Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 24 tháng 5, 2016

Xã luận Thời báo Hoàn Cầu xuyên tạc quan hệ Việt – Mỹ

     

Việt Nam không muốn chiến tranh, Việt Nam không chống Trung Quốc, nhưng Việt Nam chống lại đến cùng mọi âm mưu xâm hại độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.

Thời báo Hoàn Cầu ngày 23/5 có bài xã luận hòng chống phá quan hệ Việt – Mỹ nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Barack Obama. Thời báo Hoàn Cầu đưa ra nhiều nhận định thiếu tử tế và những suy diễn xuyên tạc với mục tiêu chia rẽ quan hệ Hoa Kỳ với Việt Nam, một động tác thừa và tốn công vô ích.

Bài xã luận trên Thời báo Hoàn Cầu hôm nay giật tít: “Xã luận: Obama chẳng có cách nào để biến Việt Nam thành Philippines”. Mở đầu bài xã luận, Thời báo Hoàn Cầu viết:

“Tổng thống Mỹ Barack Obama thăm chính thức Việt Nam từ ngày 23/5. Quan hệ Việt – Mỹ được (Trung Nam Hải?) xem như một vấn đề nhạy cảm, nhân tố không xác định trong cục diện Biển Đông, bởi thế nên được dư luận rất chú ý. Việt Nam – Hoa Kỳ có thể đi bao xa, còn nhiều quan điểm khác nhau.

Đây là chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam của ông Obama sau nhiều lần trì hoãn. Năm ngoái là dịp 2 nước kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, 20 năm bình thường hóa quan hệ. Năm nay Obama mới sang, điều này chứng tỏ Việt Nam đối với Mỹ mà nói cũng chẳng quan trọng gì.

https://vtv1.vcmedia.vn/thumb_w/650/2016/obama-1463987837991.jpg
Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch nước Trần Đại Quang, ảnh: VTV
Nó cũng cho thấy mức độ quan trọng đối với Việt Nam về việc mời ông Obama trước lúc rời Nhà Trắng kiểu gì cũng phải thăm Việt Nam một chuyến.

Obama thăm Việt Nam tổng cộng 3 ngày, như vậy thời gian không ngắn. Dự kiến ông sẽ hội đàm với các nhà lãnh đạo Việt Nam về TPP, e rằng ông ấy không thể không nói đến Biển Đông.

Việt Nam cũng hy vọng Hoa Kỳ tuyên bố dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí. Nhưng có thể khẳng định điều này không thể xảy ra. Ngoài ra dư luận Mỹ còn hy vọng ông Obama sẽ đề cập vấn đề nhân quyền khi thăm Việt Nam”.

Một hoạt động đối ngoại hết sức bình thường cũng giống như ông Obama thăm Trung Quốc hay ông Tập Cận Bình thăm Mỹ, nhưng dưới con mắt tờ báo này lại là chuyện “nhạy cảm liên quan đến Biển Đông”.

Phải chăng Thời báo Hoàn Cầu đang lo ngại trước khả năng Việt – Mỹ thúc đẩy hợp tác an ninh hàng hải, chống bành trướng, bảo vệ luật pháp quốc tế, tự do hàng hải hàng không trên Biển Đông sẽ ảnh hưởng, ngăn cản giấc mộng bá quyền của ai đó?

Còn việc Tổng thống Obama thăm Việt Nam thời điểm nào, sớm hay muộn, thiết nghĩ còn do bố trí của hai phía. Bởi lẽ người đứng đầu Nhà Trắng không chỉ thăm Việt Nam để đáp lễ chuyến thăm chính thức nước Mỹ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Chuyến thăm này với ông còn mang theo một trọng trách, một sứ mệnh nâng tầm quan hệ Việt – Mỹ, khẳng định sức sống chiến lược xoay trục sang châu Á – Thái Bình Dương, vị thế, vai trò và lợi ích của Hoa Kỳ trong khu vực.

Do đó, nội dung kết quả chuyến thăm đối với cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ, đều quan trọng hơn thời điểm chuyến thăm diễn ra.

Thời báo Hoàn Cầu nói ông Obama thăm Việt Nam trễ có nghĩa là Việt Nam đối với Mỹ “cũng chẳng quan trọng gì”, vậy thì hà cớ gì Thời báo Hoàn Cầu lại cảm thấy chột dạ khi xem chuyến thăm này là “nhạy cảm” đến vậy? Thật lạ.

Vấn đề Mỹ có tuyên bố dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí sát thương với Việt Nam hay không Thời báo Hoàn Cầu khẳng định như đinh đóng cột, cứ như tờ báo này mới là người quyết định chứ không phải ông chủ Nhà Trắng. Đó không phải cách ứng xử khôn ngoan, đặc biệt là khi người Mỹ vừa tuyên bố điều ngược lại.

“Chính vấn đề Biển Đông đã kéo Việt Nam và Hoa Kỳ xích lại gần nhau, nhưng chính ý thức hệ lại không ngừng đẩy hai nước ra xa nhau. TPP sẽ giúp Mỹ ‘cải tạo’ Việt Nam, trong khi Việt Nam lại rất cảnh giác với diễn biến hòa bình. Điều này có thể nói quan hệ Việt – Mỹ là một chỉnh thể đầy mâu thuẫn”, Thời báo Hoàn Cầu viết.

Biển Đông khiến Việt Nam và Hoa Kỳ xích lại gần nhau, không sai. Nói đúng hơn là chính hành vi leo thang quân sự hóa, bành trướng phiêu lưu của Trung Quốc hòng nuốt trọn Biển Đông khiến các nước trong khu vực và Hoa Kỳ đoàn kết lại để bảo vệ hòa bình, ổn định, luật pháp quốc tế, tự do hàng hải hàng không ở Biển Đông.

Còn vấn đề ý thức hệ mà truyền thông Trung Quốc, điển hình là Thời báo Hoàn Cầu rất thích dùng như một con bài để ly gián quan hệ Việt – Mỹ, Việt – Nhật đã chẳng còn giá trị.

Hãy nhìn lại chính Trung Quốc. Mao Trạch Đông phải bắt tay với Nixon, Đặng Tiểu Bình cũng phải mở cửa chơi với Mỹ, và bây giờ Tập Cận Bình tham vọng hơn, muốn có một “quan hệ nước lớn mô hình mới” ngang vai với Mỹ, sao không thấy Thời báo Hoàn Cầu can ngăn các nhà lãnh đạo Trung Quốc lại, đừng chơi với Mỹ nữa?

Việt Nam chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, sẵn sàng làm bạn và đối tác tin cậy của các nước, nhất là các quốc gia lớn, có tiếng nói và có ảnh hưởng như Hoa Kỳ. Trung Quốc còn không thể không chơi với Mỹ.

Nói TPP giúp Mỹ “cải tạo” Việt Nam một cách đầy mỉa mai, Thời báo Hoàn Cầu dường như đang cố che giấu một sự thất vọng về việc Trung Quốc bị gạt khỏi TPP, thậm chí còn đang tìm cách trục lợi từ TPP qua các thành viên của hiệp định. Trung Quốc từng không muốn Việt Nam gia nhập WTO, nhưng chính Bắc Kinh lại tìm cách trở thành thành viên tổ chức này trước.

“Việt Nam hy vọng sức mạnh của Hoa Kỳ ở Biển Đông để kiềm chế Trung Quốc, trở thành con cờ của Việt Nam trong xử lý tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc, lại còn muốn thông qua quan hệ Việt – Mỹ để phát triển kinh tế trong nước.

Đối với Hoa Kỳ, nếu Việt Nam có thể dựa vào Mỹ như Philippines hay Singapore, nếu Mỹ có thể đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam như làm với Philippines hay Singapore, chắc chắn chiến lược xoay trục sang châu Á – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ sẽ có thế đứng khác.

Nhưng lo ngại về nhau từ hai phía là không thể khắc phục vì lý do nhân quyền cũng như cái nhìn của xã hội Mỹ với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam còn nhiều thiên kiến, đặc biệt là các Việt kiều sang Mỹ sau Chiến tranh. Họ hứng thú với việc lật đổ chính quyền Việt Nam hơn là bảo vệ Biển Đông”.

Việc Thời báo Hoàn Cầu kích động chia rẽ quan hệ Việt – Mỹ vốn không có gì lạ, kể cả về vấn đề nhân quyền lẫn vấn đề ý thức hệ. Thực tiễn những gì đã và đang diễn ra, thiết nghĩ đã là câu trả lời.

Nhưng thật đáng buồn, đáng phẫn nộ khi một cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc lại có thể bất chấp thủ đoạn, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam trong và ngoài nước.

Dân tộc Việt Nam chỉ có một, Tổ quốc Việt Nam chỉ có một. Dù lịch sử trải qua nhiều bước thăng trầm và nhân dân Việt Nam phải gánh chịu nhiều hậu quả đau thương, chia cắt vì những toan tính của chính các nước lớn, nhưng chưa bao giờ, chưa khi nào người Việt Nam nguôi ngoai về một phần lãnh thổ máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc đang bị Trung Quốc xâm lược và chiếm đóng bất hợp pháp, đó là Hoàng Sa và một phần Trường Sa.

Có thể đây đó còn những quan điểm, nhận thức khác nhau do lịch sử để lại, nhưng độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, chống lại mọi kẻ thù xâm lược, chống lại đến cùng mọi thế lực bán nước và cướp nước luôn chảy trong huyết quản của mỗi người Việt Nam, con Lạc cháu Hồng, dù ở trong nước hay ngoài nước.

Cũng chính vì ý thức hệ, cũng chính vì những toan tính chính trị của các thế lực khác nhau mà Đài Loan và Trung Quốc từ một thành hai, và Bắc Kinh đang nỗ lực thống nhất từ 2 về 1.

Nhưng khi nhìn sang dân tộc khác, Thời báo Hoàn Cầu lại đang tuyên truyền những quan điểm ích kỷ, hẹp hòi, chia rẽ láng giềng chỉ nhằm mục đích thỏa mãn tham vọng bành trướng thì còn ai tin vào thiện chí của Trung Quốc? Mang tiếng là cơ quan ngôn luận chính thống, nhưng Thời báo Hoàn Cầu đang làm xấu mặt Trung Quốc.

