Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 5 tháng 9, 2016

Học thuyết sức mạnh biển hiện đại và triển vọng áp dụng với Việt Nam


Dư Văn Toán*

Cảng Đà Nẵng.
Bài báo giới thiệu về lý thuyết Sức mạnh biển hiện đại và phân tích các thành tố sức mạnh biển của Việt Nam theo học thuyết này, từ đó đề xuất một số giải pháp bảo vệ sức mạnh biển trong bối cảnh hiện nay.
I. Học thuyết sức mạnh biển hiện đại

Trong lịch sử cổ đại, các dân tộc-các nhà nước ven biển đều phát triển các chính sách nhằm thực hiện tốt ba lĩnh vực cơ bản: sản xuất hàng hóa, vận chuyển hàng hóa, bảo vệ an toàn vận chuyển hàng hóa, muốn thế, phải có lực lượng hải quân và đội thương thuyền mạnh cùng một mạng lưới các căn cứ địa trên biển-đại dương. Đây chính là những nền tảng của “Quyền lực biển-(seapower)” hay Sức mạnh biển mà học giả Alfred Mahan đã đưa ra thành lý thuyết vào năm 1890.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sức mạnh biển quốc gia hiện đại bao gồm nhiều thành tố phức hợp hơn thời của Mahan. Nó phụ thuộc vào chính sách biển tổng hợp của quốc gia bao gồm các mặt trận: thứ nhất là đối ngoại, thứ hai là phòng thủ, quân sự (hải-lục-không quân), và thứ ba là hàng hải, thương mại (hình 1), cùng nhiều yếu tố như địa thế biển, tài nguyên biển, các ngành kinh tế biển (hàng hải, đánh bắt cá, bảo hiểm hàng hải, đóng sửa tàu, năng lượng tái tạo), trình độ dân cư, cấu trúc xã hội, thể chế chính phủ, các hoạt động hải quân, các lực lượng lục quân, không quân, các hoạt động hợp tác, các liên minh, công nghệ biển (hình 2).

Hình 1. Sơ đồ sức mạnh biển quốc gia hiện đại.


Hình 2. Các thành tố của sức mạnh biển hiện đại.

II. Đánh giá sức mạnh biển Việt Nam

Trong lịch sử sức mạnh biển của Việt Nam đã có những thành tựu nhất định. Thời kỳ từ cuối thế kỷ 10 đến cuối thế kỉ 19 nổi bật sử dụng thuyền buồm và gỗ loại nhỏ của vua chúa nhà Nguyễn và của dân tộc Chăm (Cham Pa). Trong thời kỳ khoảng gần 1000 năm này đội thuyền mạnh nhất có thể nói đội Hoàng Sa được nhà Nguyễn thành lập. Các hoạt động của đội Hoàng Sa trong việc tuần duyên và một đội tàu thuyền hùng mạnh có thể chinh phục các quần đảo xa bờ như Hoàng Sa và Trường Sa. Thời kỳ này triều Nguyễn có ý chí mua tàu và thành lập đội tàu, nhưng cuối cùng cũng bất thành khi đội tàu của Pháp tấn công vào cảng Đà Nẵng. Trong đó thời kỳ 1000 năm này, có thể nói, sự nổi bật về hoạt động giao thương đồ gốm và tơ lụa là do đội tàu nước ngoài, chủ yếu là Nhật, Trung Quốc và một số tàu thuyền châu Âu mang lại. Di tích để lại là những tàu thuyền va chạm đá ngầm và đắm dọc bờ biển Việt Nam 700-1000 năm tuổi. Đến những năm trước năm 1975, lực lượng tàu thuyền Việt Nam luôn có sức mạnh duy trì sự hiện diện tại các quần đảo xa bờ như Hoàng Sa và Trường Sa. Thời kỳ sau 1975 khởi đầu cho việc khai thác dầu khí và khai thác biển. Nhưng về đóng tàu và hoạt động hàng hải thì đội tàu Việt Nam vẫn không đáng kể. Cho đến cuối thập niên 90 của thế kỷ 20, đội tàu vận tải biển Việt Nam chiếm lĩnh được thị trường vận tải biển gần 30%. Trong lịch sử tại một yếu huyệt (hiểm lộ) biển của Việt Nam, quân Nguyễn Ánh và Tây Sơn đã có một trận thư hùng quyết định chiến trường vào năm 1801 tại cửa Thị Nại mà người đời sau gọi đó là Xích Bích của Việt Nam. Hiểm lộ Thị Nại cũng là nơi vua Trần Duệ Tông tử trận trong trận phạt Chiêm năm 1377.

Chúng ta có hàng loạt các hải đảo chiến lược tại vùng ven bờ, và đặc biệt tại các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa đây có thể coi như các vị trí chiến lược đáp ứng được việc thực hiện học thuyết Mahan truyền thống. Các điều kiện chính để thực hiện học thuyết sức mạnh biển đó là:

Về vị trí địa lý. Biển Đông là con đường mang tính chiến lược, là huyết mạch giao thông hàng hải và hàng không, là “cầu nối” thương mại cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế Đông Á với các châu lục. Biển Đông luôn là tuyến đường biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau Địa Trung Hải) (hình 3).

Hình 3. Cấu trúc địa thế hàng hải khu vực Đông Nam Á.

Trong 39 tuyến đường hàng hải hiện đang hoạt động trên thế giới (có tới 10 tuyến lớn), thì có 29 tuyến đi qua địa phận Biển Đông. Trong 10 tuyến lớn thì khu vực Biển Đông có một tuyến và năm tuyến đi qua hoặc có liên quan đến Biển Đông. Trung bình mỗi ngày có 250-300 lượt tàu biển vận chuyển qua Biển Đông, tính từ năm 2000-2009, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu bằng đường biển tương đối ổn định, chẳng hạn dầu mỏ chiếm 33-36%, hàng chủ đạo 21-27% và hàng khô 39-42%.

Địa thế hàng hải Việt Nam. Hiện nay có 38 luồng đường biển, 49 cảng biển và 166 bến cảng; là một trong những điều kiện để nước ta tiến lên từ biển và làm giàu từ biển. Hệ thống các luồng biển lớn ở nước ta phân bố chủ yếu thành các cửa sông hình phễu, hệ thống các lạch triều, cửa sông phẳng dạng cúc áo, các cửa đầm, vũng vịnh. Đặc điểm các luồng biển về độ sâu, chiều rộng và chiều dài chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế; và hiện có 10 luồng biển có chiều dài hơn 1 km, rộng hơn 100 m và độ sâu trên 10 m, như nếu các luồng biển này được đầu tư đúng mức thì có thể trở thành các luồng biển mang tầm cỡ khu vực và quốc tế.

Bên cạnh đó, hệ thống các cảng biển ở nước ta được xây dựng rải rác ở hầu hết các địa phương có biển, với 49 cảng biển, trong đó 17 cảng biển loại I, 23 loại II, chín loại III và 166 bến cảng. Một điều bất cập đối với hệ thống luồng biển, cảng biển và bến cảng ở nước ta được xây dựng rải rác ở các địa phương, nhưng chưa có địa điểm nào đạt tầm quốc tế hay khu vực.

Tài nguyên và các ngành kinh tế biển khác. Hằng năm Việt Nam khai thác được khoảng 17-18 triệu tấn dầu thô. Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, với tổng trữ lượng khoảng 10 tỷ tấn dầu quy đổi (riêng trên địa phận quần đảo Trường Sa là 105 tỷ thùng), trong đó trữ lượng có khả năng khai thác 2 tỷ tấn dầu quy đổi và khí tự nhiên khoảng 1.000 tỷ m3. Việt Nam được xếp vào nước trung bình trong khu vực (tương đương Thái Lan và Malaysia), nhưng lại thấp hơn Trung Quốc (trữ lượng dầu mỏ ước tính 25 tỷ tấn và 8.400 tỷ m3 khí tự nhiên).

