Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 5 tháng 4, 2016

Những hệ lụy phía sau sự “an bài chính trị” của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng…( kỳ 1)


Dao Pham Viet· 

Phạm Viết Đào.
Bài 1: Nguyên nhân sụp đổ của “mô hình” Nguyễn Tấn Dũng ?
Hôm nay, 6/4/2016, Quốc hội chính thức bãi nhiệm chiếc ghế Thủ tướng mà ông Nguyễn Tấn Dũng đã quản trong gần 12 năm; ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ rời khỏi nơi ông “trụ trì” sau gần 20 năm tại đây?
Do sự bùng nổ của mạng thông tin xã hội nên chưa có một nhiệm kỳ Thủ tướng nào được được đưa ra mổ xẻ đến nơi đến chốn, ngược chiều nhau về nhiều phương diện của con người và sự nghiệp chính trị Nguyễn Tấn Dũng…
Qua hiện tượng Nguyễn Tấn Dũng, dư luận xã hội bắt đầu ngộ ra sự phân hóa sâu sắc từ trong nội bộ Đảng, sự hình thành phe nhóm lợi ích và sự đối đầu nhau không kém phần quyết liệt, mất còn…
Qua cuộc đối đầu này dư luận ngộ ra: phe nhóm chưa chắc đã là xấu, đáng sợ; Sự hầm bà làng với nhau có khi đẩy đất nước, dân tộc đến chỗ tiêu vong nhanh hơn như một cuốn tiểu thuyết của Romania mà Phạm Viết Đào đã cất công dịch, xuất bản từ năm 2000; Cuốn tiểu thuyết của nhà văn Romania Zaharia Stancu viết năm 1968 ( Tình yêu hoang dã-Tên gốc: Satra…)
Trong nhiệm kỳ của Ban chấp hành khóa XI, có 2 vị ủy viên TW đã qua đời, đã để lại không ít những bàn luận, dị nghị trái chiều trên mạng xã hội, đó là cái chết của Thượng tướng-Thứ trưởng Bộ Công an Phạm Quý Ngọ và Trưởng Ban Nội chính TƯ Nguyễn Bá Thanh…
Hai vị ủy viên TƯ nắm những trọng trách lớn trong việc phòng chống tội phạm đã đột nhiên chết do “bạo bệnh” trong bối cảnh: hàng loạt đại án lớn phanh phui những đường giây làm ăn lớn liên quan tới Chính phủ đã gây rung động xã hội…
Những kết cục kẻ vào tù, người ngã bệnh khiến cho dư luận râm ran về câu thành ngữ xưa: Trạng chết thì chúa cũng băng hà- hậu quả tất yếu của buổi sơ khai của kinh tế thị trường mang danh xã hội chủ nghĩa; mà về thực chất của những bê bối qua những đại án này chuyện xảy ra hoang dã không kém phần tư bản sơ khai…
Từ đây, vai trò, vị thế vô tình hay cố ý, ông Nguyễn Tấn Dũng với cương vị Thủ tướng trở thành điểm ngắm của dư luận xoáy vào: Ỗng Dũng là tác nhân hay thủ phạm; Ông Dũng có công hay là kẻ phá hoại ?
Vậy ông Dũng là người cấp tiến, dám bung phá để tìm lối thoát cho nền kinh tế trì trệ, nhiễm nặng “ tập trung quan liêu”, xóa dần cái lối trung ương tập quyền, quyen gọi là cơ chế xin-cho, thể chế bóp chết tự do kinh doanh; xương sống, sinh lực của một nền kinh tế từ Liên Xô tới Đông Âu và giờ bộc lộ cả cả Trung Quốc…
Với sự xốc vác của tuổi tác và của một anh “ Hai Nam Bộ”, ngay mới lên nhận chức Thủ tướng, ông Nguyễn Tấn Dũng đã tìm đến những mô hình kinh tế Hàn Quốc, Nhật Bản để học hỏi…
Xin nhớ là trong suốt nhiệm kỳ làm Thủ tướng của mình, ông Nguyễn Tấn Dũng dường như chưa một lần đến thăm Bắc Kinh, trong khi đó các vị “ tứ trụ” các nhiệm kỳ đều tề tựu tại Trung tâm chính trị đông bắc Á này…
Cái bi kịch nếu nói về sai lầm chính trị của Nguyễn Tấn Dũng lúc đầu, ông là người trẻ năng động và khá nhạy bén, thông minh nhưng ông lại không đủ tầm với tới một nền tảng để giúp ông giải những bái toán pháp lý cho việc lực chọn mô hình “Hàn, Nhật”…Một nhà nước muốn phát triển kinh tế bằng thể chế kỹ trị không thể không dựa vào thói quen tuân thủ luật pháp của những người tham gia cuộc chơi…
Để tạo dựng những ra những “chaebon” như Hàn Quốc, tạo đầu tàu và những quả đấm thép, Chính phru Hàn Quốc đã dồn vốn ưu đài cho một số đầu tàu kinh tế; Chính phủ Hàn Quốc thành công vì họ thật sự đã có những đầu tàu có khả năng tự vận hành được trên nhưng cung đường ngắn nên khi được tiếp sức, nó bứt phá lên nhanh, liên vận xa…
Thể chế của Hàn Quốc tuy nhà nước vẫn tập trung cao độ quyền lực nhưng nền kinh tế vận hành theo kinh tế tư bản, tư nhân…Nên họ đã có những nhà tư bản tiền trạm, có ý thức và trách nhiệm tích lũy kỹ trị tư bản…
Bước hụt hẫng về kiến thức kỹ trị của Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng, để tập trung quyền hành như vào tay mình như chính phủ Hàn Quốc, Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã cho ban hành Nghị định 1-1/2009/NĐ-CP…
Để hiểu thêm những nguyên nhân sâu xa về sự thất bại của “ mô hình Nguyễn Tấn Dũng” xin đưa lại loạt bài viết của Phạm Viết Đào đăng cuối năm 2010, loạt bài này đáng tiếc đã bị hacker đánh sập; may mắn hiện đang được trang mạng Đoithoại giữ hộ…
Xin mời quý vị đọc lại loạt bài này đã đưa lên mạng cuối năm 2010: tiên liệu sự sụp đổ của “mô hình” Nguyễn Tấn Dũng.Trước khi blog Phạm Viết Đào mổ xẻ tiếp những hệ lụy của mô hình Nguyễn Tấn Dũng cả tới tận hôm nay và nhiều năm nữa; Chủ blog cũng sẽ mạnh dàn đề xuất một số giải pháp khác để vẫn tôn trọng, tiếp tục những sáng kiến cá nhân của ông Dũng nhưng cấp thiết phải thiết kế các “ vòng kim cô” để tránh nó quá đà…
Về thâm tâm, blog Phạm Viết Đào không có chủ ý “chống đối” Nguyễn Tấn Dũng một cách quyết liệt như ông hiểu lầm về tác giả loạt bài này; có lẽ do bộ máy an ninh nước nhà thiếu hiểu biết về phép kỹ trị của kinh tế thị trường…thành ra một lúc nào đó ông đã biến P.V.Đ thành đối tượng phải siết vòng kim cô; trong khi thâm tâm P.V.Đ lại muốn tặng ông “ chiếc vòng kim cô” để giúp ông hoàn thành cái mô hình mà ông ấp ủ ! Đã có lúc tôi viết trên mạng: dù thế nào thì tôi P.V.Đ vẫn cảm ơn, không hề oán trách ông.
Viết về Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là một câu chuyện dài hơi. Xin hẹn quý vị nhiều kỳ vì: ông Nguyễn Tấn Dũng là người thú vị, đáng viết; một con người có tư chất chính khách đàng hoàng, không xơ cứng và khá thông minh….
