thác bờ ấy.”
Ðọc đoạn văn trên, ta thấy tiếng Việt được chuyển dịch xen kẽ lẫn vào bản văn tiếng Mường, rất tối nghĩa. Cho nên tôi mạo muội viết ra hai bản Mường và Việt rõ ràng để quí vị dễ đọc và so sánh:
Bản văn tiếng Mường:
“Khây khước măng pâu pô, cỏ mống ông thên hốp ông Ðồng, mà cở hai bợ chồng nã rú ra tế nã lấp cải ksông Pơ. Nã tan lẽ ksông Pờ pao tất Thạch Bi. Bơ nã mê, ti lê ksú tê nã lấp ksông. Lòng klởi skinh tha mốch ông hốp là ông Sách me thuỗng mê thếch pât bởi ông Ðồng. Nã me pao lò, nã tỏ ming nã pât ông Ðồng. Ông Ðồng mê chẩi hết mìng, mê chết. Cho đên cải ksông dỉ chăng lấp ản, mê dênh cải cấy cái Thác pờ dỉ.”
Bản văn dịch sang tiếng Việt:
“Khi trước nghe người ta nói rằng, có một ông tên gọi là ông Tùng, mà cả hai vợ chồng nó rủ nhau để nó lấp cái sông Bờ. Nó toan lấy sông Bờ vào đất Thạch Bi. Vợ nó mới đi lấy đá, để nó lấp sông. Lòng trời sinh ra một ông gọi là ông Sắt mới xuống mới thách vật với ông Tùng. Nó mới vào lò, nó đỏ mình nó vật ông Tùng. Ông Tùng mới cháy hết mình, mới chết. Cho nên cái sông ấy chẳng lấp được, mới nên cái Thác bờ ấy.”
Khi nhắc đến nguồn gốc của Việt ngữ, ông Phạm Thế Ngũ cũng có nêu giả thuyết là người Việt có cùng tông tổ với người Mường, vì các nhà khảo cổ, khi xét về phong tục, lịch sử cũng như ngôn ngữ của người Việt, đã thấy có rất nhiều điểm giống với người Mường. Hiện nay, trong tiếng Việt có rất nhiều tiếng tương tự với tiếng Mường, và có thể xem đó là hình thức tối cổ của tiếng Việt tương đương, thí dụ :(12)
một Hai ba trời đất núi sông trâu gà tằm ăn lá dâu
móc Hai pa tlòy tất nủy không tlu kà thảm ăn lá tô
Thứ tiếng cổ ấy, về sau, trong ngôn ngữ người Việt, thâu nhận thêm những yếu tố vay mượn của các chủng tộc lân cận mà trở thành tiếng Việt. Và ông kết luận rằng: “dân tộc Việt Nam là kết quả tạp chủng và lai lẫn với các dân tộc đã sinh sống trên bán đảo Ðông dương, và tiếng Việt là kết quả trại lẫn của nhiều thứ tiếng của các dân tộc ấy.” (13)
Trong quyển Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam(14), ông Bình Nguyên Lộc đã có một số nhận định và chứng minh khoa học cụ thể về vấn đề nan giải nêu trên.
Theo ông, viết thượng cổ sử khác xa với viết sử. Vì viết sử chỉ cần sử liệu, còn viết thượng cổ sử thì cần phải chứng minh bằng khoa học, do đó muốn tìm tòi về các chủng tộc ta phải vận dụng kiến thức khoa học chính xác của ngành Chủng Tộc Học (Anthropologie physique). Riêng về nguồn gốc của một chủng tộc thì khoa học chỉ nhìn nhận 3 chứng tích sau:
Khoa Chủng Tộc Học
Khoa KhảoTiền Sử
Khoa Ngôn Ngữ Tỷ Hiệu (Études comparatives des Langues)
Theo ông trên thế giới ngày nay không còn chủng tộc nào là thuần chủng. Ngay cả trên cao nguyên của nước ta có người Thượng mà ta cứ ngỡ là thuần chủng, nhưng thực sự họ đã lai giống đến nhiều lần rồi. Về vấn đề nguồn gốc dân Việt, ngôn ngữ Việt, từ lâu đã có những nhà bác học Pháp thuộc viện Bác Cổ Viễn Ðông, các sử gia, ngữ học gia, giáo sư Việt Pháp khổ công tìm tòi nghiên cứu, nhưng vẫn chưa tìm được một giải đáp thoả đáng. Và họ đã đưa ra một số ức thuyết khá hỗn loạn:
Ông Kari Himy cho rằng tiếng ta có bà con với tiếng Môn
Ông H. Maspe’so bỏ Việt Ngữ vào chung với Thái ngữ
Ông E. Souvignet cho rằng tiếng Việt có liên hệ với Mã Lai
Bs. Reynand nhấn mạnh về ngữ vựng Miên Việt giống nhau quá nhiều