Thời báo Hoàn Cầu viết tiếp: “Kỹ thuật internet của Việt Nam lạc hậu quá xa so với Trung Quốc, bởi vậy mạng xã hội Việt Nam tự nhiên sẽ tiếp thu các giá trị phương Tây. Hà Nội thừa biết, đối với một quốc gia trong lịch sử từng bị thực dân phương Tây đô hộ thì toàn cầu hóa đồng nghĩa với thách thức.”

Mỗi quốc gia có một chính sách khác nhau đối với việc quản lý thông tin trên internet, và Việt Nam cũng khác với Trung Quốc do tình hình của mỗi nước.

Dù Thời báo Hoàn Cầu quá khôn khi chỉ nhắc đến Việt Nam từng bị thực dân phương Tây đô hộ, nhưng người Việt Nam chắc hẳn không ai quên lịch sử. Phương Tây đô hộ Việt Nam trên dưới trăm năm, nhưng người Việt đã từng phải chịu ách ngàn năm Bắc thuộc dài dằng dặc cùng những bài học cảnh giác bảo vệ Tổ quốc.

Phương Tây hay Hoa Kỳ hiện nay không chiếm Hoàng Sa và một phần Trường Sa của Việt Nam, cũng không đem giàn khoan khổng lồ cắm vào vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam. Ngược lại, họ đang giúp Việt Nam chống lại các nguy cơ đe dọa độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia từ trên biển.

“Hà Nội không thể trở thành đồng minh của Mỹ giống như Philippines. Thái độ của Việt Nam với Mỹ luôn phải ngó trước ngó sau, nhìn trái nhìn phải, tâm lý đề phòng rất nặng. Quan hệ Việt – Mỹ do đó cũng không thể trở thành mục tiêu quốc gia ưu tiên mà Việt Nam theo đuổi.

Trung Quốc là đối thủ chủ yếu của Việt Nam trên Biển Đông, nhưng đồng thời giới tinh hoa chủ yếu ở Hà Nội vẫn cho rằng Trung Quốc là trụ dỡ cho sự ổn định của Việt Nam.

Công cuộc Đổi mới của Việt Nam chính là phiên bản Cải cách mở cửa của Trung Quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam coi trọng quan hệ với đảng Cộng sản Trung Quốc, hai bên đều coi phát triển quan hệ hai Đảng có ý nghĩa đặc biệt với quan hệ hai nước.

Hà Nội thừa biết, Đảng Cộng sản Việt Nam dù có thúc đẩy một số mặt cải cách chính trị thì cũng còn lâu mới đáp ứng được yêu cầu của phương Tây. Việt Nam có quy mô quá nhỏ, không thể trở thành một đơn nguyên độc lập về mặt ý thức hệ.

Tính hợp pháp trong vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam ở mức độ nhất định chịu tác động bởi sự ổn định và phồn vinh lâu dài của chủ nghĩa xã hội tại Trung Quốc”, Thời báo Hoàn Cầu bình luận.

Có lẽ chính những tham vọng vĩ cuồng đang khiến một bộ phận truyền thông hiếu chiến của Trung Quốc như Thời báo Hoàn Cầu bị “tự kỷ nước lớn”, lúc nào cũng thấy người khác đang chống lại mình, đe dọa mình.

Việt Nam nhất quán chủ trương đa phương hóa đa dạng hóa quan hệ quốc tế, không liên minh với nước này chống nước kia, không cho bất cứ nước nào sử dụng lãnh thổ của mình hay đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình chống lại một nước thứ 3.

Việt Nam và Philippines hay Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Úc có điều kiện khác nhau, nên không thể so sánh như kiểu Thời báo Hoàn Cầu đặt vấn đề.

Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trải qua nhiều thăng trầm, ân oán, bạn thù, ngày nay đang đối mặt với nhiều thách thức là do tham vọng bành trướng lãnh thổ của Trung Quốc trên Biển Đông gây ra. Việt Nam đang nỗ lực tìm cách giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, Việt Nam không liên minh với bất cứ nước nào để chống lại một nước thứ 3.

Bởi vậy vừa hợp tác, vừa đấu tranh đã trở thành đặc điểm chủ yếu trong quan hệ giữa hai nước láng giềng Việt Nam – Trung Quốc. Đó cũng là đặc điểm chung của quan hệ quốc tế thời hiện đại.

Việt Nam không muốn chiến tranh, Việt Nam không chống Trung Quốc, nhưng Việt Nam chống lại đến cùng mọi âm mưu xâm hại độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia của mình.

Quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với đảng Cộng sản Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với quan hệ hai nước, tạo kênh đối thoại, tạo bầu không khí hữu nghị về chính trị để có thể đàm phán giải quyết tranh chấp bất đồng bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, xây dựng quan hệ hợp tác hữu nghị, lâu dài, mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước và đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định của khu vực.

Nhưng tuyệt đối không thể để Trung Quốc sử dụng mối quan hệ đặc biệt ấy như một thứ vũ khí có thể lợi dụng để cô lập Việt Nam về đối ngoại, hay muốn đưa Việt Nam vào vòng ảnh hưởng, kiềm tỏa như tuyên truyền của Thời báo Hoàn Cầu.

Việc các chính đảng, các chính phủ học tập lẫn nhau những bài học kinh nghiệm phát triển đất nước không có gì lạ. Điều đó mới thể hiện tính cầu thị và khoa học. Nhưng Việt Nam hòa nhập mà không hòa tan, hợp tác nhưng không đánh mất mình, trong quan hệ với bất cứ quốc gia nào cũng vậy, Trung Quốc hay Hoa Kỳ không khác.

Bởi thế, những bình luận nêu trên của Thời báo Hoàn Cầu chỉ làm xấu hình ảnh của Trung Quốc, vì nó thể hiện thái độ chiếu trên, trịch thượng, coi thường công pháp quốc tế, chà đạp công luận quốc tế cũng như mọi lý lẽ của nhân loại văn minh.

Về Hoàng Sa, Thời báo Hoàn Cầu viết: “Có thể nói Việt Nam không lòng dạ nào mà chống đối Trung Quốc về chiến lược. Bất đồng trên Biển Đông dường như là toàn bộ rào cản trong quan hệ giữa hai nước.

Hai nước đã đàm phán phân định xong biên giới trên đất liền và trong vịnh Bắc Bộ. Đồng thời Việt Nam cũng yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

Nhưng Hoàng Sa thì đã sớm bị Trung Quốc khống chế, nên yêu sách của Việt Nam hầu như không có ý nghĩa thực tế. Việt Nam làm lớn chuyện ở Hoàng Sa chẳng qua là sách lược ứng phó để tranh thủ hợp pháp hóa những thực thể Việt Nam đang đóng giữ ở Trường Sa.

Ngoài ra, hiện nay các lô dầu khí Việt Nam đang khai thác hầu hết nằm trong đường 9 đoạn. Phạm vi tranh chấp giữa 2 nước không quá dài, nhưng cường độ cao.

Việt Nam rất coi trọng phát triển quan hệ với cả Trung Quốc lẫn Hoa Kỳ, lúc Biển Đông căng thẳng Việt Nam sẽ nghiêng về Washington, lúc Biển Đông sóng yên biển lặng thì Việt Nam sẽ nghiên về Bắc Kinh. Do đó Việt Nam đích thị không phải Philippines, điểm này cả Bắc Kinh và Washington đều rõ”, Thời báo Hoàn Cầu kết luận.

Hoàng Sa và Trường Sa là một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam mà Nhà nước Việt Nam qua các thế hệ đã xác lập chủ quyền một cách hòa bình, liên tục, hợp pháp từ khi còn là đất vô chủ, là nơi cha ông người Việt đã để lại biết bao mồ hôi và xương máu. Không có chuyện Việt Nam sẽ lãng quên hay từ bỏ những gì đang bị ngoại bang chiếm đóng.

Hành vi cất quân xâm lược Hoàng Sa và một phần Trường Sa mà Trung Quốc tiến hành không có bất cứ giá trị nào về mặt pháp lý. Việt Nam sẽ tiếp tục đấu tranh bằng biện pháp hòa bình để đòi lại những gì cha ông mình đã khai phá, tạo dựng nên bằng xương máu, dù cuộc chiến này có kéo dài, khó khăn, gian khổ đến đâu đi nữa.

Còn cái gọi là đường 9 đoạn, hay đường lưỡi bò, hy vọng Tòa Trọng tài Thường trực PCA sớm ra phán quyết bác bỏ nó.

Đây sẽ là hành lang pháp lý cực kỳ quan trọng cho cả khu vực, đặc biệt là các nước ven Biển Đông trong đó có Việt Nam đấu tranh lật tẩy tham vọng, âm mưu bành trướng hàng hải qua đường lưỡi bò bất hợp pháp này, dù biết rằng đấu tranh với các thế lực cường quyền không bao giờ là một chuyện dễ dàng.

(Giáo Dục)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Toàn văn Tuyên bố chung Việt Nam - Hoa Kỳ nhân chuyến thăm của tổng thống Obama



Theo thông tin Bộ Ngoại giao Mỹ công bố, ngày 23/5/2016, Việt Nam và Mỹ đã thông qua bản Tuyên bố chung giữa hai nước, nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Obama, theo lời mời của Chủ tịch nước Trần Đại Quang.




Thông qua Ký kết hợp tác toàn diện Hoa Kỳ - Việt Nam năm 2013 và Tuyên bố tầm nhìn chung có được trong chuyến thăm Mỹ lịch sử của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7-2015, mối quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam đã có sự phát triển nhanh chóng, bền vững, toàn diện trong những năm qua.

Lợi ích chung của hai nước ngày càng được mở rộng thông qua việc tăng cường trao đổi các đoàn đại biểu các cấp và giữ vững cơ chế đối thoại; phát triển kinh tế nhờ vào tăng cường quan hệ thương mại và đầu tư; nâng cao hợp tác giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, an ninh và quốc phòng, quan hệ nhân dân hai nước, nhân quyền, nhân đạo và giải quyết hậu quả chiến tranh.

Việc tăng cường quan hệ Hoa Kỳ - Việt Nam có tác động tích cực tới nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong vấn đề duy trì hòa bình, ổn định, hợp tác, tôn trọng luật quốc tế trong khu vực và xây dựng một khu vực thượng tôn pháp luật.

