Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 12 tháng 2, 2016

Chân dung "phi công công cộng" của 20 bà vợ các quan chức Trung Quốc


(GDVN) - Quan chức bị cắm sừng đã kiên quyết trừng trị Nhuế Thành Cương bằng cách khép cho anh tội làm gián điệp, bán bí mật quốc gia nhằm "giết người diệt khẩu"

Nhuế Thành Cương trong vai trò Biên tập viên của đài truyền hình trung ương Trung Quốc.
Đa Chiều ngày 9/2 đưa tin, dư luận từ lâu đã đồn thổi đài truyền hình trung ương Trung Quốc (CCTV) trở thành "hậu cung" của các dâm quan, tham quan Trung Quốc. Nhiều biên tập viên, phóng viên ngoại hình ưa nhìn của đài này đã bị ép quan hệ với các dâm quan để đổi lấy tiền đồ chính trị tại đài truyền hình quốc gia. Tuy nhiên gần đây truyền thông lại đổ dồn sự chú ý vào một biên tập viên nam điển trai, Nhuế Thành Cương.
Tổng hợp tin tức báo chí hôm 9/2 Đa Chiều cho hay, Nhuế Thành Cương đang bị dư luận gán cho biệt danh "phi công công cộng", bởi anh được cho là đã phục vụ hơn 20 mệnh phụ phu nhân với vai trò người tình của họ. Nhuế Thành Cương vốn đã nổi tiếng từ lâu, nhiều người đã đem câu nói: "Người bạn thân nhất của tôi là Bill Clinton" làm đề tài bàn tán khi Nhuế Thành Cương thất thế.
Trong thời gian đỉnh cao của sự nghiệp biên tập viên, Cương đã được phỏng vấn nhiều chính khách và người nổi tiếng, trong đó có Tổng thống Mỹ Bill Clinton. Đó là lý do vì sao anh trở nên nổi tiếng với câu nói này.
Có nguồn tin cho biết, khi Nhuế Thành Cương bị điều tra đã khóc lóc sụt sùi khai rằng, bà Cốc Lệ Bình, phu nhân của ông Lệnh Kế Hoạch khi còn là Chánh văn phòng trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc đã từng ép Cương "quan hệ", trong chuyện này Nhuế Thành Cương là người bị hại (?!).
Thông qua quan hệ với bà Cốc Lệ Bình, Nhuế Thành Cương đã mở rộng mạng lưới quan hệ với "băng đảng Lệnh Kế Hoạch" và có được nhiều nguồn tin tình báo quan trọng về chính trị, kinh tế Trung Quốc, trong đó không ít thông tin được bán cho tình báo nước ngoài (?!).
Tin đồn bà Bình cặp bồ với Cương đã lan truyền rộng rãi từ trước khi chồng bà, ông Lệnh Kế Hoạch bị bắt để điều tra tham nhũng, mặc dù Cương kém bà Bình gần 20 tuổi, bình thường ra ngoài họ vẫn gọi nhau là chị - em. Ngày nay, những câu chuyện đồn thổi về mối tình "chị - em" này vẫn có thể tìm thấy trên các trang mạng ở Trung Quốc, mặc dù Bắc Kinh kiểm soát internet rất kỹ.
Bà Cốc Lệ Bình vợ ông Lệnh Kế Hoạch được cho là đã "dụ dỗ, cưỡng ép" Nhuế Thành Cương.
Có tờ báo hải ngoại cho biết, Nhuế Thành Cương đã "phục vụ" trên 20 mệnh phụ phu nhân. Khi bị thẩm vấn, Cương được cho là đã khai rằng anh còn giữ cả những đoạn video, hình ảnh mây mưa của mình với vợ các quan chức. Sau khi Cương bị bắt, đã có 28 mệnh phụ phu nhân gọi điện sang Ủy ban Kiểm tra kỷ luật trung ương can thiệp giúp đỡ.
Tuy nhiên theo Đa Chiều, những ông chồng quan chức bị cắm sừng đã kiên quyết trừng trị Nhuế Thành Cương bằng cách khép cho anh tội làm gián điệp, bán bí mật quốc gia nhằm "giết người diệt khẩu".
Tuy những thông tin Nhuế Thành Cương làm "phi công công cộng" cho các bà vợ quan chức không có cách nào xác minh, nhưng việc nhà chức trách Trung Quốc buộc tội Cương làm gián điệp thì đã được truyền thông nhà nước thừa nhận. Ngày 14/9/2014, Tân Hoa Xã bất ngờ giật tít: "Nhuế Thành Cương bị tố làm gián điệp, dân mạng: Nếu đúng như vậy thì phải nghiêm trị". Đường Tĩnh Viễn, một nhà bình luận thời sự nói rằng bài báo này của Tân Hoa Xã cho thấy dường như Bắc Kinh muốn xác nhận Cương làm gián điệp.
Đa Chiều cho rằng, bất luận Nhuế  Thành Cương có làm "phi công tập thể" cho hơn 20 bà vợ quan chức hay không, thì rõ ràng Cương có mối liên hệ rất mật thiết với gia đình Lệnh Kế Hoạch. Và cũng nhờ quan hệ với "vợ anh Hoạch", Cương một tay thâu tóm quyền lực, tay kia tranh thủ vơ vét tiền tài. Nhưng điều khôi hài là Cương cũng đã từng có 2 cuốn tự truyện được truyền thông liệt vào dạng "giáo trình cho những người muốn thành công".
Hồng Thủy


Phần nhận xét hiển thị trên trang                                                                                                

Thứ Năm, 11 tháng 2, 2016

TỄU - BLOG: THƯ NGỎ VỀ VIỆC KỶ NIỆM HOÀNG SA - BIÊN GIỚI - TRƯ...

TỄU - BLOG: THƯ NGỎ VỀ VIỆC KỶ NIỆM HOÀNG SA - BIÊN GIỚI - TRƯ...: THƯ NGỎ V/v Kỷ Niệm Hoàng Sa-Biên Giới-Trường Sa Kính gởi: Những người Việt Nam đang lo âu về chủ quyền Đất Nước và toàn thể đồng bào... Phần nhận xét hiển thị trên trang

TẤT CẢ CHÚNG TA HÃY TỈNH NGỘ, TRƯỚC KHI QUÁ MUỘN!