Gs. Lê Ngọc Trụ và Sử gia Nguyễn Phương khẳng định tiếng ta là tiếng Tàu
Sg. Phạm Văn Sơn kết luận Việt ngữ + Việt chủng là một chủng tộc, một ngôn ngữ riêng biệt
Từ năm 1920 nhờ những cuộc phát kiến ngẫu nhiên của dân chúng vùng Ðông Sơn tỉnh Thanh Hóa đã khai quật được một số cổ vật đồng pha kế tiếp nhau ở cách lưu vực sông Nhật Lệ, sông Gianh, sông Cả, sông Mã, sông Ðà, sông Nhị, sông Lệ. Nghiên cứu sơ khởi cổ mộ Ðông Sơn, người ta tìm thấy người chết có đồ tùy táng, trong đó có trống bằng đồng thau khá rực rỡ. Ước tính theo số tuổi cổ vật, mộ này ắt đã được chôn trước thời Hai Bà Trưng (40- 43) đến 32 năm. Nhưng qua đó vẫn chưa xác định được người dưới mồ là người bản xứ, vì rất có thể họ là dân tộc khác sang nước ta rồi sau khi chết được mai táng tại đó. Mãi về sau, khi khai quật được nhà bằng gỗ và tre đã hoá thạch, các nhà nghiên cứu khảo cổ đưa ra được một kết luận quan trọng. Nhà ấy có lối kiến trúc giống như hình nhà khắc trên trống đồng trong cổ mộ. Bấy giờ mới chắc chắn được là người có trống chôn theo là người bản xứ. Hợp kim của trống khai quật được phân chất và kết quả đưa ra đó là hợp kim đặc biệt, khác hẳn với hợp kim của Tàu, Ấn Ðộ hay của Tây phương thời đó. Các nhà bác học gọi người trong mộ táng được khai quật thuộc chủng tộc Indone’sien. Indone’sien, thuật ngữ của ngành Chủng Tộc học có nghĩa là Cổ Mã Lai, chứ không thuần nghĩa thông thường được chú giải trong các tự điển ngôn ngữ hiện nay là người dân của xứ Nam Dương quần đảo. Mặc dù các dân tộc Nam Dương, Mã Lai Á đều từ gốc chủng tộc Cổ Mã Lai mà ra nhưng đã không còn thuần giống.
Chủng Cổ Mã Lai phát tích từ Tây Tạng, hay nói rõ hơn là tại chân cao nguyên Tây Tạng, vùng đất quanh chân núi Himalaya (Hi-Malaya có nghĩa là núi của người Malaya).
Từ 6000 năm trở về xưa hơn, dân Cổ Mã Lai từ quanh cao nguyên Tây Tạng xuống chiếm đất Ấn Ðộ, đẩy lui thổ dân kém cỏi nơi đó lên vùng đồi núi và hợp chủng với chủng tộc Melane’sien đã có mặt từ lâu trên đất Ấn (Chủng Melane’sien chẳng những là thổ trước trên đất Ấn mà còn tìm thấy di tích ở khắp đất Trung Hoa và Ðông Nam Á). Nền văn minh của họ tồn tại được một ngàn năm thì bị dân Aryen xâm lăng đánh đuổi. Vì vậy, một mặt giống dân Indone’sien di cư về hướng Nam, đến bán đảo Mã Lai Á, sang Nam Dương quần đảo, rồi từ đó sang Madagascar đến tận Phi Luật Tân. Mặt khác họ di dân sang Ðông Ấn, rồi từ Ðông Ấn họ đi sang Hoa Nam (Trung Hoa), hoặc đi bằng đường biển sang Ðông Pháp (danh từ cổ chỉ các nước Cổ Việt Nam, Ai-Lao, Cao Miên).
Vào khoảng 2500 năm sau, dân từ các vùng đất quanh núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya) dưới sự thống lãnh của Xy Vưu tới Hoa Bắc (Trung Hoa). Nhóm dân này được gọi là Cửu Lê gồm 9 nhóm, làm bá chủ Hoa Bắc không được bao lâu thì bị người Tàu từ Tây Bắc dưới quyền của Hiên Viên xâm nhập. Dân Cửu Lê thua và bị đánh đuổi, chia làm hai: chi Âu và chi Lạc. Toàn thể chi Âu vượt Hoàng Hà để nam thiên, còn chi Lạc thì lại chia hai, một số cũng vượt Hoàng Hà, số kia theo đường biển sang Ðại Hàn, Nhựt Bổn, Ðài Loan và Ðông Nam Á. Rời đồng bằng Hoa Bắc thì dân chi Âu chiếm địa bàn núi rừng ở Hoa Nam , còn dân chi Lạc thì chiếm địa bàn sông ngòi ở Hoa Nam và ở các vùng đất mới. Nơi đây, họ đã gặp các dân thổ trước nhưng đồng chủng cho nên đã sống chung hòa không gây chiến tranh lấn đất.
