Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 13 tháng 4, 2016

Trung Quốc với kế hoạch 4 sân bay......

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hội viên Hội Nhà văn VN thứ 4 lọt vào nội các Nguyễn Xuân Phúc: nhà thơ-BT Bộ Công thương Trần Tuấn Anh


Sưu tầm của Hai Xe Ôm.

Trong lịch sử suốt hơn 70 năm thành lập chính phủ,  có 4 hội viên Hội Nhà văn VN đã lọt vào được danh sách nội các chính phủ, đó là 4 nhà thơ Tố Hữu, Xuân Thủy, Nguyễn Khoa Điềm và nhiệm kỳ này là nhà thơ Trần Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Công thương...
Điều đáng lưu ý: cả 4 vị là thành viên Chính phủ đều xuất thân là hội viên hội nhà văn VN mảng thơ...

1. Nhà thơ Tố Hữu sinh năm 1920

Tố Hữu có câu thơ được nhiều người đọc nhắc, họa lại:
Tròn năm 50 tuổi: Đảng và thơ 
Từ ấy hồn vui mãi đến giờ
-Tố Hữu: 1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng cho tới 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.


2. Nhà thơ Xuân Thủy sinh năm 1912



Với bài thơ nhiều người đọc biết:
Này này đế quốc biết hay chăng?
Ngươi đã già nua ta trẻ măng
Trái đất ngươi ôm, ôm chẳng nổi
Trời kia ta với cả cung trăng!
Ngoài chức vụ Bộ trưởng Bộ Ngoại giao (1963-1965) [3] và là Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1968-1973) tại Hội nghị Paris…


3. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điền sinh năm 1943
Nguyễn Khoa Điềm có 2 bài thơ nói về nhân dân trong 2 giai đoạn được nhiều người đọc hay nhắc tới: dó là những câu thơ nói về những “tình huống lừa…nhau”  trong thời tao loạn:
Người dạy ta nghèo ăn cháo rau
Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi
Cái cuốc, con dao, đánh lừa cái tuổi
Chén rượu đánh lừa cơn mỏi, cơn đau
Con nộm nang tre đánh lừa cái chết
Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu
Đánh lừa thuồng luồng xăm mình xăm mặt
Đánh lừa thằng giặc là chuyện Trạng Quỳnh
Nhưng lạ lùng thay, nhân dân thông minh
Khô
ng hề lừa ta dù ca dao, cổ tích
(Đất nước…)
Giai đoạn ông thôi chức Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa về nghỉ hưu tại Huế:
Nhân dân
Cúi mình trên đồng lúa
Lao lên các hỏa điểm chiến tranh
Lăn mình trong các cuộc xuống đường
Cặm cụi với sách vở
Họ là nhân dân thứ thiệt
Nhưng trên diễn đàn cao nhất nước
Có người nói nhân dân chưa đủ trí tuệ
Để hưởng luật biểu tình!
Tôi nghĩ mãi
Ai đã bầu ra ông nghị này nhỉ?
Sao lại sợ nhân dân biểu tình?
Không!
Sự sợ hãi không cứu được chúng ta
Mà chính là sự can đảm
Đi tới dân chủ.
Tháng 11/2011
Tháng 11 năm 1996, Nguyễn Khoa Điềm làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin

4. Nhà thơ Trần Tuấn Anh sinh năm 1964

Ông Trần Tuấn Anh được kết nạp vào Hội Nhà văn VN năm 2014 chuyên mảng thơ; xem tên nhà thơ này: Kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2014

Thơ của nhà thơ Trần Tuấn Anh không rõ được đăng và xuất bản tại đâu, ít người biết…
Sau đây là tiểu sử của nhà thơ-Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh:

Tiểu sử Bộ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh:


Họ và tên: Trần Tuấn Anh
Ngày sinh: 1964
Quê quán: Quảng Ngãi
Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII
Tháng 7/2008, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định phê chuẩn ông Trần Tuấn Anh, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố, giữ chức Phó Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ nhiệm kỳ 2004-2009.
Tháng 8/2010, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định điều đồng, bổ nhiệm ông Trần Tuấn Anh giữ chức Thứ trưởng Bộ Công thương.
Tháng 3/2015, ông Trần Tuấn Anh được bổ nhiệm làm Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương.
9/4/2016: tại Kỳ họp thứ 5 Quốc hội Khóa XIII, Quốc hội phê chuẩn bổ nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Công thương.”
Mấy điều đáng lưu ý về tiểu sử của nhà thơ-BT Bộ Công thương Trần Tuấn Anh:

