Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 4 tháng 4, 2016

Mọi điều bạn tưởng bạn biết về sự sụp đổ của Liên Xô là sai lầm


Phạm Duy Hiển


(Và vì sao việc này trở nên quan trọng trong một thời đại cách mạng như hiện nay)

Leon Aron

Trần Ngọc Cư dịch
Liên Xô

Trước sụp đổ đột ngột của Liên Xô vào cuối thế kỷ trước, phần lớn các nhà nghiên cứu và các chính trị gia phương Tây đều rất ngỡ ngàng và thậm chí đưa ra nhiều lý do không thích đáng. Theo cách lý giải của Tiến sĩ Leon Aron, Giám đốc Ban Nga học tại Viện Nghiên cứu Chính sách American Enterprise Institute, Liên Xô sụp đổ chủ yếu vì những lý do đạo lý hơn là kinh tế và quân sự. Rõ ràng là có một sự đồng thuận về đạo lý giữa hai thế lực tác động cách mạng. Một bên là những nhà lãnh đạo Xô-viết có lương tri, đại biểu là Gorbachev và nhóm cộng sự của ông, và bên kia là lực lượng trí thức dù là ở ngoài Điện Cẩm Linh nhưng rất phấn khởi và nhiệt liệt hậu thuẫn chủ trương glasnost và perestroika do Gorbachev đề xuất. Sự đồng thuận này có thể được diễn tả bằng câu nói của Alexandr Yakolev, Đại sứ Liên Xô tại Canada từ 1973 đến 1983:

“Đủ lắm rồi! Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa. Mọi việc phải được thực hiện theo một đường lối mới. Chúng ta phải xét lại tư duy, đường lối, quan điểm về quá khứ và tương lai của chúng ta… Có một sự đồng thuận ngấm ngầm: giản dị là, chúng ta không thể tiếp tục sống như chúng ta đã sống trước đây – một cách nhục nhã, ngoài mức chịu đựng”.

Mọi cuộc cách mạng đều tạo ra kinh ngạc. Tuy vậy, cuộc Cách mạng Nga gần đây nhất phải được kể là một trong những kinh ngạc lớn nhất. Trong những năm trước 1991, gần như không một chuyên gia, học giả, viên chức chính quyền, hay chính trị gia phương Tây nào thấy trước được sự sụp đổ sắp xảy ra của Liên Xô, và kéo theo nó một chế độ độc tài độc đảng, một nền kinh tế do nhà nước làm chủ, và cả sự kiểm soát của Điện Cẩm Linh đối với đế quốc Liên Xô và Đông Âu. Với một ngoại lệ duy nhất, tất cả những nhà bất đồng chính kiến Xô-viết cũng như chính những nhà cách mạng tương lai – nếu ta xét qua hồi ký của họ – cũng không tiên đoán được sự kiện này. Khi Mikhail Gorbachev trở thành Tổng bí thư Đảng Cộng sản vào tháng Ba năm 1985, không một nhân vật đồng thời nào của ông dự kiến một cuộc khủng hoảng có thể dẫn đến cách mạng. Mặc dù người ta không đồng ý nhau về tầm mức nghiêm trọng của những vấn đề nội tại trong chế độ Xô-viết, nhưng không ai coi những vấn đề này là đang đe dọa sinh mệnh của chế độ, chí ít trong tương lai gần.
Mikhail Sergeyevich Gorbachyov (1931)

Vậy, do đâu mà có sự thiển cận đều khắp lạ lùng đến thế? Việc các chuyên gia phương Tây không tiên liệu được sự sụp đổ của Liên Xô một phần là do sử quan xét lại (historical revisionism) – tạm gọi là khuynh hướng bài chủ nghĩa chống cộng (anti-anti-communism) – một khuynh hướng phóng đại sự ổn định và tính chính danh của chế độ Xô-viết. Tuy nhiên, một số nhân vật khác vốn không được coi là mềm dẻo đối với chế độ cộng sản cũng không kém kinh ngạc trước sự cáo chung của chế độ này. Một trong những người thiết kế chiến lược Mỹ trong thời Chiến tranh Lạnh, ông George Kennan, viết rằng, trong khi nhìn lại toàn bộ “lịch sử các sự vụ quốc tế trong thời hiện đại”, ông nhận thấy rằng “thật khó nghĩ ra một biến cố nào lạ lùng, đáng kinh ngạc, và mới thoạt nhìn không thể giải thích nỗi, hơn sự tan biến đột ngột và toàn bộ… của đại cường mệnh danh kế tục nhau là Đế quốc Nga rồi đến Liên Xô”. Richard Pipes, có lẽ là sử gia Mỹ hàng đầu về nước Nga và cũng là một cố vấn của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, cho rằng cuộc cách mạng gần đây của Nga là “bất ngờ”. Một tuyển tập gồm các bài tiểu luận viết về sự cáo chung của Liên Xô trong một số báo đặc biệt năm 1993 của tạp chí bảo thủ National Interest (Lợi ích Quốc gia) có tựa đề là “Cái chết lạ lùng của chủ nghĩa Cộng sản Xô-viết”.

Nếu có thể hiểu được dễ dàng hơn, thì sự thiếu phán đoán mang tính tập thể này có thể đã được an toàn xếp vào một hồ sơ trí tuệ gồm những điều kỳ lạ và phù phiếm của khoa học xã hội rồi bị lãng quên. Tuy nhiên, thậm chí ngày nay, với khoảng cách 20 năm, giả thuyết cho rằng Liên Xô vẫn có thể tiếp tục tồn tại trong tình trạng lúc đó hay bất quá cuối cùng nó sẽ bắt đầu một cuộc suy tàn kéo dài khá lâu, có vẻ là một kết luận không kém phần hợp lý.

Thật vậy, vào năm 1985 Liên Xô gần như vẫn có đủ nguồn lực thiên nhiên và nhân sự của 10 năm về trước. Chắc chắn là, mức sống tại đây còn thấp hơn tại Đông Âu khá xa, nói chi đến phương Tây. Tình trạng thiếu hụt hàng hoá, hạn chế lương thực, những hàng người dài trước các quầy hàng, và nạn nghèo khổ khắc nghiệt diễn ra đều khắp xã hội. Nhưng Liên Xô đã từng trải qua nhiều đại họa to lớn hơn thế và đã có thể đối phó mà không hề mất một mảy may quyền kiểm soát của nhà nước đối với xã hội và nền kinh tế, lại càng không hề từ bỏ quyền lực này.

Không có một thước đo thành tích kinh tế chủ yếu nào trước năm 1985 cho thấy một thảm họa đang lù lù xốc tới. Từ năm 1981 đến năm 1985 mức tăng trưởng GDP của Liên Xô, mặc dù có chậm lại so với thập niên 1960 và thập niên 1970, nhưng cũng đạt được 1,9% một năm. Chính cùng một mô hình dù suy yếu nhưng không đến nỗi thảm khốc này còn kéo dài cho đến hết năm 1989. Nạn thiếu hụt ngân sách, một yếu tố kể từ thời Cách mạng Pháp được coi là tín hiệu quan trọng cho một cuộc khủng hoảng có thể đưa đến cách mạng, chưa lên tới 2% GDP vào năm 1985. Mặc dù có gia tăng nhanh chóng, nạn thâm thủng ngân sách vẫn ở dưới mức 9% GDP cho đến hết năm 1989 – một con số mà hầu hết các nhà kinh tế cho là hoàn toàn có thể xoay trở được (manageable).

Giá dầu lửa rơi cực nhanh, từ 66 đôla một thùng năm 1980 xuống 20 đôla một thùng năm 1986 (trong số 2000 giá cả) chắc chắn là một đòn nặng nề đánh vào tài chính Xô-viết. Tuy vậy, nếu điều chỉnh theo nạn lạm phát, thì vào năm 1985 giá dầu lửa trên thị trường thế giới vẫn cao hơn năm 1972, và chỉ thấp hơn toàn thập niên 1970 một phần ba mà thôi. Nhưng đồng thời, mức thu nhập của người dân Xô-viết gia tăng hơn 2% vào năm 1985, và sau khi điều chỉnh lạm phát, đồng lương của họ còn tiếp tục gia tăng trong 5 năm liền cho đến hết năm 1990 ở mức độ trung bình trên 7% mỗi năm.

Vâng, tình trạng đình đốn kinh tế của Liên Xô là hiển nhiên và đáng lo ngại. Nhưng như Giáo sư Đại học Wesleyan, ông Peter Rutland, đã chỉ rõ, “Dẫu sao, những chứng bệnh kinh niên của Liên Xô không nhất thiết đe dọa sinh mệnh của nước này”. Ngay cả nhà nghiên cứu hàng đầu về các nguyên nhân kinh tế của cuộc cách mạng này, ông Anders Aslund, cũng ghi nhận rằng từ năm 1985 đến năm 1987, tình hình “là không mảy may sôi động”.

Từ quan điểm của chính quyền, tình hình chính trị lúc bấy giờ thậm chí ít đáng lo ngại hơn trước. Sau 20 năm liên tục đàn áp đối lập chính trị, gần như tất cả những nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng đã bị cầm tù, lưu đày (như trường hợp Andrei Sakharov từ năm 1980), buộc phải ra sống ở nước ngoài, hay chết trong các trại cải tạo và nhà giam.