Người Tàu dùng danh từ Việt để chỉ bất kỳ thổ dân nào từ sông Dương Tử đổ xuống, tức nhiều nhóm dân gốc Cổ Mã Lai nhưng khác chi. Theo sử Tàu thì có ba nhóm Lạc: Lạc bộ Trãi bị gọi là rợ Ðông Di, có địa bàn ở sông Bộc, tỉnh Sơn Ðông lên đến Hà Bắc; Lạc bộ Chuy bị gọi là rợ Khuyển Nhung, có địa bàn vùng sông Lạc (Thiểm Tây Ba Thục, ngày nay con sông Lạc này được đổi viết thành bộ Thủy); và Lạc bộ Mã, bị gọi là rợ Nam Man chỉ dân Việt ở Hoa Nam. Về phía Nam, đất Ngũ Lĩnh là địa bàn của các quốc gia Bách Việt trong đó có Ðông Âu, Mân Việt và Tây Âu nhưng không có Cổ Việt. Mặc dù về mặt chủng học tộc, ta thuộc về Bách Việt nhưng không phải là dân của ba nước kể trên.
Trong ba nước này, Tây Âu là một quốc gia cường mạnh nhất, gồm ba quận Nam Hải (Quãng Ðông), Quế Lâm (Quãng Tây) và Tượng Quận (phần đất giữa Quãng Tây và Vân Nam). Theo bức dư đồ ngôn ngữ Ethnolinguistico Groups of Mainland Southeast Asia do Human Relations Area Files Yale University xuất bản thì Tây Âu là địa bàn của người Thái, một dân tộc thuộc chủng Mã Lai mà người Tàu xưa gọi là dân Âu. Thái là một danh tự xưng của họ khi bị Hoa tộc lấn đất dữ dội.
Nhà Tần tiêu diệt cả ba quốc gia Bách Việt này và họ lại phải nam thiên xuống thượng du Bắc Việt và Thái Lan ngày nay. Thái có nghĩa là ” tự do, thoái khỏí’. Trước đó họ xưng là Ngu hoặc Ngê-U. Tiếng Quan thoại phiên âm danh tự đó cũng là Ngê-U. Duy chỉ các nhà nho đọc sai ra là Âu, chứ người Mường họ vẫn đọc đúng là Ngu. Người Thái ở miền thượng du Bắc Việt ngày nay đã khác hẳn với người Thái Lan, vì ngưởi Thái Lan đến bờ biển lập quốc cả hàng trăm năm và theo văn hóa của Ấn Ðộ và Phật giáo. Còn người Thái thượng du Bắc Việt còn giữ nguyên văn minh cổ thời của họ.
Theo như trên thì truyền thuyết Âu Cơ và Lạc Long Quân rất tương đồng với bối cảnh lịch sử của dân Cửu Lê, khi bị Hiên Viên xâm lăng thì phải chia hai, chi Âu chiếm địa bàn núi rừng (Âu Cơ là Tiên đem con lên núi) và chi Lạc chiếm địa bàn sông ngòi, ven biển (Lạc Long Quân đem con xuống biển). Cả ba Lạc này đều có mặt tại Cổ Việt Nam nên ngôn ngữ của ta mới hỗn hợp tiếng Mã Lai nhiều đợt. Ðịa bàn phương đông của chủng dân Cổ Mã Lai bị dân Tàu lấn đất, họ đành phải nam thiên. Tới vùng đất mới, họ lại bị Tàu xâm lăng lần nữa, chẳng hạn như ở Cổ Việt bị nhà Hán chinh phục. Lần bị chiếm đất này, họ không còn đất lánh thân, nên một số ở lại chịu văn hóa Tàu, còn một số khác rút lên rừng núi, rồi vì khí hậu và phong thổ không ưu đãi, thiếu thốn phương tiện canh tân nên nhóm người này bị thái hóa. Do đó người Thượng trên cao nguyên vẫn còn giữ nhiều phong tục văn hóa của chủng Cổ Mã Lai hơn dân ta, kẻ ở lại đồng bằng đã khác xa, nhất là khi bị ảnh hưởng văn hóa mới và hợp chủng với dân xâm lược.