Biển Đông cũng được xem là một trong 10 trung tâm đa dạng sinh học biển (với hơn 11.000 loài) và là một trong 20 vùng biển có nguồn lợi hải sản cao nhất toàn cầu, được xem là ngư trường lớn của quốc gia và hiện nay đang được khai thác hiệu quả. Trong những năm qua, sản lượng khai thác chung hải sản đạt gần 2 triệu tấn/năm, trữ lượng khoảng 4,5 triệu tấn. Chỉ trong thời gian 20 năm, số lượng tàu thuyền khai thác hải sản ở nước ta có tăng, nhưng tốc độ không cao so với sản lượng và đạt 6,2%/năm và tốc độ tăng số lượng tàu đạt 2,9%/năm.

Năng lượng sạch tái tạo, đặc biệt năng lượng gió trên biển với tiềm năng hơn 200.000 GW có thể thay thế, đáp ứng được nhu cầu điện năng của quốc gia.

Quy mô và trình độ dân cư ven biển.

Dân số các vùng biển, hải đảo và ven biển vào khoảng 30 triệu người, tức là khoảng 1/3 dân số toàn quốc, với nhiều lao động có trình độ trong các nghề đóng tàu, hàng hải, khai thác nuôi trồng thuỷ sản, diêm nghiệp, phong điện...  Hàng chục các đơn vị đào tạo, nghiên cứu khoa học và công nghệ phát triển kinh tế biển.

Với học thuyết sức mạnh biển hiện đại: Hiện nay Việt Nam đã hội nhập quốc tế toàn diện hầu hết các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường. Việc hợp tác và hội nhập quốc tế trên biển sẽ giúp nước ta bảo vệ vững chắc chủ quyền trên biển và phát triển kinh tế vững chắc hơn. Chúng ta đã tham gia ký kết và thực hiện các công ước quốc tế về biển như UNCLOS 1982, IMO, DOC, MARPOL, CBD..

III. Đề xuất các giải pháp bảo vệ sức mạnh biển Việt Nam

1. Cần áp dụng song hành hai học thuyết Sức mạnh biển truyền thống và các đặc trưng sức mạnh biển hiện đại. Bảo vệ các tuyến hàng hải (SLOC) là những con đường hàng hải chính yếu nối các cảng thương mại, cảng tiếp vận và quân cảng. Cùng hợp tác với các cường quốc biển để các con đường SLOC xung quanh biển Đông không bị phong tỏa vào thời chiến. Chúng ta cần trang bị đủ hệ thống tàu thuyền, máy bay hiện đại giám sát và kiểm soát được hoàn toàn vùng biển Việt Nam khu vực Côn Đảo-Trường Sa-bờ biển Việt Nam thì chúng ta đã kiểm soát được một SLOC quan trọng này trong hàng hải thế giới.

2. Tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng tốt cho vùng bờ và tất cả các hải đảo trong quyền kiểm soát trở thành những địa điểm văn hóa, du lịch, trung tâm ngư nghiệp có giá trị kinh tế biển cao đồng thời với bảo đảm khả năng phòng thủ là nâng cao sức mạnh Việt Nam.  Phát triển và tăng cường đầu tư mạnh cho lực lượng đội tàu thương mại cùng phát triển, lực lượng khoa học công nghệ và khai thác biển, tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, ngành nghề đánh bắt hải sản và đóng sửa tàu, cứu hộ cứu nạn, bảo vệ môi trường sinh thái và san hô.

3. Tăng cường các hoạt động đối ngoại tích cực như là thành viên tổ chức các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP). Và hàng loạt các hoạt động song phương và đa phương với các quốc gia trong khu vực và thế giới.

4. Thực hiện phân định biển, hợp tác biển theo Luật pháp quốc tế đặc biệt là UNCLOS 1982 với các quốc gia láng giềng xung quanh biển Đông.
-----
* Viện nghiên cứu biển và hải đảo
Tài liệu tham khảo.
Geoffrei Till, 2009. Seapower. A guide for the twenty-first century. Routledge, 432pp.
Alfred Mahan. Ảnh hưởng của sức mạnh trên biển đối với lịch sử, 1660-1783. NXB Tri Thức, 2013. 657 tr
Dư Văn Toán, 2013. Sức mạnh biển thế giới và đề xuất với Việt Nam. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, HVNG, tháng 9 năm 2013.
 Lê Vĩnh Trương, 2011. Các cường quốc hải dương, SLOC và các hiểm lộ trên biển. http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-09-23-cac-cuong-quoc-hai-duong-sloc-va-cac-hiem-lo-tren-bien.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ngoại giao Trung Quốc: Từ vương đạo tới bá đạo ?


Trần Văn Chánh

Trung Quốc là một trong những quốc gia có
tỷ lệ chênh lệch giàu nghèo đang gia tăng
nhanh chóng.
Từ nhiều năm nay, nhất là từ sau sự kiện Quốc vụ viện Trung Quốc thản nhiên phê chuẩn thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, cho nhập chúng vào tỉnh Hải Nam của Trung Quốc (đầu tháng 12 năm 2008), Trung Quốc liên tục có những động thái gây bất ổn gia tăng tại biển Đông, nơi có nhiều nguồn lợi hấp dẫn về hải sản, dầu mỏ và cũng là vị trí chiến lược quan trọng trong việc giao thương hàng hải của nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt mấy tháng gần đây, qua việc bồi đắp cát (đã chuẩn bị từ lâu) lên các rạn san hô và xây dựng các tòa nhà, cảng biển, đường băng… trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Một số việc làm nêu trên của Trung Quốc cho thấy dường như “cường quốc số hai” này đang đi theo hướng từ bỏ con đường “vương đạo” để đi theo “bá đạo”?

Trung Quốc thật sự có phải là một nước mạnh không?


Theo nhận định chung của hầu hết các học giả trên thế giới, Trung Quốc chỉ mạnh một số mặt (quân sự, dự trữ đô la…) nhưng không thành công về mặt xây dựng xã hội và văn hóa - đạo đức, chủ yếu do thể chế chính trị lạc hậu gây nên. Về mặt báo cáo công khai, suốt nhiều năm gần đây Trung Quốc có chỉ tiêu phát triển kinh tế cao, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, nhưng đồng thời cũng để bộc lộ rất nhiều vấn đề phải đối phó vừa khó khăn vừa quyết liệt, như tính chất phong kiến cổ hủ khó sửa của dân tộc về mặt văn hóa (“người Trung Quốc xấu xí”…), những vấn nạn về tình trạng tranh chấp quyền lực chính trị nội bộ (đang ở đỉnh cao…), nạn ô nhiễm môi trường, sự phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu đậm, nạn thất nghiệp, mâu thuẫn giữa các dân tộc, và tình trạng quốc nạn tham nhũng trầm trọng kéo dài... Tất cả đều vô phương cứu chữa nếu không có được những bước đi cải cách kịp thời và thích hợp hơn nữa theo con đường dân chủ hóa. Đó là chưa kể thêm những trận thiên tai ngày càng nặng nề thỉnh thoảng ập xuống đất nước gây thiệt hại với quy mô rất lớn về nhân mạng và của cải... Thiên tai nhân họa dồn dập có thể sẽ làm cho nước Trung Quốc phải bận tâm nhiều và bị giảm đi một phần sức mạnh đáng kể.

Do vậy, mặc dù bên ngoài nhìn Trung Quốc như một cường quốc, trên thực tế các nhà lãnh đạo nước này cho rằng quốc gia còn nghèo, dễ bị tổn thương và có rất nhiều vấn đề nội tại (xem Susan L. Shirk, China: The Fragile Superpower [Cường quốc mong manh], bản tiếng Việt “Gã khổng lồ mất ngủ” của NXB Hội Nhà Văn, 2015, tr. 383). James Lilley, người giới thiệu trên bìa cuốn sách vừa dẫn trên của bà Susan L. Shirk (chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc, từng là cựu Phó trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ dưới thời chính quyền Clinton…), đã viết: “Trong cuốn sách có tính khai mở này, Susan L. Shirk trình bày tỉ mỉ về tiến bộ kinh tế đáng kinh ngạc của Trung Quốc, cùng lúc vén tấm màn che phủ những vấn đề nội bộ gay gắt của nước này. Bà đã dùng sự thật để bác bỏ một hình ảnh giả tạo về Trung Quốc vốn do các nhà quan sát Trung Quốc vồn vã đưa ra” (xem trang bìa 3, sđd.).    