Cùng nhau, hai nước đã đối mặt những thách thức toàn cầu và trong khu vực, trong đó có tình trạng biến đổi khí hậu, các vấn đề về phát triển bền vững, y tế toàn cầu, giảm vũ khí thảm sát hàng loạt, gìn giữ hòa bình và buôn bán động vật hoang dã.

Để đạt được những điều này, cả hai một lần nữa khẳng định nghĩa vụ tuân theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc và thượng tôn luật pháp quốc tế, tôn trọng chính thể, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.

Hoa Kỳ và Việt Nam cũng thực hiện thúc đẩy và phát triển cộng đồng ASEAN và hợp tác với cộng đồng quốc tế trước các thách thức toàn cầu. Cả hai sẽ cùng nhau thực hiện hợp tác toàn diện ở những lĩnh vực sau đây:

Thắt chặt chính trị và ngoại giao

Hai bên cam kết tiếp tục trao đổi các đoàn đại biểu các cấp, đặc biệt các đoàn cao cấp, và tăng cường đối thoại giữa các cơ quan của hai chính phủ. Mở rộng đối thoại cao cấp thường niên giữa Bộ Ngoại giao hai nước nhằm tăng cường hợp tác toàn diện cũng như bàn luận về các lợi ích chung khác.

Đồng tình tăng cường tin tưởng song phương đóng vai trò then chốt trong việc thiết lập mối quan hệ bạn hữu bền vững, khỏe mạnh và lâu dài.

Thắt chặt kinh tế cao cấp

Hai nước kiên quyết tập trung thúc đẩy hợp tác kinh tế, trong đó có thương mại, đầu tư, khoa học và công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và biến đổi khí hậu.

Cả hai đều thấy rằng Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) có vai trò quan trọng, góp phần tăng cao đầu tư và thương mại giữa hai nước, gia tăng phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm.

Khẳng định nỗ lực sớm tìm kiếm sự phê chuẩn và thực hiện đầy đủ thỏa thuận khắt khe này, mà phải kể đến thực hiện đầu tư, phát triển cơ sở và doanh nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ, dệt may, dịch vụ, lao động và môi trường.

Hoa Kỳ cam kết giúp đỡ Việt Nam bằng cách hỗ trợ công nghệ tốt và các chương trình xây dựng để có thể đáp ứng hiệu quả và đạt tiêu chuẩn khắt khe của TPP. Hai bên cũng khẳng định nỗ lực đảm bảo phát triển kinh tế và tạo cơ hội cho tất cả mọi phía, thúc đẩy đột phá sáng tạo, khởi nghiệp và phát triển kinh tế bền vững.

Hai nước nhấn mạnh tiếp tục hợp tác phát triển sẽ là nguồn lực cho quan hệ song phương. Cam kết tăng cường đầu tư và thương mại song phương, và tiếp tục làm việc hướng tới đột phá trong công nghiệp, nông nghiệp và mặt hàng thủy sản.

Thực hiện tư vấn thông qua các nhóm tăng cường làm việc song phương và thái độ hợp tác trên mong muốn của Việt Nam muốn trở thành một nền kinh tế thị trường.

Cả hai hoan nghênh kết quả của những ký kết thương mại chính có được trong chuyến viếng thăm, như việc VietJet mua 100 máy bay Boeing và động cơ Pratt&Whitney, cũng như hợp tác năng lượng gió giữ GE và Chính phủ Việt Nam.

Nâng cao sâu sắc quan hệ nhân dân hai nước, tái khẳng định việc nâng cao quan hệ nhân dân hai nước nhằm tăng cao tình hữu nghị, mối quan hệ hợp tác và thấu hiểu lẫn nhau giữa hai dân tộc.

Hai nước hoan nghênh thỏa thuận song phương về thị thực một năm, thị thực đa xuất nhập cảnh dành cho doanh nghiệp ngắn hạn và khách du lịch của cả hai nước. Đồng thời đánh giá cao thành công của cộng đồng người Việt tại Mỹ và sự đóng góp của họ trong việc thắt chặt quan hệ song phương.

Tăng cường an ninh và hợp tác quốc phòng Hoa Kỳ và Việt Nam khẳng định tăng cường hợp tác quốc phòng giữa hai nước như đã vạch ra trong Ghi nhớ thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương năm 2011 và Tuyên bố tầm nhìn chung Hoa Kỳ - Việt Nam về Quan hệ quốc phòng ký kết năm 2015, đặt trọng tâm hợp tác nhân đạo, giải quyết hậu quả chiến tranh, an ninh biển đảo, gìn giữ hòa bình và hạn chế thiên tai.

Hai nước cũng khẳng định tiếp tục tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh, phòng chống tội phạm xuyên quốc gia và an ninh mạng.

Việt Nam hoan nghênh quyết định của chính phủ Mỹ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vũ khí sát thương đối với Việt Nam. Hoan nghênh phía Mỹ giúp đỡ về an ninh hàng hải thông qua Sáng kiến an ninh hàng hải (MSI), Chương trình hợp tác giảm đe dọa, Tài chính quân sự nước ngoài và trông chờ hợp tác với Hoa Kỳ để tăng cường năng lực hàng hải.




Hoa Kỳ và Việt Nam ký ý định thư thành lập một nhóm cho Sáng kiến dự trữ y tế và hợp tác nhân đạo (CHAMSI) nhằm tăng cường hợp tác về hỗ trợ nhân đạo và giảm thiểu thiên tai. Hoa Kỳ cam kết ủng hộ nỗ lực gìn giữ hòa bình của Việt Nam với mục tiêu giúp Việt Nam lần đầu tiên triển khai trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc trong năm 2017.

Cả hai nước đều thể hiện sự hài lòng về những nỗ lực chung trong tăng cường nhân đạo và giải quyết hậu quả chiến tranh. Cụ thể, Hoa Kỳ đánh giá cao hợp tác năng động của Việt Nam trong việc hỗ trợ nhiệm vụ nhân đạo bằng cách cung cấp đầy đủ thông tin của binh lính Mỹ mất tích trong chiến tranh.

Cả hai nước tiếp tục thực hiện hợp tác trong việc tháo dở bom mìn còn sót lại. Việt Nam hoan nghênh hợp tác giúp đi đến thành công của giai đoạn một chương trình tẩy độc dioxin ở sân bay Đà Nẵng; và giai đoạn sau đang được tiến hành. Hoa Kỳ thực hiện hợp tác với Việt Nam, đóng góp đáng kể vào quá trình tẩy độc dioxin ở sân bay Biên Hòa.

Giải quyết thách thức trong khu vực và toàn cầu

Hoa Kỳ và Việt Nam khẳng định thực hiện chung trong giải pháp hòa bình đối với tranh chấp hàng hải và lãnh thổ, trong đó phải kể đến tôn trọng tuyệt đối các quy trình hợp pháp và ngoại giao mà không dùng kế sách đe dọa hay sử dụng vũ lực theo quy định của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế, bao gồm cả Quy tắc Luật biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS).

Cả hai nước nhấn mạnh thực hiện của các bên đối với khu vực tranh chấp nhằm tránh làm trầm trọng và mở rộng tranh chấp và nhận thức tầm quan trọng của việc thực thi nghiêm túc Tuyên bố hành xử của các bên (DOC) và hành động để tăng cường thương thuyết để đạt được kết quả bền vững hướng tới kết luận của Quy tắc hành xử (COC).

Về điều này, cả hai nước bày tỏ quan ngại sâu sắc trước những diễn biến mới đây tại Biển Đông gây căng thẳng, đe dọa an ninh, hòa bình, suy giảm lòng tin và ổn định.

Cả hai nước nhận thức tầm quan trọng của việc duy trì tự do hàng hải và không phận, thương mại ở Biển Đông, kêu gọi phi quân sự và tự kềm chế trong giải quyết tranh chấp, tái khẳng định chung tay thực hiện Tuyên bố Sunnylands và thực hiện hành động mật thiết với các đối tác khác thuộc khối ASEAN trong việc tuân thủ Tuyên bố.

Hoa Kỳ khẳng định hợp tác tích cực nhằm giúp đỡ Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC 2017.

Hoa Kỳ và Việt Nam tái khẳng định thực hiện giải quyết biến đổi khí hậu và tuân thủ Thỏa thuận Paris. Hai nước chia sẻ khát vọng trở thành động lực của Thỏa thuận Paris và cả hai đều đã chính thức tham dự Thỏa thuận 2016.

Hoa Kỳ và Việt Nam nhất định thực hiện một số hành động thiết thực tăng cường làm dịu và thích nghi khí hậu, cũng như nâng cao năng lực xây dụng và minh bạch trong Thỏa thuận khí hậu Hoa Kỳ - Việt Nam, bao gồm đồng bằng sông Cửu Long.

Công việc tương lai được đặt nền móng trên kết quả cộng tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam tuân thủ các chương trình Sáng kiến hạ nguồn MeKong.

Hoa Kỳ đảm bảo giúp đỡ Việt Nam phản ứng tốt trước đợt hạn hán chưa từng có trong 90 năm qua và sự xâm nhập mặn cũng như phát triển kinh tế bền vững ở châu thổ hạ nguồn Mekong.

Với tư cách đối tác phát triển trong Ủy ban sông Mekong (MRC), Hoa Kỳ nhấn mạnh khả năng giúp đỡ sự hợp tác giữa các thành viên của MRC với nhau và giữa các thành viên MRC với các nước khác trong khu vực nhằm sử dụng, bảo quản và phát triển xuyên biên giới nguồn nước theo cách hiệu quả và bền vững nhất.

Cả hai nước nhấn mạnh ủng hộ mở rộng hợp tác hạt nhân dân sự để hướng tới việc giảm khí thải toàn cầu, dựa trên ký kết Sắp xếp quản lý chiếu theo Thỏa thuận Hoa Kỳ - Việt Nam trong Hợp tác sử dụng hòa bình năng lượng hạt nhân (Thỏa thuận “123”), cũng như tiêu chuẩn cao nhất về giải giáp, an toàn và an ninh hạt nhân.