NHÂN LOẠI CÓ CHUNG 
NHIỀU GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHỔ QUÁT

Phan Hồng Giang

Đặt đầu đề như trên cho bài viết của mình, tôi có đôi chút lăn tăn : Có phải mình đã cố tình định “tái phát minh ra cái xe đạp” trong khi  cái xe đó đã tồn tại từ hàng trăm năm nay ?  “Nhân loại có chung nhiều giá trị văn hóa phổ quát” là một thực tế hiển nhiên như 2x2 = 4, việc gì phải nhắc lại ? 

Nhưng mà, như bạn đọc sẽ thấy sau đây, có nhiều lý do để phải khẳng định lại điều đó.

Do tác động của những điều kiện lịch sử, địa lý, kinh tế khác nhau mà mỗi dân tộc đều ít nhiều có bản sắc văn hóa riêng. Điều này thể hiện dễ thấy nhất ở phong tục tập quán, lối sống, nếp sống. Trang phục mỗi nước một khác, nơi quần quần áo áo, nơi chỉ cần mảnh vải quấn quanh thân. Không ít nước coi “miếng trầu là đầu câu chuyện”, trước đây răng đen tuyền hạt na đã từng là duyên dáng, cổ cao đeo hàng chục vòng bạc là mẫu  mực nhan sắc. Đàn ông theo Hồi giáo có thể lấy 4 vợ, trong khi nhiều nước nghiêm cấm đa thê. Nước trọng sinh con trai “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, nước sinh trai hay gái đều được quý như nhau. Một số nước có tục dâng hương , bày mâm lễ thờ cúng tổ tiên, nhiều nước lại chỉ giữ kín trong lòng  sự kính trọng ông bà. Văn hóa phương Đông đề cao phụ nữ giữ trinh tiết trước khi lấy chồng, trong khi đàn ông châu Âu lại không coi đó là tiêu chuẩn đạo đức cần thiết khi tìm bạn đời…

Thừa nhận sự khác biệt, sự đa dạng văn hóa của các dân tộc là yêu cầu của mọi xã hội văn minh. Tuy nhiên, điều đáng nói là có không ít lý luận gia, vì những lý do dường như ngoài văn hóa, đã “phóng đại” (?) những nét đặc thù văn hóa, những điều kiện lịch sử riêng của dân tộc mình để quay lưng với những giá trị văn hóa phổ quát của nhân loại.

Họ quên mất thực tế hiển nhiên là  con người dù khác nhau về màu da, vóc dáng, gương mặt, ngôn ngữ, nếp sống… đều thuộc một loài chung là loài người, đều có chung nụ cười  khi vui vànước mắt khi buồn.

Nụ cười và nước mắt không cần ai phải dịch, - và đó là cội nguồn của những điều chung. 

*
Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh,  trong Tuyên ngôn độc lập đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9/1945 đã nhắc lại câu nói bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 : “Mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Cần nói thêm ngay rằng “mọi người” ở đây là “mọi người của mọi dân tộc”.

Nhu cầu được hưởng những quyền cơ bản của con người là chung cho con người của mọi dân tộc.

Không một ai muốn mình bị  coi thường, bị đánh giá bất bình đẳng. Không một ai muốn mình bị trói buộc, mất tự do thân thể và tự do tinh thần.     Không một ai muốn mình bị ngăn trở, cấm đoán trong cuộc  hành trình mưu cầu hạnh phúc cho cá nhân và gia đình mình, cũng như cho cộng đồng. Muốn vậy con người cần có quyền sở hữu tài sản, quyền sáng tạo và quyền tự do kinh doanh  không trái pháp luật.

Không một ai , ở bất cứ dân tộc nào, thích bị bịt miệng, không được nói ra ý nghĩ và mong muốn của mình. Hồ Chủ tịch đã từng có định nghĩa ngắn gọn, chân xác về dân chủ : “Dân chủ là để người dân được mở miệng ra mà nói !”.

Người của dân tộc nào thì cũng cần thừa nhận “bách nhân bách tính”, thừa nhận sự khác biệttương đối trong  suy nghĩ ở nhiều người, nhưng không hề vì thế mà khó chịu khi thấy ai đó nghĩ khác mình. Họ cần phải hiểu rằng nếu thấy người khác nghĩ khác mình thì khi đó chính mình cũng đã nghĩ không giống người khác ! Càng không nên kiên trì ý định áp đặt suy nghĩ của mình lên người khác. Chỉ có thể đạt tới sự đồng thuận thông qua tranh luận, thuyết phục nhau một cách có lý có tình.

Người ở bất cứ đâu thì cũng đều có thiên hướng được tụ hợp lại với nhau theo  sở thích và ý nguyện tương đồng, được tự do bày tỏ một cách ôn hòa tình cảm yêu ghét của mình mà không sợ  bị  coi là  “làm mất trật tự công cộng”.

Người dân tộc nào thì cũng đều muốn được bình đẳng lựa chọn ra người lãnh đạo giỏi hơn mình,tốt hơn mình thông qua bầu cử công khai, có cạnh tranh sòng phẳng, lành mạnh…

Tôi đã lược qua trên đây những  ý nguyện chung cho con người ở mọi dân tộc. Đó chính là những giá trị phổ quát chung của toàn nhân loại mà chúng ta không thể nấp sau tấm bình phong “đặc thù” của văn hóa mỗi dân tộc mà phủ nhận chúng để rồi bị rơi vào tình trạng dường như là “bế quan tỏa cảng”, đi một mình một đường dẫn đến kết cục không ai mong chờ là tụt hậu và… tụt hậu.

Chúng ta hãy cùng tỉnh ngộ trước khi quá muộn!

P.H.G 

_____________ 
* Tác giả Phan Hồng Giang là Tiến sĩ khoa học, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật - thuộc Bộ Văn hóa. Ông là con trai của Nhà văn Hoài Thanh (Tác giả Thi nhân Việt Nam).