Cũng gần như không có bất cứ một dấu hiệu nào khác báo trước một cuộc khủng hoảng tiền cách mạng (pre-revolutionary crisis), kể cả một nguyên nhân truyền thống thường được coi là có thể dẫn đến sự suy sụp của một quốc gia – đó là sức ép từ bên ngoài. Trái lại, thập niên trước đó được các học giả đánh giá đúng đắn là thời kỳ Liên Xô “đã thực hiện được tất cả những tham vọng quân sự và ngoại giao quan trọng”, như nhà sử học và ngoại giao Mỹ, ông Stephen Sestanovich, đã viết. Tất nhiên, lúc bấy giờ Afghanistan ngày càng cỏ vẻ là một cuộc chiến lâu dài, nhưng đối với một quân lực gồm 5 triệu binh sĩ như của Liên Xô, sự thiệt hại tại đó là không đáng kể. Thật vậy, mặc dù gánh nặng tài chính khổng lồ do việc duy trì một đế quốc về sau trở thành một vấn đề chính trong các cuộc tranh luận sau năm 1987, nhưng bản thân những chi phí cho cuộc chiến Afghanistan không làm cho quốc gia kiệt quệ: Được ước tính vào khoảng 4 đến 5 tỉ đôla vào năm 1985, đó là một phần không đáng kể trong tổng sản lượng nội địa (GDP) của Liên Xô.

Hoa Kỳ cũng không phải là một lực tác động cho cuộc cách mạng. “Học thuyết Reagan” bao gồm nỗ lực chống lại và, nếu có thể, đảo ngược những bước tiến của Liên Xô trong Thế giới Thứ ba quả có tạo được sức ép chung quanh đế quốc này, ở những nơi như Afghanistan, Angola, Nicaragua, và Ethiopia. Tuy nhiên, những khó khăn của Liên Xô ở đó cũng chẳng có gì nghiêm trọng để trở thành một nguy cơ cho chế độ.
Boris Nikolayevich Yeltsin (1931-2007)
Trong một màn giáo đầu cho một cuộc chạy đua vũ trang có tiềm năng gây ra nhiều tốn kém cho đối phương, Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược [hay lá chắn nguyên tử] do Reagan đưa ra thực sự có ý nghĩa nghiêm trọng – nhưng đề xuất này không hề báo hiệu một sự thất bại quân sự cho Liên Xô, vì Điện Cẩm Linh biết chắc rằng việc triển khai hữu hiệu hệ thống phòng thủ không gian của Mỹ cũng mất vài thập kỷ nữa mới thực hiện được. Tương tự như thế, mặc dù cuộc nổi dậy chống cộng sản bất bạo động của công nhân Ba Lan là một tình hình rất bức xúc cho giới lãnh đạo Xô-viết, làm nổi bật sự mong manh của đế quốc của họ tại châu Âu, nhưng vào năm 1985 Phong trào Đoàn kết (Soliditary) tỏ ra đã kiệt lực. Liên Xô hình như thích nghi được với việc tung ra các “đợt bình định” đẩm máu cứ 12 năm một lần – Hungary năm 1956, Tiệp Khắc năm 1968, và Ba Lan năm 1980 – bất chấp dư luận thế giới.

Nói thế khác, đây là một Liên Xô đang ở trên đỉnh cao quyền lực và thanh thế toàn cầu của mình, theo quan điểm của chính nó lẫn quan điểm của thế giới còn lại. Sau này, sử gia Adam Ulam đã nhận xét “Chúng ta thường quên rằng vào năm 1985, không một chính phủ của một quốc gia quan trọng nào tỏ ra có quyền lực vững chắc và có đường lối chính sách rõ ràng như chính quyền Liên bang Xô-viết”.

Hẵn nhiên, có nhiều lý do thuộc về cơ chế – kinh tế, chính trị, xã hội – cho biết tại sao Liên Xô phải sụp đổ như nó đã sụp đổ; tuy nhiên, những lý do này không thể giải thích đầy đủ biến cố này diễn ra như thế nào và diễn ra khi nào. Nghĩa là, làm sao trong một thời gian từ năm 1985 đến năm 1989, trong lúc không gặp phải những tình trạng tồi tệ gay gắt về kinh tế, chính trị, dân số, và các vấn đề cơ chế khác, mà nhà nước và hệ thống kinh tế Xô-viết bỗng dưng bị một quần chúng đủ đông đảo coi là ô nhục, thiếu tính chính danh, và hết chịu nỗi để phải sụp đổ?

Gần như hầu hết mọi cuộc cách mạng hiện đại, cuộc cách mạng Nga gần đây nhất được khởi động bằng một tiến trình tự do hóa khá do dự “từ trên xuống” – và lý do căn bản của nó vượt quá nhu cầu sửa sai nền kinh tế hoặc làm cho môi trường quốc tế tốt đẹp hơn. Cái cốt lỏi trong sáng kiến của Gorbachev là rất lý tưởng, đó là điều không thể chối cãi: Ông muốn xây dựng một Liên Xô có đạo lý hơn.

Vì mặc dù chiêu bài đưa ra là cải thiện kinh tế, nhưng rõ ràng là Gorbachev và những người ủng hộ ông trước hết muốn sửa chữa những sai lầm đạo lý hơn là sai lầm kinh tế. Hầu hết những điều họ tuyên bố công khai trong những ngày đầu của chương trình tái cơ cấu (perestroika), bây giờ nhìn lại, có vẻ chỉ là một cách biểu lộ nỗi khổ tâm của họ về sự suy đồi tinh thần và những hệ quả xói mòn đạo lý của thời đại Xít-ta-lin. Đó là bước khởi đầu của một sự liều lĩnh đi tìm kiếm những câu trả lời cho các vấn nạn to lớn mà mọi cuộc cách mạng vĩ đại thường bắt đầu: Thế nào là một cuộc sống tốt đẹp, hợp với nhân phẩm? Cái gì tạo ra một trật tự kinh tế và xã hội công chính? Một nhà nước chính danh và đàng hoàng là như thế nào? Quan hệ của một nhà nước ấy với xã hội dân sự phải như thế nào?

“Một không khí đạo lý mới mẻ đang thành hình trên đất nước ta”, Gorbachev đã nói như thế trước Ủy ban Trung ương Đảng trong phiên họp tháng Giêng 1987, nơi ông tuyên bố rằng glasnost (chủ trương cởi mở) và tự do hóa sẽ làm nền tảng cho perestroika (chủ trương tái cơ cấu) xã hội Xô-viết của ông. “Việc thẩm định lại các giá trị và xét lại chúng một cách sáng tạo đang được tiến thành”. Sau này, khi nhắc lại cảm tưởng của ông rằng “chúng ta không thể tiếp tục như thế thêm nữa, và chúng ta phải triệt để thay đổi lối sống, dứt khoát với những sai trái trong quá khứ”, ông gọi đó là “lập trường đạo lý” của ông.

Trong một bài phỏng vấn vào năm 1989, “người cha đỡ đầu của glasnost”, ông Aleksandr Yakovlev, nhớ lại rằng, vào lúc trở về Liên Xô sau 10 năm làm Đại sứ tại Canada, ông cảm thấy đã đến lúc người dân phải tuyên bố, “Đủ lắm rồi! Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa. Mọi việc phải được thực hiện theo một đường lối mới. Chúng ta phải xét lại tư duy, đường lối, quan điểm về quá khứ và tương lai của chúng ta… Một sự đồng thuận ngấm ngầm: giản dị là, chúng ta không thể tiếp tục sống như chúng ta đã sống trước đây – một cách nhục nhã, ngoài mức chịu đựng”.

Theo ý kiến của vị thủ tướng của Gorbachev, ông Nikolai Ryzhkov, “tình trạng đạo lý [nrastennoe] của xã hội vào năm 1985 là nét đặc trưng “hãi hùng nhất”:

[Chúng ta] ăn cắp từ chính bản thân của chúng ta, nhận và đưa hối lộ, láo khoét trong các báo cáo, trên báo chí, láo khoét từ các diễn đàn cấp cao, đắm mình trong láo khoét, rồi trao huân chương cho nhau. Và tất cả những điều này đã diễn ra – từ trên xuống dưới và từ dưới lên trên.

Một thành viên khác trong nhóm thân cận sơ khởi và rất ít ỏi của Gorbachev gồm những nhân vật chủ trương tự do, Bộ trưởng Ngoại giao Eduard Shevardnadze, cũng khổ tâm không kém vì tình trạng thiếu luật lệ và tham nhũng đều khắp. Ông nhớ lại đã nói với Gorbachev vào mùa đông 1984-1985: “Mọi thứ đã thối nát. Phải thay đổi thôi”.

Trở lại thập niên 1950, một vị tiền nhiệm của Gorbachev, ông Nikita Khrushchev, đã lần đầu thấy rõ sự mong manh của cái nền tảng của ngôi nhà mà Stalin đã xây lên trên sự khủng bố và dối trá. Nhưng thế hệ thứ năm này của giới lãnh đạo Xô-viết cảm thấy tin tưởng hơn về sức bật của chế độ. Gorbachev và các đồng chí của ông tỏ ra tin tưởng rằng những điều đúng cũng là những điều có thể quản lý được dễ dàng về mặt chính trị (politically manageable). Gorbachev tuyên bố rằng chủ trương dân chủ hóa “không phải là một khẩu hiệu nhưng là tinh túy của perestroika”. Nhiều năm về sau, ông đã trả lời phỏng vấn như sau:

Mô hình Xô-viết không những bị đánh bại trên bình diện kinh tế và xã hội; nó bị đánh bại ngay trên bình diện văn hóa. Xã hội chúng ta, nhân dân chúng ta, những người có học vấn nhất, những người có trí thức nhất, đã bác bỏ mô hình ấy trên bình diện văn hóa vì nó không tôn trọng con người, nó đàn áp con người về mặt tinh thần lẫn chính trị.