Cả hai nước hoan ngênh thành công của Hội nghị an ninh hạt nhân 2016 và cam kết tiếp tục thực hiện nhằm đẩy mạnh thiết kế an ninh hạt nhân toàn cầu. Hai nước dự định thành lập Ủy ban hợp tác Hoa Kỳ - Việt Nam trong Hợp tác hạt nhân dân sự nhằm tuân thủ triệt để Thỏa thuận 123.

Cả hai nước nhất trí duy trì hợp tác thành công và giữ vai trò đồng lãnh đạo trong Chương trình nghị sự an ninh y tế toàn cầu (GHSA), đặc biệt tôn trọng cộng tác ở các trung tâm cấp cứu, phát hiện dịch bệnh, phản ứng trước người và thú vật cũng như tuân thủ lộ trình quốc gia để đạt được từng mục tiêu của GHSA.

Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ tăng cường năng lực y tế hàng hải của Việt Nam. Hoa Kỳ và Việt Nam cùng nhau thực hiện ngăn chặn, phát hiện và ứng phó với đe dọa đại dịch trong khu vực cũng như toàn cầu và cả hai khẳng định sẽ cùng nhau đánh giá hiệu quả đạt được trong năm 2016.

Cả hai nước cũng khẳng định nỗ lực chống buôn bán động vật hoang dã và bảo vệ đa dạng sinh học, dựa theo thỏa thuận vừa ký kết mang tên Đối tác Hoa Kỳ - Việt Nam chống buôn bán động vật hoang dã.

Thắt chặt quan hệ dài lâu

Hai nước đồng ý tăng cường hơn nữa Hợp tác toàn diện Hoa Kỳ - Việt Nam, làm mối quan hệ thêm sâu sắc, bền vững, hiệu quả hơn nhằm phục vụ tốt hơn lợi ích chung của hai dân tộc cho hòa bình, ổn định, hợp tác trong khu vực và trên thế giới.

(VietTimes)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Việt Nam qua góc nhìn của người Mỹ:


Tác giả: David Brown
Dịch giả: Song Phan

18-5-2016


Trong nhiều năm qua, tôi đã bình luận về các sự kiện ở Việt Nam và xung quanh, nhằm cung cấp cho người Mỹ và người nước khác một cái nhìn đầy đủ hơn và có thể chính xác hơn về một quốc gia mà, nói một cách tương đối, tôi biết khá rõ. Hầu hết các bài viết của tôi đều có bản dịch đăng trên trang Ba Sàm.


Tôi đã chỉ trích chế độ Hà Nội về những thiếu sót khác nhau. Đôi khi, độc giả lại chỉ ra rằng nền kinh tế Mỹ và hệ thống dân chủ của Mỹ cũng chẳng hoạt động tốt lắm trong thời gian gần đây. Họ cho rằng những người sống trong nhà kính thì đừng nên ném đá (đừng phê phán kẻ khác khi mình cũng chẳng hơn gì). Cho tôi xin được thanh minh rằng, tôi phê phán đủ mọi phía. Tôi cũng thường có vấn đề với chế độ ở Washington.


Nhiều người Việt Nam nhìn sang Hoa Kỳ để tìm kiếm sự ủng hộ trong cuộc đấu tranh chống Trung Quốc của Việt Nam. Việt Nam có thể yêu cầu điều gì từ Mỹ? Và xác suất Mỹ sẽ đáp ứng là bao nhiêu? Với chuyến thăm của Tổng thống Barack Obama chỉ còn khoảng một tuần nữa, bây giờ có vẻ là thời điểm tốt để nhìn kỹ nước Mỹ trong bối cảnh cụ thể của mối quan hệ đang phát triển với Việt Nam.


Các ý kiến dưới đây là của riêng tôi. Tôi không phát biểu cho chủ cũ của tôi, chính phủ Mỹ, theo bất kỳ cách nào.


Biến động chính trị trong nước


Đất nước tôi cố gắng sống đúng theo những giá trị quốc gia đầy khát vọng và được nhiều người ngưỡng mộ. Trong lịch sử, Hoa Kỳ luôn là một quốc gia ‘đầy tham vọng’. Trong 240 năm, người Mỹ chúng tôi đã dám nghĩ về quốc gia chúng tôi như một mô hình mới cho một thế giới cũ. Từ khi các cường quốc phát xít bị đánh bại bảy mươi năm trước đây, chúng tôi cũng đã đi đến việc xem mình là người bảo đảm cho một trật tự quốc tế không dựa trên sức mạnh, mà dựa trên các quy tắc hành xử đã thoả thuận.


Tuy nhiên, trong năm bầu cử nay, đặc biệt chúng tôi bị làm rối trí bởi các tranh luận nội bộ. Những người biết suy nghĩ lo rằng, chính trị Mỹ đã bị hỏng một cách vô vọng, rằng trung tâm chính trị đã rỗng đi và việc thỏa hiệp mang tính xây dựng đã trở thành chuyện gần như không thể có. Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo đã tăng lên trong ba thập niên qua. Bây giờ là sự phản ứng trở lại. Như một bước ngoặt về kinh tế-xã hội, chưa từng thấy có điều gì giống như thế, kể từ kỷ nguyên tiến bộ (Progressive Era) của chúng tôi 100 năm trước đây.


Tổng thống Obama là một nhân vật bi kịch, một người đáng kính và đầy lý tưởng, đã phải tiếp nhận cuộc khủng hoảng kinh tế và cuộc chiến tranh viển vông ở Trung Đông do tiền nhiệm George W. Bush để lại. Với thái độ phe phái một cách hẹp hòi, đảng Cộng Hòa (với đa số ghế trong cả hai cánh Quốc Hội) không đồng ý hợp tác với Obama để giải quyết những vấn đề chủ yếu.


Bây giờ, điều nghịch lý là chính Obama lại bị đổ lỗi vì những vấn đề này vẫn chưa dứt đuợc. Và, mặc dù lời lẽ phân biệt chủng tộc không còn chấp nhận được về mặt chính trị, sự tức giận nhắm vào Obama là, một phần, vì ông nâng đỡ người da màu và thách thức sự cố chấp.


Một số lớn đến kinh ngạc cử tri đang tức giận rằng nền kinh tế Mỹ không còn mang lại sự thịnh vượng cho người dân bình thường. Bốn mươi năm trước đây, hầu như bất cứ đàn ông da trắng nào có trình độ trung học là có thể có một cuộc sống tươm tất. Bây giờ điều dó không còn nữa. Cho đến năm 2007, một gia đình công nhân vẫn có thể có dư ít tiền khi có hai đầu lương. Sau đó, trong cuộc Đại suy thoái, một số lớn người dân bị mất việc làm và vì không thể trả nợ, cũng bị mất nhà. Việc làm thay thế sau khi nền kinh tế được phục hồi thường được trả lương ít hơn nhiều. Chín mươi phần trăm người lao động Hoa Kỳ có thu nhập không hơn thu nhập thực tế của họ năm 1980.


Năm nay, Đảng Cộng hòa đã tự huỷ hoại về vấn đề giàu nghèo. Trong nhiều thập niên, Đảng Cộng hòa vẫn có tính cạnh tranh trong cuộc bầu cử quốc gia qua việc thuyết phục cử tri đừng chú ý lập trường kinh tế giật lùi của đảng mà ủng hộ lập trường của đảng về các vấn đề xã hội (phản đối phá thai, phản đối kiểm soát quyền có vũ khí và mang súng v.v…) và một chính sách đối ngoại quân sự / mạo hiểm hơn. Về chính sách kinh tế, cánh đảng Cộng hòa trung dung thường tìm thấy nền tảng chung với cánh đảng Dân chủ trung dung. Tuy nhiên, trong tám năm dưới thời ông Obama, cánh giáo điều của đảng Cộng hòa đã đẩy đảng này tiến đều về phía cực đoan và làm cho việc thắng lợi của chiến dịch tranh cử của ứng viên tổng thống Donald Trump thành điều khả dĩ.


Mộ phần lớn đảng Dân chủ cũng đã trở nên phe phái hẹp hòi hơn. Mặc dù chính quyền Obama đã cố thông qua chương trình bảo hiểm y tế mang tính bước ngoặt và ổn định được nền kinh tế đang trên bờ vực khủng hoảng, nhiều thành viên cốt lõi của đảng thấy các lãnh đạo đảng đang thường xuyên quá nồng ấm với Wall Street, các nhà tài trợ lớn và các nhà môi giới ảnh hưởng ở Washington.


Bây giờ, với lập luận rằng người dân phải lấy lại quyền kiểm soát chính phủ, cả Donald Trump (tự cho mình là Cộng hòa) và Bernie Sanders (Dân chủ cấp tiến) đang huy động một đội quân của những người rất, rất tức giận.


Những cử tri đổ lỗi cho chính sách của chính phủ liên bang đã làm mất địa vị xã hội và thu nhập của họ, đã xếp hàng chạy theo Trump. Còn những ai than phiền hệ thống chỉ để phục vụ người giàu chứ không phải người nghèo thì lại hy vọng Sanders có thể chỉnh đốn mọi thứ đâu vào đó.


Trong cuộc bầu cử tháng 11 năm nay, ứng cử viên Dân chủ trung dung Hillary Clinton vẫn có khả năng chiến thắng. Rất có thể, đảng Dân chủ cũng sẽ giành lại được quyền kiểm soát ở Thượng viện. Một khi tuyên thệ nhậm chức, lẽ thường về chính trị, đòi hỏi Tổng thống H. Clinton phải đưa việc cải cách các hoạt động của Wall Street, cải cách hệ thống ngân hàng và cải cách luật tài trợ cho chiến dịch tranh cử lên ưu tiên hàng đầu.


Mỹ sẽ tồn tại. Chúng tôi đã qua được nhiều biến động chính trị-xã hội trước đây, và cuối cùng các tổ chức nhà nước của chúng tôi đã thích nghi với thực tế mới. Thực tế mới hiện nay là: nước Mỹ là một nước đa chủng tộc với một nền kinh tế công nghệ cao. Đó là một đất nước mà phụ nữ không còn bị giao cho các ‘công việc của đàn bà’ và ở đó không một ai do màu da, do không theo đạo Kitô hoặc do yêu người cùng giới mà bị hạn chế trong việc tham gia đầy đủ vào cuộc sống dân sự. Bất cứ ai đã từng cố gắng học được các kỹ năng có giá trị trao đổi và mang tới thị trường đạo đức nghề nghiệp tốt, đều có khả năng sẽ được yên ổn sống.