Sau đây là những dấu vết Mã Lai còn sót lại trong xã hội Việt Nam ngày nay:
1. Trống Ðồng:
Dân ta vẫn duy trì phong tục của Lạc Việt, như tả nhậm, xâm mình, nhuộm răng, búi tóc, chít khăn, tục thờ thần Âm Dương Vật và cả tục thờ Thần Trống Ðồng.
Sau thời gian dài nghiên cứu về thời đại đồng thau xưa ở Bắc phần Việt nam các nhà khảo cổ cho thấy rằng người Việt Nam thời xưa đã đạt được một trình độ luyện kim và chế tác kim loại khá cao để đúc được nhiều loại trống đồng. Do số lượng trống đồng tìm thấy được tại miền Bắc Việt Nam quá nhiều và đủ loại cho nên các nhà khảo cổ đã nghĩ rằng Việt nam phải là quê hương của trống đồng. Tuy rằng cũng có tìm được một vài trống đồng rải rác tại vài nước Ðông Nam Á hoặc vùng Nam Trung Hoa giáp ranh giới Việt Nam nhưng số lượng ít ỏi và kém mỹ thuật, nhất là các tầm vật này nằm trên những lộ trình xuyên biên giới Việt-Hoa, nên đã làm các nhà khảo cổ nghĩ rằng đó có thể là những trống thâu lượm từ Việt Nam đem về.
Trong sách Ðại Nam Nhất Thống Chí(15) ghi: “Núi Ðồng Cổ: có tên nữa là núi Khả Lao ở cách huyện Yên Ðịnh 16 dặm về phía tây …. Phía tả núi có đền thần, trong đền có một cái trống bằng đồng, nặng chừng 100 cân, đường kính phỏng 2 thước một tấc, chiều cao phỏng 1 thước 5 tấc, một mặt trống rỗng, một mặt có chín vòng tròn, ở giữa mặt trống có rốn tròn, chung quanh lưng trống là hình hồi văn chữ ‘vạn’, bên cạnh có văn chữ như hình văn tự khoa đẩu. Tương truyền cái trống này chế từ đời Hùng Vương. “
Trong tác phẩm Kiến văn Tiểu Lục, Lê Quí Ðôn đã viết như sau: “Nước nhà, vua Thái Tông nhà Lý dựng miếu thờ Thần Ðồng Cổ Sơn ở đằng sau chùa Thành Thọ. Hằng năm cứ đến ngày mồng bốn tháng tư lập một đàn ở trước miếu này, rồi dàn binh lính, đọc lời thề để quần thần cùng thề… “.
Nhiều thư tịch Trung Hoa xưa cũng có nói đến trống đồng có nguồn gốc ở Việt Nam như: (16)
Sách Bách Việt Nguyên Lưu Dư Văn Hóa, Lã Hương Lân ghi: “Thời cổ, văn hoá Việt rất đáng được lưu ý là sự chế tạo trống đồng và cách sử dụng. Trống đồng Lạc Việt rất nổi tiếng nên thường được gọi là Lạc Việt đồng cổ.
Sách Hậu Hán Thư quyển 54 thời Hậu Hán có ghi ở mục Mã Viện:
“Mã Viện thích cưỡi ngựa. Lúc sang đánh Giao Chỉ, ra lệnh tịch thâu trống đồng để đúc ngựa kiểu.”
Sách Chu Phiên Chí, Triệu Như Quát cũng có kể về Mã Viện như trên.
Sách Lĩnh Ngoại Ðai Ðáp, Chu Khứ Phi, một học giả đời Tống, có thừa nhận rằng trống đồng không thuộc về văn hóa Hán.
Trong các sách Quảng Châu Ký, Tán Thư Trấn Thủ, Thủy Kinh Chú, Linh Biểu Lục Di đều có ghi: “Man, Di là chủ nhân của trống đồng Lạc Việt.”
Ông V. Goloubew đã kể lại trong tập kỷ yếu B.E.F.E.O vol XXXIII, năm 1933 như sau: “Làng An-Nê, huyện An Ðịnh, tỉnh Thanh Hóa, là một vùng hoàn toàn Việt Nam, và gần đó không có dân Mường. Trong đền thờ trên đường Phủ Quãng, gần bến đò An Ðịnh đưa sang sông Mã, có trống đồng cùng loại với trống đồng Hoà Bình để ở Bảo tàng viện Hà Nội. Mặt trống rộng 0,85 và cao 0,58th. Trống này chỉ để thờ chứ không được đánh, bằng vào lớp bụi dày trên mặt trống…”
Ông R. Mercier thì đối chiếu cách chế tạo trống đồng của dân Ðông Sơn với cách chế tạo đồng đồng của dân Việt Nam ngày nay ở Thanh Hóa, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hà Ðông, Nam Ðịnh và thấy cả hai dân tộc đều dùng kỹ thuật và dụng cụ thô sơ y như nhau. Ông nghiên cứu chiếc trống lớn nhất ở bảo tàng viện L. Finot. Ðó là một cái trống đúc nguyên khối, không có ráp mối. Bên hông trống đếm được cả thảy 280 vết đen hình vuông, một phân tây mỗi cạnh. Nhờ đó ông khám phá được kỹ thuật đúc trống thợ Ðông Sơn xa xưa. Họ làm hai cái khuôn, một lớn một nhỏ, cái nhỏ nằm trong cái lớn, hai cái cách nhau khoảng 1/2 một phân tây, khoảng trống ấy được chêm bằng các khúc gỗ. Khi đổ đồng pha vào khoảng trống ấy, gỗ chêm bị cháy và để lại dấu vết bên hông trống. Ông Mercier nói rằng chỉ có dân Việt Nam các tỉnh cao nguyên mới đúc bằng kỹ thuật và dụng cụ thô sơ như thế mà thôi.