MÔ HÌNH CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ THÀNH LẬP THEO NGHỊ ĐỊNH 101/2009/NĐ-CP:
Posted on 06/01/2011 by Doi Thoai
Bài 1: MỘT MÔ HÌNH QUẢN TRỊ TRÁI HIẾN PHÁP, PHÁP LUẬT: THỦ PHẠM XÔ ĐẨY VINASHIN VÀO RỐI LOẠN, SUY SỤP !
Blog nvphamvietdao
Qua các dẫn chứng và các cơ sở pháp lý sau đây cho thấy: mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập theo NĐ101 là một mô hình tổ chức không nằm trong khuôn khổ Hiến pháp 1992, Luật Văn bản quy phạm pháp luật và Luật Tổ chức chính phủ. Vì những sự trái ngoe này nên dẫn tới những hệ lụy như đã thấy ở Vinashin !
Phạm Viết Đào.
Đã có rất nhiều chuyên gia mổ xẻ phân tích các nguyên nhân dẫn tới thảm họa Vinashin, một sản phẩm của cái mô hình quản trị doanh nghiệp thí điểm chính thức ra đời sau Quyết định 91-TTg Hà Nội, ngày 07 tháng 3 năm 1994 ( QĐ91 ); Mô hình thí điểm này được luật hóa bằng văn bản dưới luật có tên: Nghị định 101/2009/NĐ-CP( NĐ101) ngày 5/11/2009 thí điểm thành lập, tổ chức, hoạt động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước; Nghị định ban hành sau 15 năm, kể từ quyết định thành lập thí điểm mô hình quản trị mà giới doanh nghiệp hay gọi tắt là Tập đoàn 90- 91 …
Việc thiết kế mô hình quản trị các Tập đoàn kinh tế nhà nước theo QĐ91 và NĐ101 đã được tiến hành theo quy trình: “sinh con rồi mới sinh cha; sinh cháu giữ nhà rồi …” mà “ông” thì chưa được pháp luật thừa nhận ?!
Mô hình quản trị này đã tạo ra cái quan hệ pháp lý loằng ngoằng: Các tập đoàn kinh tế nghiễm nhiên trở thành con của ông ( Thủ tướng ) và chỉ là em ( hay cháu ) của các Bộ quản lý chuyên ngành; trong khi đó thì về quy luật tự nhiên-xã hội, để hình thành gia phong của một gia đình, đảm báo tính hiếu thuận trong quan hệ con cháu đối với cha mẹ, ông bà, trật tự sinh thành của các thành viên trong gia đình phải là “con cha, cháu ông”…
Cái trật tự pháp lý loằng ngoằng này đã đẩy các cơ quan quản lý chuyên ngành bị đẩy ra vị thế chầu rìa trách nhiệm: bố trở thành anh và ông trở thành cha; trật tự này là thủ phạm gây ra thảm cảnh lăng loàn trong quan hệ: trên bảo dưới không nghe; anh bảo em để ngoài tai; mặc dù trên danh nghĩa pháp lý ông anh ( Bộ ) vẫn phải chịu trách nhiệm về ông em ( Con-Tập đoàn kinh tế)…
Điều này đã bộc lộ qua các trả lời chất vấn, giải trình trách nhiệm của Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch-Đầu tư trong phiên chất vấn của Quốc hội vừa qua. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch- Kế hoạch Đầu tư trả lời đã tham mưu hết trách nhiệm; Bộ Tài chính thì cho biết: đã thanh tra, kiểm tra, đã phát hiện, đã kiến nghị nhưng Vinashin để đấy, không tiếp thu vẫn dối trá; Còn Bộ Giao thông Vận tải qua trả lời có thể hiểu: Các vị đi mà hỏi Thủ tướng, trách nhiệm Vinashin thuộc Thủ tướng không thuộc quyền của Bộ…
Các quy chuẩn pháp lý khi thiết kế một mô hình quản trị kinh tế-xã hội nó giống như các quy định của ngành kiến trúc xây dựng khi quyết định xây một ngôi nhà; khi thiết kế một ngôi nhà, kiến trúc sư phải tính toán: cái móng phải được ép bao nhiêu chiếc cọc, ở vị trí nào, độ sâu bao nhiêu, độ dày của dầm cột được đặt loại thép gì, bao nhiêu thanh, dày mỏng như thế nào, mác xi măng bao nhiêu…
Nếu kiến trúc sư do chủ quan, do nhầm lẫn, hoặc do không đủ kiến thức chuyên sâu dẫn tới việc thiết kế sai, nhầm, bất chấp những quy tắc và nguyên tắc chịu ứng lực quy ước của các bộ phận kết cấu của ngôi nhà, tải trọng xô phá lung tung thì tất yếu sẽ dẫn tới: ngôi nhà xây lên, nó lập tức bị xiêu vẹo, nghiêng, lún, rạn vỡ xô phá lẫn nhau dẫn tới sự sụp đổ là khó tránh…
Phần lớn các bài viết về Vinashin đều tìm nguyên nhân về sự suy sụp,sự bục vỡ của từng bộ phận của “con tàu Vinashin”; sự bục vỡ này do chất lượng của các “ mảng miếng “ đầu tư kinh doanh của Vinashin không đạt yêu cầu của của thị trường: cán bộ không đủ phẩm chất năng lực, dối trá, cố ý làm trái, đầu tư sử dụng vốn dàn trải sai, vay và cho vay vô tội vạ…Do các mảng miếng kinh doanh không giống ai này, từ đó làm phát sinh sự liên kết nội tại lỏng lẻo, dẫn tới bục, vỡ, tàu Vinashin chìm? Chưa có công trình nào đi cho tới tận gốc của vấn đề: kết cấu tổng thể của tập đoàn kinh tế đứng về phương diện pháp lý là một mô hình quản trị bất cập, nếu không muốn nói là trái Hiến pháp, vi phạm luật…
Xin bắt đầu bằng QĐ91. Năm 1994 Thủ tướng (Võ Văn Kiệt ) ra đã ban hành quyết định thành lập mô hình thí điểm Tập đoàn kinh tế nhà nước. Xin trích ra đây phần căn cứ pháp lý mà Thủ tướng đã ký ban hành Quyết định 91, đó là 2 căn cứ: Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ IV, khoá IX; Căn cứ kết luận của Chính phủ tại phiên họp ngày 6 tháng 1 năm 1994…
Như vậy, cơ sở pháp lý của Quyết định 91 hết sức mỏng manh, chỉ dựa vào Nghị quyết của Quốc hội; hiện nay chúng tôi chưa tìm được nội dung của nghị quyết này. Về nguyên tắc pháp lý thì Thủ tướng muốn ban hành một quyết định, phải căn cứ vào luật; quan chức ( từ Chủ tịch nước trở xuống ) chỉ được phép làm những điều pháp luật cho phép…
Tạm bỏ qua cơ sở pháp lý của Quyết định 91, bởi do nó còn mang ý nghĩa của mô hình quản trị thí điểm, do đó nó có thể được điều chỉnh tức thì nếu phát hiện thấy sai, hỏng…
Sau thời gian thí điểm, nếu thấy mô hình quản trị này là tiên tiến là tích cực thì Thủ tướng Chính phủ phải luật hóa nó, bổ sung điều chỉnh các bộ luật liên quan và các văn bản dưới luật ( nghị định ) để đưa nó vào quy chuẩn quản lý bằng luật pháp; nhưng không ?
