Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 4 tháng 2, 2016

VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM 2015 – MỘT CÁCH NHÌN

BÙI VIỆT THẮNG

Nhà phê bình Bùi Việt Thắng
Nhà phê bình Bùi Việt Thắng
Tôi không thuộc loại người hay bi quan, nhưng cũng không đến mức lạc quan tếu khi nhìn nhận một vấn đề, sự việc dù ở tầm vĩ mô hay vi mô. Cái khó đến với người viết là rất lớn khi nhìn lại văn chương một năm trên một đất nước đang ở vào thời khắc chuyển mình mạnh mẽ nhất nhưng cũng từ đó phát lộ ra những mâu thuẫn gay gắt nhất, những khó khăn và thách thức chưa bao giờ có trên con đường phát triển bền vững. Chúng tôi nghĩ, nên nhìn vào những cái đã làm được hơn là ngồi than vãn về những điều mong muốn chưa được hiện thực hóa vì muôn vàn lý do khách quan và chủ quan. Bài viết của chúng tôi về văn chương Việt Nam năm 2015, xin được thưa trước với Quý vị, cũng chỉ là một góc nhìn, một cách nhìn rất chủ quan. Những sự kiện và lĩnh vực nêu trong bài viết, theo cách nhìn của chúng tôi, là những nốt nhấn chính của một năm văn chương Việt Nam.
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM LẦN THỨ IX (diễn ra tại thủ đô Hà Nội, tháng 7-2015), theo chúng tôi, là sự kiện có tầm ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực hoạt động sáng tạo văn chương nước nhà, không chỉ trong năm 2015, mà xuyên suốt một khoảng hạn ít nhất là 5 năm. Tính đến năm 2015, tổng số hội viên Hội Nhà văn Việt Nam là 1.114, như báo cáo của Ban Kiểm tra Hội. Con số không hề là vô tri vô giác. Nhìn vào “con số biết nói” này thấy có vẻ như chúng ta chỉ mới quan tâm về số lượng mà chưa thật chú trọng đến chất lượng. Đại hội lần này chí ít có nhiều cái mới như các phương tiện truyền thông đã chuyển tải. Tinh thần sáng tạo và đổi mới bền vững thể hiện rất rõ không chỉ trong báo cáo về phương hướng nhiệm vụ mà còn thể hiện trong thực tiễn hoạt động. Riêng tôi thấy sự gọn nhẹ của Ban Chấp hành mới của Hội NVVN khóa IX đã tạo nên sự năng động, hiệu quả. Nhỡn tiền thấy trang website của Hội NVVN hiện nay do nhà thơ Trần Đăng Khoa (Phó chủ tịch Hội) làm TBT cùng với những cộng sự thiện chiến tác nghiệp. Tuần vừa rồi mở đọc đã thấy khởi sắc. Tuần báo Văn nghệ, Tạp chí Thơ và Tạp chí Nhà văn & Tác phẩm đang tìm lối ra để đến được với đông đảo công chúng nghệ thuật. Củng cố và hoàn thiện các hội đồng chuyên môn và các ban công tác của Hội đã cho thấy quyết tâm vào trận mới của BCH Hội NVVN. Tin tưởng, tại sao không? Nhiều người cho rằng “đại hội” thì phần “hội hè” là chính. Nói vui thì được, nói nghiêm túc thì có lẽ hơi quá đà chăng? Được vinh dự tham gia Đại hội, tôi thấy bầu không khí dân chủ trong Hội NVVN từ đây (và có thể về sau) sẽ cởi mở, rộng rãi hơn. Vai trò của Hội NVVN, nếu không thiển nghĩ thì, không chỉ là một cấp hành chính, thuần túy điều hành bằng các công văn giấy tờ. Bản chất của Hội NVVN là một tổ chức đoàn kết lực lượng, thúc đẩy và nâng cao chất lượng sáng tác để văn chương thực sự đồng hành cùng sự nghiệp lớn của đất nước. Hội NVVN là ngôi nhà chung của tất cả các nhà văn có tình yêu văn chương và tâm nguyện sáng tác ngày càng thành công hơn.
TỪ NĂM 2015 ĐÃ HÉ LỘ TIỀN ĐỒ VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM TẤT YẾU SẼ NHẬP VÀO BIỂN LỚN NHÂN LOẠI. Tất cả nhà văn Việt Nam, chúng tôi nghĩ, đều có cái tâm niệm, thiện ý về một tiền đồ tươi sáng của văn chương nước nhà đến một ngày nào đó sánh vai cùng các cường quốc khác. Tất cả đều hi vọng trong tương lai chúng ta không phải là một quốc gia “nhập siêu” mà sẽ là “xuất siêu” văn chương. Quyền được hi vọng, tại sao không? Cách đây hơn 70 năm, trong kiệt tác Đời thừa (1943) nhà văn Nam Cao đã trao cái quyền mơ ước viết một tác phẩm đoạt giải Nobel văn chương cho một nhà văn nghèo có tên Hộ. Cho đến tận hôm nay vẫn chưa đạt tới nhưng