Theo quan điểm biện chứng của Kinh Dịch hoặc của Lão-Trang thì chỗ mạnh của sự vật cũng có chứa đựng mặt yếu kém của nó. Đó là hai mặt đối lập song song tồn tại. Chỗ yếu cơ bản của Trung Quốc trong suốt tiến trình lịch sử cho đến hiện nay vẫn là phải gánh chịu một dân số quá đông (năm 2005 đã vượt con số 1,3 tỉ người, gần bằng ¼ dân số thế giới), nên tất yếu phải chứa đựng bên trong bản thân nó càng nhiều yếu tố mâu thuẫn hơn so với những nước có quy mô dân số nhỏ hơn. Nếu ép hạn chế sinh sản quá đáng, làm trái với tự nhiên, sẽ có thể gây nên những hậu quả trục trặc về mặt tâm lý xã hội, đối với một dân tộc có truyền thống lâu đời coi sự đông con là hạnh phúc, như trường hợp những đứa con một “đế vương” được cưng chiều trong hầu hết gia đình của người Trung Quốc hiện nay với một sự phát triển chắc chắn không được hoàn toàn bình thường về mặt tâm lý. Chính vì vậy, dân tộc Trung Quốc phải luôn luôn đối phó với mọi thứ vấn đề phức tạp về quốc kế dân sinh mà ngày nay người ta gọi là những vấn đề kinh tế-xã hội. Lịch sử Trung Quốc đã từng chứng tỏ, nói theo La Quán Trung trong đoạn đầu Tam quốc diễn nghĩa là “hết loạn lại trị, hết trị lại loạn”, khó lòng vượt thoát những điều kiện động loạn để giữ được sự phát triển bền vững. Thực tế chứng minh rằng, Trung Hoa là một nước có bề dày lịch sử rất lâu dài và phong phú, nhưng bên cạnh những thành tựu tích cực đóng góp nhiều cho nhân loại, lịch sử trong quá khứ Trung Quốc cũng là lịch sử của những cuộc chiến tranh chinh phạt bất tận đi cùng với sự tranh chấp quyền lực đẫm máu của các thế lực phong kiến cát cứ, chắc chắn là vì nước Trung Hoa đất rộng người đông, tính cọ xát xã hội và đấu tranh xã hội thường gay gắt quyết liệt nhiều hơn, và điều này đã tiếp tục diễn ra kéo dài cho đến những năm của nửa sau thế kỷ 20. Gần đây nhất, tình trạng mâu thuẫn xã hội tại Trung Quốc đang ngày càng gia tăng khủng khiếp, biểu hiện qua những cuộc biểu tình đập phá, đụng độ dữ dội với cảnh sát, cũng như đã xảy ra liên tiếp nhiều vụ ném bom chết người. Những vụ bạo động và đánh bom này đang làm lộ rõ sự bất ổn trong xã hội Trung Quốc vốn xuất phát từ biết bao nỗi bức xúc liên quan đến tình trạng bất bình đẳng, khoảng cách giàu nghèo và nạn tham nhũng vô phương cứu chữa, đặc biệt là từ việc thu hồi đất đai…  

Trong phần kết luận quyển Lý thuyết quân sự Trung Hoa (bản dịch tiếng Việt từ tiếng Anh của Nguyễn Duy Chính, NXB. Công an Nhân dân, 2004), tác giả Chen Ya Tien đã đưa ra một nhận định có lẽ chính xác: “Với đà gia tăng dân số mãnh liệt, tình trạng môi sinh ngày càng suy thoái, tài nguyên giới hạn, không nói là thế kỷ của Trung Hoa có đến không mà ngay cả giữ cho được mức phát triển như hiện nay cũng không phải dễ” (tr. 514).

Thật ra, dân tộc và các nhà cầm quyền Trung Quốc có thừa sự thông minh và kinh nghiệm để nhận ra đúng những mặt mạnh, yếu của mình, từ đó tìm cách sửa chữa đường lối chính trị/ ngoại giao theo chính sách “vương đạo” (thay vì “bá đạo”), như trong những năm từ khoảng 1979 đến đầu thiên niên kỷ mới, đã tìm cách hòa giải khá thành công và có tính thuyết phục, hợp với nhân tâm và văn minh, với Hoa Kỳ, Tây Âu cùng nhiều nước nhỏ khác ở vùng Đông Nam Á. Đáng tiếc, chính sách hòa giải nêu trên không được kéo dài, mà theo các chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc, cũng xuất phát từ áp lực ngày càng tăng của tình trạng bất ổn bên trong.

Xem Thanh thực lục, thấy được chính sách “nhu viễn” của các nhà cầm quyền Trung Quốc thời xưa có vẻ khôn ngoan hơn đường lối trông có vẻ “bá đạo” hiện nay của Trung Quốc. Chẳng hạn, khi nghe quan địa phương báo cáo về chuyện tranh chấp vài miếng đất nhỏ ở vùng biên giới Trung-Việt (Bắc Việt Nam), vua Khang Hi (một vua tài giỏi được nhân dân Trung Quốc rất kính phục) liền hạ ngay chiếu chỉ, không chút đắn đo, trong có đoạn tạm dịch ra như sau: “Xem tờ tâu, [biết được] tình hình xa gần khác nhau trong ranh giới cũ của Giao Chỉ. Trẫm nghĩ đạo nhu viễn, xét về mặt phân chia lãnh thổ và sống hòa mục với nước láng giềng, thì sống hòa mục với nước láng giềng là tốt [hơn]; so sánh giữa sợ uy và nhớ ơn, thì nhớ ơn là trên hết. Người ta bảo rằng các xứ Ðô Long1, Nam Ðan vào thời cuối Minh đã bị An Nam chiếm hữu, như vậy việc xâm chiếm không phải khởi đầu từ triều ta. Kể từ triều ta đến nay, An Nam mấy đời cung kính phục tùng, quy thuộc lâu dài, thật đáng khen, sẽ phải được khích lệ, há lại tranh giành với họ chút đất đai, huống chi lại là khu vực đã mất vào thời cuối Minh rồi? Ðất này quả có lợi ư, thế thì Thiên triều lẽ nào lại nên tranh lợi với nước nhỏ? Nếu không có lợi ư, thế thì lại cần gì phải tranh chấp với họ? Bụng Trẫm chỉ muốn lấy đại công chí chính làm hẹn, coi [mọi người] trong nước ngoài nước đều là con đỏ. Vả lại hai đất giáp giới liền cõi, rất dễ xảy ra xích mích, càng nên khéo xử để vỗ về an ủi quan tâm đến họ, không chỉ làm cho dân nước họ được yên, mà cũng chính là để làm cho dân ta được yên. Nếu lấy khe nước nhỏ làm ranh giới, thì có hại gì? Những hành động tham lợi muốn cầu may lập công, đều không đáng làm bài học. Hãy rõ ý này của Trẫm, rồi châm chước mà thi hành” (Thanh thực lục: Việt Nam Miến Điện Thái Quốc Lão Qua sử liệu trích sao, “Thế Tông thực lục”, bản chữ Hán, q. 31, tr. 28-31).

Thật ra các ông vua Tàu như Khang Hi, Càn Long… được dân Trung Quốc kính phục cũng có tinh thần “đại Hán bành trướng” chứ chẳng phải không. Họ không dễ gì từ bỏ được tư duy, tâm lý của đại quốc, nhưng đó là một vấn đề thuộc quá khứ lịch sử. Chính sách “nhu viễn” của họ mà các triều vua Việt Nam bắt chước học tập khi ứng xử với những nước láng giềng nhỏ hơn cùng thời đó (như Chiêm Thành, Cao Miên, Xiêm La, Lão Qua…) dù sao vẫn là một chính sách khôn ngoan truyền thống, nhằm giữ mối quan hệ cùng tồn tại hòa bình lâu bền giữa nước lớn với nước nhỏ, chứ không xâm lược, trừ vài trường hợp nước nhỏ có chuyện lục đục phải chạy qua tâu báo với “thiên triều”.