Sau 15 năm thí điểm, ngày 5/11/2009 Thủ tướng đã lại bàn hành một nghị định mà tên nghị định tiếp tục chứa đựng nội dung thí điểm: Nghị định 101 thí điểm thành lập, tổ chức, họa động và quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước…
Điều bất bình thường của NĐ 101 đó là: danh nghĩa là thí điểm nhưng Thủ tướng đã thành lập một lúc 11 tập đoàn kinh tế mạnh, ban hành theo quyết định này, 11 tập đoàn này đều là những tập đoàn mang ý nghĩa yết hầu kinh tế.
Không một quốc gia nào lại ban hành văn bản dưới luật thí điểm thành lập trên chục tập đoàn kinh tế khi mà luật gốc là Hiến pháp và các bộ luật có liên quan chịu trách nhiệm điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của Chính phủ và Thủ tướng chưa sửa đổi, bổ sung.
Chưa kể cái mô hình đó có thật sự đã tương thích với khả năng quản lý và độ thích ứng với cơ chế thị trường không ? Đến thời điểm ban hành NĐ101 và cho đến hiện tại, các bộ luật có liên quan chưa sửa đổi, bổ sung các điều luật để quy chuẩn mô hình quản trị tập đoàn kinh tế này; chưa cho phép Thủ tướng được ban hành loại văn bản này. Tóm lại, một số chức năng quy định trong Nghị định 11 là những chức năng, nhiệm vụ do Thủ tướng tự cơi nới cho mình, chưa được luật nào cho phép.
Xin chứng minh:
Hiến pháp 1992 quy định:
Tại Điều 109: Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Điều 114
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp; chủ toạ các phiên họp của Chính phủ;
2- Đề nghị Quốc hội thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ và các cơ quan ngang Bộ; trình Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ;
3- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
-Hiến pháp không quy định Thủ tướng ký quyết định bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc các Tập đoàn kinh tế vì các đơn vị này không thuộc thành viên của Chính phủ; thành viên của các cơ quan hành chính nhà nước ?!
Luật Văn bản Quy phạm Pháp luật, số 17/2008/QH12 ngày 03-06-2008 quy định:
Điều 14 về thẩm quyền của Thủ tướng được ban hành văn bản Nghị định của Chính phủ; văn bản này được quy định các nội dung sau:
1. Quy định chi tiết thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
2. Quy định các biện pháp cụ thể để thực hiện chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền, nghĩa vụ của công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành của Chính phủ;
3. Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác thuộc thẩm quyền của Chính phủ;
Điều 15. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được ban hành để quy định các vấn đề sau đây:1. Biện pháp lãnh đạo, điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; chế độ làm việc với các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
2. Biện pháp chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các thành viên Chính phủ; kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Luật Tổ chức Chính phủ số 32/2001/QH10 quy định tại Điều 8,Chính phủ có 11 nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Lãnh đạo công tác của các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, xây dựng và kiện toàn hệ thống bộ máy hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến cơ sở; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước;
4. Thống nhất quản lý việc xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ, các dịch vụ công; quản lý và bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân; thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; ( quản lý chứ không đứng ra tổ chức kinh doanh-PVĐ… )
7. Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước; công tác thanh tra và kiểm tra nhà nước, chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong bộ máy nhà nước; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
Điều 9
Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực kinh tế:
1. Thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; củng cố và phát triển kinh tế nhà nước, chú trọng các ngành và lĩnh vực then chốt để bảo đảm vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Quyết định chính sách cụ thể để phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa;
2. Quyết định chính sách cụ thể thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn;
3. Xây dựng dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội dài hạn, năm năm, hàng năm trình Quốc hội; chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch đó;
4. Trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước, dự kiến phân bổ ngân sách trung ương và mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương, tổng quyết toán ngân sách nhà nước hàng năm; tổ chức và điều hành thực hiện ngân sách nhà nước được Quốc hội quyết định;
5. Quyết định chính sách cụ thể, các biện pháp về tài chính, tiền tệ, tiền lương, giá cả;
6. Thống nhất quản lý và sử dụng có hiệu quả tài sản thuộc sở hữu toàn dân, tài nguyên quốc gia; thi hành chính sách tiết kiệm; thực hiện chức năng chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật;
9. Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước.
Điều 20
Thủ tướng Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp:
a) Quyết định các chủ trương, biện pháp cần thiết để lãnh đạo và điều hành hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở;
b) Chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật trình Quốc hội, các dự án pháp lệnh trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội; các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ;
5. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng và chức vụ tương đương; phê chuẩn việc bầu cử các thành viên Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; miễn nhiệm, điều động, cách chức Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