Phần nhận xét hiển thị trên trang

DÀNH RIÊNG CHO CÁC CÔNG DÂN ỨNG CỬ ĐB QUỐC HỘI KHÓA 14



HỒ SƠ ỨNG CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHÓA XIV

1. Hồ sơ ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân gồm:

a) Đơn ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIV (theo mẫu số 1/BCĐBQH); đơn ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2016-2021 (theo mẫu số 5/BCĐBHĐND);

b) Sơ yếu lý lịch đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội (theo mẫu số 2/BCĐBQH); đối với người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân (theo mẫu số 6/BCĐBHĐND), có đóng dấu giáp lai và xác nhận của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người ứng cử công tác hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người ứng cử thường trú;

c) Tiểu sử tóm tắt đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội (theo mẫu số 3/BCĐBQH); đối với người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân (theo mẫu 7/BCĐBHĐND);

d) Bản kê khai tài sản, thu nhập của người ứng cử đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội (theo mẫu số 4/BCĐBQH); đối với người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân (theo mẫu số 8/BCĐBHĐND);

đ) Mỗi bộ Hồ sơ ứng cử của người ứng cử có 03 ảnh chân dung màu, nền trắng cỡ 4cm x 6cm (không kể ảnh dán trên Sơ yếu lý lịch và Tiểu sử tóm tắt).

2. Người ứng cử thực hiện việc kê khai các nội dung đầy đủ, chính xác theo hướng dẫn trong các mẫu văn bản sử dụng trong hồ sơ ứng cử ban hành kèm theo Nghị quyết này. Việc kê khai có thể thực hiện bằng cách viết tay hoặc đánh máy, nhưng phải bảo đảm đúng theo các mẫu văn bản trong hồ sơ ứng cử do Hội đồng bầu cử quốc gia ban hành (file điện tử các mẫu văn bản trong hồ sơ ứng cử có thể tải về từ Trang thông tin điện tử của Hội đồng bầu cử quốc gia trên Cổng thông tin điện tử của Quốc hội http://www.quochoi.vn). Người ứng cử ký vào từng trang văn bản của hồ sơ ứng cử.

3. Ảnh của người ứng cử là ảnh được chụp trong thời gian 06 tháng tính đến ngày nộp hồ sơ. Trong Sơ yếu lý lịch, Tiểu sử tóm tắt, ảnh của người ứng cử phải được dán đúng vị trí quy định và được đóng dấu giáp lai của cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người ứng cử công tác hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người ứng cử thường trú.

Vận Động Ứng Cử Đại Biểu Quốc Hội 2016: Mời các cử tri share giùm bài viết để tìm kiếm các ứng cử viên độc lập ra tranh cử.

Download mẫu nêu trên tại: http://quochoi.vn/hdbc/Pages/Home.aspx?ItemID=30994 


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nói cho vui thui bạn nờ!

CẦN CHUẨN BỊ NHỮNG GÌ KHI TỰ ỨNG CỬ ĐBQH?
Như tôi đã nói ở stt trước, tôi hoàn toàn ủng hộ việc tự ứng cử đbqh. Việc này dù thất bại hay thành công sẽ là bài học quí giá về việc xây dựng xã hội hướng tới văn minh/nền chính trị kỹ trị cho các khóa sau.
Hiện đang có nhiều người quen biết tôi vận động tôi ứng cử, chân thành cảm ơn nhưng phải thành thật thú nhận tôi hoàn toàn không có khả năng gì ngoài chém gió và nhất là không thích làm chính trị. Còn nói về chính trị và ủng hộ những cá nhân xuất sắc làm chính trị thì ok.
Như tôi thấy hiện nay có khá nhiều bạn trẻ tự ứng cử theo kiểu “ĐBHQ dễ nhỉ, ứng cử phát cho vui, đánh trống ghi tên, được thì được, không được cũng gây sự chú ý”
Xin thưa, không phải gây kiểu chú ý mà xong à nha. Một doanh nhân có tên tuổi trong một group tôi đang tham gia đã rất bi quan nói đại ý rằng “cái giá phải trả cho sự ngông cuồng/bột phát là không nhỏ”. Tôi nghĩ anh ấy nói không thừa. Việc chính phủ cho phép đại biểu tự ứng cử năm nay hầu như là một bước tiến mới trong quản lý dân sự. Những người tự ứng cử nên nhận ra điều đó để khẳng định mình ứng cử là hợp lý và có ích thực sự cho cộng đồng.
Một số việc các vị cần phải chuẩn bị là:
1. Tìm hiểu thật kỹ luật bầu cử. (Đọc lại đi, không thừa đâu hỡi các vị)
2. Tìm hiểu xem mỗi địa phương (tỉnh/thành/huyện/xã) được chính phủ cấp quota cho bao nhiêu ứng cử viên. Trong đó bao nhiêu là khối doanh nghiệp nhà nước, bao nhiêu đảng viên, bao nhiêu không đảng viên.
3. Trang bị kiến thức chuyên môn sở trường của mình bằng những luận cứ/luận điểm chính xác nhằm thay đổi hay khắc phục tồn tại?
4. Các vị tự ứng cử nên tập hợp thành nhóm những ứng cử viên cùng chí hướng để làm việc theo team. Điều 4 này rất quan trọng, hãy nhìn các nước đa đảng để học tập họ khi đưa lên một người khả dĩ nhất trong đảng của họ và cách thức họ tiến cử một người đại diện để ửng cử. Các vị hiện đang ứng cử cho mình hơn là ứng cử đại diện cho một nhóm/khối/ cộng đồng khao khát tự do dân chủ.
Ngoài ra phải chuẩn bị tiền để làm truyền thông, giới thiệu hình ảnh của bản thân. Không nhỏ đâu. Phải nhờ cộng đồng nếu đủ uy tín.
Tranh thủ gõ trước khi lượn đi chơi.
Chũm
Phần nhận xét hiển thị trên trang

MINH TRIẾT VIỆT TRONG VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG.