Từ gần 30 năm nay, Trung Quốc cho in lại hầu như tất cả sử sách, bao gồm cả Tứ thư Ngũ kinh và hệ thống các sách kinh điển thuộc “bách gia chư tử”, có lẽ cũng muốn để cho nhân dân Trung Quốc học tập trên cơ sở vận dụng phát huy những tinh hoa tư tưởng của người xưa. Được vậy thì tốt, và giả định các nhà cầm quyền biết “ôn cố tri tân”, thi hành có chọn lọc lời dạy của các bậc thầy xưa, Trung Quốc sẽ có thể thành công hơn nữa hoặc ít nhất cũng giữ được sự ổn định lâu hơn trên con đường phát triển của mình.

Trước nhất về triết lý phát triển, rồng bay quá đà thì sẽ có điều ân hận, như lời trong kinh Dịch “Kháng long hữu hối”, mà một nhà chú giải cổ thư đã giảng là “Nếu biết tiến mà không biết thoái có ngày sẽ hối hận”. Một số nhà cầm quyền Trung Quốc trước đây thường hay có thói “tham đại cầu dương”, ưa chủ trương “đại nhảy vọt” nên thành quả tuy có nhiều mà thất bại cũng lắm. Điều họ chưa làm được vẫn còn vang vọng trong lời cảnh báo của vị Vạn thế sư biểu Khổng Tử, “Không lo ít mà chỉ sợ chia không đều” (Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân). Đó là một bài học rất đáng tham khảo đối với mọi dân tộc chứ không chỉ riêng gì Trung Quốc, khi vạch ra đường lối phát triển cho một đất nước.

Lão Tử chủ trương “bất tranh” mà phải tự khiêm hạ (nhún nhường, hạ mình): “Nước lớn cũng như dòng nước dưới thấp, là chỗ thiên hạ dồn về... Cho nên nước lớn phải hạ mình trước nước nhỏ thì sẽ được nước nhỏ thần phục; nước nhỏ mà hạ mình trước nước lớn thì sẽ được nước lớn che chở...”.

Cả Khổng Tử, Mạnh Tử, Mặc Tử... đều cực lực phản đối chiến tranh xâm lược, chiếm đất của nước nhỏ, nhất là Mạnh Tử, khi ông phát biểu khá rõ, nói cho người xưa cùng thời ông mà ta nghe tưởng như nói với người hôm nay: “Người có nhân đức dù lấy đất đai của người này cấp cho người khác cũng không nỡ làm, huống chi lại giết người để lấy đất sao?” (Mạnh Tử, “Cáo Tử” hạ).

Xem ra, trong vụ tranh chấp Hoàng Sa-Trường Sa với Việt Nam và nhiều nước khác, thật đáng tiếc, Trung Quốc toàn cãi ý Thầy! Cái được nếu có cũng rất ít chẳng đáng là bao so với một nước lớn như Trung Quốc, nhưng phần mất về các mặt khác thì lại chắc chắn và sẽ lớn hơn nhiều nếu nhìn vấn đề trên toàn cục và theo hướng tương lai lâu dài.
-------
1 Đô Long 都龍: Vùng đất trước đây thuộc Việt Nam, được gọi là Tụ Long; qua Hiệp ước Thiên Tân, thực dân Pháp đã nhường cho Trung Quốc, hiện nay còn địa danh trấn Ðô Long, thuộc huyện Mã Quan, tỉnh Vân Nam, trấn này giáp với tỉnh Hà Giang, Việt Nam.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt


Trần Gia Ninh

Tượng Thừa tướng Nam Việt Lữ Gia
ở Linh Tiên Đạo Quán, Hoài Đức, HN.
Khi đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?(1), nhiều người nghĩ chắc là ý kiến của những anh chàng người Việt nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự như vậy hiện là những chủ đề nóng của các diễn đàn tranh luận trên mạng Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng Trung chứ không phải của người Việt. 
Họ đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam, người Kinh ấy, từ đâu mà ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ xưa đã có sức đồng hóa cực mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể. Tại sao chừng ấy năm đô hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là thuộc Trung Quốc từ thời đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa) có thành vấn đề không? Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ không?
Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả lời cho những câu hỏi thú vị đó. Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải giang sơn mênh mông từ Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt sinh sống và phát triển nền văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết đều trở thành lãnh thổ và giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán. Quá trình đó người ta quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, và quá trình Hán hóa Bách Việt, là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời xa xưa đó lịch sử chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp cận với đa số hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà sử sách cổ còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một số học giả uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích, nhiều chiều, kể cả còn đang tranh cãi.
Bách Việt là ai và ở đâu?

Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米-(lúa)2.
Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy).
Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.
Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.
Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.
Sách Lộ Sử của La Bí (1131 - 1189) người đời Tống viết3: Việt thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú,  Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.
Hán Hóa Bách Việt - Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán
Gọi Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có nhà Hán. Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴,攻吾… lập quốc vào thời Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu Việt 于越, tiền thân của nước Việt 越 国 thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132 - 1083 TCN). Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ 太湖地區. Nước Việt định đô ở Cối Kê 會稽 (Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 - 464 TCN) thì bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông giáp  Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến chiếm nước Việt, đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ đó. Những sự kiện này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋 do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric Henry4.
Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝), Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯), Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ (Hán). Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc - Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 - 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly Tao đã viết6Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua về họ Cao Dương(Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký - thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di7. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân - Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất.

Sự Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 - con gấu), vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 - hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô - Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.
Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh - tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa. (Xem bản đồ).

Hán hóa Bách Việt- Giai đoạn sau thời Tần-Hán
Cho đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam... gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam) vẫn còn thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý…
Vùng Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình định xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn 61% cư dân Vân Nam là người Hán.
Vùng Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần - Hán, nhưng quá trình Hán hóa thì khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!). Cổ sử Trung Hoa chép thì Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc Việt… có nước Dạ Lang (nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc10 là một tộc Việt hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi. Sách “Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu11 không có nói đến Lạc chỗ nào cả. Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu, không tìm thấy chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền nhau12. Tuy nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì có chép” Việt Lạc-越骆”13. Việt Lạc rất có thể chính là nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm trực tiếp từ ngôn ngữ người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt là ghi chép qua thông dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán.
Luận theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ Minh Mã đầu (Nam Ninh - Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng quanh Hà Nội ngày nay.
Đồng thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347)người đời Tấn viết trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba, Nam giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương thì bị nhà Tần diệt15, hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây thì đứt đoạn, không nói gì tiếp. Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị, cha Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng nguồn sông Hồng)16, xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền ngôi cho con là Phán, cũng chỉ là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của tộc dân Đại Y17.
Lúc này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công nguyên.
Theo quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh đuổi, Phán xưng là An Dương Vương.
Sách cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng19 “… Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép20“Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”. Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương, Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương, các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành21. Dầu sao thì cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên tuổi đúng sai thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam, mà cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội chưa xác định, nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng là An Dương Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam22.
Tần diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần cắt cử quản lĩnh Quế Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm 204 TCN Triệu Đà bèn chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu) và đánh chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”23. Sách “Thái Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một phát giết ba vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất nỏ thần, dẫn đến An Dương Vương thất bại24. Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam Việt25. Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với nhà Hán được 92 năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia26 thì mất nước vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt, còn lại hoàn toàn trở thành Hán. Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn giữ được bản sắc và nền văn minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở thành Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một trường hợp duy nhất mà Trung Hoa không thể Hán hóa được.
Vì sao Đại Việt không bị Hán hóa?
Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1 - Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2 - Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng hóa, người Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn:
* Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác lại: Tại sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ trong mấy trăm năm đã bị đồng hóa hoàn toàn.
* Việt Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế tại sao Hải Nam cũng như vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi.
* Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra, không có bằng chứng nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại cai trị và số quân chiếm đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân bản địa. Chỉ có thể hiểu người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực đoan bênh vực, nói rằng thực ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945, Việt Nam đã thanh lọc lại hết!
Cũng có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít nhiều có lý, ví như:
* Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú.
* Người Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng hóa được người Kinh, trái lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người Kinh là một tộc người có năng lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn người Hán. Hãy xem họ mở rộng về phía Nam thì rõ.
Nhưng đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy được. Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là một sự tổng hòa gồm:
* Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống.
* Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng.
* Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.
(Về vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt, xin dành cho bài sau).
Sự đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.
1. Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.
2. Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc. Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục, nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán hóa.
3. Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì dân tộc đó rất khó bị đồng hóa.
Nhìn lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem thí dụ về ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người Kinh có sức sống mãnh liệt.
Tinh hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém nền văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm.
Tổ chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ đến mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28.
Quân Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại thần nhà Trần... Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi…
Than ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.1