6. Quyết định các biện pháp cải tiến lề lối làm việc, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước, đề cao kỷ luật, ngăn ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong bộ máy và trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước;
Nếu căn cứ vào các nội dung đã ban hành trong Hiến pháp 1992, Luật Văn bản Quy phạm Pháp luật, số 17/2008/QH12 ngày 03-06-2008; Luật Tổ chức Chính phủ thì NĐ 101 là một “đứa con hoang” bởi các bất cập pháp lý. Điều này thể hiện qua các nội dung được ban hành trong NĐ101 trái với chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và Thủ tướng đã được luật định trong Hiến pháp 1992 và các bộ luật đã nêu trên.
Đó là các nội dung:
Điều 9. Phương thức thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước trên cơ sở các tổng công ty, công ty nhà nước đủ điều kiện quy định tại Điều 10 Nghị định này.
Điều 11. Trình tự, thủ tục xây dựng và triển khai Đề án thành lập, phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước
1. Cho phép xây dựng Đề án: căn cứ quy định của Chính phủ về ngành, lĩnh vực thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước, Thủ tướng Chính phủ quyết định cơ quan hoặc tổ chức xây dựng Đề án thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước.
2. Xây dựng, trình Đề án: cơ quan hoặc tổ chức được Thủ tướng Chính phủ giao xây dựng Đề án thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước có trách nhiệm tổ chức xây dựng Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước; lấy ý kiến của các Bộ quy định tại điểm d khoản này; trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hồ sơ Đề án trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bao gồm:
a) Tờ trình về Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước;
b) Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước
Đề án gồm các nội dung cơ bản sau đây: sự cần thiết, mục đích thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước; thực trạng tổ chức, quản lý và hoạt động của tổng công ty nhà nước, cơ cấu các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết; phương thức xây dựng, duy trì và phát triển các hình thức liên kết giữa tổng công ty, công ty mẹ với các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết và giữa các doanh nghiệp thành viên, doanh nghiệp liên kết; phương thức hình thành công ty mẹ; hình thức pháp lý, tên gọi, cơ cấu tổ chức và quản lý của công ty mẹ; tên gọi, hình thức pháp lý, cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp thành viên; ngành nghề kinh doanh chính và ngành nghề có liên quan; cơ cấu đầu tư vào các ngành nghề kinh doanh chính, ngành nghề có liên quan và không liên quan trong tập đoàn kinh tế nhà nước; phương án sử dụng, phát triển nguồn nhân lực lãnh đạo quản lý tại công ty mẹ; nguồn nhân lực thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu công ty mẹ tại các doanh nghiệp thành viên; phương án sắp xếp, sử dụng nguồn nhân lực; phương án hoạt động kinh doanh của tập đoàn kinh tế nhà nước sau khi thành lập; định hướng chiến lược phát triển dài hạn của tập đoàn; tổ chức, quản lý, điều hành trong tập đoàn kinh tế nhà nước; đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước; đề xuất với chủ sở hữu nhà nước trong hình thành tập đoàn kinh tế; kế hoạch và lộ trình chuyển đổi, hình thành tập đoàn;
c) Dự thảo Điều lệ công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước;
d) Ý kiến về Đề án của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ quản lý ngành (trong trường hợp cơ quan trình Đề án là Tổng công ty do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập), Bộ Nội vụ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
3. Phê duyệt Đề án: Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định phê duyệt Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước. Quyết định phê duyệt Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước phải quy định rõ nội dung giám sát thực hiện Đề án và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân giám sát thực hiện Đề án, giải quyết các vướng mắc phát sinh và việc điều chỉnh Đề án (nếu cần).
4. Triển khai thực hiện Đề án thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước:
a) Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập công ty mẹ; bổ nhiệm Chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị công ty mẹ;
b) Hội đồng quản trị công ty mẹ trực tiếp chịu trách nhiệm triển khai thực hiện Đề án; phát triển các hình thức liên kết trong nhóm công ty mẹ – công ty con, giữa các doanh nghiệp thành viên trong quá trình triển khai thực hiện Đề án và hoạt động của tập đoàn kinh tế.
Toàn bộ nội dung đã ghi tại Điều 11, NĐ 101 thuộc về chức năng điều hành sản xuất kinh doanh; mà Thủ tướng là người đứng đầu bộ máy hành chính chứ không phải là người đứng đầu bộ máy điều hành sản xuất kinh doanh. Nói theo ngôn ngữ thể thao: Thủ tướng đã đã lộn sân; đáng lẽ vị trí của Thủ tướng là ngồi ở cầu môn nhà giữ gôn, thế nhưng vì máu ăn thua, máu làm giàu nhanh nên Thủ tướng lại xông lên tham gia tấn công như một tiền đạo, để gôn ( quản lý hành chính, nhà nước) bị bỏ ngỏ, sơ hở…
Qua các dẫn chứng và các cơ sở pháp lý đã nêu cho thấy: mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập theo NĐ101 là một mô hình tổ chức không nằm trong khuôn khổ Hiến pháp 1992, Luật Văn bản quy phạm pháp luật và Luật Tổ chức chính phủ. Vì những sự trái ngoe này nên dẫn tới những hệ lụy như đã thấy ở Vinashin và chúng tác giả sẽ phân tích dẫn chứng vào bài sau !
P.V.Đ.
( Còn nữa )
Phần nhận xét hiển thị trên trang