PHỤ CHƯƠNG
Nguyễn Vũ Tuấn Anh
1. VIỆT DỊCH TRÊN BÃI ĐÁ CỔ SAPA
Trong phần II. I của tiểu luận này, người viết đã hân hạnh trình bày với bạn đọc về thực tại ở trạng thái khởi nguyên vũ trụ , là đối tượng được mô tả từ nội dung minh triết qua những di sản văn hóa phi vật thể truyền thống Việt, trong nội dung học thuyết Âm Dương Ngũ hành, hoàn toàn khác hẳn cách giải thích của những nhà nghiên cứu Hán Nho, từ hàng ngàn năm nay.
Nhưng không chỉ có vậy, một di sản khác thuộc về nền văn hiến Việt, cũng mang một nội dung mô tả lịch sử khởi nguyên và quá trình phát triển của vũ trụ liên quan và hoàn toàn trùng khớp đến nội dung của thuyết Âm Dương Ngũ hành và hệ thống ký hiệu bát quái, mà chúng tôi mô tả giai đoạn khởi nguyên, ở phần trên.
Đấy chính là những hình khắc trên những phiến đá ở bãi đá cổ Sapa. Có thể nói rằng: bãi đá cổ Sapa là một kỳ quan về sự bí ẩn trong những hình khắc và gây nhiều tranh cãi của những nhà nghiên cứu.
Một trong những hình khắc trên bãi đá cổ Sapa đã thể hiện điều này. Bạn đọc xem hình dưới đây:

131134_zps1a934df6.jpg
Hình trên được chép lại từ bản dập của các nhà nghiên cứu người Pháp từ thập niên 20 của thế kỷ trước. Và là một hình tượng được chạm khắc trên khoảng 200 phiến đá ở nơi đây. Những con số trên hình vẽ do người viết thực hiện, để bạn đọc tiện theo dõi sự mô tả nội dung của người viết.
Có thể đã có nhiều người giải thích sự bí ẩn của hình chạm khắc này. Nhưng người đầu tiên mà người viết được biết, đã giải mã hình tượng này là nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Liễn. Ông mô tả đã mô tả nội dung hình trên như sau:
Quote
“ Nổi bật trên búc chạm đá là hình mặt trời 1 (Số 6 trên hình – số 1 trong nguyên văn của tác giả; số 6 là của tôi hiệu chỉnh vì một sự lý giải khác. Trong đoạn trích dẫn này; số của tác giả ghi nguyên văn; số của người viết trên hình trong ngoặc kế bên)2 Trái đất (3) bố cục ở hai phía Đông Tây; nhưng hơi chếch nhau, phải chăng là sự diễn tả cao thấp khác nhau của các hành tinh này theo sự nhận biết của con ngườI lúc đó. Bao quanh trời đất là hai dải các hình song song không khép kín; bên trái gồm ba giảI song song không đều nhau; chạy dài liên tục bắt đầu từ Tây Bắc chạy xuống sát gần Trái Đất rồI hơi uốn lượn về phía Đông Nam 9 (2). Bên phải cũng là ba giải song song 10, bắt đầu từ giữa hình khắc; rồI uốn vòng lên theo xích đạo Trái Đất; uốn vòng lên theo hướng Đông Bắc; bao lấy mặt trời ở phía Đông. Nửa trên của các dải này chỉ còn hai dải song song kéo dài liên tục lên Đông Bắc kết thúc ở điểm cao ngang vớI mặt trời và ba dải ở phía Tây Bắc. Dải thứ 3 ở ngoài cùng bên Đông chỉ có một đoạn vòng cung đến ngang tầm điểm cực Bắc của Trái Đất thì kết thức. Dải này có 3 đoạn dài ngắn ko đồng đều; đoạn ngắn nhất ở khoảng giữa có hai vạch đứt ở hai đầu.
Sách Dịch cổ cho ba dải số 9 (2) là Nội Quái tượng trưng cho các lớp vỏ trái Đất; còn ba dải số 10 là Ngoại Quái tượng trưng cho các giải sông Ngân hà.. Nhà nghiên cứu Dịch học Hống Quang cho đây là Lục Quyển bao gồm: Vũ Quyển nói về thờI kỳ hỗn mang chưa có hình dáng cụ thể ban đầu; Khí Quyển; Tầm Quyển; Sinh Quyển;Trí Quyển; Linh Quyển thuộc về giai đoạn vũ trụ đã định hình từ trạng thái hỗn mang Vô Cực đã thành Thái Cực….
[…lược một đoạn nói về lịch sử thiên văn học Tây Phương…]
Nhận thức của nhân loại đến thời Trung Cổ; mớI cách chúng ta khoảng 400 trăm năm mà còn tranh cãi quyết liệt nhức nhối như vậy (Các vấn đề liên quan đến tri thức Thiên văn phương Tây vào thời cổ và Trung cổ. Người viết). Thế mà từ 3000 – 4000 năm trước CN tổ tiên ta đã chạm khắc “mô hình vũ trụ” vào đá cổ Sapa; khẳng định cả Mặt trời và trái Đất đều là khối cầu tròn và đang quay. Chiều quay của Trái Đất từ Tây sang Đông ngược chiều kim đồng hồ; đúng như chiều quay của các hình đúc trên mặt trống đồng cổ kính của dân tộc. Sự chuyển động được biểu hiện bằng hình xoáy ốc từ tâm ra ngoài thật độc đáo. Đó là biểu trưng sức mạnh nội tâm của tinh cấu; không có sự can thiệp từ bên ngoài.
Ở vòng xoáy ốc ngoài cùng nẩy lên một nhánh cây; phải chăng đây là biểu hiện của sụ sống; của Sinh Quyển. Nhánh cây này có hai chòm lá ngả về phía Đông là phía mùa xuân. Như vậy quá đúng với triết lý Âm Dương Ngũ hành của các vị kỳ lão hiền triết Phục Hy; Thần Nông thời thượng cổ. Vòng xoay của mặt trờI cũng do nội lực xoáy ốc từ trong ra ngoài; ngược hướng với chiều quay của trái Đất từ Đông sang tây. Một chi tiết cần được chú ý là tổ tiên ta mô tả Mặt Tròi và Trái Đất đường kính gần ngang nhau; như một “cặp sao đôi”. Đây là ngẫu nhiên hay có chủ định từ trước? Từ nguồn trí thức linh giác nào mà ông cha ta khắc như vậy? Điều này rất đáng được suy nghĩ.
Bên cạnh trái Đất tròn còn có một hình vuông nhỏ 3 (4). Đây không lặp lại sai lầm của Hoa tộc thờI cổ là “trời tròn đất vuông” (Một số ngườI tới nay còn giải thích chuyện “bánh chưng bánh dày” theo hướng này là không đúng). Ở đây hình vuông đặt cạnh Đất tròn thì làm sao nói chệch đi là trời tròn cho được? PhảI thấy ở đây người nghệ nhân vô danh đã nắm kinh Dịch rất vững và đã chuyển hình chạm khắc sang một đề tài mớI: “Mẹ tròn con vuông”. Theo luận thuyết Âm Dương đất thuộc về Âm; về người mẹ; còn trời thuộc về Dương; thuộc về người cha. Thành ngữ tiếng Việt nói cha Trời ; mẹ Đất chính là vì vậy. Trong hình khắc mảnh vuông nhỏ đặt cạnh mẹ Đất phải hiểu là “Mẹ tròn con vuông”; một thành ngữ nói lên sụ mong mỏi; coi như lờI chúc tụng đối với các bà mẹ bước vào kỳ sinh nở phải được “vuông tròn” nghĩa là thuận lợI; không gặp rủI ro trắc trở khi vượt cạn một mình. Ý nghĩa nhân văn ở đây quá rõ; nó hoàn toàn khác vớI quan điểm tĩnh tại “Trời tròn đất vuông” của ngườI Trung Hoa cổ đại.
[..lược một đoạn…]
Trở lại với “Mô hình vũ trụ” (Hình đã dẫn – Người viết); cả mảng giữa của hình khắc dành cho con người. Tư tưởng chủ đạo ở đây là sự thể hiện rất rõ “luận điểm tam tài” của kinh Dịch.
Ở đây dưới ký hiệu quẻ Càn 7 (8) gồm ba vạch liền xếp chồng chéo lên nhau đặt hơi chếch về hướng Tây Nam – Đông Bắc là hai hình ngườI một nữ một nam được thể hiện bằng hình song song mang tính ước lệ nhiều hơn tả thực. Người nữ 4 (7) đứng hai chân giang rộng phía trên giải ngoại quái; bộ phận sinh dục khuyếch đại rất rõ. Tư thế chếch theo hướng Đông Bắc – Đông Nam; đầu nhô gần sát vạch giữa quẻ Càn. Tay phải cầm một khí cụ dài giơ thẳng chếch ở khoảng trống giữa Mặt trời và ký hiệu quẻ Càn. Người Nam 5 (1) đứng ở tư thế khom lưng trên giải Nội quái; song từ phần ngang hông trở xuống ko được thể hiện. Bộ phận sinh dục ở đây cũng phóng to hơn bình thường. Phía trên đầu ngườI nam là ký hiêu quẻ Sơn Địa Bác 8 (9) gồm quẻ Chấn chồng lên quẻ Khôn; đặt xoay dọc giữa quẻ Ngoại quái và hình vuông nhỏ. Ký hiệu cuối cùng đặt ở dưới vòng cung ngoại quái; phía bên hông gần đoạn ngắn ở giữa nối với hai đoạn dài hai bên là ký hiệu phồn thực 6.