Sự thể những cải tổ đã đưa đến cuộc cách mạng năm 1989 phần lớn cũng phát xuất từ một nguyên nhân “lý tưởng” khác: bản thân Gorbachev rất ghét bạo động và, vì thế, ông cương quyết không sử dụng việc áp bức quần chúng (mass coercion) khi tầm mức của các biến chuyển bắt đầu vượt quá ý định ban đầu của ông. Triển khai các lực lượng đàn áp kiểu Xít-ta-lin cho dù để “duy trì chế độ” cũng sẽ là một hành động phản lại niềm tin tưởng son sắt nhất của ông. Một chứng nhân nhớ lại Gorbachev đã nói vào cuối thập niên 1980, “Chúng ta được dạy là chúng ta phải đấm bàn”, rồi ông nắm tay lại, minh họa cú đấm. Viên Tổng bí thư phát biểu tiếp: “Nói chung, việc này có thể thực hiện. Nhưng chúng tôi không thích làm như vậy”.

Vai trò của tư duy và lý tưởng trong việc mang lại cuộc cách mạng Nga xuất hiện rõ nét hơn khi chúng ta nhìn vào những diễn biến bên ngoài Điện Cẩm Linh. Một ký giả Xô-viết hàng đầu và về sau trở thành một tiếng nói nhiệt tình đối với chủ trương glasnost, ông Aleksandr Bovin, đã viết vào năm 1988 rằng những lý tưởng của perestroika đã “chín muồi” giữa lúc nhân dân ngày càng “bức xúc” trước nạn tham nhũng, ăn cắp của công trắng trợn, trước những láo khoét, và những cản trở chặn đứng việc làm của người lương thiện. Những dự kiến “về một cuộc đổi thay có thực chất đang bàng bạc trong không gian”, một chứng nhân khác nhớ lại, và những người mang kỳ vọng này đã tạo nên một khối cử tri rõ nét (appreciable constituency) đang đòi hỏi những cải tổ triệt để. Thật vậy, những kỳ vọng đã đón chào Gorbachev khi ông lên cầm cầm quyền là rất mãnh liệt và ngày càng gia tăng đến độ chúng có thể định hình cho chính sách thực sự của ông. Đột nhiên, chính các tư duy đã trở nên một yếu tố có cấu trúc, có thực thể trong cuộc cách mạng đang diễn ra.

Theo cách nói của Yakovlev, cái uy tín của ý thức hệ chính thống, vốn ràng rịt toàn bộ hệ thống chính trị và kinh tế của chế độ Xô-viết “như những niềng thép”, đang rã rệu nhanh chóng. Nhận thức mới đã giúp người dân thay đổi thái độ đối với chế độ và tạo ra “một chuyển biến trong hệ thống các giá trị”. Dần dần, tính chính đáng của các sắp xếp chính trị [cơ chế chính trị] bắt đầu bị chất vấn. Trong một trường hợp điển hình của “định lý Thomas” bất hủ mà [nhà xã hội học] Robert K. Merton xây dựng thành lý thuyết – “Nếu người ta tin rằng một tình thế là có thực, thì tình thế đó sẽ trở thành hiện thực trong hậu quả của nó”– sự suy đồi thực sự của nền kinh tế Xô-viết chỉ mang lại hậu quả nghiêm trọng sau khi và bởi vì có một chuyển biến cơ bản trong cách người dân cảm nhận và đánh giá thành tích của chế độ.

Viết cho một tạp chí Xô-viết năm 1987, một độc giả Nga gọi những gì ông chứng kiến chung quanh ông là một “sự dứt khoát triệt để trong ý thức của người dân”. Chúng ta biết độc giả này nhận xét đúng vì cuộc cách mạng của Nga là cuộc cách mạng vĩ đại đầu tiên mà tiến trình của nó được vẽ thành biểu đồ trong các cuộc thăm dò dư luận quần chúng ngay từ đầu. Vào cuối năm 1989, cuộc thăm dò dư luận tiêu biểu đầu tiên đã cho thấy dân chúng nhiệt liệt ủng hộ các cuộc tuyển cử có tính cạnh tranh và việc hợp pháp hóa các đảng phái ngoài Đảng Cộng sản Xô-viết – sau bốn thế hệ dưới chế độ độc tài độc đảng và trong lúc các đảng phái độc lập vẫn còn bất hợp pháp. Giữa thập niên 1990, hơn nửa số người được thăm dò trong một vùng nước Nga đồng ý rằng “một nền kinh tế lành mạnh” có khả năng phát triển nhanh hơn “nếu chính phủ cho phép tư nhân làm ăn theo ý họ muốn”. Sáu tháng sau, một cuộc thăm dò trên toàn nước Nga cho thấy 56% hậu thuẫn một cuộc chuyển đổi nhanh chóng hay tuần tự sang một nền kinh tế thị trường. Thêm một năm sau thì số người ủng hộ kinh tế thị trường tăng đến tỉ lệ 64%.

Những người đã gieo vào xã hội “chuyển biến ngoạn mục về ý thức” không ai khác hơn là những kẻ đã từng châm ngòi cho các cuộc cách mạng tiêu biểu khác của thời hiện đại: đó là, các nhà văn, nhà báo, và giới nghệ sĩ. Như Alexis de Tocqueville nhận xét, những con người này “giúp tạo ra một ý thức chung về sự bất mãn như vậy, một công luận được kiên định như vậy, rồi hai yếu tố này… lại tạo ra những đòi hỏi hữu hiệu cho các chuyển biến có tính cách mạng”. Đột nhiên, “toàn bộ việc giáo dục” trên cả nước trở thành “công tác của những người cầm bút”.

Tại Nga Xô cũng vậy. Những hàng người dài trước các sạp báo – đôi khi các đám đông phải xếp hàng quanh một khu phố từ lúc 6 giờ sáng, vì lượng báo ra hàng ngày thường bán sạch chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ – và số người đặt mua ngày càng đông các báo nổi tiếng có chủ trương tự do đã chứng minh sức công phá của những nhà bình luận nổi tiếng thuộc khuynh hướng glasnost, hay xin mượn cụm từ của Samuel Johnson, “những bậc thầy truyền giảng chân lý” (teachers of truth): kinh tế gia Mikolai Shmelyov; các triết gia chính trị như Igor Klyamkin và Alexandr Tsypko; các tiểu luận gia như Vasily Selyunin, Yuri Chernichenko, Igor Vinogradov, and Ales Adamovich; các ký giả Yegor Yakovlev, Len Karpinsky, Fedor Burlatsky, và chí ít trên hai chục nhà văn nữa.

Đối với họ, việc phục sinh đạo lý là thiết yếu. Điều này có nghĩa là không những chỉ rà soát lại các hệ thống chính trị và kinh tế Xô-viết, không những chỉ lật ngược các qui phạm xã hội (social norms), mà còn là một cuộc cách mạng trên bình diện cá nhân: một sự thay đổi trong nhân cách của người dân Nga. Như Mikhail Antonov tuyên bố trong một tiểu luận rất sáng tạo năm 1987, với tiêu đề “Vậy thì việc gì đang đến với chúng ta?” trên tạp chí Oktyabr, phải “cứu” lấy nhân dân – không phải để họ thoát khỏi các mối nguy từ bên ngoài, nhưng “chủ yếu để họ thoát khỏi chính mình, thoát khỏi các tiến trình phi luân đang giết chết những phẩm chất cao quí nhất của con người”. Cứu nhân dân bằng cách nào? Bằng cách làm cho tiến trình dân chủ hóa còn sơ sinh trở thành con đường định mệnh, không thể đảo ngược – không phải bằng “một đợt băng tan” ngắn ngủi của Khrushchev, nhưng bằng một cuộc thay đổi khí hậu. Và việc gì sẽ đảm bảo cho tình hình không thể đảo ngược này? Trên hết, đó là sự xuất hiện của con người tự do, một con người “không bị lây nhiễm trước các sự kiện lặp đi lặp lại của chế độ nô lệ tinh thần”. Tuần báo Ogoniok, một tạp chí quan trọng thuộc chủ trương glasnost, đã viết vào tháng Hai năm 1989 rằng chỉ có “con người không có khả năng làm chỉ điểm cho công an, không có khả năng phản bội và láo khoét, bất luận nhân danh ai hay tổ chức nào, mới có thể cứu chúng ta khỏi sự xuất hiện trở lại của một nhà nước độc tài”.

Lối lý luận vòng vo này – để cứu nhân dân, người ta phải cứu lấy perestroika, nhưng người ta chỉ cứu được perestroika nếu có thể thay đổi đựợc con người “từ bên trong” – gần như không hề làm cho ai khó chịu. Những người phát biểu tư duy về những vấn đề này gần như đã cho rằng việc cứu nước bằng chủ trương perestroika và việc kéo người dân khỏi bãi sình lầy tinh thần là hai nỗ lực đan kết chặt chẽ, có lẽ không thể tách rời nhau, và họ dừng lại ở đó. Vấn đề quan trọng là phải đưa nhân dân trở về “địa vị công dân” từ vị trí “nông nô” và “nô lệ”. “Đủ lắm rồi!” là một lời tuyên bố của Boris Vasiliev, tác giả của một tiểu thuyết bán rất chạy trong giai đoạn này về Thế chiến II, một cuốn truyện được đóng thành phim và được khán giả yêu chuộng không kém. Ông nói: “Đủ lắm rồi những láo khoét, đủ lắm rồi tinh thần nô lệ, đủ lắm rồi sự hèn nhác. Sau cùng, chúng ta phải nhớ rằng tất cả chúng ta đều là công dân. Những công dân tự hào của một đất nước tự hào!”.