CHÚ DẪN
1为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. http://bbs.tianya.cn/post-no05-226522-1.shtml
越南人(京族)为何难以同化 “ Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?”  http://lt.cjdby.net/thread-1440161-1-1.html
2 Có học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ chỉ tộc người vác rìu đi (chạy) săn và tộc  người trồng lúa trong ruộng. Chứng tỏ thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ không phải đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt 越 và Việt粵  âm đọc  giống nhau, “Sử ký” viết là 越, “Hán thư” viết là 粤. Âm đọc 粤 là từ âm đọc của chữ Vu 于, người cổ đọc 越 là于. Vu 于 viết theo lối chữ triện 篆 là 亏, hài thanh là chữ vũ 雨-mưa, viết lên trên thành 雩. Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt 越 đều cải viết thành雩, sau theo lối chữ lệ 隶, chữ khải 楷 mới viết thành ra 粤, tức biến hóa hình chữ vũ 雨 đặt trên chữ Vu亏.
3 “路史” 罗泌 (1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑,  且瓯, 西瓯, 供人, 目深, 摧夫, 禽人, 苍梧, 越区, 桂国, 损子, 产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳), 是谓百越。
#4 http://www.sino-platonic.org/complete/spp176_history_of_yue.html
 The Submerged History of Yuè. By Eric Henry, University of North Carolina
5 史記-司馬遷 (145 – 86 TCN)
6屈原在《离骚: 帝高阳之苗裔兮,朕皇考曰伯庸- Ðế Cao Dương chi miêu duệ hề, Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung.
7《史记.楚世家》记载: “封熊绎于楚蛮- phong Hùng Dịch ư Sở Man “, “ 熊渠曰: 我蛮夷也不与中国之号谥- Hùng Cừ nói: Ta là dân man di, không cùng hiệu, thụy của Trung quốc. Hùng Dịch (~1006 TCN) là vua lập ra nước Sở, Hùng Cừ (~877 TCN) là vua Sở về sau. Sở Man là tên nhà Thương, Chu gọi dân Kinh Sở bản địa, Man tức là Man Việt, tên tộc Việt thời nhà Thương.
8 Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published by: Taylor & Francis, Ltd.
9 五岭 Ngũ Lĩnh-dãy núi phía Nam Trung Hoa chạy qua biên giới các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, có năm đỉnh cao (Ngũ lĩnh) là 越城 (Việt Thành)、都庞 (Đô Lung), 萌渚 (Manh Chử), 骑田 (Kỵ Điền), 大庾(Đại Dữu).
10 Chữ Lạc có nhiều cách viết, đều đọc là Lạc. Hai chữ  雒,骆 thường dùng như nhau để chép Lạc Việt trong sách cổ. Tiếng Bắc Kinh đọc là Luo, Quảng Đông đọc lok, Đời Đường đọc lak. Nhiều học giả cho rằng nguồn gốc chữ Lạc là do người Hán ghi âm chữ Lúa, Ló của người Việt, người Mường mà ra. Người Việt là tộc người có nền văn minh lúa nước.
11《淮南子·人间训:“(秦皇)又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。Hoài Nam Tử. Nhân gia huấn: (Tần Hoàng) cho quân đào kênh thông đường vận lương, rồi đánh người Việt, giết được vua Tây Âu là Dịch Hu Tống”.
12《史记·南越列传》赵佗上呈汉文帝的“谢罪书”:“且南方卑湿,蛮夷中间,其东闽越千人众号称王,其西瓯骆裸国亦称王。” Triệu Đà dâng thư tạ tội với Hán Văn Đế: “ đất phương Nam thấp, ẩm ướt. Trong các tộc man di ở đây, (chỉ dám) xưng vương phía Đông với dân Đông Âu vài ngàn khẩu, phía Tây với nước Âu Lạc khỏa thân (ý nói  đóng khố cởi trần).
13《吕氏春秋·孝行览·本味篇》:“和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌。”高诱注:“越骆,国名。菌,竹笋。”  Lã thị Xuân Thu-Hiếu hạnh lãm, bản vị thiên:” Những thứ hoàn mỹ  là gừng Dương Phác, quế Chiêu Diêu, Khuẩn (Măng) Việt Lạc” Cao Dụ chú giải:” Việt Lạc là tên nước, Khuẩn là măng tre”.
14 常璩(347)华阳国志-(卷三蜀志): Thường Cừ, “Hoa Dương Quốc Chí” (quyển 3-Thục Chí): “历夏、商、周,武王伐纣,蜀与焉。其地东接于巴,南接于越,北与秦分,西奄峨嶓。” Trải qua Hạ, Thương, Chu,Vũ Vương phạt Trụ, cùng có nước Thục. Nước đó đông giáp nước Ba, nam giáp nước Việt, bắc phân giới với Tần, Tây dựa Nga Ba” (vì vậy cư dân ở đây có thể là người Khương, Hoa Hạ và Việt-TGN).
#15“华阳国志·蜀志:“周慎王五年秋,秦大夫张仪、司马错、都尉墨等从石牛道伐蜀,蜀王自于葭萌拒之,败绩。王遁走,至武阳为秦军所害,其相、傅及太子退至逢乡,死于白鹿山。开明氏遂亡,凡王蜀十二世 ““Hoa Dương Quốc Chí, thiên Thục Chí”: “Mùa thu đời Chu Thận Vương thứ năm, các Đại Phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô úy Mặc v.v theo đường Thạch Ngưu tiến phạt Thục. Thục Vương thân cùng Gia Mạnh cự địch, bị thất bại. Vương tháo chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần hại, Thái tử thoái lui về và chết tại núi Bạch Lộc. Dòng họ Khai Minh, truyền được 12 đời, đến đây bị diệt”. Vũ Dương nay là huyện Bành Sơn,Tứ Xuyên.
16 叶榆水
17岱依人
18《越史略》卷一载:“周庄王时嘉宁部有异人焉,能以幻术服诸部落,自称碓王,都于文郎,号文郎国。以淳质为俗,结绳为政,传十八世,皆称碓王。越勾践尝遣使来谕,碓王拒之。周末为蜀王子泮所逐而代之。泮筑城于越裳,号安阳王,竟不与周通。” .: Việt sử lược: “thời chu Trang Vương, ở Gia Ninh bộ có người tài, dùng xảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Đối Vương, đô ở Văn Lang, nước là Văn Lang. Tục lệ thuần hậu, chính sự nghiêm chỉnh, truyền 18 đời, đều xưng là Đối Vương. Việt Vương Câu Tiễn đã từng đến dụ, Vương đều từ chối. Vào cuối đời nhà Chu bị Thục Vương Tử tên là Phán đánh đuổi,  thay thế trị vì. Phán xây thành Việt Thường, hiệu là An Dương Vương, tuyệt giao với nhà Chu”.
19《水经·叶榆水注》中注引《交州外域记》云:“交趾昔未有郡县之时,土地有雒田,其田从潮水上,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯主诸郡县。??后蜀王子将兵三万来讨雒王、雒侯,服诸雒将。蜀王子因称为安阳王。Sách “Thủy Kinh.Diệp Du Thủy chú”, dẫn theo “Giao Châu Ngoại Vực Ký” viết rằng: Giao Chỉ thời chưa có quận huyện, đất đai thì có Lạc điền, nước ruộng lên xuống theo triều, dân làm ruộng sinh sống, nên gọi là Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc hầu cai quản các quận huyện. ?? về sau Thục vương tử xua quân tướng ba van đánh Lạc Vương, Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Thục vương tử xưng là An Dương Vương.
20《旧唐书·地理志》则引《南越志》云:“交趾之地,最为膏腴,旧有君长曰雄王,其佐曰雄侯。后蜀王将兵三万讨雄王,灭之。蜀以其子为安阳王,治交趾。Sách “Cựu Đường Thư” dẫn lại “Nam Việt Chí” viết rằng: Đất Giao Chỉ rất mầu mỡ, xưa có vua gọi là Hùng Vương, phò tá là các Hùng Hầu. Về sau ba van quân tướng của Thục vương đánh bại Hùng Vương. Con của Thục Vương xưng là An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ.
21 So sánh các sách thì “Giao Châu ngoại vực ký” là cổ nhất, ít nhất là trước đời Ngụy Tấn (TK3), “Nam Việt Chí” soạn sau thời Bắc Ngụy, còn “Việt sử lược” có lẽ soạn thời Hồng Vũ (~1358) nhà Minh sau này. Quân Vương của nước Lạc Việt theo  sách cổ  nhất (“Giao châu ngoại vực ký”) ghi là Lạc Vương 雒王, sách về sau (Việt sử lược, Nam Việt chí) thì ghi là Đối Vương 碓王, Hùng Vương 雄王. Một số học giả Trung Hoa và Quốc tế ngờ rằng ba chữ 碓, 雄, 雒 (bộ thủ “chuy 隹 “) nguyên chỉ là chữ 雒 (Lạc) do mấy trăm năm sau sao chép nhầm phần các chữ ghép (chữ các 各thành chữ thạch 石 hay chữ quăng 厷) mà ra. Tuy nhiên nhiều học giả Viêt Nam không nhất trí, vì cho rằng các nhà Nho Việt Nam ngày xưa đều rất uyên thâm, khó mà lầm lẫn được. Ai cũng có lý cả!
22 Các sách của Việt Nam có nói đến Hùng Vương, An Dương Vương cổ nhất như Lĩnh Nam Chích Quái 嶺南摭怪, Việt Điện U Linh Tập 粵甸幽靈集 hay Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書  thì cũng soạn vào thời Trần, muộn hơn nhiều so với các sách của Trung Hoa như Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域记, Thái Bình Ngự Lãm 太平御览. Cho nên các sự tích và tên tuổi như Hùng Vương, An Dương Vương… chắc là chép lại từ sách Trung Hoa, vì Việt lúc đó không có chữ viết… Tất nhiên, cũng không loại trừ có những ý kiến khác.
23《交州外域记: “南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人”: Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông xuống phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”.
24《太平御览》卷348:《日南傳》曰:一發萬人死,三發殺三萬人。佗退,遣太子始降安陽。安陽不知通神人,遇無道理,通去。始有姿容端美,安陽王女眉珠悅其貌而通之。始與珠入庫盜鋸截神弩,亡歸報佗。佗出其非意。安陽王弩折兵挫,浮海奔竄: “Thái Bình Ngự Lãm, quyển 348 dẫn “Nhật Nam Truyện” viết:.. một phát giết vạn người, ba phát giết ba vạn người. Đà lui, sai thái tử Thủy hàng An Dương. An Dương không biết Thông là thần nhân, thấy (vua) không hiểu đạo lý, Cao Thông bèn bỏ đi. Thủy có tư dung đoan mỹ, con gái An Dương Vương là Mỵ Châu vì thích y đẹp mà xiêu lòng. Thủy sai Châu vào kho cưa đứt nỏ thần rồi về nước báo tin. Đà liền xuất kỳ bất ý (tiến đánh). An Dương Vương nỏ gãy binh tan, trốn chạy ra biển. (Thái Bình Ngự Lãm là sách soạn vào thời Bắc Tống (977 -984), trích dẫn “Nhật Nam Truyện” thì chắc là còn cũ hơn. “Nhật Nam Truyện” hình như đã thất truyền, chỉ thấy trích dẫn lại ở sách này-TGN).
25 Người viết bài này đã đến thăm và khảo sát khá kỹ Bảo Tàng Nam Việt Vương ở Quảng Châu. Bảo tàng xây trên khu lăng mộ của Triệu Mô, vua kế vị Triệu Đà (Thủy chết sớm, Mô là con Thủy thay). Ngôi mộ được phát hiện năm 1983, hầu như còn nguyên vẹn, đồ tạo tác rất kỳ vĩ, tinh xảo chứng tỏ trình độ văn minh của người Việt lúc đó khá cao, nếu không nói là hơn hẳn người Hán. Xem bảo tàng thấy các cổ vật trưng bày như thạp đồng, trống đồng, vũ khí… giống in và còn phong phú hơn nhiều so với Bảo Tàng Lịch Sử quốc gia Việt Nam giai đoạn lịch sử đó.
#26 Lữ Gia, Thừa tướng nắm quyền hành của nước Nam Việt, chống lại nhà Hán,  thua trận bị chém chết. Lữ Gia và người ở Quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay), lăng mộ và đền thờ hiện còn ở Ân Thi, Hưng Yên
27Nguyễn Hải Hoành: Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? - http://nghiencuuquocte.org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/#sthash.0FZriY2F.dpuf.
28 Đại Việt sử ký toàn thư - NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294.