-Ông Trần Tuấn Anh sinh năm 1964; từ năm 1964 đến năm 2008, không thấy tiểu sử nêu ông Trần Tuấn Anh học trường nào, làm gì, ở đâu?
Chỉ từ tháng 7/2008, năm ông Trần Tuấn Anh tròn 44 tuổi mới thấy ông có hoạt động, còn 44 năm trước đó chắc ông… “bất động” hay hoạt động gì đó không đáng đưa vào tiểu sử ?
Hay đây là giai đoạn ông đầu tư cho sự nghiệp văn học, "bí mật" làm thơ để được kết nạp vào Hội nhà văn VN ???
Con đường quan lộ của nhà thơ Trần Tuấn Anh làm cho nhiều nhà thơ Việt Nam thấy cái nghề làm thơ ở xứ ta không đến nỗi…hẻo ?!

H.X.Ô.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cuộc chiến nguồn nước của Ấn Độ

indiaw

Nguồn: Aman Sethi, “India’s Water Wars”, The New York Times, 01/03/2016.
Biên dịch: Ngô Việt Nguyên
Xe tải quân đội đi dọc những con đường làng bụi bặm, lính bắt đầu bắn, đám đông bắt đầu náo loạn và cuối cùng thì quân đội Ấn Độ đã kiểm soát được kênh đào Munak, nguồn cung cấp ba phần năm lượng nước sạch cho New Delhi.
Sự kiện này xảy ra cuối tháng trước ở Haryana, tiểu bang có biên giới với New Delhi ở ba hướng. Người biểu tình thuộc tầng lớp Jat chặn đường ô tô và đường sắt, đốt xe buýt, cửa hàng và nhà cửa, và chặn nguồn nước cho 18 triệu dân thủ đô. Họ đòi hỏi được đưa vào chương trình hỗ trợ cho các tầng lớp (thấp) của Ấn Độ, tìm cách để được làm những công việc trong chính phủ.
Một tờ báo địa phương dẫn lời một người biểu tình thuộc tầng lớp Jat cho rằng “nếu chúng tôi vẫn phải chết đói, thì các người cũng sẽ phải chết khát.” Các nhà chức trách phản ứng bằng cách gửi hàng ngàn quân vào tiểu bang. Ít nhất 18 người thiệt mạng và 200 người bị thương.
Tầng lớp Jat chiếm một vị trí mơ hồ trong hệ thống thứ bậc xã hội Ấn Độ. Một số người coi họ là hạ đẳng, nhưng họ thống lĩnh đời sống chính trị ở Haryana. Trong nhiều thập niên, họ đã tạo nên nhiều tài sản bằng cách canh tác, và gần đây hơn bán những mảnh đất canh tác kế bên Delhi. Nhưng khi các nông trại dần bị phân mảnh theo sau từng thế hệ, thì mức lãi từ nông nghiệp đã sụt giảm và thị trường bất động sản địa phương cũng suy giảm theo.
Vấn đề của Haryana, cũng như cả nước, là việc các doanh nghiệp Ấn Độ đã làm giàu mà không tạo nên việc làm có ý nghĩa và lương cao cho hơn 10 triệu thanh niên Ấn Độ bước vào độ tuổi làm việc mỗi năm. Và bởi vì các chính trị gia Ấn Độ bị chi phối bởi các nhà tài trợ doanh nghiệp, các tranh luận về bất công kinh tế, phân phối của cải và tỷ lệ thất nghiệp chỉ có thể được giấu trong những ngôn từ khác, dưới khái niệm bất công xã hội.
Người Jat học từ kinh nghiệm quá khứ rằng cách tốt nhất để gây chú ý là làm tê liệt hệ thống vận hành thường nhật của tiểu bang, nhưng không đến mức nổi loạn. Bằng cách cắt đứt nguồn nước cho Delhi, cộng đồng người Jat đã sử dụng một cách biểu tình đã được hoàn thiện trong nhiều thế kỷ qua những cuộc đàm phán giữa vùng quê và thủ đô Delhi.