Nhìn kỹ vào những nguyên nhân của Cách mạng Pháp, de Tocqueville có nhận xét nổi tiếng rằng, các chế độ bị cách mạng lật đổ thường thường ít áp bức dân chúng hơn các chế độ trước đó. Tại sao? Vì, theo suy đoán của de Tocquevile, mặc dù người dân “có thể ít khổ sở hơn”, nhưng họ lại “cảm thấy bị xúc phạm nhiều hơn”.

Thông thường, Tocqueville có khuynh hướng bàn về những điều tối quan trọng. Từ Những Người cha lập quốc trong Cách mạng Mỹ (the Founding Fathers), đến nhóm Jacobins của Cách mạng Pháp và nhóm Bôn-sê-vich trong Cách mạng Nga, những nhà cách mạng này đã chiến đấu chủ yếu dưới một bóng cờ: phát huy nhân phẩm. Chính vì nỗ lực tìm kiếm nhân phẩm xuyên qua quyền tự do và quyền công dân mà khuynh hướng lật đổ chính quyền trong tinh thần glasnost vẫn còn tồn tại – và sẽ còn tồn tại. Cũng như trước đây những trang báo của tờ Ogoniok và tờ Moskovskie Novosti nằm hãnh diện bên cạnh hình ảnh Boris Yeltsin trên chiếc xe tăng như là các biểu tượng của cuộc mạng Nga gần đây, ngày nay những trang mạng bằng tiếng Á-rập cũng hiên ngang làm biểu tượng cách mạng bên cạnh những hình ảnh các đám đông nổi dậy tại Quảng trường Tahrir của Cairo, tại Khu Casbah của Tunis [Tunisia], trên các đường phố của Benghazi [Lybia], và các thành phố sôi sục bạo động của Syria. Gác các vấn đề ngôn ngữ và văn hóa chính trị qua một bên, các thông điệp và cảm thức mà những cuộc cách mạng này gợi lên là rất giống nhau.

Mohamed Bouazizi, một thanh niên bán hoa trái, mà cuộc tự thiêu của anh đã châm ngòi cho cuộc nổi dậy tại Tunisia khởi đầu cho Mùa Xuân Á Rập 2011, đã tự tử “không phải vì anh ta thất nghiệp nhưng vì khi anh đến nói chuyện với [chính quyền địa phương] có trách nhiệm về vấn đề của anh thì bị đánh đập – cái chết này là để tố cáo chính phủ”, một người biểu tình tại Tunis đã nói với một nhà báo Mỹ như thế. Tại Benghazi, cuộc nổi dậy của người Lybia bắt đầu với việc các đám đông hô vang khẩu hiệu, “Nhân dân muốn chấm dứt tham nhũng!” Tại Ai Cập, các đám đông đã “biểu lộ tinh thần tự cường của một dân tộc bị đàn áp quá lâu đã đến lúc không còn biết sợ hãi nữa, không muốn để cho giới lãnh đạo của mình tiếp tục tướt đoạt tự do và chà đạp nhân phẩm”, cây viết chuyên đề của tờ New York Times, ông Thomas Friedman, đã tường thuật từ Cairo vào tháng Hai năm nay. [Nếu có mặt ở hiện trường], ông cũng có thể đã tường thuật như thế từ Mát-xkơ-va năm 1991.

“Nhâm phẩm có ưu tiên hơn bánh mì!” là khẩu hiệu của cách mạng Tuy-ni-di. Kinh tế Tuy-ni-di đã gia tăng trong khoảng 2 và 8 phần trăm một năm trong hai thập kỷ liền trước cuộc nổi dậy. Với giá dầu lửa ở mức cao, Libya cũng đang phát triển kinh tế khá mạnh ngay trước khi có cuộc nổi dậy. Cả hai trường hợp này nhắc nhở chúng ta rằng trong thế giới hiện nay, tiến bộ về mặt kinh tế không thể thay thế cho niềm tự hào và tự trọng trong tư cách công dân. Nếu chúng ta không nhớ kỹ điều này, chúng ta sẽ tiếp tục kinh ngạc – trước “các cuộc cách mạng màu” trong thế giới hậu Xô-viết, trước Mùa Xuân Á Rập, và không chóng thì chầy trước một biến động dân chủ tất yếu tại Trung Quốc – như chúng ta từng kinh ngạc trước cuộc cách mạng tại Nga Xô. “Thượng Đế đã ban cho chúng ta một ý thức mãnh liệt về nhân phẩm khiến chúng ta không thể chấp nhận sự khước từ các quyền tự do và các quyền bất khả xâm phạm, bất chấp cả quyền lợi có thực hay giả tưởng nào mà các chế độ độc tài ‘ổn định’ có thể mang lại”, tổng thống của nước Kyrgyzstan, ông Roza Otunbayeva, đã viết vào tháng Ba năm nay. “Thật là kỳ diệu khi người dân, nam, phụ, lão, ấu, thuộc nhiều tôn giáo và khuynh hướng chính trị khác nhau, qui tụ trong các quảng trường thành phố và tuyên bố ‘chúng tôi đã bưa lắm rồi’ (enough is enough)”.

Hẳn nhiên, động lực đạo lý tuyệt vời, sự tìm kiếm chân và thiện, chỉ là một điều kiện cần nhưng không đủ để tái tạo một đất nước thành công. Nhân dân có thể đủ sức lật đổ chế độ cũ (ancien régime), nhưng không thể cùng một lúc khắc phục được nền văn hóa chính trị độc tài đã ăn sâu trên cả nước. Gốc rễ của các định chế dân chủ do những cuộc cách mạng có động cơ đạo lý có lẽ tỏ ra còn quá nông cạn, không thể giữ vững một nền dân chủ hữu hiệu trong một xã hội thiếu truyền thống quí giá là cơ sở hạ tầng biết tự tổ chức và biết tự trị. Đây là điều có thể gây trở ngại to lớn cho việc thực hiện những hứa hẹn của Mùa Xuân Á-rập – đã thấy ở Nga. Sự phục sinh đạo lý ở Nga đã bị trở ngại do sự phân hóa và ngờ vực mà 70 năm độc tài toàn trị sản sinh ra. Mặc dù Gorbachev và Yeltsin đã tháo dỡ một đế quốc, nhưng cái di sản của não trạng đế quốc trong hằng triệu người Nga đã khiến họ dễ dàng chấp nhận chủ nghĩa tân độc tài của Putin (neo-authoritarian Putinism), với các chủ đề tuyên truyền to lớn như “sự bao vây của các thế lực thù nghịch” và “Nước Nga đứng dậy từ bước ngã quị”. Hơn thế nữa, bi kịch quốc gia to lớn (và tội lỗi quốc gia) mà chủ nghĩa Xit-ta-lin gây ra chưa bao giờ được tìm hiểu đầy đủ và chưa bao giờ được thống hối, vì vậy đã làm hỏng toàn bộ nỗ lực phục hồi đạo lý, đúng như các người rao giảng glasnost từng mạnh mẽ cảnh báo.

Đó là lý do nước Nga ngày nay một lần nữa đang từng bước tiến tới một thời điểm perestroika khác. Mặc dù những đợt cải tổ thị trường trong thập niên 1990 và giá dầu lửa tăng cao hiện nay đã kết hợp lại để tạo nên sự phồn vinh chưa từng có trong lịch sử cho hằng triệu người Nga, nhưng sự tham nhũng trắng trợn của tầng lớp cai trị ở chóp bu, chế độ kiểm duyệt kiểu mới, và việc công khai khinh thường dư luận đã tạo ra tình trạng bất mãn và yếm thế, một tình trạng đang bắt đầu lên tới (nếu không muốn nói đã thực sự vượt qua) mức độ của đầu thập niên 1980.

Người ta chỉ cần đến Mát-xcơ-va vài ngày để tiếp xúc với giới trí thức hiện nay hay, tốt hơn nữa, liếc qua các trang nhật ký mạng (blogs) trên LiveJournal (Zhivoy Zhurnal), diễn đàn Internet nổi tiếng nhất của Nga, hay qua các website của những nhóm trí thức đối lập và độc lập hàng đầu, là thấy được rằng câu châm ngôn của thập niên 1980 – “Chúng ta không thể tiếp tục sống như thế này thêm nữa!” đang trở thành tín điều một lần nữa. Lệnh truyền đạo lý của tinh thần tự do đang tái khẳng định chính nó, và hiện tượng này không chỉ diễn ra hạn hẹp trong các giới trí thức và những nhà hoạt động dân chủ. Tháng Hai năm nay, Viện Phát triển Đương đại (the Institute of Contemporary Development), một viện nghiên cứu chính sách tự do do Tổng thống Dmitry Medvedev làm Chủ tịch, đã xuất bản một tài liệu có vẻ như là một chương trình vận động tranh cử Tổng thống Nga năm 2012:

Trong quá khứ nước Nga cần tự do để sống [tốt đẹp hơn]; hiện nay nước Nga cần tự do để sống còn… Thách thức của thời đại chúng ta là làm sao để rà soát lại hệ thống giá trị, hun đúc một ý thức mới. Chúng ta không thể xây dựng một đất nước hiện đại với tư duy cũ… Đầu tư tốt đẹp nhất [mà nhà nước có thể dành cho con người] là Tự do và Nền Pháp trị (the Rule of Law). Và tôn trọng Phẩm giá của con người.