Điều đó luôn luôn là như vậy ở Mỹ vì nhiều lý do. Điều khác biệt bây giờ là có quá nhiều công dân đủ loại chưa được trang bị đủ để có thể vươn lên mạnh mẽ trong nền kinh tế thế kỷ 21 của chúng ta. Họ phải đánh vật để tránh rơi khỏi tầng lớp trung lưu. Giải quyết nhu cầu của họ cũng phải nằm trên cao trong chương trình làm việc của tổng thống kế tiếp.


Nhìn ra nước ngoài, tâm trạng khó khăn


Trong khi giới chính trị Mỹ đang bận tâm bởi sự rối rắm bên trong, ở ngoài Washington không còn nhiều năng lượng, thậm chí ít sự quan tâm dành cho với các vấn đề ở ngoài biên giới của chúng tôi.


Trong năm mươi mốt năm kể từ khi Thủy quân Lục chiến Mỹ lội vào bờ biển Đà Nẵng, niềm tin của những người Mỹ sống ở Mỹ là một quốc gia với một vai trò đặc biệt, như một lực lượng vì quyền lợi quốc tế, đã bị xói mòn nghiêm trọng.


Chiến tranh Việt Nam đã làm sự tự tin của người Mỹ bị suy sụp và thúc giục việc tố cáo lẫn nhau. Cuộc chiến ở Iraq ‘thắng lợi’ vào năm 1991 và những can thiệp ở vùng Balkans sau đó làm cho chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi lại là một lực lượng vì điều thiện lần nữa. Tuy nhiên, chúng tôi đã không nhớ được những bài học trong quá khứ và kết quả là sự sa lầy ở Afghanistan, Iraq và ở nhiều nước Trung Đông khác, sự bất ổn được Mỹ đốc thúc. Các ứng phó thiếu phối hợp của Mỹ được lặp đi lặp lại trong khu vực đó đã gieo thêm sự hỗn loạn và gây khó khăn cho bạn bè. Bây giờ, niềm tin ngây thơ ở Mỹ rằng chúng tôi có thể vun bồi các cải cách dân chủ ở đó, đã nhường bước cho sự tỉnh ngộ nhưng không sao thoát ra được.


Obama đã đúng khi chống lại việc can dự sâu hơn nữa. Trung Đông và dầu ở đó không còn là một mệnh lệnh chiến lược của Mỹ. Khu vực này có những vấn đề nội bộ riêng phải giải quyết. Chúng ta chẳng thể làm được gì nhiều để giúp. Về mặt đạo đức và chính trị, chúng tôi buộc phải ủng hộ sự tiếp tục của Nhà nước Israel chứ không phải những nỗ lực của Israel đe doạ và kiểm soát nước láng giềng.


Nền chính trị bị hỏng hóc, nền kinh tế đáng thất vọng của chúng tôi và sự tan vỡ các mối quan hệ giữa các nước Trung Đông đã chuyển hướng sự chú ý của Mỹ khỏi châu Á – Thái Bình Dương – khu vực của thế giới vốn thật sự có tầm quan trọng chiến lược sống còn đối với an ninh và hạnh phúc của chính chúng tôi. Mặc dù các nhà chiến lược Mỹ đã thực hiện nỗ lực sáng suốt để ‘chuyển trục’ và Obama đã chấp nhận điều đó, việc thực hiện đang gặp khó khăn. Phần lớn lực lượng không quân và hải quân của chúng tôi vẫn còn đóng ở vùng Trung Đông, không có sẵn để triển khai sức mạnh của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương. Nói vắn tắt, hiện nay có các giới hạn thực sự đối với việc Mỹ tạo ảnh hưởng với sức mạnh hậu thuẫn mà chúng tôi có thể hy vọng sẽ tác động lên các mối quan hệ ổn định và sự tăng trưởng chung ở đông và đông nam châu Á.


Tuy nhiên, năm này sang năm khác, hòa bình ở châu Á càng ngày càng có vấn đề hơn. Một làn sóng đòi trả thù đã lan tỏa khắp Trung Quốc. Người Mỹ không còn có thể vui thú với ý nghĩ dễ chịu rằng ‘Trung Quốc đang trỗi dậy’ để có thể chia sẻ những khát vọng của Mỹ trong việc giải quyết hàng loạt vấn đề toàn cầu. Thay vào đó, nhiều nhà nghiên cứu về Trung Quốc, và các cơ quan đối ngoại của chúng tôi nói chung, bây giờ lại lo rằng, có rất ít điểm chung giữa các giá trị Mỹ và nguyện vọng trả thù ‘thế kỷ quốc sỉ’ của Trung Quốc.


Các giới hạn của quyền lực Mỹ


Việt Nam đang đối mặt với một thách thức lớn từ người láng giềng phương Bắc. Nếu ghi nhớ trong đầu về nền chính trị hiện bị hỏng hóc của Mỹ và việc can dự đầy hao tốn tại Trung Đông, thì Washington có thể sẽ đến giúp Việt Nam trong điều kiện nào? Về mặt này, trường hợp của Ukraine đáng để xem xét nghiêm túc.


Hai năm trước, Ukraine đã cố gắng tách mình ra khỏi quỹ đạo của Nga, ngây thơ tin rằng NATO, liên minh Mỹ – châu Âu, sẽ ôm lấy và bảo vệ như một đối tác mới. Moscow đã phản ứng bằng cách cắt lấy vài phần thuộc miền đông Ukraine nơi có người thuộc chủng tộc Nga chiếm đa số – đặc biệt là khu vực Crimea. Theo cái nhìn địa chiến lược, Moscow không thể làm khác và vẫn là một đấu thủ trong nền chính trị quốc tế của các khu vực biển Đen, biển Aegea và đông Địa Trung Hải. Và, mặc dù Washington tham gia với Đức và các đồng minh khác trong việc lên án Nga viện tới vũ lực và trong việc tuyên bố ủng hộ nền độc lập của Ukraine, dường như Washington đã không nghĩ tới việc can thiệp.


Không giống như Nga, Trung Quốc rõ ràng không phải là một cường quốc hiện trạng. Bắc Kinh nhắm tới việc khống chế một trật tự chiến lược mới tại Đông Á và Đông Nam Á. Họ khẳng định ‘quyền lịch sử’ về chủ quyền đối với ‘Nam Hải’ (biển Đông) và dọa chiếm lấy nhiều khu vực giàu dầu và khí đốt trong Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của Việt Nam. Ngay cả thế, trong trường hợp có một cuộc xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc, dễ có thể tưởng tượng rằng, có cố vấn chính trị cho một tổng thống Mỹ tương lai sẽ đưa ra cùng kiểu lập luận vốn chiếm ưu thế ở Washington khi Ukraine kêu gọi giúp đỡ.


Trong một cuộc khủng hoảng tương lai, sẽ luôn có một số người ở Washington lập luận rằng, biển Đông không thực sự quá quan trọng, rằng có những tuyến đường biển thay thế để tới Arabia qua Eo biển Lombok của Indonesia. Một số người sẽ cho rằng Mỹ và các đồng minh không nên làm cho mình trở thành kẻ thù của Trung Quốc khi việc hợp tác với họ là cần thiết trên rất nhiều vấn đề toàn cầu. Một số người sẽ lập luận rằng, nếu hải quân Mỹ và hải quân Trung Quốc dứt khoát phải đụng độ, thì đó không phải là nơi có nhiều khó khăn để điều động một hạm đội Mỹ vốn được thiết kế cho các trận chiến ở vùng biển cả, mà lại gần các căn cứ không quân và các vị trí bố trí tên lửa của Trung Quốc.


Phải thừa nhận rằng, đây là một kịch bản ảm đạm, đặc biệt là đối với Việt Nam. Tuy nhiên, kịch bản đó có khả năng xảy ra. Công chúng Mỹ đang trong tâm trạng than phiền. ‘Sự khôn khéo về chính sách ngoại giao’ thường lệ, phần lớn bị mất tin cậy. Như chúng ta đã thấy, quân đội Mỹ đã bị kéo dãn mỏng ra để đối phó với cuộc xung đột ở Trung Đông. Nền chính trị Mỹ đã trở nên hỏng hóc. Những điều tiêu cực này có xu hướng buộc người kế nhiệm của Obama phải đáp ứng một cách thận trọng với các hành vi xâm lấn nhỏ của Trung Quốc ở Biển Đông.


Đến bây giờ hai chính phủ Việt Nam và Philippines đã có thể kết luận rằng việc Trung Quốc mở rộng dần dần sức mạnh quân sự của họ trên biển Đông, đặt ra một mối đe dọa hiển hiện cho nền độc lập của họ. Hãy giả định rằng cả Hà Nội lẫn Manila đều nhận ra rằng vị trí chiến lược của họ tương đương với vị trí của Kiev về mặt quan trọng này. Vậy thì họ phải làm gì để bảo đảm rằng Hoa Kỳ cùng đồng minh Nhật Bản vẫn sẽ tham dự một cách tích cực và xây dựng vào việc cân bằng sức mạnh Trung Quốc?


Khi Trung Quốc trở nên tệ hại (đối với Philippines, đó là khi Bắc Kinh chiếm bãi cạn Scarborough, phía tây của đảo Luzon, bốn năm trước đây), Manila không có thực lực hải quân đáng kể. Hải quân và Tuần duyên Philippines bây giờ có khả năng tốt hơn để tuần tra các vùng biển của đất nuớc, nhưng họ vẫn còn phụ thuộc nhiều vào sự trợ giúp của Mỹ và Nhật Bản. Về mặt ngoại giao, chính quyền Aquino đã làm tốt. Philippines đã buộc ASEAN phải thừa nhận rằng, hành vi của Trung Quốc là có vấn đề và họ đã thách thức các yêu sách phi lý của Trung Quốc tại Tòa án UNCLOS. Đảo ngược chính trị như lệ thường, Manila đã hoan nghênh việc Mỹ và Nhật Bản sử dụng các căn cứ ở quần đảo Philippines.
Việt Nam đã có thể đối phó tốt hơn với với sự xâm phạm của Trung Quốc trong vài biện pháp. Việt Nam có truyền thống đáng tự hào trong việc chống lại sự bắt nạt của Trung Quốc. Một thập niên trước, Hà Nội đã bắt đầu đầu tư vào việc hiện đại hóa hệ thống phòng không và phòng thủ biển của mình. Việt Nam hiện triển khai một lực lượng ngăn chặn có thể gây ra những thiệt hại đáng kể, nếu quân Trung Quốc tấn công.