Delhi khô hạn đã bị ám ảnh bởi nguồn nước kể từ khi nó được thành lập. Vào thế kỷ 13 và 14, một hệ thống hồ dự trữ và kênh đào đã đảm bảo nguồn nước cho thành phố: một hệ thống cấp nước hiệu quả là dấu hiệu của một đế chế hiệu quả. Nhà sử học M. Athar Ali ghi nhận trong một tuyển tập các bài viết về Ấn Độ thời Mughal rằng khi ổn định địa phương bị rạn nứt, thì nguồn cung cấp nước không còn và các khu vực đô thị sẽ bị đe dọa.
Vào thập niên 1260, ông Ali viết, các nguồn dự trữ nước quý giá của thành phố cạn kiệt vì các kênh dẫn nước bị chặn lại bởi những “kẻ bất lương.” Có khả năng những “kẻ bất lương” được triều đình ghi lại là tổ tiên của những người Jat, những người sẽ định cư tại những nơi mà các kênh đào được đặt không? Ông Ali không nói vậy, nhưng đến hết thế kỷ 16 người Jat đã định cư xung quanh thủ đô. Và đến thế kỷ 18, khi đế chế Mughal trên đà suy yếu, những băng cướp người Jat thường xuyên chặn các con đường huyết mạch dẫn vào Delhi, làm hàng trăm lữ khách bị mắc kẹt và số phận của họ bị định đoạt bởi những tên cướp này.
Trong thời thực dân, người Jat ban đầu phải chịu đựng dưới chế độ địa tô bóc lột của người Anh, nhưng họ gượng dậy lại sau cuộc nổi loạn vào năm 1857. Đến cuối thế kỷ 19, họ đã củng cố chủ quyền của mình, thường bằng việc mua và định cư toàn bộ các ngôi làng. Một báo cáo thời bấy giờ được nhắc đến bởi Kai Friese trong cuốn Peasant Communities and Agrarian Capitalism (Các cộng đồng nông dân và chủ nghĩa tư bản nông nghiệp), mô tả một giao dịch ở Meerut, cách Delhi khoảng 40 dặm: “giao dịch mua bán được thực thi không chỉ bởi các đề xuất rõ ràng, mà còn bởi vũ lực, đốt phá, và cả giết chóc.”
Ngày nay, người Jat vẫn tích cực hoạt động trong thị trường cấp nước và bất động sản xung quanh Delhi. Khu vực nội đô thành phố sử dụng 900 triệu gallon nước sạch mỗi ngày lấy từ phía bắc Ấn Độ, với 60% lượng nước chảy qua khu vực người Jat ở Haryana. Một phần tư hộ gia đình ở Delhi không có nước sạch, theo thống kê gần đây nhất và đáng tin cậy nhất của chính phủ vào năm 2013. Nhiều người buộc phải quay sang sử dụng các xe bồn tư nhân mà phần lớn do người Jat làm chủ, những người bị lên án trong các tờ báo địa phương là “mafia nước.” Và khi tiểu bang chọc giận người Jat, như họ đã làm vào năm 2014 khi yêu cầu lãnh đạo người Jat Ajit Singh phải rời nhà công vụ khi ông đã không còn làm bộ trưởng từ lâu, họ tụ tập đến kênh đào gần nhất.
Gốc rễ của những xung đột hiện tại bắt đầu từ năm 1990, khi người Jat bị gạt ra ngoài chương trình hỗ trợ mở rộng, chương trình này để dành một tỷ lệ phần trăm việc làm chính phủ và ghế đại học cho những nhóm bị thiệt thòi. Cả đảng Quốc đại Ấn Độ lẫn đảng Bharatiya Janata, đảng lên nắm quyền vào năm 2014, đã nhiều lần đề xuất bổ sung người Jat vào hệ thống hạn ngạch này. Nhưng tòa án tối cao đã từ chối, cho rằng nhóm này chưa đủ mức “tụt hậu”.