Qua đoạn trích dẫn ở trên, người viết trân trọng giới thiệu với bạn đọc về sự giải mã hình vẽ trên bãi đá cổ Sapa của nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Liễn. Có thể có nhiều nhà nghiên cứu đã giải mã hình tượng này, vốn đã có từ khi bãi đá cổ được phát hiện (khoảng năm 1924 – 1926, do các nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử người Pháp). Nhưng cho đến mãi gần đây mới có những ý kiến liên hệ những hình vẽ này với một học thuật cổ Đông phương là kinh Dịch qua đoạn trích dẫn của nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Liễn , đã trình bày ở trên.
Nhưng với cách nhìn của người viết thì hình vẽ này mô tả một nội dung khác hẳn sự kiến giải của nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Liễn.

131134_zps1a934df6.jpg
Với những ký hiệu bằng số ở hình vẽ trên, người viết lần lượt giải mã theo thứ tự dưới đây:

1) Người đàn ông biểu tượng của tính thuần Dương ở giai đoạn khởi nguyên của vũ trụ, theo nguyên lý “Dương trước, Âm sau”: “Thái cực” trở thành Dương trong cặp phạm trù Âm Dương, khi xuất hiện sự phân biệt với chính nó là “lưỡng nghi”. Đã trình bày ở trên.
2) Trong kinh Dịch quái Càn (953102210_zps3afdaa02.jpg) thuộc Dương, ba vạch dài biểu tượng tính thuần Dương không có giới hạn. Đây chính là sự mô tả tính vô lượng, vô biên, không không gian, không thời gian, không lượng số của Thái Cực.
3) Tính “động” xuất hiện (“Lưỡng nghi”) tạo vòng xoáy ngược chiều kim đồng hồ. Đây cũng là chiều vận động của các Thiên hà hiện nay, trong đó bao gồm cả các sao và hành tinh. Đồng thời cũng là chiều quay của chính Thái Dương hệ và trái Đất. Đây cũng là hình tượng mô tả trạng thái “Thái cực sinh lưỡng nghi”. Đây cũng là biểu tượng của chữ “Vạn” ngược và cũng chính là sự mô tả đồ hình Âm Dương Lạc Việt.
4) Hình vuông bên cạnh vòng xoáy xác định: khi tính động xuất hiện  (“lưỡng nghi”), tức là sinh Âm (Động thuộc Âm, theo minh triết Việt“Dương tịnh, Âm động”) và nằm trong phạm trù Âm Dương , đối đãi với trạng thái tĩnh khởi nguyên, “Dương trước, Âm sau” (“Mẹ tròn, con vuông”).
5) Khi Âm xuất hiện thì sự vận động, tương tác tạo nên sự phát triển tiến hoá trong vũ trụ bắt đầu. Điều này được hình tượng bằng một cái cây tiếp nối từ sự vận động của vòng xoáy.
6) Sự xuất hiện của “Lưỡng nghi” thì vũ trụ bắt đầu phát triển do tính tương tác. Điều này người viết đã mô tả ở phần trên qua nội dung minh triết từ những di sản văn hiến Việt. Vòng xoáy thuận chiều kim đồng hồ là biểu tượng cho thấy sự tương tác của vũ trụ theo chiều ngược với chiều vận động của các thiên thể. Đây cũng chính là chiều vận động của Hà đồ.
Chữ Vạn có chiều thuận chính là biểu tượng của chiều tương tác vũ trụ. Xin các bạn lưu ý là: Qua các di vật khảo cổ có niên đại xấp xỉ 10.000 năm cho thấy chữ “Vạn” đã tồn tại rất lâu trong văn minh nhân loại.
7) “Dương tiêu, Âm trưởng”, đây là nguyên lý của Dịch, được biểu tượng bằng người đàn bà.
8) Khi Âm cực thịnh, “Âm tiêu, Dương trưởng”, đây là nguyên lý của Dịch, được biểu tượng bằng quái Càn trên đầu người đàn bà.
9) Hình số 9 trong bức tranh khắc đá trên, so sánh với những ký hiệu dịch sẽ có hình tương tự như sau:

image081_zps91a8d9f2.jpg

Ký hiệu quẻ Dịch trên bãi đá cổ           Hình mô tả
Theo nhà nghiên cứu Phạm Ngọc Liễn là quẻ Sơn Địa Bác, nếu lật theo chiều thuận kim đồng hồ:
7.jpg

8.jpg

Nhưng theo người viết thì đây là quẻ Địa Lôi Phục, nếu lật 90 độ theo chiều ngược kim đồng hồ là chiều vận động của các thiên thể trong vũ trụ. Theo kinh Dịch thì ý nghĩa của quẻ này là “sự trở lại”.Như vậy với hình tượng của quẻ Địa Lôi Phục cho thấy vũ trụ vận động tới cực điểm: “Âm cực thịnh, nhất Dương sinh” , sẽ là sự quay trở về trạng thái ban đầu.

8.jpg

4.jpg

Hay nói một cách khác:
Toàn bộ bức tranh này nói về nguyên lý của sự vận động vĩ mô từ khời nguyên cho đến kết thúc và có tính chu kỳ của toàn thể vũ trụ.
Trong hình vẽ trên, sự trùng khớp trong cách lý giải nội dung của thuyết Âm Dương Ngũ hành và nội hàm của hệ thống ký hiệu “bát quái”, được mô tả qua những di sản văn hóa truyền thống Việt trong tiểu luận này: từ sự khởi nguyên và chu kỳ vận động cuả vũ trụ trên bãi đá cổ Sa pa với nội dung những hình tượng chạm khắc thể hiện trên bãi đá cổ Sa pa, đã chứng tỏ sự hợp lý bao trùm trên những sự kiện và vấn đề liên quan.
Hay nói một cách khác: Sự trùng khớp hợp lý giữa những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trong nền văn hiến Việt, hệ quả của những giá trị nhận thức thuộc tư duy trừu tượng, thể hiện dưới những hình thức khác nhau, không thể coi là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Vì chúng đều là hệ quả của tư duy trừu tượng phản ánh sự nhận thức vũ trụ và cuộc sống. Đó chính là những nhân chứng, vật chứng bổ sung cho nhau và là chứng nhân của nhau, trong vấn đề minh chứng cho những giá trị đich thực của nền văn minh Đông phương thuộc về văn hiến Việt với gần 5000 năm lịch sử.
Với những ký hiệu quẻ trùng khớp với ý nghĩa của bức chạm trên bãi đá cổ Sapa, đã chứng tỏ: hệ thống bát quái trong Dịch học, một hệ thống ký hiệu siêu công thức tích hợp hữu cơ của thuyết Âm Dương ngũ hành thuộc về nền văn hiến Việt. Điều này cũng chứng tỏ rằng tên gọi đích thực của cuốn kinh Dịch, có nội dung từ “Lạc thư” phối với “Hậu thiên Văn vương”, nên còn gọi là “Chu Dịch”; mà phải gọi đúng tên của nó là: “Lạc thư chu dịch”. Tức là sách của người Lạc Việt nói về sự vận động tuần hoàn của vũ trụ.
Chúng tôi không bao giờ coi sự giải mã là bằng chứng cho một luận cứ nhân danh khoa học. Nhưng sự hợp lý bao trùm lên mọi lĩnh vực chính là sự phù hợp với tiêu chí khoa học làm chuẩn mực cho một giả thuyết nhân danh khoa học trong việc phản ánh một chân lý.