Chỗ Việt Nam thiếu là: cuộc chiến giành lấy lòng người. Vì những lý do phức tạp bắt nguồn từ lịch sử chung của chúng ta, người Mỹ đã tự động đưa Việt Nam lên một chuẩn cao hơn chuẩn cho các quốc gia đang phát triển khác. Nếu các nhà lãnh đạo Việt Nam mong được sự ủng hộ từ Hoa Kỳ, họ phải nỗ lực nhiều hơn để cho người dân Mỹ thấy họ xứng đáng để ủng hộ.


Bởi vì chừng nào mà đa số các ủy viên Bộ Chính trị còn tin rằng, những việc xâm phạm của Trung Quốc được xử lý tốt nhất qua đối thoại giữa đồng chí với nhau, thì chế độ Hà Nội còn đưa ra một thông điệp không rõ ràng cho người dân nước này, cho các nước ASEAN và cho bạn bè trên toàn thế giới. Sau cuộc đối đầu HD-981 vào mùa hè năm 2014, lập trường của chế độ có rõ ràng hơn: Trung Quốc là một kẻ xâm lược và sự trợ giúp của bạn bè được hoanh nghênh. Tuy nhiên, các hành động sau đó lại thiếu vững chắc một cách kỳ lạ. Hà Nội đã không tham gia cùng Philippines khiếu kiện tại tòa trọng tài mà chỉ tham dự với tư cách một quan sát viên. Như công chúng Việt Nam có thể thấy được, hợp tác quân sự với Hoa Kỳ chủ yếu chỉ là trò chuyện, đánh dấu bởi các chuyến thăm cảng hàng năm.


Ban lãnh đạo Hà Nội muốn có sự ủng hộ từ bên ngoài không? Theo quan điểm của Mỹ, rất khó để hiểu vì sao Hà Nội lại tiếp tục cằn nhằn về việc kéo dài các hạn chế đối với chuyện bán vũ khí cho Việt Nam hay, có vẻ họ lo ngại rằng Mỹ có thể “bán đứng Việt Nam cho Trung Quốc như đã làm hồi năm 1972 và năm 1988”. Cũng có thể do nhận được sự bảo đảm của Tổng thống Barack Obama, rằng Hoa Kỳ không có ý định phá hoại các tổ chức của đảng và nhà nước, và qua việc đặt Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương làm trung tâm trong chiến lược toàn cầu hóa kinh tế – xã hội của mình, Hà Nội chủ yếu có ý định muốn gửi một thông điệp cho Trung Quốc: chúng tôi có lựa chọn khác.


Như đã giải thích bên trên, không chắc rằng các lựa chọn hiện nay bao gồm việc có thể trông cậy vào sự giúp đỡ quân sự và bán quân sự của Mỹ và có thể của Nhật Bản khi căng thẳng tăng vọt ở biển Đông. Đối với các nhà tư tưởng chiến lược chủ chốt của Mỹ, cung cấp trợ giúp nhanh chóng và hiệu quả cho Việt Nam có thể là điều phải làm. Người dân Mỹ bình thường và hầu hết các chính trị gia sẽ khó để thuyết phục hơn.


Một chuẩn mực cao hơn


Mặc dù sự thật biến đổi đáng kể, khá nhiều người Mỹ đều nhận thấy Việt Nam hiện nay là một nước cảnh sát trị, tham nhũng chính trị và toàn trị cứng nhắc, thuộc Thế giới thứ ba.
Tôi tin rằng Việt Nam là đặc biệt trong mắt người Mỹ theo hai cách chính yếu. Thứ nhất, như là một cách để đưa những hồn ma bóng quế của chính chúng tôi vào yên nghỉ, chúng tôi những người Mỹ, gồm cả người Mỹ gốc Việt, hy vọng sẽ nhận thấy rằng, từ thử thách nghiệt ngã của cuộc chiến tranh làm chúng tôi bị hạ thấp, một nước Việt Nam giàu mạnh hơn xuất hiện.


Thứ hai, vẫn còn một số người Mỹ quan tâm tới những gì đang xảy ra ở Việt Nam. Những công chúng tinh mắt này bao gồm nhiều cựu chiến binh hoặc chuyên gia dân sự từng đến VNCH với thiện ý khoảng hơn 50 năm trước. Tập thể này cũng bao gồm con cháu của những người tị nạn đã xây dựng cuộc sống mới ở Mỹ nhưng không bao giờ đánh mất tình yêu đối với mảnh đất nơi họ sinh ra. Tập thể này còn gồm cả những người đàn ông và phụ nữ mà việc họ tham gia vào đời sống chính trị Mỹ bắt đầu với những cuộc biểu tình dũng cảm chống lại sự can thiệp của Mỹ trong cuộc nội chiến của Việt Nam. Những nhóm này có ảnh hưởng chính trị lên các dân biểu và nghị sĩ đại diện cho họ. Họ gây ảnh hưởng tinh thần đến các đồng bào của mình.


Tôi đã lập luận trong một bài viết khác chống lại nhận thức về Việt Nam như một chế độ toàn trị cứng nhắc, qua việc chỉ rõ sự mở rộng rất đáng kể các quyền tự do dân sự trong những năm gần đây, được thúc đẩy không phải do sáng kiến của nhà nước, mà nhờ toàn cầu hóa và việc truy cập vào mạng toàn cầu (world wide web). Tuy nhiên, tư thế chính thức của Hà Nội về quyền và nghĩa vụ của công dân vẫn chưa tiến triển, và chỉ riêng việc này thôi lại đặt ra những giới hạn rất thực tế về khả năng phát triển các mối quan hệ song phương. Mỗi khi Hà Nội bắt giữ hoặc truy tố những người có vẻ như chỉ đơn giản đang thực hiện các quyền hiến định, thì việc đó lại củng cố niềm tin của công chúng Mỹ rằng, Hoa Kỳ chớ nên dính dáng vào một cuộc xung đột ở xa xôi vì một chế độ không rõ ràng.
Đàn áp bất đồng chính kiến ôn hòa là tiếp thêm đạn cho các nhà lập pháp Mỹ đang nhắm bắn hạ thỏa thuận TPP. Trái lại, bằng chứng cho thấy Bộ Chính trị mới có ý định mở rộng quyền tự do chính trị sẽ làm tăng sức hấp dẫn của Việt Nam với tư cách là một đối tác trong Hiệp định xuyên Thái Bình Dương.


Tôi hy vọng có rất ít các lãnh đạo Hà Nội thật sự còn tin rằng, các tổ chức xã hội dân sự độc lập tự thân có ý đồ lật đổ chính quyền. Tôi tin rằng các lãnh đạo chóp bu trong chính phủ mới của Việt Namthật lòng muốn cắt đi các quan hệ tham ô giữa giám đốc các doanh nghiệp nhà nước với các quan chức cao cấp của chính phủ. Nếu cả hai điều này là đúng thì tại sao lãnh đạo mới của Việt Nam lại ngần ngại thực hiện hành động đột phá nhân danh các công dân của đất nước? Không giống các vị tiền nhiệm lúc đương chức, Nguyễn Phú Trọng, Đinh Thế Huynh, Trương Hòa Bình, Trần Đại Quang và các đồng liêu của họ ít nhiều an toàn trước các cáo buộc lệch lạc về ý thức hệ. Vì thế điều nghịch lý là họ đang ở trong một vị thế mạnh hơn để thực hiện cải cách chính trị.


Cách thức và việc định thời gian cho cải cách chính trị là chuyện của Việt Nam. Không nước nào cho mình có quyền áp đặt lựa chọn của Việt Nam. Như Tổng thống Obama đã nói với Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng hồi tháng 7 năm ngoái, Mỹ tôn trọng hệ thống chính trị của Việt Nam. Tuy nhiên, người Mỹ chắc chắn sẽ hoan nghênh nếu Quốc hội bãi bỏ Điều 258 và các quy định khác của bộ luật hình sự, vốn xâm hại các quyền tự do dân sự được hiến pháp nêu lên. Chúng tôi sẽ rất ấn tượng nếu chính phủ Việt Nam tập trung nỗ lực nhiều hơn trong quản lý kinh tế và ít hơn trong việc can dự trực tiếp vào đó. Chúng tôi sẽ rất vui mừng khi thấy có những nỗ lực mạnh mẽ và bền vững để xây dựng sự minh bạch thật sự và có sự tham gia rộng rãi hơn vào quá trình ra quyết định chính trị của Việt Nam.


Theo cái nhìn của tôi, để đặt nền tảng cho một mối quan hệ mạnh mẽ và lâu bền với Hoa Kỳ, ban lãnh đạo mới chỉ cần tin tưởng vào sự thành tâm và thiện ý của chính công dân Việt Nam, và từ đó có hành động phù hợp. Đó là một bước đi hoàn toàn hợp lý, bởi vì hy vọng lớn nhất của Đảng Cộng sản muốn nắm quyền mãi mãi thì phải trở thành cái gì khác – một tổ chức chính trị ít tham nhũng hơn, nhiều minh bạch hơn và dốc sức vào việc đưa tới ngày càng nhiều tự do hơn cho các công dân của mình.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

CA SĨ MAI KHÔI ĐÃ NÓI GÌ VỚI TỔNG THỐNG HÔM NAY




Đỗ Nguyễn Mai Khôi
Do Nguyen Mai Khoi 
 
Cách đây 1 tuần Mai Khôi đã hỏi các bạn muốn Mai Khôi chuyển thông điệp gì tới Tổng Thống Obama, và bây giờ, vừa mới đây Mai Khôi đã có cuộc họp với tổng thống và đã cố gắng nói toàn bộ mong muốn của các bạn cho tổng thống nghe, mặc dù thời gian rất có hạn.