Cuộc biểu tình gần đây đã nổ ra khi một cuộc tuần hành dường như hòa bình của người Jat đột nhiên trở nên bạo lực và nhanh chóng lan rộng khắp Haryana. Sau đó bạo lực đã giảm xuống sau khi quân đội được triển khai và chính phủ hứa sẽ thành lập một ủy ban cấp cao để xem xét các yêu cầu của người Jat.
Các xã luận trên các mặt báo đã lên án sự phá hủy tài sản, và mô tả cuộc nổi loạn là một cách để người Jat “tống tiền hệ thống hạn ngạch”, đồng thời cảnh báo chính phủ không được đặt ra tiền lệ xấu cho các cộng đồng chiếm ưu thế chính trị khác đang đòi hỏi có chỗ trong hệ thống, như những người Patidar, còn gọi là Patel, ở bang Gujarat. Cho phép các đẳng cấp quyền lực hơn được có chỗ sẽ lấy đi cơ hội của những đẳng cấp bị thiệt thòi thực sự như là người dalit, những người thuộc đẳng cấp này thường xuyên bị phân biệt đối xử bởi phần lớn các đẳng cấp khác, bao gồm cả người Jat.
Những lập luận này có lý, nhưng chúng bỏ qua một điều căn bản là việc người Jat lên tiếng về những khó khăn kinh tế của họ thông qua phương diện đẳng cấp là một nước đi chiến lược.
Người nghèo Ấn Độ phải trả tiền điện nước nhiều hơn tầng lớp trung lưu bởi vì họ thường bị buộc phải hối lộ để có được các dịch vụ thiết yếu, và họ bị ảnh hưởng nặng nề hơn bởi các sắc thuế trực tiếp đánh vào tiêu dùng. Trong khi các ngân hàng quốc doanh của Ấn Độ đã xóa hàng triệu đô la nợ doanh nghiệp, nhiều nông dân nợ nần đã buộc phải tự sát.
Nền chính trị bầu cử ở Ấn Độ không những không thay đổi được hệ thống này từ gốc mà còn phủ một lớp sơn mang màu sắc dân chủ lên những hành vi chiếm đoạt đã trở nên thường xuyên. Những công nhân tổ chức đòi tăng lương bị gọi là những người theo chủ nghĩa Mao, những dân làng  chống cướp đất bị buộc là làm việc cho các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, những sinh viên chỉ trích chính sách xã hội và kinh tế của chính phủ bị gắn mác là những kẻ nổi loạn.
Nhưng nếu họ tổ chức và gây rối với tư cách là một tầng lớp địa chủ cao cấp, như là người Jat, không ai sẽ nghi ngờ lòng yêu nước của họ.
Haryana là một trong những tiểu bang giàu có hơn của Ấn Độ. Nó nằm gần Delhi, giá đất tương đối cao, và sau vài trăm năm đầu tư cho hệ thống thủy lợi, tiểu bang đã có một hệ thống kênh đào cho phép nông dân có thể trồng những nông sản có giá cao như gạo và lúa mì. Tiểu bang cũng có một nền tảng chế tạo tốt, đặc biệt là ngành ô tô.
Thậm chí với những điều kiện như thế này mà những người Haryana vẫn chịu đối mặt với quân đội Ấn Độ để có một cơ hội việc làm tốt hơn trong chính phủ, thì hẳn phải có một cái gì đó đã mục ruỗng ngay trong trung tâm nền kinh tế Ấn Độ. Bằng cách cắt nguồn nước của Delhi và nhắc đến công bằng xã hội, cái mà người Jat thực sự muốn nói là: Ở đây không có việc làm, và chúng tôi, ở vùng quê, đang giận dữ.
Xem thêm:
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2016/04/13/cuoc-chien-nguon-nuoc-cua-an-do/#sthash.0S0XGI48.dpuf
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Ba, 12 tháng 4, 2016