II. CÔNG ÁN NỔI TIẾNG TRONG PHẬT GIÁO VÀ “THÁI CỰC SINH LƯỠNG NGHI”.
“Thái cực sinh lưỡng nghi….” được giải thích từ những di sản văn hiến Việt, không chỉ dừng lại ở sự mô tả trạng thái khởi nguyên của vũ trụ, nhằm chứng minh và so sánh với tiêu chí khoa học về một lý thuyết phải mô tả và giải thích những thực tại liên quan tới nội dung của nó. Mà nó còn giải thích một công án nổi tiếng của Phật giáo. Công án này có nội dung như sau: “Thế nào là tiếng vỗ tay của một bàn tay?”.
Đây là một công án nổi tiếng lưu truyền qua nhiều thế hệ, được nhắc tới cả trong điện ảnh (Phim “Con voi trắng”) và cả sách của ông Thích Nhất Hạnh trước 1975. Nhưng vẫn chưa có một giải thích thấu đáo. Nhưng chính sự mô tả về “Thái Cực”, nhân danh nền văn hiến Việt, đã cho thấy chính“Thái cực”với nội hàm mô tả tính tuyệt đối của trạng thái khởi nguyên vũ trụ, là “một bàn tay”, là “Tính thấy”, là“căn bản sinh tử từ vô thủy”, ra ngoài nghĩa “phải và không phải”. Do đó, “Thái cực sinh lưỡng nghi”chính là “tiếng vỗ tay của một bàn tay”. Hiểu được công án này, chính là hiểu được “Tính thấy” và là điều kiện để hòa nhập “thức tính nguyên minh” có trong mỗi con người, điều kiện để đạt đến sự giải thoát tuyệt đối theo quan niệm Phật giáo.
Công án này cho đến ngày nay chưa có một đáp án rốt ráo. Chính vì trạng thái khởi nguyên của vũ trụ cũng chưa được giải quyết một cách rốt ráo, cho đến nay vẫn còn trong sự tìm hiểu của chính tri thức khoa học hiện đại và của cả một thời gian Hán hóa trải hàng thiên niên kỷ trong văn minh Đông phương, ngoại trừ văn hiến Việt.
Sự tích hợp nguyên nghĩa tiếng Việt của từ “Thái cực” với những khái niệm tương đồng trong Đạo giáo, Phật giáo, đã mô tả trạng thái khởi nguyên vũ trụ và nó đã giải thích một cách hợp lý ngay chính công án nổi tiếng của Phật giáo. Điều này chứng tỏ tính phù hợp với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết nhân danh khoa học, mà chúng tôi đã trình bày ở phần trên.
Một lý thuyết thống nhất phải mô tả được những vấn đề tôn giáo và tâm linh.
Đây là một tiêu chí hoàn toàn chính xác, ngoài những tiêu chí cho một lý thuyết thống nhất, mà nhà vật lý lý thuyết SW Hawking mô tả trong cuốn“Lược sử thời gian” của ông.
Sự tích hợp trạng thái khởi nguyên vũ trụ “Thái cực” với sự khởi nguyên của hai tôn giáo lớn nhất thuộc văn minh Đông phương cổ đại là Đạo giáo và Phật giáo, đã chứng tỏ sự phù hợp với tiêu chí khoa học cho một lý thuyết thống nhất của thuyết Âm Dương Ngũ hành thuộc về nền văn hiến Việt.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tại sao Bắc Kinh tuyên bố nhà đầu tư tỷ phú George Soros là “kẻ thù của nhân dân Trung Quốc”



George Soros tại Viện Tư Duy Kinh Tế Mới (New Economic Thinking - INET) ở Paris ngày 9 tháng 4, 2015. (Eric Piermont/AFP/Getty Images)
George Soros tại Viện Tư Duy Kinh Tế Mới (New Economic Thinking – INET) ở Paris ngày 9 tháng 4, 2015. (Eric Piermont/AFP/Getty Images)

Gần đây, nhà đầu tư tỷ phú và nhà từ thiện George Soros, Chủ tịch điều hành Quỹ Soros, một lần nữa trở thành mục tiêu phỉ báng rộng rãi trên các phương tiện truyền thông của nhà nước Trung Quốc, với những lời bình luận công bố chính thức tấn công ông trên các phương tiện truyền thông của nhà nước bằng cả tiếng Trung Quốc và tiếng Anh. Tờ Nhân dân Nhật báo đăng một bài viết trên trang nhất phiên bản hải ngoại với tựa đề “Tuyên bố chiến tranh với đồng tiền của Trung Quốc? Ha ha.” Bài báo tuyên bố rằng cuộc chiến của Soros với đồng nhân dân tệ và đồng đô la Hồng Kông không có khả năng thành công, cho rằng Soros đang thực hiện một âm mưu bán khống nước Trung Quốc. Rõ ràng Soros không phải là người duy nhất nói về sự hạ cánh khó khăn của nền kinh tế của Trung Quốc – nhưng vì sao chính quyền Trung Quốc chọn ông ta là “kẻ thù của nhân dân Trung Quốc?”

Hạ cánh cứng là không thể tránh khỏi

Soros đã nói gì tại Diễn đàn Kinh tế thế giới Davos để khiến chính quyền Trung Quốc ghét ông như vậy? Soros đã đưa ra ba nhận xét chính:

Thứ nhất, ông nói rằng thế giới đang lặp lại cuộc khủng hoảng kinh tế 2008, nhưng hiện nay nguyên nhân gốc rễ là Trung Quốc, chứ không phải là Hoa Kỳ, và do đó hai cuộc khủng hoảng này hoàn toàn không tương đồng.

Thứ hai, ông nói rằng lần này cuộc khủng hoảng bị gây ra bởi tình trạng giảm phát và khoản nợ quá hạn của nền kinh tế Trung Quốc, và rằng việc hạ cánh cứng (hard landing) là thực tế không thể tránh khỏi, mặc dù Trung Quốc chắc chắn có thể tiếp tục quá trình sai lầm này hai hoặc ba năm nữa trước khi nó xảy ra.

Thứ ba, Soros khẳng định rằng Trung Quốc có thể quản lý hạ cánh cứng vì họ có quyền hạn lớn hơn trong việc sử dụng các chính sách so với hầu hết các nước khác với hơn 3 nghìn tỷ đôla dự trữ.

Không có gì sai với điểm đầu tiên. Trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, những vấn đề nghiêm trọng chủ yếu nằm trong nền kinh tế ảo; nền kinh tế thực vẫn còn nguyên vẹn, và Hoa Kỳ vẫn dẫn đầu thế giới về nghiên cứu và công nghệ. Giáo dục vẫn là một ngành công nghiệp lớn tại Hoa Kỳ, và không có vấn đề nào với môi trường thể chế của nó. Những sự thật này làm cho tình hình hoàn toàn khác với những gì hiện nay Trung Quốc đang phải đối mặt, nơi có rất nhiều khó khăn trong nền kinh tế thực, chẳng hạn như một cơ cấu kinh tế kém, quá tải nghiêm trọng trong hàng chục ngành công nghiệp, những làn sóng phá sản, thiếu sự đổi mới công nghệ và v.v.. Những vấn đề này đã được các chuyên gia kinh tế và chính phủ Trung Quốc thừa nhận. Vì vậy, những gì Soros nói về cuộc khủng hoảng của Trung Quốc không thể được so sánh với cuộc khủng hoảng năm 2008 thực tế là một tuyên bố rất chính xác.