Mai Khôi đã truyền thông điệp rằng: Người dân Việt Nam muốn và cần được quyền tự do tụ tập để được biểu tình ôn hoà. Gần đây biểu ngữ ''cá cần nước sạch, dân cần minh bạch '' đã trở thành một câu kêu gọi thống khiết nhất và cũng mạnh mẽ nhất từ phía người dân.

Ngoài ra dân VN cần được quyền tự do ngôn luận, không phải để chống phá gì nhà nước mà để họ có thể nói lên những điều bức xúc trong lòng và đưa ra ý kiến để những quyết định của đất nước được đúng đắn hơn. Mai Khôi và các nghệ sĩ khác của Việt Nam cần được tự do sáng tạo, ca hát và biểu diễn mà không cần phải xin bất kỳ một giấy phép nào. Nghệ thuật mà phải xin phép và bị duyệt thì làm sao phát triển được. Sự tin tưởng giữa nhà nước và nhân dân cần được phát triển theo hướng này.

Mai Khôi cũng đã nêu rõ những quyền này của người dân Việt Nam cần phải được áp dụng trên thực tế, không chỉ trên giấy như trong bao nhiêu ký kết quốc tế nhà nước Việt Nam đã ký rồi.

MK cũng không phải ngây thơ đến mức không biết là chưa chắc Mỹ có thể hoặc sẽ giúp để đáp ứng được những mong muốn này. Tuy nhiên, Mai Khôi biết đây là môt cơ hội duy nhất để nói lên những mong đợi của người dân Việt Nam trong những ngày gặp gỡ của hai nhà nước Hoa Kỳ và Việt Nam. Tổng thống đã nói với Mai Khôi rằng ông ấy rất quan tâm đến những vần đề này, đó là những quyền vô cùng cơ bản của con người.

Mai Khôi hy vọng rằng ông ấy sẽ khuyến khích được nhà nước Việt Nam đảm bảo những quyền này cho người dân thì hàng triệu người dân Việt Nam sẽ vô cùng ngưỡng mộ và biết ơn ông.

P.s.Mai Khôi không nói xấu chế độ, cũng không xin chạy qua Mỹ hoặc yêu cầu điều gì có lợi cho cá nhân Mai Khôi.

Dĩ nhiên những vấn đề quá riêng tư của các bạn thì Mai Khôi không truyền tải được chẳng hạn như một số người xin được giải quyết chuyện nợ nần, chuyện bị cướp đất, một số người muốn tặng tổng thống 1 bài thơ...v..v...rõ ràng là các bạn thừa hiểu tổng thống không thể nghe và không thể giải quyết những vấn đề riêng tư cho các bạn.
 
 
Phần nhận xét hiển thị trên trang

TOÀN VĂN BÀI PHÁT BIỂU CỦA TỔNG THỐNG MỸ BARACK OBAMA



TOÀN VĂN BÀI PHÁT BIỂU 
CỦA TỔNG THỐNG MỸ BARACK OBAMA
Nguồn: FB Đức Bảo Phạm

Xin cảm ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho chúng tôi sự chào đón nồng nhiệt trong chuyến thăm này. Xin cảm ơn các bạn có mặt ở đây ngày hôm nay, những người Việt Nam đến từ khắp đất nước, trong đó có những người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng của người dân Việt Nam. 


Trong chuyến thăm này, sự thân thiện của các bạn đã chạm tới trái tim của chúng tôi. Nhiều người vẫy tay chào tôi bên đường, làm tôi cảm thấy được tình cảm dân tộc.

Hôm qua tôi đến thăm phố cổ Hà Nội và được ăn bún chả rất ngon, uống bia Hà Nội. Đường phố thật đông đúc, tôi chưa bao giờ thấy nhiều xe máy như vậy. Tôi chưa thử qua đường, nhưng sau này có dịp trở lại Việt Nam, các bạn sẽ chỉ cho tôi cách qua đường như thế nào.

Tôi không phải Tổng thống Mỹ đầu tiên đến Việt Nam trong những năm gần đây, nhưng tôi cũng là người như các bạn, đã trưởng thành sau cuộc chiến tranh Việt Nam.

Khi lực lượng quân sự Mỹ rời Việt Nam lúc đó tôi 13 tuổi. Lần đầu tiên tôi tiếp xúc với người Việt Nam là ở Hawaii, nơi tôi lớn lên. Tôi đã gặp một số người Mỹ gốc Việt ở đó, nhiều người còn trẻ hơn tôi. Nhiều người trẻ Việt Nam cũng như hai con gái tôi, khi sinh ra chỉ biết đến tình hòa bình và hữu nghị Việt Nam - Hoa Kỳ. Khi đến đây tôi ý thức về quá khứ nhưng chúng ta nên hướng về tương lai, sự thịnh vượng, an ninh và sự ổn định để chúng ta có thể thúc đẩy lẫn nhau.

Tôi cũng trân trọng quá khứ lịch sử rất huy hoàng của Việt Nam. Hàng nghìn năm, Việt Nam đã trồng cấy ở những mảnh đất này. Chúng ta đã có lịch sử trống đồng Đông Sơn. Hà Nội đã đứng vững trên dòng sông Hồng hơn một nghìn năm. Thế giới đều biết đến lụa và những bức tranh của Việt Nam và Văn Miếu là bằng chứng kiến thức của Việt Nam. Sau nhiều thế kỷ, vận mệnh của Việt Nam đã bị nhiều nước can thiệp, nhưng cây tre cũng như tinh thần bất khuất của người Việt Nam như Lý Thường Kiệt đã ghi lại: Sông núi nước Nam vua Nam ở/Rành rành đã định tại sách trời. 

Hôm nay chúng ta cũng nhớ tới lịch sử giữa người Việt và người Mỹ mà chúng ta có thể bỏ quên 200 năm trước, khi một trong những người Mỹ đi tìm kiếm giống lúa gạo và ông đã đến Việt Nam, tìm thấy giống gạo trắng, ngon, năng suất rất cao. Tiếp đó, những con thuyền đã đến Việt Nam buôn bán. Trong chuyến đi thứ hai, người Mỹ đã tới hỗ trợ cuộc kháng chiến của Việt Nam.

Khi những phi công Mỹ đến đây, người Việt Nam đã giúp đỡ họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích tuyên ngôn độc lập của Mỹ.

Vào một thời điểm khác, việc đánh đuổi thực dân đã đưa chúng ta xích lại gần nhau. Chiến tranh lạnh và nỗi lo sợ với chủ nghĩa cộng sản đã đưa chúng ta tới một cuộc chiến. Chúng ta đã nhận thức được sự thật đau đớn rằng chiến tranh dù cho thế nào đi nữa đều mang lại sự đau đớn và bi kịch cho người dân của chúng ta.

Trong các nghĩa trang liệt sĩ, trên bàn thờ của các gia đình Việt Nam chứa đựng đầy những nỗi đau. Trong nghĩa trang của đất nước chúng tôi, người ta có thể chạm vào hơn 58.000 liệt sĩ vĩnh viễn không trở về. “Khi chúng ta bất đồng một điều gì đó, chúng ta vẫn phải nhớ đến những người đã ngã xuống vì đất nước, cả người Việt và người Mỹ”. Chúng ta đã hàn gắn với nhau: tìm kiếm người mất tích, đưa họ về nước, gỡ bỏ những bãi mìn còn chưa nổ. Trẻ con không thể nào bị mất chân bởi những bãi mìn này.

Trẻ em khuyết tật và chất độc màu da cam sẽ được chúng tôi hỗ trợ nhiều hơn. Chúng tôi tự hào vì những công việc chúng ta đã phối hợp với nhau tại Đà Nẵng và chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ ở sân bay Biên Hòa. Quá trình hòa giải của hai nước chúng ta không chỉ là liên quan đến các cựu chiến binh. Thượng nghị sĩ John Mc là cựu binh trong chiến tranh đã đến gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nói rằng “Hai nước chúng ta không nên là kẻ thù trong chiến tranh, nên làm bạn”. 

Nhiều người Mỹ, Việt đã nỗ lực hàn gắn những vết thương và cũng đã đem lại những lợi ích cho hai nước, như trung úy Hải quân giờ là ngoại trưởng John Kerry. Xin cảm ơn ngoại trưởng. Chính bởi những người cựu chiến binh đã cho chúng ta thấy con đường đi và người dân đã cảm thấy rất phấn khích để tiếp tục mưu cầu hòa bình. Chúng ta trở nên gần gũi nhau hơn, thương mại tự do ngày càng tăng lên, các sinh viên, học giả nghiên cứu với nhau. 

Chúng tôi đã đón nhiều sinh viên Việt Nam hơn bất kỳ nước nào khác ở Châu Á. Rất nhiều khách du lịch đã đến thăm Việt Nam, 36 phố phường cổ Hà Nội, các cửa hàng ở Hội An, cố đô Huế. Như người Việt và người Mỹ đều có thể thuộc những bài hát của Văn Cao “Từ nay ta biết quê người. Từ nay người biết thương người”. Với vai trò là tổng thống, tôi muốn tiếp tục những sự tiến bộ này của quan hệ hai nước và với quan hệ đối tác toàn diện của chúng ta ngày càng gần gũi hơn, chúng ta đang ngày càng hợp tác. 

Mục tiêu của tôi trong chuyến thăm này là chúng ta xây dựng nền tảng ngày càng vững chắc hơn cho quan hệ hai nước trong nhiều thập kỷ tới.. Chúng ta đã mất rất nhiều năm để nỗ lực hàn gắn quan hệ. Chúng tôi muốn nói một điều mà chúng tôi không thể tưởng tượng được trước đây : ngày hôm nay, hai nước đã trở thành bạn bè, đối tác của nhau. Tôi tin tưởng rằng những bài học trong chiến tranh sẽ là những bài học cho cả thế giới. Có những cuộc xung đột tưởng như không thể kết thúc, không giải quyết được thì giờ đây quan hệ của chúng ta đã cho thấy có thể tạo ra sự thay đổi để có tương lai tốt đẹp hơn. Hòa bình bao giờ cũng tốt đẹp hơn chiến tranh. Với sự tiến bộ, những giá trị tốt đẹp của con người cần được thúc đẩy chứ không phải là chiến tranh hay xung đột. Đây là điều mà hai nước đã chỉ ra cho thế giới thấy. Việt Nam là một nước có chủ quyền độc lập và không có quốc gia nào khác có thể áp đặt lên ý chí của người dân Việt Nam. Độc lập, chủ quyền ấy do người dân Việt Nam quyết định. Mỹ rất quan tâm đến sự thành công của đất nước Việt Nam. 