'ĐH Việt đang dạy nhiều kiến thức cách đây 60 năm'


05/04/2016 - Giải thưởng “Vì sự nghiệp Văn hoá và Giáo dục” năm 2016 của Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh đã được trao cho Giáo sư Pierre Darriulat và Giáo sư Trịnh Xuân Thuận. Trong diễn từ nhận giải, GS. Pierre Darriulat dành một phần lớn để nói về những vấn đề của giáo dục ĐH Việt Nam hiện nay.
Giáo sư Pierre Darriulat tại lễ trao giải (Ảnh: Trâm Anh)
Lãng phí 4, 5 năm cho những bài giảng cách xa hàng dặm
GS. Pierre Darriulat nhận xét: “ĐH của chúng ta được mô hình hoá như những ĐH ở các nước phát triển cách đây 50 năm. Tuy nhiên, 50 năm đã qua và chúng ta là một đất nước vẫn đang đấu tranh để phát triển sau nhiều thập kỷ chiến tranh và đói kém với những vết thương vẫn chưa lành”.
Theo ông, “chúng ta phải xem xét lại cần loại ĐH nào để phục vụ tốt nhất cho lợi ích dân tộc. Chúng ta phải chú trọng hơn nữa đến hướng nghiệp. Chúng ta cần phải làm rõ, để phát triển phải cần bao nhiêu công nhân, kỹ thuật viên và kỹ sư; cũng như vậy, phải xác định sự cân bằng tỉ lệ giữa các ngành nghề như thế nào: cần bao nhiêu bác sĩ, bao nhiêu y tá, bao nhiêu kiến trúc sư, bao nhiêu giáo viên và bao nhiêu nông dân”.
Ông nhìn nhận rằng ngày nay, rất nhiều sinh viên ĐH phải lãng phí 4 - 5 năm quý giá nhất cuộc đời mình để nghe những bài giảng mà chất lượng của nó cách xa hàng dặm so với những gì mà họ đáng được học.
“Trong nhiều lớp vật lý hạt nhân, nhiều kiến thức lạc hậu mà tôi đã học cách đây 60 năm khi còn là sinh viên vẫn đang được giảng dạy. Trong hơn hai mươi năm qua, chúng ta vẫn chưa thể để đào tạo ra được một nhóm các kỹ sư, nhà khoa học những người có thể làm chủ được việc xây dựng, vận hành, khai thác và bảo dưỡng nhà máy điện hạt nhân mà chúng ta sẽ xây dựng trong tương lai”.
Chưa xác định kỹ năng cần cho đất nước
"Những gì tôi nói không phải là mới, mà chủ yếu là những nhận thức chung và sự can cảm đối mặt với sự thật"
Điều khiến ông rất trăn trở là “Ngày nay, chúng ta đang đào tạo quá nhiều sinh viên cho khu vực thứ ba như tiếp thị, ngân hàng, quản lý - những cái tên mỹ miều thường giấu đi sự thật là nguồn cung cấp lao động giá rẻ từ những nước đang phát triển cho toàn cầu hóa dưới hình thức kinh tế thị trường”.
GS. Pierre Darriulat cho rằng “Trước khi dạy tiếp thị, chúng ta nên dạy cách tạo ra những sản phẩm có thể cần tiếp thị; trước khi dạy quản lý, chúng ta nên dạy những kỹ năng, mà tương lai sẽ cần phải quản lý. Nếu không chúng ta sẽ chỉ tạo ra các nhà quản lý, những người sẽ không có ai để quản lý ngoài bản thân họ”.
Bên cạnh đó, “Chúng ta đang tiêu tốn nhiều tiền của gửi con em mình đi học ở nước ngoài để kiếm những tấm bằng thạc sĩ hoặc tiến sĩ.Nhưng chúng ta chưa xác định rõ những kỹ năng nào cần phải học hỏi cho đất nước” - GS. Pierre Darriulat bình luận.
Cũng theo ông, “Chúng ta chưa nỗ lực đủ mạnh trong việc tận dụng những kiến thức những du học sinh thu nhận được khi trở về nước. Vì vậy, nhiều đầu tư của nhà nước cho công tác đào tạo ngoài nước chỉ đơn giản là bị lãng phí. Tệ hơn nữa, nó tạo điều kiện thuận lợi cho nạn chảy máu chất xám tai hại cho đất nước”.
Ông nhấn mạnh “Không có lý do gì để ta tiếp tục lãng phí nhiều tiền của như vậy vào việc gửi người ra nước ngoài và duy trì mức chảy máu chất xám quá cao. Dành số tiền này để hỗ trợ cho những người trong nước với quyết tâm thay đổi sẽ tốt hơn nhiều”.
Cần chọn người trên cơ sở duy nhất là tài năng
Thay đổi cung cách làm việc là điều mà GS. Pierre Darriulat đề nghị. “Chúng ta nên chọn nhân sự một cách nghiêm túc hơn dựa trên cơ sở duy nhất là tài năng để có thể chọn ra được những người có năng lực; chúng ta nên tạo điều kiện, cả về tiền lương và môi trường làm việc, để thu hút họ.
Chúng ta phải có một chính sách phát triển dài hạn, được quảng bá rõ ràng, để cho họ cảm thấy những hành động của mình nằm trong đó, tạo cho họ niềm tin vào sự hỗ trợ dài hạn, cho họ cơ sở để tự hào về những thành tựu đạt được, đem lại cho họ cảm giác được phục vụ một đất nước mà đóng góp của họ được ghi nhận”.
giáo dục đại học, giáo dục đại học Việt Nam, Phan Châu Trinh
Giáo sư Pierre Darriulat cùng các thành viên trong nhóm đang làm việc
(Ảnh: TL)
Với một thế giới quanh ta đang liên tục thay đổi với tốc độ thay đổi nhanh hơn nhiều so với trước đây, theo vị GS này, “Chúng ta cần phải đào tạo nên những công dân trẻ có trách nhiệm, những người nhìn ra thế giới với con mắt mở rộng, những người có chính kiến, có thể thích ứng nhanh với môi trường mới.
Chúng ta cần phải đào tạo nên những công dân trẻ có trách nhiệm, những người có thể bác bỏ những học thuyết và giáo điều, những người có khả năng chiến đấu chống lại sự trì trệ, quan liêu và bảo thủ, những người biết nổi giận khi chứng kiến những điều chướng tai gai mắt đi ngược với đạo đức xã hội.