Điểm thứ hai về tỷ lệ nợ và nợ quá hạn của Trung Quốc là sự nhận thức chung của cộng đồng đầu tư quốc tế và lĩnh vực ngân hàng. Ban tham mưu chính thức của Trung Quốc, Học viện Khoa học Xã hội (CASS), cũng giữ quan điểm tương tự, và sự khác biệt duy nhất là mức tỷ lệ nợ. Trong tháng 7 năm 2015 CASS ban hành báo cáo cân đối quốc gia 2015. Bản báo cáo nói rằng tổng số nợ của nền kinh tế của Trung Quốc (bao gồm cả các tổ chức tài chính) vào cuối năm 2014 là 150,03 tỷ nhân dân tệ, hay 235,7 phần trăm của GDP, tăng từ 170 phần trăm của năm 2008.

Việc dự đoán liệu sự suy thoái kinh tế của Trung Quốc có gây ra tình trạng giảm phát hay lạm phát toàn cầu hay không giống như tung một đồng xu. Một vài năm trước, các nhà kinh tế Trung Quốc dự báo giảm phát, nhưng hóa ra là lạm phát. Soros hiện đang bị buộc tội “bán khống Trung Quốc” chỉ đơn giản với dự đoán “giảm phát”, điều chắc chắn là không công bằng.

Điểm thứ ba, “hạ cánh cứng”, không phù hợp với kế hoạch tuyên truyền của Bắc Kinh. Tuy nhiên phần còn lại của nhận xét đó gần như hoàn toàn tích cực. Trong ba năm qua, cộng đồng tài chính và kinh doanh quốc tế đã từng bước thống nhất ý kiến rằng suy thoái kinh tế của Trung Quốc là không thể tránh khỏi. Sự bất đồng nằm ở chỗ nó sẽ hạ cánh mềm hay hạ cánh cứng. Chính phủ Trung Quốc chắc chắn thích nghe cái trước. Sau tất cả, ai là người thích nghe một dự báo đáng ngại về sự hạ cánh cứng tai hại? Chưa kể đến việc kể từ kỷ nguyên của Mao, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) không khi nào có truyền thống cho việc chấp nhận những ý kiến ​​khác biệt với nó. Thay vào đó, nó thường tự hào là “trừ khử những người mang đến tin tức xấu.”

Bán đứng Trung Quốc

Rất nhiều tin tốt và tin xấu về nền kinh tế của Trung Quốc đã được đưa ra. Nhưng tại thời điểm này, rất ít điều được làm để tăng cường một cách hiệu quả thị trường chứng khoán Trung Quốc, và cờ hiệu đỏ liên tục xuất hiện trên thị trường tiền tệ. Dòng vốn chảy ra đang gia tốc mặc dù Bắc Kinh có thừa nỗ lực để kiềm chế chúng. Năm ngoái, việc giải cứu thị trường chứng khoán đã không thành công và do hậu quả đó, hàng chục nhân viên chứng khoán đã bị bắt vì “bán khống Trung Quốc.” Về lâu dài, chắc chắn việc đổ lỗi cho một người như Soros dễ hơn là bắt giữ thêm các chuyên gia chứng khoán Trung Quốc.

Hơn nữa, nếu Soros là người Anh hoặc người Pháp, Bắc Kinh sẽ không chọn ông vì nước Anh và nướcPháp không phải là một phần của “những lực lượng thù địch nước ngoài” mà Bắc Kinh thường ám chỉ. Soros là một ông trùm đầu tư tại Hoa Kỳ. Do đó ông hoàn toàn phù hợp với mô tả của Bắc Kinh về một “lực lượng thù địch nước ngoài.”

Cuối cùng, trong những tuyên truyền của đảng cộng sản Trung Quốc, Soros đã liên tục được dán nhãn là một con cá sấu tài chính quốc tế luôn bán khống các nước khác. Soros đã một lần bán khống cổ phiếu Hồng Kông vào năm 1998, buộc Hồng Kông phải khẩn cầu Bắc Kinh giúp đỡ. Nhờ Thủ tướng Chu Dung Cơ cho vay hàng chục tỷ đô la (có tin đồn nói rằng số tiền vào khoảng 28 tỷ đôla), sử dụng một phần trong 120 tỷ đôla dự trữ ngoại hối, và đã giúp chính phủ Hồng Kông buộc Soros phải lùi bước.

Bắc Kinh biết rất rõ rằng việc tránh nền kinh tế hạ cánh cứng là một nhiệm vụ khó khăn. Bằng cách coi Soros như một vật tế thần, đảng cộng sản Trung Quốc ít nhất có thể nói: “Việc hạ cánh cứng không phải là do sự quản lý kinh tế yếu kém của Đảng. Soros đã làm việc đó, và ông ta là một đối thủ quá mạnh. Nhiều chính phủ đã thua thiệt vì ông ta, do đó đối với Trung Quốc việc bị cú đánh này là không có gì đáng xấu hổ cả.”

Đây là bản dịch bài báo tiếng Trung của Hà Thanh Liên được Đài tiếng nói Hoa Kỳ đăng vào ngày 30 tháng 1, 2016. Hà Thanh Liên (He Qinglian) là một nhà văn và nhà kinh tế Trung Quốc xuất sắc. Hiện nay đặt trụ sở tại Hoa Kỳ, bà là tác giả cuốn “Những cạm bẫy của Trung Quốc”, liên quan đến nạn tham nhũng trong cải cách kinh tế của Trung Quốc trong những năm 1990, và cuốn “Làn sương mù kiểm duyệt: Việc kiểm soát thông tin đại chúng ở Trung Quốc”, trong đó đề cập đến việc thao túng và hạn chế đối với báo chí. Bà thường xuyên viết về những vấn đề kinh tế và xã hội đương đại của Trung Quốc

Tác giả: He Qinglian | Dịch giả: Xuân Dung

(Việt Đại Kỷ Nguyên)
Phần nhận xét hiển thị trên trang