Chính cuộc tìm kiếm có tính cách trí thức và đạo lý này, một nỗ lực khôi phục niềm tự hào và tự trọng, bắt đầu bằng một cuộc duyệt xét đạo lý không nương nễ đối với quá khứ và hiện tại của đất nước, chỉ vỏn vẹn trong vài năm đã khoét hổng nhà nước Xô-viết đồ sộ, tước sạch tính chính danh của nó, và biến nó thành một chiếc vỏ bị thiêu rụi (burned-out shell) để rồi tan rã vào tháng Tám 1991. Câu chuyện về hành trình đạo lý và trí thức này là một câu chuyện hoàn toàn chiếm vị trí trung tâm về cuộc cách mạng vĩ đại cuối cùng của thế kỷ 20.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

“Dân oan” và ba nguyên nhân gây bất đồng thuận xã hội


03/04/2016 - Cơ chế Nhà nước thu hồi đất và thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa bảo đảm bù đắp hợp lý những thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra, nhất là những ảnh hưởng tới thu nhập, sinh kế lâu dài sau khi không còn khả năng tạo thu nhập từ sử dụng đất...

Ngư dân Sầm Sơn tụ tập đông người trước cổng UBND tỉnh Thanh Hóa phản đối việc thu hồi bãi biển là bến đậu của tàu thuyền. Ảnh An Bình
LTS. Mới đây, ngư dân ở Sầm Sơn - Thanh Hóa kéo lên tỉnh phản đối việc thu hồi bến đậu thuyền để làm du lịch, vài năm trước chuyện tương tự cũng xảy ra tại biển Đà Nẵng khi dân chúng yêu cầu trả lại bãi tắm công cộng đã được quy hoạch làm resort, rồi vụ kiện đòi trả lại đường đi bộ lên Bà Nà - Đà Nẵng, nông dân Văn Giang (Hà Nội) tụ tập giữ đất... Thời gian qua, khiếu nại tập thể, dài ngày đã xảy ra ở khá nhiều địa phương bộc lộ mâu thuẫn lợi ích từ việc thu hồi đất làm kinh tế tại nhiều nơi. Mâu thuẫn ấy cần được giải quyết như thế nào để hài hòa giữa lợi ích của cộng đồng và doanh nghiệp? Trong bài viết dưới đây, GS-TSKH. Đặng Hùng Võ đặt các tiêu cực (nếu có) sang một bên để phân tích gợi mở những giải pháp.

Sau cuộc đối thoại của ngư dân Sầm Sơn với Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa, chính quyền đã đồng ý để lại một phần bãi biển làm nơi đậu thuyền đánh cá. Câu chuyện này chưa đến hồi kết vì ngư dân vẫn cho là không gian để lại phục vụ nghề cá chưa đủ cho nhu cầu thực tế.

“Quy hoạch không sát mặt đất”

Có thể thấy căn nguyên của sự không đồng thuận từ phía người dân là công tác quy hoạch sử dụng đất tại bãi biển Sầm Sơn không hợp lý. Cách nhìn hay gặp phải là người xây dựng quy hoạch, cũng như người thẩm định và cả người phê duyệt không đứng trên mặt bằng thực tế. Ta hãy đặt các tiêu cực nếu có sang một bên để phân tích với giả định mọi việc về quy hoạch đang diễn ra vì lợi ích công. Thông thường, toàn bộ quá trình từ xây dựng, thẩm định, phê duyệt và thực hiện đều được chỉ đạo trực tiếp bởi chính quyền. Dưới góc độ lãnh đạo địa phương, quy hoạch luôn muốn hướng tới những gì đẹp nhất, hiện đại nhất, vuông vắn nhất. Pháp luật hiện nay đã quy định khá cụ thể về quy trình lấy ý kiến của dân trong xây dựng quy hoạch và công khai quy hoạch đã được phê duyệt. Chắc chắn, những quy định này hoặc không được triển khai hoặc được triển khai rất hình thức. Có như vậy mới xảy ra tình trạng cho tới khi thu hồi đất, người dân mới biểu thị sự không đồng thuận.

Tại bãi biển Sầm Sơn, quy hoạch muốn hướng tới một bãi biển thuần khiết cho du lịch với những quần thể công trình du lịch đẹp, hiện đại. Muốn hay không thì ở Sầm Sơn vẫn đang tồn tại những xóm ngư dân sống bằng nghề cá, phương tiện còn nhỏ nhoi, hạ tầng thiếu thốn và cuộc sống còn khó khăn. Theo cách hiểu đơn giản thì những tham vọng đẹp đẽ của dự án du lịch hiện đại không chứa đựng được các xóm chài đang tồn tại. Đây là một lầm lẫn rất lớn trong tư duy quy hoạch. Nhiều nước đã đưa được những xóm chài và ngư dân còn đang nghèo khó tham gia tổ chức du lịch thực tế. Nói cách khác, quy hoạch với sự đan xen không gian nghỉ dưỡng hiện đại với khung cảnh nghề cá địa phương sẽ mang lại hiệu quả lớn cả về du lịch, kiến trúc và cảnh quan. Theo cách nhìn đan xen như vậy, có thể bảo vệ được lợi ích của cả ngư dân lẫn lợi ích nhà đầu tư.

Câu chuyện tương tự cũng đã xảy ra ở Đà Nẵng vài năm trước, khi chính quyền thành phố giao toàn bộ chiều dài bãi biển cho các nhà đầu tư làm du lịch, nghỉ dưỡng. Câu chuyện ở đây lại là phản ứng của đa số cư dân thành phố với lý do: xưa nay bãi tắm vốn là không gian công cộng, nay giao cho các dự án du lịch thì người dân không còn bãi biển để tắm nữa, muốn tắm biển lại phải mất tiền. Thế rồi lãnh đạo thành phố quyết định lấy lại bãi biển để trở thành nơi công cộng như xưa.

Như vậy, câu chuyện ở Đà Nẵng cũng liên quan tới quy hoạch. Những nhà quy hoạch cũng muốn hướng tới một bãi biển Đà Nẵng hiện đại theo góc nhìn du lịch, có người quản lý để giải quyết tốt việc tổ chức không gian và làm sạch môi trường. Trên thực tế, bãi biển công cộng không chỉ là nhu cầu thực tế mà còn là quyền của dân địa phương. Câu chuyện quy hoạch là phải bảo đảm cả không gian bãi tắm công cộng cho dân, cũng như phần bờ biển phục vụ cho du lịch, nghỉ dưỡng hiện đại trong các dự án đầu tư.

Vào tháng 9.2014, Báo cáo của Thanh tra Chính phủ đã chỉ ra rằng so với năm 2013, số lượt khiếu nại lên các cơ quan nhà nước giảm 1,8%; số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo giảm 3,39%; nhưng số lượng đoàn khiếu nại đông người lại tăng 12,1%. Các đoàn khiếu nại đông người điển hình như đoàn của Văn Giang (Hưng Yên) với 400 người; đoàn của xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm (Hà Nội) với 320 người; đoàn của phường Dương Nội, quận Hà Đông (Hà Nội) với 250 người; đoàn của xã Quảng Chính, huyện Hải Hà (Quảng Ninh) với 110 người v.v.. Tất cả nội dung khiếu nại đông người nói trên đều có nguồn cơn từ việc Nhà nước thu hồi đất và thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Phân tích cụ thể hơn, có thể thấy nguyên nhân trực tiếp là người dân bị thu hồi đất không đồng thuận với mức bồi thường, hỗ trợ. Nếu việc bồi thường, hỗ trợ làm đúng pháp luật thì những người bị mất đất với sự trợ giúp của các luật sư tìm những sơ hở pháp luật trong quyết định phê duyệt quy hoạch, hay trong quyết định thu hồi đất để khiếu nại.
___________

Khi người dân có ý kiến tham gia, các chi tiết được thảo luận, phân tích cụ thể về lợi ích kinh tế cả chung lẫn riêng, về tác động xã hội tới từng nhóm dân và về tác động của ô nhiễm môi trường. Quá trình này sẽ dẫn tới một phương án được đa số đồng thuận.
____________

Về nguyên nhân bồi thường, hỗ trợ chưa thỏa đáng, có những nhược điểm từ các quy định của pháp luật và cũng có những nhược điểm từ quá trình thực thi pháp luật. Đối với các quy định của pháp luật, các đại biểu Quốc hội đã tập trung khá nhiều thời gian để thảo luận về cơ chế Nhà nước thu hồi đất khi xem xét thông qua Luật Đất đai 2013. Thảo luận chủ yếu tập trung vào ranh giới giữa cơ chế Nhà nước thu hồi đất (chuyển dịch đất đai bắt buộc) và cơ chế thỏa thuận trực tiếp giữa nhà đầu tư và người đang sử dụng đất (chuyển dịch đất đai tự nguyện). Kết quả là Luật Đất đai 2013 có một số thay đổi mang tính hình thức, nhưng nội dung về phạm vi áp dụng cơ chế Nhà nước thu hồi đất lại rộng hơn so với pháp luật đất đai trước đó. Bên cạnh đó, cách thực thi pháp luật ở hầu hết các địa phương đều theo kiểu đưa ra phương án đầu tiên là bồi thường thấp, người dân phản ứng thì nâng dần cho tới khi đa số cảm thấy chấp nhận được. Cách thức này gần như kiểu “mặc cả” ở chợ. Điều quan trọng hơn là cách làm này luôn tạo ra khiếu nại đông người, kể cả người đã chấp nhận mức bồi thường rồi, khi thấy người sau mình được nhiều hơn bắt đầu khiếu nại về sự bất công. Phương thức chuyển dịch đất đai dù bắt buộc hay tự nguyện đều có những nhược điểm riêng. Trên thế giới, người ta lại đi theo xu hướng tạo ra một cơ chế có bắt buộc về nguyên tắc, nhưng thực hiện phải được đa số ý kiến đồng thuận.