hiện thực từ cái cõi mang mang của kiếp người..

Nguyễn Quang Thiều
clip_image002
Ông hơn tôi đôi tuổi, nghĩa là tôi và ông là nhà thơ cùng thế hệ, nhưng về thi pháp thì nhiều khác biệt. Trong khi ông là một trong ít nhà thơ có công khai mở dòng thi pháp mới cho thơ Việt Nam thì tôi vẫn là một cây bút truyền thống. Dù vậy khi đưa tập bản thảo lục bát này nhờ đọc, thật bất ngờ ông đã tỏ ra khá hào hứng và có những đánh giá: “hầu hết mỗi bài thơ trong tập có một lối đi riêng nhưng lại cùng về một chốn. Chốn ấy chính là việc xác lập cái hữu hạn của đời người để cho ta cảm nhận được cái vô hạn của cõi người, của vũ trụ. Mà kỳ lạ thay, trong cái vô hạn ấy ta lại nhận ra ta, ta thấy có ta, còn ta, trong khi nhiều lúc ở giữa cái hữu hạn cầm được, giữ được, đo được… ta lại không tìm thấy dấu vết của mình”. Ông là nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.
Xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng các anh chị.
Đỗ Trọng Khơi
*
clip_image001Tôi đọc tập thơ lục bát Đỗ Trong Khơi trong dịp nghỉ Tết khá dài. Những ngày ấy tôi về quê. Tôi ngồi một mình trong căn phòng nhỏ đọc thơ anh, căn phòng mà ngày mẹ tôi còn sống, bà hay ngồi trên giường những đêm đông giá lạnh và kể đủ thứ chuyện cho tôi nghe. Đêm gần sáng ở làng quê yên tĩnh vô cùng và tôi thấy được ánh sáng từ những bông hoa đào nở trong vườn. Ngay cả khi những cơn gió thổi qua vườn khua nhẹ những chiếc lá thì những tiếng khua ấy cũng là sự tĩnh lặng.. Quả thực, trong những ngày trước đó ở thành phố, tôi đã đọc tập thơ lục bát này, nhưng những bài thơ ấy và tôi vẫn như hai kẻ đứng ở hai bờ sông mà chẳng thấy bóng một chiếc cầu hay một con đò. Nghĩa là, tôi vẫn chưa tìm được lối sang bờ bên kia của con sông dẫu đã nhìn thấy nó. Với tôi, không gian mà thơ lục bát Đỗ Trọng Khơi trong tập này đã dựng lên là không gian của suy tưởng và thời gian thích hợp nhất đối với tôi để sống trong không gian của suy tưởng là những đêm gần sáng. Và trong những đêm gần sáng ấy, tôi đã nghe thấy giọng nói Đỗ Trọng Khơi, giọng nói cõi người.
Những câu thơ lục bát của Đỗ Trọng Khơi mà nhà thơ Mai Văn Phấn, Khánh Phương và những người khác trích dẫn trong bài viết của mình là những câu thơ lục bát hay nhất trong tập thơ, những câu thơ ám ảnh tôi nhất và dắt tôi đi đến một chốn thật xa trong thế giới cảm xúc và suy tưởng của Đỗ Trọng Khơi. Chỉ với những câu thơ trích dẫn ấy đã đủ cho tôi nhìn thấy ngôn ngữ và tinh thần thơ lục bát Đỗ Trọng Khơi. Giữa biết bao bài thơ lục bát hay của các nhà thơ làm thơ lục bát đi trước, giữa biết bao cái “bẫy” của thể loại thơ này đã từng dễ dàng vùi lấp chính người làm ra nó tưởng sẽ vùi lấp một người làm thơ lục bát như Đỗ Trọng Khơi giữa một thời đại của muôn vàn những cái mà người ta muốn được gọi hay muốn được thừa nhận là hậu hiện đại thì Đỗ Trọng Khơi vẫn tìm được đường của mình và dựng lên con đường của mình. Khi một nhà thơ tìm được đường của mình thì anh đã không trở thành kẻ đi theo hay thành một phiên bản của người khác và anh vẫn tạo ra được những giá trị bên cạnh những giá trị khác.