Về vấn đề vật tổ biểu tượng của dân Việt là chim Lạc (theo ông Ðào Duy Anh đưa ra) thì ông Bình Nguyên Lộc không đồng ý, vì chữ Lạc được viết với dạng bộ Trãi, bộ Chuy và bộ Mã chứ không hề viết theo dạng bộ Ðiểu, chỉ loài chim. Theo ông thì vật tổ biểu tượng của dân ta ngàn xưa là cây cau, nai, mặt trời, giao long bằng cứ vào những hình chạm khắc trong các đền đài chùa chiền, trên các cổ vật Ðông Sơn, phong tục, cổ tích vv… Danh hiệu Văn Lang cũng từ đó mà ra, có nghĩa là một loại cau có sọc trắng, chứ không thuần nghĩa là người con trai xâm mình.
2. Kiến trúc:
Ngôi nhà cổ Việt độc nhất, do ông Pajot nhân viên của viện Viễn Ðông Bác Cổ tìm được tại bờ sông Mã năm 1927, nhưng mãi đến 17 tháng Giêng 1938, nhà khảo cổ V. Goboulew mới báo cáo trong một buổi thuyết trình. Có sự chậm trễ đó cũng bởi vì ông gặp khó khăn trong việc định tuổi cho các vật liệu dùng làm căn nhà. Và căn nhà đó được định cùng tuổi với ngôi mộ cổ đã khai quật.
Ðó là một nhà sàn có cột cái cao 4,50 thước, sàn cao 1 thước. Mái nhà dài xuống tới sàn, và vì thế mà cửa phải trổ ra ở góc hồi. Sàn bằng tre sặt, một loại tre giống tầm vong ở miền Nam. Sườn nhà không có trính ( loại sườn nhà mà miền Nam gọi là nọc ngựa, miền Trung gọi là nhà chữ Ðinh). Hình dáng ngôi nhà này giống nhà khắc trên trống đồng có mái cong quớt lên và đó là lối kiến trúc của tất cả các nhóm dân Cổ Mã Lai và Kim Mã Lai.
Ngày nay nông dân ở nhiều đảo Nam Dương vẫn còn cất nhà như vậy, và người Chàm, cũng gốc Mã Lai, giữ lối kiến trúc đó cả đến trong những xây cất bằng gạch. Loại nhà đó người Chàm gọi là nhà Thang-giơ. Danh từ Thang-giơ do tiếng Mã Lai Nam Dương Tanga mà ra, có nghĩa là cái thang. Dân Việt gọi đó là nhà sàn.
3. Tín ngưỡng
Có rất nhiều nhóm Mã Lai thờ mặt trời hoặc ông trời. Ngay cả Mã Lai Nhật Bản cũng thờ nữ thần Thái Dương. Tất cả đều ăn khớp với hình trên mặt trống đồng. Tục thờ dương vật và âm vật của chủng Mã Lai vẫn còn tồn tại ở vài làng Bắc Việt (báo Ngày Nay, tác phẩm của Toan Ánh và Lê Quang Nghiêm). Tôn giáo ấy chẳng những được thấy ở Bắc Việt mà còn có cả ở Trung Việt. Ngay cả bên Nhật ngày nay vẫn còn giữ tín ngưỡng này.
4. Ðối chiếu chỉ số sọ
Dựa theo chỉ số sọ rút từ quyển État actuel de la crânologie indochinoise của các bác sĩ P. Huard, F. Saurin, Nguyễn Xuân Nguyên, Nguyễn Văn Ðức – Hà Nội 1938 – thì các dân tộc gốc Mã Lai đều có chỉ số sọ trên 80, như Mã Lai, Thái, BắcViệt, Cao Miên và Ðại Hàn, ngoại trừ Nhật Bản, Mường và người Thục. Chỉ số sọ của người Tàu thì luôn luôn dưới 80.