Chúng tôi muốn ưu tiên cho mối quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam. Tôi không còn nhiều thời gian nữa trong nhiệm kỳ của mình nhưng tôi mong muốn mình có thể đóng góp nhiều hơn cho quan hệ hai nước. Chúng ta cần hợp tác nhiều hơn để tạo ra và đem lại những cơ hội thịnh vượng thực sự cho người dân hai nước. Tôi hiểu những giá trị mới của nền kinh tế toàn cầu trong thế kỷ 21. Nền kinh tế sẽ phát triển, đặc biệt ở các nước có pháp quyền và có hành lang pháp lý đúng đắn. Nền kinh tế tri thức sẽ đổ vào các quốc gia ưu tiên cho giáo dục. Do vậy, bên cạnh phát triển kinh tế cần đầu tư vào nguồn lực con người. Đó là những kỹ năng đào tạo và đầu tư vào những con người có tài năng, thay vì khai thác tài nguyên thiên nhiên. Đây là những thế mạnh mà Mỹ có thể hợp tác với Việt Nam. Ngày hôm qua như tôi đã thông báo, đội hòa bình sẽ đến Việt Nam. Thế hệ trước của người Mỹ đến đây để chiến đấu, nhưng thế hệ sau của người Mỹ đã đến đây đóng góp cho sự phát triển của Việt Nam và làm sâu sắc hơn tình hữu nghị hai nước. Các công ty hàng đầu, đại học danh tiếng Mỹ đã đến Việt Nam để hợp tác, đào tạo về khoa học công nghệ, toán học, y tế…vì khi chúng tôi muốn chào đón nhiều công dân, thanh niên Việt Nam sang Mỹ thì chúng tôi cũng muốn thế hệ trẻ Việt Nam được hưởng những giá trị giáo dục tốt hơn. 

Do vậy, tôi rất vui mừng thông báo với các bạn, mùa thu năm nay đại học Fullbright sẽ đi vào hoạt động. Đại học này phi lợi nhuận, chất lượng cao sẽ cung cấp nhiều học bổng cho sinh viên Việt Nam và đóng góp cho hợp tác giáo dục giữa hai nước. Các sinh viên, học giả, nhà nghiên cứu hai nước sẽ tập trung vào các lĩnh vực như chính sách công, quản trị doanh nghiệp, hợp tác trong các lĩnh vực máy tính, từ thơ của Nguyễn Du, triết học của Phan Chu Trinh tới lĩnh vực toán của GS Ngô Bảo Châu

Chúng tôi mong muốn sẽ kết nối những doanh nghiệp trẻ Việt – Mỹ. Nếu có thể tiếp cận với công nghệ, kỹ năng mà người Việt cần thì sẽ không có gì là trở ngại với các bạn. Chúng tôi mong muốn khuyến khích cả phụ nữ Việt Nam, những người có tài năng để đảm bảo về bình đẳng giới ở Việt Nam. Từ thời đại Hai Bà Trưng đến nay, người phụ nữ Việt Nam luôn mạnh mẽ, tự cường và giúp cho đất nước Viêt Nam tiến lên phía trước. Khi chúng ta có một gia đình tốt, sự đóng góp của người phụ nữ, phụ nữ được đi học và có vị trí xứng đáng ở trường học, chính phủ, trong giới lãnh đạo thì chúng ta sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn. Điều này luôn đúng kể cả ở Mỹ cũng như Việt Nam.

Với tư cách là Tổng thống Mỹ, tôi ủng hộ mạnh mẽ TPP, bởi vì bản thân tôi sẽ giúp cho Việt Nam xuất khẩu nhiều sản phẩm hàng hóa đến Mỹ. Điều này sẽ giúp cho Việt Nam không phải phụ thuộc thương mại với quốc gia nào duy nhất mà mở rộng thị trường của mình như với Hoa Kỳ. 

TPP cũng sẽ giúp thúc đẩy hợp tác vùng, giúp các bạn giải quyết các vấn đề bình đẳng kinh tế, thúc đẩy nhân quyền, giúp cho người lao động có điều kiện lao động an toàn hơn. Có thể người lao động tổ chức nghiệp đoàn, thúc đẩy bảo vệ môi trường. Đây là tương lai, hy vọng mà TPP mang lại cho chúng ta. Tất cả các quốc gia thành viên phải cam kết thực hiện các mục tiêu mà TPP đặt ra.

Tất cả chúng ta phải nỗ lực đảm bảo an ninh chung, điều này chúng ta có thể hợp tác với nhau trong chương trình đào tạo an ninh chung. Trong chuyến thăm này của tôi hai bên đã nhất trí xây dựng niềm tin, tiếp tục công tác đào tạo, cung cấp thiết bị cho cảnh sát biển, năng lực bảo vệ hàng hải cũng như cứu trợ nhân đạo trong thiên tai. Hôm qua, tôi đã tuyên bố Mỹ sẽ dỡ bỏ lệnh hoàn toàn cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, đảm bảo Việt Nam có thể có vũ khí cần thiết để đảm bảo an ninh. Chúng tôi mong muốn thể hiện rõ Hoa Kỳ bình thường hóa toàn bộ quan hệ với Việt Nam. 

Thế kỷ 20 đã dạy cho tất cả chúng ta, không chỉ Việt Nam một trật tự quốc tế và an ninh chung phụ thuộc lẫn nhau. Chúng ta xây dựng thông lệ chung tất cả quốc gia đều là quốc gia có chủ quyền, dù lớn hay nhỏ phải được tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ. Các nước lớn không được hại nước nhỏ hơn. (Vỗ tay). 

Kể cả Mỹ thông qua các biện pháp hòa bình và liên kết vùng như ASEAN cần được tiếp tục củng cố như niềm tin của tôi, niềm tin của Hoa Kỳ. Đây là điều chúng tôi tuyên bố khi đến thăm Lào đầu năm nay.

Chúng tôi sát cánh cùng đối tác tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do thương mại. Khi chúng ta sát cánh bên nhau, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hợp tác chiều sâu từ hàng không đến các vùng biển mà quốc tế cho phép. 

Quan hệ của chúng ta là giải quyết sự khác biệt giữa hai chính quyền về nhân quyền. Tôi nói điều này bởi không có quốc gia nào hoàn hảo. Sau 2 thế kỷ lập nước, chúng tôi vẫn đang phải cố gắng đạt được những ý tưởng chúng tôi đã đề ra khi chúng tôi lập quốc như kinh tế ngày càng gia tăng, định chế tư pháp, hình sự. Tất nhiên chúng tôi vẫn nhận được sự phê bình. Ngày nào chúng tôi cũng nhận được phê bình, tôi và Chính phủ, nhưng những lời chỉ trích, tranh luận cởi mở giúp chúng ta nhìn nhận sự chưa hoàn hảo. Việc mọi người có quyền đưa ra lời phê phán thì chính là điều giúp xã hội tiến bộ hơn. Hoa Kỳ không muốn áp đặt cho Việt Nam, chúng tôi tin rằng giá trị Hoa Kỳ mà chúng tôi nói là giá trị tổng quát được nêu trong Hiến pháp Việt Nam như người dân có quyền tự do ngôn luận, lập hội. Đây là những điều đã được nêu trong hiến pháp Việt Nam. 

Tôi xin chia sẻ một số điểm theo quan điểm của mình, chúng ta tiếp cận internet vì thúc đẩy sáng tạo mà nền kinh tế cần có để phát triển, như facebook. Các công ty lớn đã có ý tưởng đưa ra và chia sẻ. 

Người Việt Nam quyết định tương lai của người Việt. Tôi xin chia sẻ một số điểm của bản thân Trong đất nước tự do, người dân sẽ lựa chọn lãnh đạo tốt nhất cho họ, mọi người có quyền bày tỏ sự nhân ái và chúng ta cần tăng cường hơn nữa tiếp cận hỗ trợ cho người nghèo để đời sống của họ được cải thiện. Các quyền bình đẳng người dân Việt Nam sẽ mang đến nền tẳng cho sự thịnh vượng và lợi ích cho tất cả người dân Việt Nam. Suốt 8 năm qua tôi suy nghĩ nhiều về việc cải tiến hệ thống chính quyền Mỹ.

Về thách thức toàn cầu, Việt Nam cần bảo vệ các nơi như Vịnh hạ Long, sơn Đòng vì tương lai con cháu chúng ta. Nước biển tăng sẽ làm ảnh hưởng đến các vùng ven biển và Việt Nam cần thực hiện cam kết chống lại ảnh hưởng của biến đổi khí hậu., chống lại ảnh hưởng vùng ngập mặn như đồng bằng sông Cửu Long - nơi cung cấp thực phẩm lớn cho thế giới. Chúng ta cũng phải giúp đỡ cho các nước để xây dựng năng lực về nhiều vấn đề như cải thiện y tế. Mỹ vui mừng khi đã giúp đỡ Việt Nam tham gia hơn nữa về gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Đặc biệt hai nước trước đây tham gia trận chiến, nhưng giờ cùng hợp tác bảo vệ hòa bình. Việt Nam và Mỹ cần nỗ lực hơn nữa trong việc tăng cường đối thoại hai bên. Nhìn vào lịch sử, thách thức mà chúng ta vượt qua, tôi lạc quan vào tương lai của quan hệ hai nước chúng ta. Niềm tin tôi là nhờ nền tảng dựa trên tình hữu nghị. Hay như Trịnh Công Sơn viết bài “nối vòng tay lớn” để mở tấm lòng của mình ra để thấy bản chất và trái tim của mình. Tương lai nằm trong tay các bạn. Mỹ luôn là đối tác và người bạn của các bạn. Sau này khi người Mỹ Việt Nam học cùng nhau, cùng phối hợp sáng tạo với nhau thì các bạn hãy nhớ khoảnh khắc tôi đứng ở đây trước các bạn như Nguyễn Du đã nói: 
Rằng trăm năm cũng từ đây. 
Của tin gọi một chút này làm ghi”.
Phần nhận xét hiển thị trên trang