Tại một số địa phương, sự không đồng thuận của một cộng đồng dân cư còn thể hiện dưới dạng bất bình về ô nhiễm môi trường do một dự án nào đó gây ra. Lấy ví dụ như vụ Công ty Nicotex Thanh Thái chôn hóa chất gần khu dân cư ở Thanh Hóa, hay vụ Công ty Vedan xả nước thải trực tiếp ra sông Đồng Nai, hay nhiều dự án khai thác khoáng sản làm ô nhiễm nặng nguồn nước ở thượng lưu làm mất nguồn nước sinh hoạt của nhiều cộng đồng dân cư ở hạ lưu, xảy ra khá phổ biến ở vùng núi phía Bắc, Tây nguyên, duyên hải miền Trung... Những trường hợp này thường tác động tới cả cộng đồng dân cư, đa số là dân cư thuộc các dân tộc thiểu số.

Nguyên nhân trực tiếp của hiện tượng này là do phê duyệt dự án nhưng thiếu quan tâm tới đánh giá tác động môi trường hoặc không quản lý tốt việc các chủ đầu tư thực hiện giải pháp môi trường đã được phê duyệt. Về mặt pháp luật, các cơ chế, phương thức quản lý ô nhiễm môi trường ở nước ta ngày một tốt hơn nhưng vẫn chưa đủ cho yêu cầu thực tế. Mặt khác, việc thực thi còn yếu kém tại nhiều địa phương. Có khi lãnh đạo địa phương quyết định đánh đổi ô nhiễm lấy sự phát triển. Cũng có trường hợp có yếu tố dung túng các hành vi gây ô nhiễm của chủ đầu tư dự án do cùng nhóm lợi ích.

Ba nguyên nhân gây bất đồng thuận xã hội

Trước hết, phải thấy rằng khiếu nại đông người luôn gắn với các dự án đầu tư phát triển, vì các dự án này luôn tạo nên thay đổi về sử dụng đất tác động làm thay đổi sinh kế, thu nhập của một cộng đồng người tại địa phương có dự án. Như đã phân tích, các bất đồng thuận xã hội thể hiện trong các khiếu nại, bất bình đông người bao gồm ba nguyên nhân chủ yếu:

1. Công tác quy hoạch không quan tâm và không chấp nhận hiện trạng, loại bỏ hiện trạng ra khỏi tư duy quy hoạch để hướng tới một quy hoạch “không sát mặt đất”;

2. Cơ chế Nhà nước thu hồi đất và thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa bảo đảm bù đắp hợp lý những thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra, nhất là những ảnh hưởng tới thu nhập, sinh kế lâu dài sau khi không còn khả năng tạo thu nhập từ sử dụng đất;

3. Việc quản lý ô nhiễm môi trường do các dự án đầu tư gây ra chưa tốt và chưa có biện pháp xử lý hợp lý khi ô nhiễm ảnh hưởng trực tiếp tới sinh hoạt, đời sống của cộng đồng dân cư.



Bến đậu của bà con ngư dân Sầm Sơn. Ảnh An Bình

Giải pháp trực tiếp cho ba nguyên nhân nói trên không phải là quá khó, nhiều báo cáo đã chỉ ra, chỉ có điều còn nhiều khó khăn trong tiếp thu đầy đủ vào hệ thống pháp luật, cũng như thực thi nghiêm trên thực tế đối với những yếu tố đã được luật hóa. 


Nhóm giải pháp chủ yếu có tên là áp dụng thể chế quản trị.

Quản trị là một thể chế bổ sung cho hệ thống quản lý do các cơ quan nhà nước thực hiện theo thẩm quyền (theo chiều trên xuống). Quản trị lấy yếu tố trung tâm là sự tham gia quản lý và giám sát của người dân (theo chiều dưới lên). Yếu tố này đã được quy định tại Điều 28 của Hiến pháp 2013 như một quyền tham gia của dân và Nhà nước có trách nhiệm tiếp nhận. Để người dân có thể tham gia quản lý giám sát, cần bảo đảm hai điều kiện: điều kiện cần là phải công khai, minh bạch mọi thông tin quản lý; điều kiện đủ là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải có trách nhiệm giải trình trước các ý kiến tham gia của người dân.

Thể chế này cũng không quá phức tạp, dễ thực hiện nhưng đang rất khó khăn trong quá trình luật hóa, cũng như khó thực thi một số yếu tố đã được luật hóa. Ví dụ như khá nhiều luật đã quy định về công khai, minh bạch thông tin quản lý nhưng vẫn khó tìm kiếm mọi thông tin. Hoặc ví dụ như cơ chế thực hiện trách nhiệm giải trình của cơ quan quản lý nhà nước trước sự tham gia của dân vẫn chưa được tiếp thu trong bất kỳ luật nào. Ngay như Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống tham nhũng cũng có một điều quy định về trách nhiệm giải trình nhưng lại là “trách nhiệm giải trình với cấp trên”!
Khi thể chế quản trị được tích hợp trong hệ thống quản lý và được thực thi thực sự trên thực tế thì dù “phương án quy hoạch” hay “một dự án đầu tư có thu hồi đất gắn với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư” hay một “báo cáo đánh giá tác động môi trường” cũng đều phải công khai trong quá trình xây dựng; lấy ý kiến của dân, nhất là của cộng đồng bị ảnh hưởng; và giải trình đầy đủ trước các ý kiến của dân. Khi người dân có ý kiến tham gia, các chi tiết được thảo luận, phân tích cụ thể về lợi ích kinh tế cả chung lẫn riêng, về tác động xã hội tới từng nhóm dân và về tác động của ô nhiễm môi trường. Quá trình này sẽ dẫn tới một phương án được đa số đồng thuận.

Hơn bốn tuần trước đây, Ngân hàng Thế giới đã cùng Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố Báo cáo Việt Nam 2035 với nội dung đưa ra các phương án phát triển cho Việt Nam trong giai đoạn 20 năm tiếp theo. Khái quát lại, Báo cáo đã chỉ ra ba việc Việt Nam phải làm để có phương án phát triển tốt nhất. Đó là nâng cao hiệu suất, bảo đảm công bằng và áp dụng thể chế quản trị.

GS-TSKH Đặng Hùng Võ
http://nguoidothi.vn/vn/news/chuyen-hom-nay/binh-luan/10210/-dan-oan-va-ba-nguyen-nhan-gay-bat-dong-thuan-xa-hoi.ndt
Phần nhận xét hiển thị trên trang

TÀU HẢI QUÂN CẤP NƯỚC NGỌT CHO ĐBSCL


Bé trai chăm chú theo dõi các thao tác cập cảng của bộ đội Hải quân trên tàu
Thanh Niên - Lần đầu tiên, Quân chủng Hải quân điều các tàu chuyên dụng tiếp tế nước ngọt cho Trường Sa - nhà giàn DK1, làm nhiệm vụ cứu hạn mặn cho người dân ĐBSCL.

Liên tục trong những ngày cuối tuần qua, các đơn vị thuộc Quân chủng Hải quân đã triệt để chấp hành mệnh lệnh của cấp trên, khẩn trương điều các loại phương tiện - lực lượng làm nhiệm vụ cứu trợ, giúp đỡ đồng bào khu vực vùng bị hạn hán, nhiễm mặn ở các tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bình Thuận, các tỉnh khu vực Tây Nguyên...

Đặc biệt, ngay khi nhận mệnh lệnh, Sở Chỉ huy Lữ đoàn 125, thuộc Bộ tư lệnh Vùng 2 Hải quân đã điều tàu 935 đang trực chiến tại TP.Vũng Tàu, nhận 200 m3 nước ngọt, hành quân xuống khu vực ven biển tỉnh Bến Tre. Sau 1 ngày hành trình, vượt qua gần 70 hải lý đường biển, tàu 935 đã cập cảng cá Bình Đại (Bến Tre) cấp nước cho các hộ dân trông chờ nước ngọt trong huyện Bình Đại.

Chỉ 20 phút sau khi cập cảng, cán bộ chiến sĩ tàu 935 cùng Đoàn công tác của Lữ đoàn 125 hành quân theo đường bộ đã triển khai việc cấp nước cho các ghe xuồng, xe bồn của người dân 2 xã Bình Thắng, Hòa Đại Lộc.
Xe tải chở nước của Lữ đoàn 125 cơ động chuyển nước đến nhà người dân

Bên cạnh đó, thượng tá Hoàng Minh Dũng, Phó Chính ủy Lữ đoàn 125 cũng dẫn đầu xe tải chở nước của Lữ đoàn đến từng hộ dân có hoàn cảnh khó khăn trong xã để cấp nước và tặng vật dụng chứa nước như thùng nhựa, can đựng nước, bình nước uống...

Số vật dụng này được mua sắm từ số tiền hơn 40 triệu đồng, do cán bộ chiến sĩ trong Lữ đoàn quyên góp, gửi tặng đồng bào vùng hạn hán, ngập mặn khu vực ĐBSCL.