* Người viết bài này xin bày tỏ lời cảm ơn nhà Hán học, dịch giả Trần Đình Hiến về những thảo luận, góp ý quý giá cho phần dịch các đoạn trích trong các sách sử cổ viết bằng văn ngôn trên đây.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

"Rồi các mẹ sẽ lại tự đẻ để hồi phục dân số..."


FB Dao Hieu




















Bọ chưởng Trần Hồng Hà phát biểu:"Biển miền Trung sẽ tự làm sạch, từ đào thải độc tố". Theo tôi đây là phát biểu rất sáng tạo và nhanh trí. Giả sử ông Hà ngồi ở 1 vài vị trí khác, ông ấy sẽ nói sao:

Khi là bộ trưởng giáo dục: không cần lo về chất lượng giáo dục. Các em giỏi sẽ tự biết cách giỏi hơn người khác.

Là bộ trưởng quốc phòng: đánh nhau cứ nướng quân, rồi các mẹ sẽ lại tự đẻ để hồi phục dân số.

Là bộ trưởng Y tế: tỷ lệ bệnh vì mất VS ANTP không đáng ngại, người khoẻ sẽ tự khỏi bệnh.

Là bộ trưởng giao thông: số người chết vì TNGT là ko đáng kể, người có ý thức giao thông sẽ tự sống sót về nhà

Là bộ trưởng tài chính: quá nhiều thuế cũng không ảnh hưởng. Người dân sẽ tự tìm cách kiếm ra tiền

Là bộ trưởng công an: nạn ăn cướp ở Sài Gòn ko đáng ngại, người dân sẽ tự biết cách bảo vệ mình qua các hình thức anh hùng đường phố.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGẪU HỨNG THƠ



Mấy hôm nay, tôi nghe các vị giáo sư, tiến sĩ danh tiếng cho rằng: Dạy chữ Hán để khỏi tụt hậu, dạy chữ Hán để giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt, dạy chữ Hán để bảo tồn văn hóa dân tộc, dạy chữ Hán để trở thành người của toàn cầu... vân vân và vân vân. Tôi cho đó chỉ là lối ngụy biện của những kẻ "vong quốc nô" thời hiện đại. Vậy có thơ rằng:
PHÁP TRỊ: HỌC TIẾNG PHÁP
THEO NGA: HỌC TIẾNG NGA
THÂN TÀU: HỌC CHỮ HÁN
THAN ÔI ! NƯỚC NAM TA !
Huế, 6-9-2016
Mai Văn Hoan

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hàng trăm người dân Venezuela xuống đường và đuổi theo Tổng thống Nicolas Maduro để bày tỏ ...

Hàng trăm người dân Venezuela xuống đường và đuổi theo Tổng thống Nicolas Maduro để bày tỏ sự giận dữ, phản đối với chính quyền của ông này trong một sự kiện chính trị được tổ chức vào ngày 1/9 vừa qua..
04venezuela-facebookJumbo
Hàng trăm người dân Venezuela xuống đường và đuổi theo Tổng thống Nicolas Maduro để bày tỏ sự giận dữ.
Trang Daily Mail đăng tải đoạn video ghi lại cảnh tượng gây sốc khi hàng trăm người dân Venezuela xuống đường và đuổi theo Tổng thống Nicolas Maduro để bày tỏ sự giận dữ, phản đối với chính quyền của ông này trong một sự kiện chính trị được tổ chức vào ngày 1/9 vừa qua.