Chúng ta cần phải đào tạo nên những công dân trẻ có trách nhiệm, những người có thể thay đổi những luật lệ điều hành xã hội khi thế giới quanh ta đòi hỏi, họ phải là những người không chỉ đơn giản áp dụng một cách mù quáng những quy tắc lỗi thời là nguyên nhân của sự xơ cứng và tê liệt của xã hội”.
Những đòi hỏi để thay đổi cung cách để tiến bộ, theo ông, đó là “Gây dựng lại sự nghiêm ngặt đạo đức, tri thức và sự chuyên nghiệp trong thói quen và công việc”.
Đó còn là “Khôi phục lại sự tôn trọng tri thức, liêm chính và vì lợi ích tập thể hơn lợi ích cá nhân”.
Ông nhận định :Thất bại trong việc khôi phục những giá trị này đồng nghĩa với việc không thể mở cửa đất nước để phát triển”.
Văn hóa không có nghĩa là bảo thủ, cũng không có nghĩa là loại trừ, mà theo ông nó có nghĩa là tiến bộ và khoan dung.
“Chúng ta phải cảm thấy rằng đấu tranh cho sự phục hồi những giá trị tri thức và đạo đức là góp phần đề cao phẩm giá con người. Chúng ta phải cảm thấy có trách nhiệm trong việc thúc đẩy tạo nên một nền khoa học không biên giới”.
Giới trẻ phải chiến thắng trong hòa bình
"Động lực duy nhất của tôi là được chứng kiến đất nước này trao cho họ những cơ hội mà tài năng và sự hào phóng của họ xứng đáng có được"
“Để thành công, chúng ta cần phải tin tưởng vào thế hệ trẻ nhiều hơn nhiều so hiện nay” – GS. Pierre Darriulat khẳng định.
Ông phân tích “Chúng ta cần phải dựa vào sự nhiệt tình, năng lượng, tài năng, sự hào phóng, niềm tin của họ vào tương lai mà ở đó họ là những nhân vật chính. Chúng ta cần phải trao cho họ cơ hội để mang lại cho đất nước nguồn không khí trong lành mà chúng ta rất cần để thở sâu hơn.
Chúng ta cần phải trao cho họ cơ hội để thay đổi mọi thứ trở nên thứ tốt đẹp hơn, động viên họ chủ động đóng góp công sức của mình cho sự tiến bộ và phát triển của dân tộc. Tương lai của đất nước nằm trong tay họ, những bàn tay của thế hệ Đổi Mới”.
Giới trẻ, theo ông, đã không phải chịu đựng những cuộc chiến tranh, đói khổ, những nỗi đau, nỗi buồn, sự áp bức mà cha mẹ và ông bà họ đã phải chịu đựng. Họ được thừa hưởng từ ông bà cha mẹ độc lập và tự do.
“Mục tiêu của họ không còn là chiến thắng trong những cuộc chiến tranh mà là chiến thắng trong hòa bình. Sự nghiệp đó cũng cao quý như sự nghiệp mà các bậc cha mẹ và ông bà của họ đã từng chiến đấu. Điều đó vừa cao quý nhưng cũng đồng thời là thử thách.
Chúng ta phải làm hết sức mình để ủng hộ và động viên họ thực hiện nhiệm vụ; trang bị cho họ những công cụ giúp họ vượt qua những khó khăn trở ngại trong tương lai”.
Pierre Darriulat là một tên tuổi lớn trong lĩnh vực hạt nhân và vật lý thiên văn, viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Pháp từ 1986, giám đốc khoa học Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân Châu Âu từ 1987 - 1994.
Theo giới thiệu của nhà văn Nguyên Ngọc thì cuối năm 1999, sau khi nghỉ hưu GS Pierre Darriulat sang định cư ở Hà Nội cùng người vợ Việt Nam, dành gần hết thời gian và công sức giúp đỡ xây dựng và phát triển vật lý thiên văn ở Việt Nam.
Đặc biệt, với những thiết bị tự mua sắm bằng tiền túi hoặc tự tạo bằng nhiều cách, ông thành lập Phòng thí nghiệm tia vũ trụ Vietnam – Auger ở Viện Khoa học và Kỹ thuật Hạt nhân Việt Nam, đặt ngay trên nóc nhà trụ sở của Viện; đã hoạt động hiệu quả nhiều năm nay như một thành viên của Dự án thí nghiệm quốc tế Pierre Auger săn tìm các tia vũ trụ năng lượng siêu cao.
Ông sống giản dị, khiêm tốn, say mê nghiên cứu và hướng dẫn nghiên cứu, thương yêu chăm sóc tận tình các học trò của mình, đồng thời quan tâm thiết tha đến mọi mặt đời sống, nhất là về khoa học và giáo dục, ở đất nước mà ông đã gắn bó như một tổ quốc thứ hai.
Tự ông nêu một tấm gương sáng về người thầy trong một nền giáo dục mà chúng ta cần có.
Ông đặc biệt quan tâm đến những người trẻ, một mặt cổ vũ cho thế hệ trẻ được mạnh dạn giao phó trách nhiệm xứng đáng từ sớm, mặt khác luôn nhắc nhở họ “biết trọng trí tuệ hơn tiền bạc, quyền lực, và nhớ rằng sự giàu có của một đất nước chủ yếu là ở bàn tay và khối óc chứ không phải ở két sắt của các ngân hàng, là ở những sản phẩm làm ra hơn là những kỹ năng tiếp thị, rằng sự giàu có ấy chủ yếu nhờ những giọt mồ hôi của người lao động hơn là những quy định có khi ngớ ngẩn đặt ra bởi những người, những cơ quan quản lý thiếu chuyên nghiệp”.
Người chuyển dịch bài Diễn từ của GS Pierre Darriulat là ông Phạm Ngọc Diệp.
Ngân Anh lược thuật
http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/297352/dh-viet-dang-day-nhieu-kien-thuc-cach-day-60-nam.html
Phần nhận xét hiển thị trên trang