*****
Tàu chuyên dụng chở nước mang số hiệu 935 thuộc Hải đội 812, Lữ đoàn 125, Bộ tư lệnh Vùng 2 Hải quân tiến vào cảng cá Bình Đại (Bến Tre) trong sự ngạc nhiên của các ngư dân

Đây là tàu chuyên làm nhiệm vụ chở nước tiếp tế cho các đảo Trường Sa, nhà giàn DK1 và các tàu trực chiến bảo vệ Biển Đông của Quân chủng Hải quân

Người dân huyện Bình Đại (Bến Tre) đổ xô ra cầu cảng chờ đón tàu Hải quân lần đầu tiên cập cảng


Vừa cập cảng, bộ đội tàu đã mở boong chứa nước ngọt sẵn sàng

Cắm vòi bơm để cấp nước

Nước ngọt bơm xuống lòng ghe chứa nước của người dân

Việc cấp nước có sự phối hợp của Ban chỉ huy quân sự huyện Bình Đại và dân quân các xã

Các ghe dân túc trực chờ được bơm 

Niềm vui của người dân khi nhận nước ngọt miễn phí từ tàu Hải quân

3 vòi bơm phát huy hết công suất

Trên cầu cảng, việc bơm nước cho các xe bồn của dân cũng rất khẩn trương

Ngoài phương tiện tàu biển, Lữ đoàn 125 còn đưa xuống xe tải và bồn nước để chở đến tận nhà những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, neo đơn

Bơm nước vào can cho các hộ dân đã tập trung đợi sẵn

Thượng tá Hoàng Minh Dũng, Phó Chính ủy Lữ đoàn 125 tặng nước ngọt cho mẹ Võ Thị Liệt, 77 tuổi ở ấp Bình Huề 1, xã Đại Hòa Lộc, Bình Đại, Bến Tre

Các hộ dân háo hức chở thùng đựng nước do bộ đội Hải quân tặng về nhà

Hoạt động cấp nước diễn ra liên tục từ ngày 2-4.4.2016 và trong tuần này, các tàu chở nước của Hải quân sẽ tiếp tục chuyên chở, cấp nước ngọt cho vùng hạn mặn ĐBSCL
Phần nhận xét hiển thị trên trang

GIỮ MỐC BIÊN GIỚI PHÍA BẮC - KỲ 1: NÓNG BỎNG HÀ GIANG



Thanh Niên - Cuối tháng 12.2008 hoàn thành phân giới biên giới đất liền Việt - Trung, nhân dân các tỉnh biên giới phía Bắc mới tạm kết thúc 54 năm đấu tranh giữ đường biên, mốc giới.

Dằng dặc từ năm 1954 cho đến cuối tháng 12.2008 (thời điểm Việt Nam và Trung Quốc đã ra Tuyên bố chung về việc hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc), quân dân 7 tỉnh biên giới phía Bắc đã kiên cường đấu tranh gìn giữ, khẳng định đường biên, mốc giới và mồ hôi, xương máu của họ đã thấm đẫm từng dải đất biên cương. Trong giai đoạn bảo vệ và quản lý biên giới, mốc quốc giới hiện nay, vẫn còn những hy sinh vất vả nhưng mốc biên cương luôn vững chãi, khẳng định chủ quyền.

“Trong khi dưới xuôi đang lo xây dựng, thống nhất đất nước thì từ năm 1954, quân và dân Hà Giang đã phải đối phó với các hoạt động xâm canh, xâm cư, lấn chiếm biên giới của Trung Quốc tại Hoàng Su Phì, Vị Xuyên, Đồng Văn, Quản Bạ”, nguyên Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Hà Giang Sùng Đại Dùng kể với tôi như vậy, trong cuộc trả lời phỏng vấn cuối cùng, trước khi ông mất (2.2014) và tôi vẫn nhớ ông khoát tay: “Cuối tháng 12.2008 hoàn thành phân giới biên giới đất liền Việt - Trung, nhân dân các tỉnh biên giới phía Bắc mới tạm kết thúc 54 năm đấu tranh giữ đường biên, mốc giới”…


Đàm cứ đàm, lấn cứ lấn

Tại cuộc hội đàm về biên giới Việt Trung giữa khu Việt Bắc (Việt Nam) và Vân Nam (Trung Quốc), tổ chức tại Côn Minh (Trung Quốc) ngày 16.10.1959, khi đại diện Việt Nam đề nghị Trung Quốc có biện pháp chủ động ngăn chặn vấn đề người Trung Quốc xâm canh, xâm cư vào lãnh thổ Việt Nam và việc quốc giới (cột mốc) bị vi phạm, đồng thời cương quyết yêu cầu thực hiện thỏa thuận “2 bên tôn trọng đường biên giới do lịch sử để lại”, Bí thư Tỉnh ủy Vân Nam Tô Vũ Định đã sẵng giọng: “Tình hình xâm canh, xâm cư là rất phức tạp, cả chúng tôi và cả các đồng chí cũng có hiện tượng đó. Cho nên tốt nhất là chúng ta giữ nguyên hiện trạng”… Sự lửng lơ này đã cho thấy ý đồ đưa mọi việc thành “sự đã rồi”, đồng thời càng làm gia tăng tình trạng phức tạp ở vùng biên, nhất là các vụ Trung Quốc lấn chiếm đất Việt Nam ở nhiều điểm thuộc huyện Hoàng Su Phì, Vị Xuyên, Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc.
Theo thống kê chưa đầy đủ của ngành chức năng, riêng trong 2 năm (1962-1963) đã có 25.918 lượt người Trung Quốc vượt biên giới trái phép để mua bán, khai thác lâm thổ sản, vi phạm chủ quyền Việt Nam.

“Họ thực hiện kế sách từ hồi xưa: Cấp trên cứ đàm phán nói chuyện, cấp dưới cứ thực hiện lấn chiếm”, ông Nguyễn Vũ Dương, nguyên Đồn phó Đồn Biên phòng (BP) Lũng Làn (Mèo Vạc) những năm 70 lắc đầu vậy và kể: “Cuộc đấu tranh chống lấn chiếm của chúng tôi hồi ấy chưa phát sinh những vấn đề căng thẳng tới mức phải dùng bạo lực do phía Trung Quốc còn cố tình che đậy ý định lấn chiếm, chưa công khai quản lý và chưa trắng trợn tuyên bố chủ quyền ở những nơi họ đã lấn chiếm. Nhiều lần chúng tôi tuần tra phát hiện họ sang hẳn đất ta đo đạc, khảo sát nhưng cũng chỉ nhắc nhở, yêu cầu họ rút về. Từ sau 30.4.1975, cuộc đấu tranh chống lấn chiếm mới thực sự phức tạp”.

“Sao chúng mày sang phá lúa chúng tao?”

Một lãnh đạo Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng (BCHBĐBP) Hà Giang cho biết: Từ 1975, phía Trung Quốc tuyên truyền bằng nhiều phương tiện, hình thức rầm rộ với khẩu hiệu: “Trung Quốc bị Việt Nam lấn chiếm, Việt Nam vi phạm chủ quyền” và ngang nhiên tuyên bố các khu vực đất đai mà họ đã lặng lẽ chiếm của Việt Nam đến thời điểm ấy (Hồ Pả, Mã Tẻn thuộc Hoàng Su Phì; khu vực mốc 14 đoạn II, Nậm Ngặt thuộc Vị Xuyên; Nghĩa Thuận, Bát Đại Sơn ở Quản Bạ; Dì Thàng, Mã Lủng Kha ở Đồng Văn; Lũng Li, Trà Mần thuộc huyện Mèo Vạc) là “lãnh thổ không thể chối cãi của Trung Quốc, phải lấy lại”.
“Thường thì họ cho dân binh có lực lượng vũ trang làm áp lực, vượt qua biên giới xâm canh, xâm cư. Có vụ họ cho dân binh sang thu hoạch hoa màu của dân ta rồi cậy đông, dùng vũ lực đe dọa bộ đội và nhân dân ta. Ở Dì Thàng, Mã Lủng Kha (Đồng Văn) họ còn cho công nhân lâm nghiệp sang đất ta trồng cây gây rừng”, ông Ly Chứ Sùng (sinh năm 1959, nguyên Chủ tịch MTTQ xã Lũng Cú, Đồng Văn) kể lại và liệt kê: Cùng với BĐBP, tất cả quần chúng nhân dân cả trẻ già trai gái tham gia đấu tranh chống lấn chiếm. Hiệu quả nhất là những người già, họ gọi những người quen trong toán lấn chiếm, ân cần chỉ bảo: “Sinh sống ở biên giới bao năm, phải biết đất này của Việt Nam chứ. Đều qua lại uống rượu, sao giờ chúng mày sang phá hoại hoa màu chúng tao?”.

Nhật ký của Đồn trưởng BP Thanh Thủy (Vị Xuyên), năm 1977 còn ghi rõ sự việc: Cuối tháng 7.1977, một số người Trung Quốc tham gia lấn chiếm đã gặp BĐBP Việt Nam giãi bày: “Chúng tôi biết rõ đất này là của Việt Nam. Nhưng bắt buộc chúng tôi phải sang. Nếu không sẽ bị phạt và cả nhà bị gây khó dễ. Mong các bạn hiểu cho tình cảnh”.
Thấy việc bắt dân lấn chiếm không hiệu quả, phía Trung Quốc cài nhiều tên côn đồ trong số dân binh, tăng cường khiêu khích dọa nạt, hành hung BĐBP và nhân dân ta. Đối phó với chúng, phía ta nắm trước thời gian, địa điểm mà phía Trung Quốc huy động dân lấn chiếm và điểm mặt từng tên côn đồ trà trộn, để có biện pháp đối phó riêng… “Có thời gian chỉ ăn và đi chống lấn chiếm. Có quyết liệt vậy mới giữ được Mã Lủng Kha, Hồ Pả, Mã Tẻn, Lũng Li, Nậm Ngặt… cho đến bây giờ”, ông Lý Chứ Sùng cười.

Lùi mốc, bắt bộ đội
Những năm 1975-1979, ở khu vực Nậm Ngặt, Nghĩa Thuận (Quản Bạ), mốc 11 (Đồng Văn) và mốc 7 Bạch Đích (Yên Minh)… phía Trung Quốc lấn chiếm bằng cách: Lợi dụng đêm tối, sương mù, ngày mưa… bí mật di chuyển cộc mốc, tiêu chí biên giới sâu vào trong lãnh thổ Việt Nam hòng lấn chiếm hàng chục km2 của ta. Sau đó lính Trung Quốc mai phục, bắt cóc BĐBP đang đi tuần tra, vu khống Việt Nam vi phạm chủ quyền.