Người Nhật có chỉ số sọ thấp nhất trong các nhóm Mã Lai Bách Việt chỉ vì họ bị lai giống với Tàu quá nhiều.
Người Mường mặc dù họ là Cổ Mã Lai như tất cả các phụ nữ và bần dân lại thuộc chủng Melanesien, chỉ trừ các đàn ông cấp lãnh đạo, do đó chỉ số sọ trung bình của họ không giống chỉ số sọ trung bình của người Bắc Việt Nam.
Người Thục có chỉ số sọ rất giống chỉ số sọ Trung Hoa, mặc dù họ thuộc chủng Thái. Cũng chỉ vì họ đã lai giống với Tàu trên cả hai ngàn năm rồi.
Chỉ số sọ của người Việt miền Nam thấp hơn chỉ số sọ của người Việt miền Bắc, chứng tỏ rằng người Việt miền Nam lai Tàu nhiều hơn người Việt miền Bắc.
5. Ngôn ngữ tỷ hiệu
Theo ông Bình Nguyên Lộc thì một số danh từ Mã Lai trong ngôn ngữ Việt không phải là vay mượn hiển nhiên của các dân tộc khác như Chàm, Miên, Mường, Thái mà do từ gốc Cổ Mã Lai mà ra. Ông thẳng thừng bài bác lập luận cho là tiếng Việt là tiếng Tàu của sử gia Nguyễn Phương. Trong quyển Việt Nam Thời Khai Sinh, trang 230, sử gia Nguyễn Phương viết:
“Hầu như có thể nói được rằng tiếng Việt Nam ngày nay, sau 10 thế kỷ độc lập, vẫn còn chính là tiếng Tàu, nhưng chỉ đọc lên một cách hơi khác với cách đọc của những tiếng địa phương ở Trung Quốc. Cố nhiên, trong Việt ngữ, đôi khi có xen vào đôi số những tiếng không phải gốc Tàu, như tiếng Mọi, tiếng Chàm, những hiện tượng đó không nói lên gì khác ngoài sự người Việt Nam trên đường bành trướng, đã có gặp người Mọi người Chàm, cũng một cách như họ đã gặp người Pháp trong thế kỷ qua và họ đã thâu nhận một số tiếng Pháp trong kho ngôn ngữ của họ”.
Nhưng theo ông Bình Nguyên Lộc thì nếu đã phải vay mượn của Tàu thì tựu chung ta chỉ vay mượn những tiếng chỉ những ý niệm phức tạp, những dụng cụ lạ, vật dụng lạ. Như danh từ nước là một danh từ tối quan trọng để chỉ chất mà ta dùng hàng ngày để sống đã được sử dụng để gọi từ ngàn xưa, vậy thì sao ta không dùng chữ thủy của Tàu.
Vả lại với thiên kiến của một nước luôn tự hào là văn minh và xem cái gì của họ đều hơn của Man di cả, nhất là vấn đề ngôn ngữ, thì tất nhiên những danh từ như Lá, Trăng, Ngựa, Chòi, Túp, Cơm, Trâu, Cá, Bông, Chim, Vua, Cây dừa vv… ta phải nhất nhất dùng chữ Tàu, không nên vay mượn chữ của Mọi làm chi. Do đó chỉ có một cách trả lời là nó xảy ra thời thượng cổ, lúc hai dân tộc còn là một, tức ta với họ đồng chủng với nhau.
Ðiều này ông đã chứng minh khi đối chiếu các danh từ Việt với các dân tộc chủng Cổ Mã Lai, nếu ta không giống Chàm thì cũng giống Khơ Me, không giống Khơ Me thì cũng Thái, không giống Thái thì cũng giống người Thượng. Tóm lại danh từ Việt thế nào cũng giống danh từ của nhóm dân cùng chủng Cổ Mã Lai nào đó.