Có một điều tôi muốn nói mà có vẻ như mâu thuẫn một chút ở đâu đấy, đó là hiện thực trong thơ lục bát Đỗ Trong Khơi. Nó không phải những hiện thực mang tính xã hội, hiện thực của những cái mà con người sống trong xã hội đó làm ra mà là hiện thực từ cái cõi mang mang của kiếp người. Hiện thực này không phụ thuộc vào đói no, ấm lạnh, được thua… mà nó phụ thuộc vào cái mất – còn, cái mờ – tỏ của ta ở trong chính ta. Bởi thế mà cái Đỗ Trọng Khơi tìm đến hay nói chính xác hơn là tìm về là cái cuối cùng hay cái độc nhất là ta. Chính ý thức này và chính cảm thức này đã chọn lựa không gian và thời gian cùng ngôn ngữ tương hợp của nhà thơ để hiện lộ.
Những điều mà Đỗ Trọng Khơi đang nói đến, đang cảm nhận rõ ràng là những điều của hôm nay, những người của hôm nay và những lời của hôm nay thế mà cái “trời” ấy lại nhuốm màu bàng bạc, cổ kính của ngàn xưa. Những câu thơ của Đỗ Trọng Khơi làm cho tôi thấy tôi đang ở trong tôi đấy rồi lại làm cho tôi thấy tôi đang ở ngoài tôi và có lúc như mất tôi. Màu sắc, âm thanh và những lối người trong vũ trụ này mà Đỗ Trọng Khơi dựng lên làm cho tôi nhiều lúc nhuốm màu hư ảo khi đọc những câu thơ của anh. Tôi vừa hiện tại, tôi lại vừa quá khứ. Tôi vừa trống rỗng và tôi vừa tràn đầy.
Tôi có ý định từ đầu bài viết đến giờ là sẽ không trích bất cứ câu thơ nào của Đỗ Trọng Khơi ra đây. Nhưng đến lúc này tôi không làm được thế. Tôi xin mượn một số câu thơ của Đỗ Trọng Khơi mà hầu hết các tác giả viết về thơ Đỗ Trọng Khơi trong tập thơ này đã trích :
• Tôi tự chèo lái tôi đi/ đi cho hết cõi không gì mới thôi (Cõi không gì)
• Tôi hư ảnh, tôi xương da/ tôi khăn áo mỏng như là trần gian/ cầm câu yêu xuống Địa đàng/ hỏi thăm, đây lối về làng tôi chăng? (Địa đàng vườn ấy…)
• Tôi đi về phía xa xăm/ Vâng, xa xa lắm, mù tăm tuyệt mù (Giờ đây)
• Lòng trời như li như lau/ lòng người thoắt đã bợn màu aí ân (Trong gió may lộng).
• Đêm qua bóng ngả đầy người/ người thì xoá bóng về nơi tuyệt cùng (Bóng)
• Bầu trời còn gọi khoảng không/ Trong không có khoảng rỗng không tuyệt vời (Thì tin).
• Trong bao la một ta ngồi/ một ta chơi với một người là ta (Ta về cõi ta)
• Ngàn thu trong một mùa thu/vàng chưa hết sắc đã từ rất lâu/tình còn đấy một đôi câu/làn mây, con nước chân cầu còn trôi (Tựa)
• Thời gian hư ảnh cũng mòn/nhuộm mờ mặt đất tiếng con chim chiều. (Thời gian)
• Bước ngày đè nẻo hư hao/chiều nao chiều nảo chiều nào cũng sương/Dấu theo đã tỏ tấc đường/vẽ lên một sắc cỏ buồn như mây (Nạm)
Tôi dẫn một số câu thơ của Đỗ Trọng Khơi ra đây để ai đó hãy thử một lần, thả lỏng tâm trí, quên đi những phiền muộn, tục lụy…để trôi theo, để chìm đắm cùng dòng chảy của cảm xúc và suy tưởng ấy. Và tôi đã trôi theo, đã chìm đắm cùng rồi nhận thấy : hầu hết mỗi bài thơ trong tập có một lối đi riêng nhưng lại cùng về một chốn. Chốn ấy chính là việc xác lập cái hữu hạn của đời người để cho ta cảm nhận được cái vô hạn của cõi người, của vũ trụ. Mà kỳ lạ thay, trong cái vô hạn ấy ta lại nhận ra ta, ta thấy có ta, còn ta, trong khi nhiều lúc ở giữa cái hữu hạn cầm được, giữ được, đo được…ta lại không tìm thấy dấu vết của mình. Đấy là cảm giác rõ nhất, mạnh mẽ nhất và xác thực nhất khi tôi trôi theo, chìm đắm cùng trong những câu thơ lục bát Đỗ Trọng Khơi.
Hà Đông, 2.3.2013
NQT
Phần nhận xét hiển thị trên trang