Ông Giàng Thìn Lùng là Đồn phó Đồn BP Nghĩa Thuận (Quản Bạ, Hà Giang) giai đoạn 1977-1979 nên rất rành rẽ. Ông kể, từ đầu năm 1976, phía Trung Quốc tăng cường lấn chiếm dọc biên giới Hà Giang và đặc biệt là ở khu vực biên giới Nghĩa Thuận, Bát Đại Sơn do Đồn phụ trách. Mặc dù ta đã nhiều phản kháng, nhưng phía Trung Quốc vẫn phớt lờ, ngày càng gia tăng các hoạt động xâm nhập vũ trang, xâm canh lấn chiếm biên giới. Đỉnh điểm là đầu tháng 5.1977, đội tuần tra của Đồn gồm 6 người do trung úy Viên Đình Thượng làm Đội trưởng làm nhiệm vụ tuần tra từ thôn Cao Mã Pờ về đồn. Khi đến khu vực mốc 3 (đối diện thôn Hoàng Thèn, Bát Bố, Trung Quốc) đã bị lính BP Trung Quốc và dân binh phục kích, ỉ đông bắt giữ và vu cáo “BĐBP Việt Nam xâm nhập lãnh thổ Trung Quốc”. Suốt 10 ngày trời bị giam trong nhà giam đối phương, các chiến sĩ ta kiên cường đấu tranh vạch trần âm mưu thủ đoạn vu khống và đòi phía Trung Quốc tôn trọng lịch sử. Trước sự phản kháng, Trung Quốc phải trao trả cả đội với đầy đủ vũ khí, trang bị.
Ngày 20.7.1978, tại khu vực Hồ Pả - Mã Tẻn (Bản Máy, Hoàng Su Phì), lính Trung Quốc lén lút di chuyển cột mốc vào sâu trong đất ta, phục kích bắt tổ tuần tra 3 người của Đồn BP Bản Máy do thiếu úy Nguyễn Xuân Thiều chỉ huy đang làm nhiệm vụ. Khi anh em kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền, chúng dùng dao, báng súng đánh đập dã man và bắt trói, khiêng về phía Trung Quốc.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trong năm 1978, khu vực biên giới của tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà Giang) đã bị phía Trung Quốc lấn chiếm 11 điểm với 32 vụ khá căng thẳng.
Ngày 28.10.1967, nhân dân báo tin cho Đồn BP Phó Bảng (Khi đó là Công an nhân dân vũ trang): Có 1 cán bộ Đại sứ quán Trung Quốc từ Hà Nội lên thăm đơn vị bộ đội của họ đang làm đường giúp ta, trong địa bàn Đồn phụ trách. Họ trương khẩu hiệu, biểu ngữ, treo ảnh lãnh tụ của họ để tổ chức mít tinh. Dùng loa phóng thanh ngang nhiên tuyên truyền về “Đại cách mạng văn hóa vô sản” ở Trung Quốc, trích đọc “sách đỏ” và kêu gọi nhân dân Việt Nam ở khu vực Phó Bảng (Đồng Văn, Hà Giang) đến tham dự.
Ngay lập tức, Đồn trưởng BP Phó Bảng trực tiếp chỉ huy 1 tổ cán bộ chiến sĩ và quần chúng cốt cán tới ngay địa điểm, yêu cầu vị cán bộ sứ quán chấm dứt hành động vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Trước lý lẽ đanh thép của tổ công tác, phía Trung Quốc buộc phải hủy bỏ mít tinh, dẹp bỏ lễ đài và dỡ bỏ cờ, ảnh, khẩu hiệu mà họ đã treo. (Nguồn: BCHBĐBP Hà Giang)

Mai Thanh Hải

Kỳ 2: Rập rình Bản Giốc

Các mốc 835, 836 (chính - phụ) được cắm tại khu vực Thác Bản Giốc (Đàm Thủy, Trùng Khánh, Cao Bằng) năm 2001 đã tạm chấm dứt các vụ tranh chấp. Thế nhưng với người dân Đàm Thủy, tinh thần cảnh giác vẫn luôn thường trực và họ sẵn sàng có mặt bên mốc giới - đường biên, chỉ sau 3 tiếng kẻng.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Một bước tiến quan trọng thể hiện mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.

Việt Nam cấp thị thực một năm cho công dân Hoa Kỳ


Dân trí Chính phủ Việt Nam cấp thị thực có thời hạn đến một năm nhiều lần cho công dân Hoa Kỳ nhập cảnh Việt Nam với mục đích du lịch, hội thảo, hội nghị, việc riêng hoặc làm việc với các cơ quan tổ chức doanh nghiệp tại Việt Nam và đáp ứng các điều kiện khác để nhập cảnh Việt Nam theo quy định của luật pháp Việt Nam.

Sáng 4/4, Chủ tịch nước Trần Đại Quang trình bày tờ trình đề nghị Quốc hội phê chuẩn Công hàm Thỏa thuận về cấp thị thực giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Chủ tịch nước cho biết, theo báo cáo của Chính phủ, những năm gần đây phía Hoa Kỳ nhiều lần nêu vấn đề về chính sách thị thực của ta gây khó khăn cho việc xin thị thực nhập cảnh Việt Nam của công dân Hoa Kỳ. Đặc biệt, sau khi Luật nhập cảnh xuất cảnh quá cảnh cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam được Quốc hội thông qua, theo đó công dân Hoa Kỳ chỉ được cấp 3 tháng và không được gia hạn thời gian lưu trú.
Phía Hoa Kỳ cho rằng, chính sách này của Việt Nam không tương xứng với chính sách của Hoa Kỳ với Việt Nam và không tương xứng với quan hệ hai nước. Phía Hoa Kỳ đề nghị nâng thời hạn cấp thị thực cho công dân Hoa Kỳ lên một năm nhiều lần cho mục đích du lịch, hội nghị, việc riêng và các mục đích nhập cảnh ngắn hạn khác.
Chủ tịch nước Trần Đại Quang trình bày tờ trình đề nghị Quốc hội phê chuẩn Công hàm Thoả thuận về cấp thị thực giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
Chủ tịch nước Trần Đại Quang trình bày tờ trình đề nghị Quốc hội phê chuẩn Công hàm Thoả thuận về cấp thị thực giữa Việt Nam và Hoa Kỳ
Trên cơ sở nhất trí của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Bộ ngoại giao đã thay mặt Chính phủ trao đổi với phía Hoa Kỳ công hàm cấp thị thực giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Sau đó, phía Hoa Kỳ đã có công hàm chính thức đồng ý với công hàm của phía Việt Nam.
Nội dung chính thỏa thuận như Chính phủ Việt Nam cấp thị thực có thời hạn đến một năm nhiều lần cho công dân Hoa Kỳ nhập cảnh Việt Nam với mục đích du lịch, hội thảo, hội nghị, việc riêng hoặc làm việc với các cơ quan tổ chức doanh nghiệp tại Việt Nam và đáp ứng các điều kiện khác để nhập cảnh Việt Nam theo quy định của luật pháp Việt Nam.
Chính phủ Hoa Kỳ cấp thị thực có thời hạn một năm nhiều lần cho công dân Việt Nam nhập cảnh Hoa Kỳ với mục đích du lịch, hội thảo, hội nghị việc riêng hoặc làm việc với các cơ quan tổ chức doanh nghiệp tại Hoa Kỳ và đáp ứng các điều kiện khác để nhập cảnh Hoa Kỳ theo quy định của luật pháp Hoa Kỳ.
Nội dung thỏa thuận cũng đề cập, mỗi nước có thể rút ngắn thời hạn thị thực và số lần nhập cảnh của từng trường hợp cụ thể theo luật pháp và quy định hiện hành. Tuy nhiên, nội dung và thỏa thuận nêu trên có điểm trái với quy định Luật nhập xuất cảnh năm 2014, đó là thỏa thuận cho phép cấp thị thực một năm với mục đích hội thảo, hội nghị, việc riêng, trong khi đó khoản 2 và 3 điều 9 Luật nhập xuất cảnh 2014 quy định chỉ được cấp 3 tháng hoặc 6 tháng.
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, Luật ký kết gia nhập điều ước quốc tế năm 2005, Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội xem xét quyết định phê chuẩn công hàm thỏa thuận về cấp thị thực Việt Nam và Hoa Kỳ, đồng thời đề nghị Chính phủ báo cáo giải trình những nội dung cụ thể.
Sau tờ trình của Chủ tịch nước, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Phạm Bình Minh đã trình bày báo cáo về việc phê chuẩn Công hàm Thỏa thuận về cấp thị thực giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Chủ nhiệm Uỷ ban đối ngoại của Quốc hội Trần Văn Hằng cũng trình bày báo cáo thẩm tra việc phê chuẩn Công hàm Thỏa thuận về cấp thị thực giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng cho biết, hồ sơ trình Công hàm này ra trước Quốc hội là đúng Hiến pháp. Thủ tục phù hợp với Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước Quốc tế. Về nội dung không trái với Hiến pháp và các nội dung Quốc hội sẽ phê chuẩn có thể áp dụng trực tiếp mà không phải sửa Luật. Như vậy, vẫn giữ được chủ quyền, an ninh quốc gia. Do đó, Quốc hội đều nhất trí cho phép cấp thị thực có thời hạn một năm cho công dân Hoa Kỳ vào Việt Nam với nội dung, yêu cầu đã được giải trình.
Quang Phong
Phần nhận xét hiển thị trên trang