Được biết, sự việc này xảy ra trong bối cảnh đa số người dân Venezuela đòi phế truất Tổng thống Maduro và yêu cầu tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý khác để bầu Tổng thống mới, ngoài ra họ phản đối các chính sách hà khắc của ông Maduro, liên tục kêu khổ vì đói nghèo.

Bản thân ông Maduro muốn xuống đường cùng dòng người biểu tình để xoa dịu họ nhưng đen đủi thay ông lại bị họ rượt đuổi phải bỏ chạy bán sống bán chết trong hàng rào bảo vệ của lực lượng an ninh.

Những người biểu tình mặc áo trắng chiếm lĩnh các con đường ở phía đông thủ đô, liên tục hô vang khẩu hiệu chỉ trích chính phủ Tổng thống Maduro bất lực trước nạn thiếu hụt thực phẩm, hàng tiêu dùng, thuốc men cũng như hàng loạt khó khăn kinh tế của đất nước. Được biết khoảng vài chục người đã bị bắt trong cuộc biểu tình quy mô này.


H. Nam

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Duyên nợ văn chương


(Đọc Giọt nước trong lá sen, chân dung văn học - đàm luận văn chương
 của Khuất Bình Nguyên, Nxb Hội Nhà văn, 2016)
                                                                                                