Sau đây là một số bản đối chiếu ngôn ngữ rút ra tưø quyển NGMLCDTVN của ông:
Việt Nam : Cá
Sơ Ðăng : Kaa
Mạ : Ká
Chàm : Kán
Mã Lai : Aka
Việt Nam : Cột
Sơ Ðăng : Kơt
Bà Na : Kơơt
Chàm : Kaat
Mã Lai : Ikaat
Việt Nam : Mắt
Sơ Ðăng : Mat
Mạ : Maht
Chàm : Kán
Mã Lai : Mata
Việt Nam : Mặt trăng
Bà Na : Mạt tlăng
Mạ : Maht kăn
Chàm : Blaăng
Mã Lai : Bulăng
Việt Nam : Sông
Chàm : Krong
Mường : Không
Bà Na : Krông
Mã Lai : Sôngai
Việt Nam : Trái (blái)
Mường : Blái
Bà Na : Plây
Sơ Ðăng : Plây
Thai : Pho la
Việt Nam : Cháu
Bà Na : Saò
Mạ : Sáu
Mường : Cau
Mã Lai : Chu
Việt Nam : Chim
Sơ Ðăng : Chim
Mường : Chim
Bà Na : Sêêm
Kha?La’Vàng : Tiêm
Việt Nam : Con (cái)
Mường : Kon
Bà Na : Koon
Sơ Ðăng : Kooon
Cao Miên : Kôn
Việt Nam : Con (vật)
Bà Na : Ko
Mạ : Ko
Cao Miên : Ko
Mường : Ko
Việt Nam : Ngày
Cao Miên : Thngay
Mường : Ngai
Sơ Ðăng : Haai
Môn : Tngay
Việt Nam : Con ruồi
Mạ : Ko Rhai
Bà Na : Ko Rooi
Mường : Ko Ruuêi
Cao Miên : Ko Ruy
Ngoài ra, ông cũng khám phá ra khá nhiều điều lý thú trong ngôn ngữ như:
Người Mường có danh từ Khai để chỉ con chó, đồng thời lại có nghĩa là con cọp. Theo cố đạo L. Cadière thì tiếng Việt xưa cũng gọi con chó là Khai, hình thức cổ sơ của danh từ con Cầy. Danh từ Bố Cái Ðại Vương, Cái là danh từ Mã Lai, có nghĩa là ông cha hùng mạnh, ông cha thủ lãnh. Hiện nay Mã Lai vẫn còn có danh từ Ibu La’ki, đúng nghĩa Bố Cái, vì Ibu=bố, La’ki=Cái, Ibu La’ki có nghĩa là nhà lãnh đạo.
Danh từ La’ki của Mã Lai biến thành Lìcáy của Chàm và Cái của Việt. Danh từ riêng của miền Nam “người lại cái”, có nghĩa là bán nam bán nữ, chắc chắn là do danh từ Chàm mà ra, đó là “Càmay lagi lìcáy” dịch ra là “đàn bà lại còn đàn ông”. Ta nuốt mất chữ Càmay lagi, chỉ còn Lìcáy biến thành Lại Cái. Hiện nay người miền Nam vẫn thường nói sai là “đàn ông lại cái”, chỉ vì họ không rõ căn nguyên và lại hiểu sai chữ Cái là Ðàn bà. Ngay cả danh từ Thợ Cái, Sông Cái, hoặc trong lúc chơi bài bị bắt làm Cái cũng đồng nghĩa nêu trên.
Người Việt miền Nam thường dùng chữ Tía để chỉ người cha. Ðó là danh từ Tia của dân Thất Mân, Mã Lai đợt II. Các đảo Mã Lai đều nói là Tưa, có nghĩa là cha vợ, chứ không phải là Cha như người Việt miền Nam đã dùng sai.
6. Ðồng bào Mường
Gọi là đồng bào, bởi vì theo ông Bình Nguyên Lộc rằng khoa học đã nhìn nhận rằng dân tộc Mường là Indonesien (Cổ Mã Lai) từ hơn thế kỷ nay, và ông đã chứng minh là dân ta cũng là gốc Mã Lai thì họ và ta là đồng bào rồi vậy.
Ðể viết về dân Mường, ông đã chọn tài liệu chủ lực cho sự nghiên cứu của ông, một cuốn sách mà ông thấy là đầy đủ nhất về dân tộc này, đó là quyển Les Mường, Géographie humaine et Sociologie của cô Jeanne Cuisinier do Viện Dân Tộc Học, Bảo Tàng Viện về Con Người xuất bản tại Paris năm 1946.
Như trong phần đo chỉ số của các giống tộc ở trên, người Mường không thuộc chủng Mã Lai mà lại thuộc chủng Thái, trong khi họ có ngôn ngữ rất gần với ta. Cô J. Cuisinier cho biết rằng quí tộc Mường, gia đình và họ hàng của các quan Lang, các thổ đạo, các hương chức hội tề thì xinh đẹp như người Việt. Còn bần dân và tất cả phụ nữ, kể cả phụ nữ thuộc hàng quí phái cũng bé choắt và xấu xí.
Ông Bình Nguyên Lộc giải thích rằng người Mường là quí tộc Lạc Việt từ Hoa Nam nam thiên cho nên không mang đàn bà theo kịp, họ đến đây hợp chủng với dân Melane’siens da đen xấu xí và lãnh đạo dân Melane’sien cho đến ngày nay. Vào thời thượng cổ, khi mà một cuộc di cư lớn lao xảy ra thì đa số phụ nữ bị bỏ rơi, hoặc yếu sức chết dọc đường. Cho nên khi đến địa bàn định cư, đàn ông goá vợ hay thanh niên thì lấy dân thổ trước làm vợ. Chính vì thế mà phụ nữ của họ mới không đồng chủng với họ.