ỐNG NƯỚC SÔNG ĐÀ: XIN ĐỪNG “VÔ Ý”LẦN NỮA!


Nguyễn Quang Thân
Cái duyên nợ này không phải bây giờ mới có. Cũng chẳng phải bây giờ mới tỏ mặt nhau. Với Trung Quốc, hai ngàn năm có lẻ, không ai lạ ai. Là láng giềng, cũng từng là thuộc quốc ngàn năm. Là hữu nghị lúc này lúc khác nhưng cũng đã có 13 cuộc chiến tranh mà kẻ bành trướng có mưu đồ thôn tính đều chịu thất bại trước một dân tộc anh hùng.
Gần đây, trong cuộc hội nhập kinh tế, hai nước lại có quan hệ làm ăn, buôn bán phát triển chưa từng có trong lịch sử. Dấu ấn là sự lép vế của người láng giềng nghèo: mỗi năm nhập siêu từ ông bạn khổng lồ hàng chục tỷ đô la, nói như dân miền Nam, đưa vàng đi đổ sông Ngô, đau thấy mồ mà không biết nói sao! Đó là chưa kể những công trình được đấu thầu đúng quy trình hẳn hoi nhưng kẻ thắng thầu (nghe nói họ thắng đến 90% các gói thầu lớn trên đất nước) có truyền thống nói một đàng, ký một đàng mà làm một nẻo, dây dưa, cù nhầy và nhiều sơ suất kỹ thuật. Chuyện một ông Bộ trưởng của ta phải chỉ mặt nhà thầu vì để xẩy ra tai nạn tuyến đường sắt trên cao giữa thủ đô, chỉ là một trong nhiều vụ “dây dưa”, giọt nước làm tràn cốc nước mà thôi.
Nói cho công bằng, không phải chúng ta đang làm ăn với một kẻ xa lạ, cha vơ chú váo nào. Mà với một đối tác có chiều dài lịch sử ngàn năm, từ nỏ thần Cổ Loa đến đường sắt trên cao, nếm đủ mùi cay đắng. Nói chưa hiểu nhau là khó chấp nhận. Thời hội nhập, mọi đối tác bất kể từ quốc gia nào đều phải tuân thủ luật pháp và thông lệ quốc tế, minh bạch, sòng phẳng, coi trọng quyền lợi của nhau thì cả hai bên hay nhiều bên đều dễ làm ăn. Thân hay sơ không còn là vấn đề. Thế kỷ hai mốt không còn đất cho mẹo Khổng Minh hay mánh Chu Du trong làm ăn.
Dự án Sông Đà 2 chỉ là một đường ống nước chưa đến nửa tỷ đô la, kỹ thuật lại đơn giản và xưa như trái đất. Về quy mô, giá trị, kỹ thuật không có gì đáng nói. Nhưng tại sao, khi vừa lộ thông tin nhà thầu TQ thắng cuộc lại gây nên một cơn bão trên dư luận đến thế?
Câu trả lời luôn và ngay: dư luận sôi lên, muốn soi thật sâu thật kỹ là do hai phía đối tác đều có vấn đề: cả chủ đầu tư lẫn nhà thầu!
Cái TCT Vinaconex này đã tự chứng minh khả năng, trình độ, cả lương tâm của mình không phải “quá tam ba bận” mà là 17 bận vỡ đường ống nước mà họ là chủ đầu tư, gây không biết bao nhiêu khổ sở, khó khăn cho dân thủ đô và làm sứt mẻ không ít niềm tin vào chính họ và cấp trên của họ. Cái khó hiểu là lại họ chứ không phải ai khác, lần nữa được “tín nhiệm” làm chủ đầu tư đường ống nước số 2, lớn hơn, quan trọng hơn vì nó cung cấp nước cho ba triệu rưỡi tức gần một nửa dân số Hà Nội! Dân hoàn toàn có quyền lăn tăn: liệu những người đã có “17 tiền sự” này cầm tiền nhà nước (tức tiền thuế của dân) đi xây đường ống có đủ khả năng, trình độ và lương tâm trong sáng? Chính họ đã một lần chứng minh rồi sao? Liệu những người này, sẽ có “vô ý” chọn phải nhà thầu và thứ vật liệu gây tai họa như họ đã làm trước đây? Mà mấy bác Hà Nội cũng dễ tính thật (hay nhẹ dạ? hay vì lý do nào khác). Một anh nhân viên lỡ tham ô hay thiếu trách nhiệm gây hậu quả vài triệu bạc có thể bị xử, bị coi là có tiền án và bị cấm làm việc gì liên quan đến tiền vài ba năm là ít. Vậy mà một TCT bị vỡ 17 lần ống nước lại được giao làm tiếp ngay và luôn dự án tương tự, quan trọng gấp nhiều lần! Đó không phải là một câu hỏi mà dân khó bỏ qua sao?
Rồi nữa, nhà thầu. Đây là một nhà thầu Trung Quốc, có thể họ chưa làm nhiều công trình ở nước ta nhưng “nhà thầu Trung Quốc” đã thành một thành ngữ hàm ngôn: giá rẻ bất ngờ lúc đầu và sẵn sàng đội giá nhiều lần về sau, dây dưa thời gian thi công, nhồi nhét tìm việc cho lao động phổ thông TQ tràn sang với nhiều lý do tự đặt ra, quy trình công nghệ luôn có vấn đề, lạc hậu mà boxit Tây Nguyên, nhiều nhà máy nhiệt điện gây ô nhiễm là một minh chứng khó cãi. Một kiểu nhà thầu chưa được chứng minh bằng việc làm thực tế như thế trên đất nước, chỉ căn cứ vào hồ sơ đấu thầu trên giấy, lại hội tủ đủ tín nhiệm để giao cho họ một công trình quan trọng như vậy được sao? Vả lại, theo một nhà đầu tư bị loại trong dự án này (liên doanh Ấn Việt) thì cách mở gói thầu, loại và chọn nhà thầu thắng cuộc đang có những vấn đề chưa rõ ràng. Đầu tiên là cách loại nhà thầu. "Chúng tôi rất thất vọng với cách chủ đầu tư đã loại nhà thầu. Điều này ít nhiều tạo ra môi trường thiếu cạnh tranh. Tôi cũng không thấy sự minh bạch, rõ ràng trong suốt quá trình đấu thầu. Tôi có cảm giác các nhà thầu khác đã bị loại bỏ hoặc phải tự bỏ cuộc để duy nhất một công ty thắng thầu"- nhà đầu tư Ấn giấu tên nói với báo Dân Việt. Sau khi có quyết định chọn CTy thắng thầu, ông này còn nói thẳng “Tôi (quá bất ngờ) không hiểu chuyện gì đang diễn ra!” (báo trên). Chúng ta chưa thể kết luận có sự minh bạch hay không của gói thầu này, thực ra việc này cũng như mọi sự kém minh bạch khác sẽ rất khó phanh phui, tìm phải trái. Nhưng ý kiến không thoải mái của nhà kinh doanh thua thầu nói trên rất đáng cho nhiều cơ quan có trách nhiệm vào cuộc và dư luận báo chí theo dõi.
Nhưng vấn đề chính yếu nhât không phải nằm trong những điểm nói trên. Một công trình dẫn nước đơn giản ư? Thưa không! Đó là công trình có tuổi thọ hàng trăm năm quyết định nước ăn uống hàng ngày cho ba triệu rưỡi và hàng chục thế hệ con cháu người Hà Nội tương lai. Vinaconex như đã quên mình là ai, tài cán mình như thế nào sau 17 vụ đường ống nước, quả quyết rằng họ sẽ kiểm tra ống gang dẻo xem có chì, có chất phóng xạ hay không rồi mới cho dùng. Liệu sự kiểm tra có khả thi không nếu ai đó có những mưu ma chước quỷ? Và thế là, hàng trăm năm, hàng triệu dân Hà Nội và con cháu nhiều đời của họ phải dùng nước từ một đường ông nước do những người “bạn” mà họ mà họ hiểu rất rõ tâm địa, thường chỉ “kính nhi viễn chi” trong lịch sử ngàn năm? Vậy là, đây không chỉ là một đường ống dẫn nước nữa rồi! Cũng không phải là một dự án thuần túy dân sinh hay kinh tế nữa rồi. Nó lớn hơn, quan trọng hơn và bao trùm hơn với thời gian và lịch sử. Nó đòi hỏi sự xem xét gói thầu theo nhiều góc độ quan trọng hơn cái “giá rẻ” made in China mà chúng ta và cả thế giới đã biết rõ từ lâu.
Tôi không biết ai là người sẽ có quyết định cuối cùng về dự án thật sự nhạy cảm này. Nhưng tôi bái phục cái lá gan của họ khi họ dám đối mặt với lịch sử và sự tồn vong, sức khỏe, an toàn của hàng triệu người dân thủ đô, bây giờ và hàng trăm năm về sau. Nõ thần đã một lần “vô ý” trao tay giặc (thơ Tố Hữu), xin đừng “vô ý” lần thứ hai!
(Dân Việt 05/04/2016)
Tôi bái phục cái lá gan của họ khi dám đối mặt với lịch sử và coi khinh sự tồn vong, sức khỏe, an toàn của hàng triệu người dân thủ đô, bây giờ và hàng trăm năm về sau.
M.DANVIET.VN|BỞI DANVIET.VN
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Từ 1/7, Việt Nam sẽ bỏ tù người sản xuất – kinh doanh chất cấm, thay vì chỉ phạt 10 triệu đồng