          Cuộc trở về với văn chương của Khuất Bình Nguyên thật ngoạn mục. Sau gần bốn mươi năm trằn trọc, lên bổng xuống trầm, buồn vui với nghề kiểm sát (chót vót tới chức Phó Viện trưởng Viện KSNDTC), đã thấy ông bạc đầu sớm hơn tuổi tác. Có lẽ cái nghề này nó dữ dội, và cả hiểm nguy khôn lường, nên có lúc tự bạch: “Trên đường đời xa xăm đã 40 năm, nhiều lúc trong cuộc mưu sinh, đứng giữa những thử thách to lớn về nhân cách làm người, cuộc tranh đấu khốc liệt giữa cái thiện và cái ác (…). Những lúc biết nhận phần thiệt thòi về mình để được làm người lương thiện”. Nên dễ hiểu thơ là một sự điều hòa, cân bằng tâm thế và phóng chiếu cảm xúc như một cách thuần hóa nỗi đau, giải thoát tinh thần hữu hiệu nhất. Với người khác thì khi đã có cái danh lợi như thế, dễ bằng lòng sống nốt phần đời còn lại trong nhàn nhã. Nhưng như một định mệnh, duyên nợ văn chương đã đưa đường chỉ lối cho ông đến với Nàng Thơ. Ông cầm bút viết thơ như không thể nào khác. Viết như một đam mê không thể cưỡng lại được. Viết như lên đồng. Viết như là sự tuẫn tiết của kẻ tín đồ sùng Đạo Thơ. Tuổi sáu mươi mới lên hương thơ ca. Liên tục ra mắt các tập thơ: Người lữ hành thời gian (2009), Nơi thời gian trở về (2010), Cành tục ngữ hóa đá (2011), Bỏ quên trong rừng thu (2012), Hoa Hoàng Đàn nở muộn (2012). Bốn năm in liền năm tập thơ, không kể hai tập in chung Bảy con đường của số phận (2010) và Mùa thu lứa đôi (2010), thì đó là một con số biết nói. Nó nói về một nội lực thơ. Nó nói về một “trầm tích” thơ. Khuất Bình Nguyên, tôi cứ hình dung, như một khối than nóng rẫy được che ủ bằng tro lạnh. Là người yêu thơ Chế Lan Viên, viết khóa luận về Thơ Chế Lan Viên trước và sau Cách mạng, luận văn tốt nghiệp Những tìm tòi nghệ thuật của thi ca Việt Nam hiện đại  thời học đại học, có thể vì thế chăng mà nhà thơ lớn Việt Nam thế kỷ hai mươi họ Chế đã truyền cho Khuất Bình Nguyên cái thơm thảo của thơ ca, cái triết lý nhuần nhuyễn của chất suy tưởng (may mắn cho độc giả là không phải gánh lấy những triết lý vặt), và kinh nghiệm thanh lọc ngôn từ nghiêm cẩn, công phu. Thơ Khuất Bình Nguyên thuộc dòng thơ trí tuệ nhưng không khô cứng mà luôn giữ được sự run bật của cảm xúc, đốt cháy cảm xúc nâng lên thành trí tuệ. Đó là thơ của những người thơ có cái căn cốt văn hóa. Trong cùng trang lứa tôi thấy thơ Khuất Bình Nguyên gần gũi với Hoàng Nhuận Cầm, Vũ Đình Văn (đã hi sinh), Đỗ Minh Tuấn, Lâm Huy Nhuận. Nhưng lúc mới “tục huyền” với Nàng Thơ sau đằng đẵng mấy chục năm tạm gác bút, riêng tôi vẫn thấy cái run rẩy, rụt rè đôi lúc e lệ của Khuất Bình Nguyên, thậm chí như là khép nép để quan sát, học hỏi, tìm nẻo lối riêng vào thơ ca. Đó là một hành xử vừa chân thành cầu thị, nhưng không thể nói là không khôn ngoan. Thơ Khuất Bình Nguyên, riêng tôi nghĩ, nương vào cái gọi là “ thi pháp chân thành”.
          Có nét gì đó gần gũi giữa bậc thầy văn chương Chế Lan Viên và người học trò thơ nhỏ Khuất Bình Nguyên khi ông vừa viết thơ và vừa viết phê bình thơ. Tập chân dung văn học và đàm luận văn chương Giọt nước trong lá sen của Khuất Bình Nguyên, trong cảm nhận của riêng tôi, là sự hòa âm giữa tư duy hình tượng và tư duy phê bình thơ. Tập sách gồm 25 bài (có 16 bài chân dung thơ, theo tôi, là đặc sắc hơn). Vừa làm thơ vừa phê bình thơ, sau Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông, như là những bậc tiên chỉ, thì lớp hậu sinh không nhiều, có Vũ Quần Phương, Mã Giang Lân, Trần Mạnh Hảo, Vũ Bình Lục, Nguyễn Trọng Tạo, Khuất Bình Nguyên, Đỗ Minh Tuấn. Nhưng đọc các vị này một cách kĩ lưỡng tôi thấy Khuất Bình Nguyên vẫn có cách mở lối của mình vào phê bình thơ. Đó là cách đi vào trung tâm thơ ca qua những giá trị tinh túy, kết tinh, được sàng lọc nghiêm khắc qua thời gian (nói như thi sỹ Xuân Diệu, thời gian “vặt lông” các giá trị). Hãy xem Khuất Bình Nguyên tiếp cận thơ của những thi sỹ nào trong nền thơ ca Việt hiện đại? Đó là Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Nguyễn Đình Thi, Văn Cao, Quang Dũng, Phùng Cung, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Việt Phương, Trần Vàng Sao, Ngô Thế Oanh, Nguyễn Hoa, Nguyễn Quang Thiều. Xem cái tỷ lệ 4/16 giữa các nhà thơ trước và sau năm 1945 sẽ thấy Khuất Bình Nguyên nỗ lực sống với văn chương cùng thời trong địa hạt thơ ca. Cái hay, cái tinh tế của sự thẩm thơ, bình thơ, và cao hơn là phác vẽ những chân dung thơ ca hiện đại, nghiêng về đương đại, ở Khuất Bình Nguyên là có cái lý và cả cái tình của nó. Không thấy anh thiên vị một ai dẫu cho đối tượng được viết có vị thế xã hội hay chỉ là người bình thường, đôi khi khúc khủy gập ghềnh, thậm chí oan khuất như Trần Vàng Sao. Ở đây là sự công tâm, công bằng trong khoa học. Cao hơn là tình yêu thơ ca đích thực. Ở đây là bản lĩnh của người viết. Ở đây là đức tin vào chân lý của nghệ thuật có thể cao hơn chân lý đời sống. Phát lộ ra cái sở trường và sở đoản của Khuất Bình Nguyên khi tiếp cận các hiện tượng thơ cá thể thường tinh tế và sâu sắc hơn khi bàn luận về một thế hệ, đội ngũ hay vấn đề chung của thơ ca như trường hợp Khúc tâm tình của một thời đạn lửa (trong bài này ông khảo về lớp nhà thơ chống Mỹ như Lê Anh Xuân, Nguyễn Trọng Định, Nguyễn Mỹ, Vũ Đình Văn - 4 nhà thơ liệt sỹ trong một đội hình trùng điệp từ Nguyễn Khoa Điềm, Dương Hương Ly, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Trọng Tạo, Anh Ngọc, Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ,…). Hãy nói theo cách của bạn - cái slogan của tập đoàn viễn thông Viettel lại gợi mở trong tôi khi đọc và nhận ra cái sở trường của Khuất Bình Nguyên trong thẩm thơ, bình thơ.
          Khuất Bình Nguyên quan tâm đến khía cạnh nào trong những chân dung thơ mà ông tạo dựng? Tôi nghĩ đây là vấn đề then chốt để xác nhận đóng góp của một cây bút phê bình thơ. Tôi thấy tác giả tri nhận và cảm thụ văn chương từ phương diện văn hóa. Văn hóa là một đại lộ. Vì nếu tách văn chương ra khỏi cái cuống rốn văn hóa thì đôi khi ta sẽ thấy văn chương cũng không có ý nghĩa gì thật sâu lắng, bền chặt và quan thiết đối với đời sống tinh thần của con người vì sự sống của nó sẽ ẻo lả, nhợt nhạt. Nhưng cái căn cốt, cội rễ của văn hóa Việt là ở đâu, từ đâu ra? Dĩ nhiên không phải là ngoại nhập dẫu bị ảnh hưởng cả hàng nghìn năm văn hóa Hán, cũng không chỉ nương nhờ ngọn gió từ trời Tây, dẫu cho cuối cùng thì dân tộc cũng phải hội nhập với xu thế toàn cầu hóa trong một thế giới phẳng. Đã có ý kiến đúng đắn cho rằng hiện đại hóa văn chương thời hiện đại chính là đi hết “cái dân tộc” để phát huy tinh hoa truyền thống. Cái vốn liếng của cha ông như là một “văn sản” mà chúng ta chưa khai thác hết. Bởi vì nếu nói đến tính hiện đại thì Nguyễn Du cách đây hơn hai trăm năm còn hiện đại hơn bất cứ thi sỹ nào thời nay.
           Ba ví dụ cho thấy Khuất Bình Nguyên quan tâm đến mối quan hệ giữa văn hóa và văn chương khi tiếp cận từng trường hợp thơ cụ thể. Với Nguyễn Bính, ông nhận ra: “Nguyễn Bính còn giữ lại cho chúng ta cáiphông văn hóa rộng rãi đầy bản sắc của làng quê Việt nửa đầu thế kỷ 20. Những cảnh những người bây giờ đã mai một huống hồ gì là cho đến ngày sau”. Có lẽ vì thế mà tác giả đã nâng niu ca dao như là “bánh chưng xanh” của thi ca Việt Nam, là thể thơ “đặc sản” Việt Nam. Nguyễn Bính là một thi sỹ đã có cái công lao không nhỏ khi “Góp mặt vào làng Thơ mới trước hết ở việc sử dụng thể thơ 6.8, bánh chưng của thơ truyền thống Việt Nam (…). Cũng trên nền tảng văn hóa dân gian làng quê Việt Nam, Nguyễn Bính đã chuyển hóa thành công lối nói lặp chữ, điệp ngữ của dân ca tạo nên những cảm xúc thẩm mỹ đặc sắc riêng có của thơ ông”.
          Tiếp cận Hữu Thỉnh như một đại biểu của thế hệ trải qua lửa đỏ và nước lạnh của chiến tranh với tâm thế “làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”, Khuất Bình Nguyên lại có cách định tính khác khi nhìn ra cái chất “nặng tình đời” của thơ được viết bởi một người lính trận mạc đích thực. Nghệ thuật sinh ra là để chống lại sự lãng quên. Hữu Thỉnh không màu mè khi viết một cách chân thành: “Nếu thi ca là lịch sử được viết bằng số phận của con người thì nhà thơ xứng đáng là người chiến sỹ tiên phong chống lại sự lãng quên. Thi ca là trí nhớ của lịch sử”. Những câu thơ nhớ được lâu của Hữu Thỉnh không ai có thể ghen tị được: “Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy/Cứ sợ đắm vì mình còn nhan sắc”, hoặc: “Một mình một mâm cơm/Ngồi bên nào cũng lệch”. Văn hóa của thơ ca chính là ứng xử của thi sỹ với số phận con người. Và quan trọng nhất là biết nhìn ra mình giữa nhân quần, khi tự nhận thấy: “Tôi ấy mà, một gốc rạ bơ vơ”. Ai đó nói cô đơn như là mặt trái của tình yêu là chí lí, ít nhất trong trường hợp Hữu Thỉnh. Và nữa, Hữu Thỉnh là một thi sỹ biết cách “thương lượng với thời gian”. Thơ ông chứa đầy một thời để sống, thời để yêu. Hữu Thỉnh là một trong số các thi sỹ đương đại biết cách gia tăng hàm lượng văn hóa của thơ ca.
           Tiếp cận Nguyễn Quang Thiều như một đại biểu của đổi mới thơ thời hậu chiến tác giả nhận ra phẩm tính văn hóa của một người được cái diễm phúc của số phận đặt vào giữa một thung thổ văn hóa rất mới mẻ so với thế hệ mình – văn hóa Mỹ La tinh với cái chất mê đắm của sự sống, cái cuồng nhiệt của cảm xúc, cái phá cách của kỹ thuật, cái tận hiến tận hưởng của cá thể giữa đồng loại, cái táo bạo bất ngờ của những phát kiến, nghĩa là: “Ông đã được tận hưởng nền văn hóa châu Mỹ La tinh đầy bản sắc hứng khởi. Nhất là nền văn hóa ấy lại được đốt lên bởi những xúc cảm cuồng nhiệt của một cuộc cách mạng với những lãnh tụ râu dài và đôi mắt đa tình đặc sắc”. Một đặc điểm trong ứng xử (được coi như là một phạm trù trong phạm trù vĩ mô văn hóa) của hế hệ Nguyễn Quang Thiều là với quá khứ thì ngưỡng vọng và chiêm bái, nhưng rất có thể không theo cái cách “người đi sau giẫm lên dấu chân người đi trước theo lối đi rừng” như cách Trần Đăng đã miêu tả tuyệt vời chính xác trong thiên bút ký nổi tiếng viết liền ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945 Một lần tới thủ đô. Khuất Bình Nguyên, tôi nghĩ, chính xác và tinh tế khi viết: “ Cuộc sống đánh vào thơ muôn vàn lớp sóng và Thiều đã cùng thế hệ mình không ngần ngại ngã vào lớp sóng ấy. Dù chưa biết cái gì xẩy ra ở phía trước”.
          Đọc Giọt nước trong lá sen của Khuất Bình Nguyên, riêng tôi, có được cái nhã thú như đọc một thiên sáng tác thơ trong những chân dung thơ. Có nhiều người nói, nếu với tấm bằng tiến sỹ luật học và cương vị xã hội như thế thì cuộc đời Khuất Bình Nguyên có thể rẽ sang một nẻo khác, sẽ thành danh ở chốn quan trường. Nhưng dường như duyên nợ văn chương đã là tiếng gọi của tiềm thức, đã kéo ông về với một cái “nghiệp” đầy những gian truân, khổ ải. Là đồng môn Văn khoa Tổng hợp với tác giả từ cuối những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi thấy ông đã kiên trì chí hướng, nuôi dưỡng khát vọng văn chương để đi tới cái đích được sống là mình và với những gì mình mong muốn. Giọt nước trong lá sen gợi cho tôi và văn giới nghĩ tới một phong cách phê bình thơ đặc sắc mang dấu ấn Khuất Bình Nguyên luôn tạo hứng thú thẩm mỹ và kích thích đối thoại văn hóa./.
                                                                             Hà Nội, tháng Tư năm 2016
                                                                                                B.V.T                         

Phần nhận xét hiển thị trên trang