Xét về ngôn ngữ thì văn phạm của hai dân tộc Mường và Việt giống hệt nhau:
Tiếng Việt Tiếng Mường
Ba hồn bảy vía con đùa (con trai), con gái, đâu đi về cùng bố, cùng mẹ, ăn cơm, ăn cá
Pa hồn pải piái on tứa, on kai, no tỉ vên kung pô, kung mè, ăn kơm ăn ka
Bố ơi chết bỏ ta làm sao vậy, thân mình ăn đâu ở đâu bố ơi
Pô ơi keát bô ta la no pò, thân hò ăn no ở no pô ơi!
Ăn ra khói nói ra lửa
Ăn za khuê nói za lửa
Ðể cho quỉ xa ma sợ
Tê co kwi sa ma đượi
Vía lúa ơi, về đụn về nhà mà ở
Piái ló ơi, vên tun vên nhà ma ở!
Cơm như vàng ròng
Kơm như yang rong
Danh từ Vua, thì họ nói là Bua. Trời, thì họ nói là Blời. Các cố đạo ngày xưa tại Việt Nam cũng viết là Bua, Blời, không phải vì các ông không biết âm Tr, mà bởi vì thuở đó ta cũng giống dân Mường đều không có âm Tr. Trái cây họ đọc là Tlai kây, Trái ngang họ nói là Plái ngang, Trâu họ kêu là Tlu vv…
Ngoài ra, trên mặt các trống đồng khai quật có khắc bộ hình một số người cầm gậy thọc xuống một vật mà đa số các nhà bác học Âu Châu cho rằng đó là động tác giã gạo. Nhưng nhà khảo cổ Lê Văn Lan đã lên xứ Mường và đã thấy người Mường ngày nay vẫn còn đánh trống như vậy, tức dùng gậy thọc xuống mặt trống.
Cô J. cuisinier còn viết rằng cô đã thấy toàn thể người Mường nhuộm răng đen, một số xâm mình, toàn thể ăn trầu, họ có đồng bóng và có sử dụng trống đồng loại lớn. Loại trống này chỉ có các quan Lang mới có và số tia của ngôi sao trên mặt trống càng nhiều thì tỏ rõ thế lực của ông quan Lang ấy, thông thường chỉ có 7,8 tia mà thôi.
Nói tóm lại, những giả thuyết, những lý luận mà các nhà ngữ học, bác học, sử học, nhân chủng học ngoại quốc cũng như người Việt nêu trên đã cho ta nhiều điều lý thú về nguồn gốc dân tộc cũng như nguồn gốc tiếng Việt. Qua đó, quí vị có thể tự suy ra kết luận hay ít nhiều cũng tạo hứng khởi trong việc tìm về nguồn cội văn hóa nước ta.
Chú thích:
(1) Việt Nam Quốc Sử Diễn Ca, Lê Ngô Cát và Phạm Ðình Toái, tr.48
(2) Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, tr. 11-12, Anh hùng nước tôi, MTQGTNGPVN, tr. 43
(3) Việt Nam Tinh Hoa, Thái văn Kiểm, tr. 36
(4) Việt Nam Tinh Hoa, Thái văn Kiểm, tr. 146 – 147
(5) Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, tr. 5
(6) Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Ðào Duy Anh, 1950.
(7) Tầm Nguyên Tự Ðiển, Lê Ngọc Trụ, tr. 11
(8) Nam Phong, số 110, tháng 10 năm 1926
(9) Tầm Nguyên Tự Ðiển VN, tr. 12
(10) Chánh tả Việt Ngữ, tr. 19
(11) Việt Nam Tinh Hoa, tr. 100-101, tr. 155-158
(12) Mượn của A. Chéon trong Note linguistique sur les Muong, BEFFEO, T5, tr, 338-339
(13) Tầm Nguyên Tự Ðiển, Lê Ngọc Trụ, tr. 13
(14) Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam – Xuân Thu xuất bản
(15) Ðại Nam Nhất Thống Chí – Quốc Sứ Quán Triều Nguyễn, quyển 2, tr. 255, 288
(16) Mượn của Phan Hưng nhơn, Diễn Ðàn Phụ Nữ 183 – 1999, trong bài “Nhìn lại nền văn hoá Ðông Sơn để nhó lại nguồn gốc của Trống Ðồng”.


Phần nhận xét hiển thị trên trang