Từ 1/7/2016, bên cạnh việc phạt tiền cao gấp 10 lần, Việt Nam cũng sẽ bỏ tù người sản xuất – kinh doanh chất cấm từ 1 – 20 năm, tùy mức độ nghiêm trọng của vụ việc.

Từ 1/7, Việt Nam sẽ bỏ tù người sản xuất – kinh doanh chất cấm, thay vì chỉ phạt 10 triệu đồng
Ảnh minh họa.
Một tin vui với người dân là người có hành vi sản xuất, kinh doanh, tàng trữ, sử dụng chất cấm sẽ bị bỏ tù theo Bộ Luật hình sự mới được Quốc hội thông qua cuối năm 2015, có hiệu lực từ 1/7/2016.
Theo đó, người sử dụng chất cấm trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm hoặc bán, cung cấp thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm có sử dụng chất cấm sẽ bị phạt tiền từ 50 – 200 triệu đồng, hoặc phạt tù từ 1 – 5 năm.
“Nếu hành vi trên gây hậu quả nặng hơn, làm chết 1 người sẽ bị phạt 200 - 500 triệu đồng, phạt tù 3 - 7 năm. Chết 2 người phạt tù đến 15 năm, và làm chết 3 người trở lên phạt tù đến 20 năm”, ông Nguyễn Văn Việt – Thanh tra Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - cho biết tại Diễn đàn Khuyến nông – nông nghiệp diễn ra sáng 5/4.
“Tôi nghĩ sau 1/7, bất cứ tổ chức cá nhân nào khi sản xuất, kinh doanh, tàng trữ, sử dụng chất cấm sẽ cân nhắc hơn, sẽ không đáng vì lợi nhuận để ngồi tù”, ông Việt bình luận.
Theo quy định trước đó, các hành vi sử dụng chất cấm chỉ bị phạt tiền ở mức rất dè dặt theo Nghị định số 19/2013/NĐ-CP ngày 9/10/2013 của Chính phủ.
Cụ thể, hành vi sử dụng chất cấm trong chăn nuôi nông hộ chỉ bị phạt 5 – 10 triệu đồng, trong chăn nuôi trang trại bị phạt 10 – 20 triệu đồng.
Đối với hành vi kinh doanh chất cấm sử dụng trong Danh mục cấm sử dụng tại Việt Nam thì phạt tiền từ 9 – 10 triệu đồng đối với hành vi vi phạm kinh doanh mỗi loại thuốc thú ý.
Khoản phạt này còn ít hơn cả tiền lãi kinh doanh 1 kg chất tạo nạc giúp lợn “bung đùi, nở vai” Salbutamol - chất cấm gây ung thư đã được nhập tới 9 tấn vào Việt Nam.
Trong khi đó, dù thanh tra Bộ có phát hiện các lò mổ, hay trang trại chăn nuôi có sử dụng chất cấm, cũng không có chế tài để tiêu hủy số lợn đã ngậm chất cấm.
"Nhưng theo Thông tư mới của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, trong tháng 4 nếu phát hiện lò mổ giết mổ gia súc có sử dụng chất cấm, chúng tôi có thể tiêu hủy được. Nhưng với trang trại chăn nuôi thì hơi khó...", ông Việt nói.
Theo quy định hiện hành, với trang trại chăn nuôi vi phạm lần đầu, số gia súc ngậm chất cấm sẽ được để nuôi, đợi đến khi hết chất cấm sẽ đưa vào tiêu thụ.
Bảo Bảo
Theo Trí Thức Trẻ
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mất trắng hàng chục ngàn tỉ vì dùng công nghệ Trung Quốc


HÀ NỘI - Việt Nam hiện có bảy nhà máy sản xuất ethanol (một loại cồn chiết xuất từ khoai mì để pha vào xăng, tạo thành xăng sinh học) đã ngưng hoạt động vì sử dụng công nghệ của Trung Quốc. Tuần trước, báo chí Việt Nam cho biết, ngoài 1,900 tỉ đồng đã chi cho dự án xây dựng nhà máy Bio Ethanol Dung Quất và nay coi như mất trắng, mỗi tháng, nhà máy Bio Ethanol Dung Quất đang ngốn thêm hai tỉ nữa dù đã tạm ngưng hoạt động.

Một góc nhà máy Bio Ethanolo Dung Quất. (Hình: Dân Trí)
Lý do chính khiến nhà máy Bio Ethanol Dung Quất, tọa lạc tại Quảng Ngãi phải ngưng hoạt động vì sản phẩm có giá thành quá cao. Nhà máy này bắt đầu vận hành vào tháng 2 năm 2012 và chưa bao giờ có lời mà còn lỗ nặng vì chi phí quá lớn, giá thành của sản phẩm cao hơn giá bán trung bình của sản phẩm cùng loại trên thị trường tới 2,000 đồng một lít.


Bởi càng sản xuất càng lỗ, kể từ tháng 4 năm ngoái đến nay, nhà máy Bio Ethanol Dung Quất đã ngưng hoạt động. Ðáng nói là trong 12 tháng vừa qua, mỗi tháng, công quỹ Việt Nam mất thêm hai tỉ đồng để trả lãi và chi phí bảo trì.

Nói cách khác, ngoài 1,900 tỉ vốn đầu tư, tổng thiệt hại trong 12 tháng vừa qua là 48 tỉ đồng và mức độ thiệt hại sẽ còn tiếp tục tăng.

Tuy nhiên Việt Nam không chỉ có một nhà máy sản xuất ethanol như nhà máy Bio Ethanol Dung Quất, ngoài nhà máy Bio Ethanol Dung Quất, Việt Nam hiện có sáu nhà máy tương tự. Sáu nhà máy này giống hệt nhà máy Bio Ethanol Dung Quất ở chỗ, sau khi ngốn rất nhiều tiền đều đã ngưng hoạt động vì càng hoạt động thì mức độ thua lỗ càng lớn.

Trong báo cáo mới nhất liên quan đến các nhà máy sản xuất ethanol tại Việt Nam, Bộ Công Thương Việt Nam giải thích, lý do có tới bảy nhà máy sản xuất ethanol tại Việt Nam ngưng hoạt động là vì sử dụng công nghệ Trung Quốc.

Bốn trong số bảy nhà máy sản xuất ethanol đã ngưng hoạt động sử dụng 100% cả công nghệ lẫn thiết bị của Trung Quốc. Ba trong số bảy nhà máy còn lại tuy có sử dụng công nghệ của một số quốc gia khác nhưng thiết bị vẫn là của Trung Quốc. Sau khi khánh thành, thời gian vận hành của cả bảy nhà máy chỉ khoảng một hoặc hai năm rồi đóng cửa.

Tại sao trong khi có rất nhiều quốc gia đã và đang tăng mức độ sử dụng xăng sinh học (xăng pha ethanol) trong sinh hoạt xã hội thì các nhà máy sản xuất cồn ethanol (để pha vào xăng thường, tạo thành xăng sinh học) tại Việt Nam lại lại phải ngưng hoạt động?

Bộ Công Thương của Việt Nam trả lời, đó là do công nghệ hoặc thiết bị mà những nhà máy này sử dụng đều thuộc loại lạc hậu, Trung Quốc không sử dụng nữa mới bán lại cho Việt Nam. Ngoài yếu tố giá thành cao, ethanol do những nhà máy này sản xuất ra không đủ chất lượng để pha vào xăng thường, tạo thành xăng sinh học. (G.Ð)

Người Việt

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=225590&zoneid=1

Phần nhận xét hiển thị trên trang