cần phải biết hi vọng và có khát vọng sáng tạo. Vào đầu năm 2015, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức 2 sự kiện lớn nhằm khuyếch trương thanh thế, uy tín văn chương Việt Nam ra thế giới: Hội nghị Quốc tế quảng bá văn học Việt Nam ra thế giới lần thứ III, Liên hoan Thơ Châu Á – Thái Bình Dương lần thứ II. Vài năm gần đây khi Tổ chức văn học Á – Phi được tái thành lập, Việt Nam là một thành viên tham gia tích cực (nhà thơ Nguyễn Quang Thiều được bầu làm Phó Chủ tịch). Năm 2015, Việt Nam có 2 nhà văn (Nguyễn Ngọc Mộc và Cao Xuân Thái) nhận Giải thưởng văn học Sông Mê Kông lần thứ VI, 1 nhà văn nhận Giải thưởng văn học Đông Nam Á (Trần Mai Hạnh với tiểu thuyết Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75). Nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai đã mang thơ Việt Nam đến với bè bạn thế giới, đặc biệt là ở Mỹ. Danh sách tác phẩm của các nhà văn Việt Nam đương đại được dịch và giới thiệu ở nước ngoài đang ngày càng dài ra: Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Duy, Dương Hướng, Bảo Ninh, Lê Minh Khuê, Nguyễn Quang Thiều, Hồ anh Thái, Mai Văn Phấn, Phong Điệp,…Đã có Trung tâm dịch thuật của Hội NVVN. Vạn sự khởi đầu nan. Không phải không có những người tâm huyết và tài ba kiến tạo một chương trình hành động hữu hiệu để đặng giới thiệu tinh hoa nhân loại trong sự đón đợi tiếp nhận của công chúng Việt, đồng thời làm cho bè bạn năm châu bốn biển thưởng thức đặc sản văn chương thuần Việt.
VĂN XUÔI – MẶT TIỀN VĂN HỌC – ĐANG TỰ PHÁT LỘ TRONG NĂM 2015. Dư âm Cuộc thi truyện ngắn 2013-2014 của tạp chí Văn nghệ quân đội còn đậm đà trong lòng độc giả thì tiếp nối Cuộc thi truyện ngắn 2015-2017 của tuần báo Văn nghệ (Hội NVVN) tổ chức, đã đi được nửa chặng đường. Mỗi số báo có vài truyện ngắn đọc được, đã là sự cổ vũ lớn cho một thể loại vốn được coi là “nhỏ” nhưng có công năng nghệ thuật lớn. Mỗi truyện ngắn hay sẽ tạo nên những ám ảnh nghệ thuật lâu bền. Truyện ngắn luôn được xem là “trinh sát viên”, đóng vai trò xung kích trong việc áp sát đời sống, nhanh nhạy phát hiện vấn đề. Truyện ngắn đã từng được xem là thể loại có công đầu trong văn học Đổi mới (từ 1986, hoặc có thể nói sớm hơn nữa với đóng góp của Nguyễn Minh Châu và nhiều nhà văn khác). “Top” 10 truyện ngắn hay báo Văn nghệ năm 2015 như là một món quà Xuân Bính Thân đến với mọi nhà, mọi người. Ngoài tên tuổi gạo cội như Ma Văn Kháng, hoặc đã quen thuộc với độc giả như Đỗ Tiến Thụy, lần này báo Văn nghệ đã phát hiện và giới thiệu thêm những tên tuổi mới, nhiều nội lực như Vũ Thị Huyền Trang, Tống Ngọc Hân, Vũ Thiên Kiều, Vivian Nguyễn, Đặng Nguyên Sơn, Đinh Ngọc Lâm, Dương Giao Linh, Trần Huy Minh Phương. Ban Biên tập báo Văn nghệ phối hợp với nhà xuất bản Thanh niên đang chuẩn bị bản thảo cho một tuyển tập truyện ngắn sẽ ra mắt bạn đọc trong quý I năm 2016 (hơn 100 truyện được giới thiệu trên báo Văn nghệ trong năm 2015). Tạp chí VNQĐ đã trao tặng thưởng 2015 cho truyện ngắn Lòng biển của Kiều Bích Hậu. Đọc những tác phẩm như thế tự trong lòng độc giả có cái lòng tin vào truyện ngắn – một thể loại có tiền đồ trong văn chương. Báo Văn nghệ trong cuộc thi của mình như đã nói ở trên, hàng tháng có bình chọn truyện ngắn hay. Đấy cũng là một cách thức tôn vinh truyện ngắn.
Cuộc thi tiểu thuyết lần thứ IV (2011-2015) của Hội Nhà văn Việt Nam đã kết thúc, kết quả đã được công bố trên tuần báo Văn nghệ số 51 (ra ngày 19-12-2015). Cuộc thi lần này Ban Tổ chức nhận được 170 tác phẩm của 144 tác giả. Có 12 tác phẩm được giải, gồm 3 giải B (Người thứ hai của Tô Hải Vân, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sỹ, Mảnh vỡ của mảnh vỡ của Vĩnh Quyền) và 9 giải C ( Bác sỹ trưởng khoa của Vũ Oanh, Vùng sâu của Tô Nhuận Vỹ, Thạch trụ huyết của Nguyễn Trần Bé, Hát của Trần Nhã Thụy, Dư chấn 3,5 độ richter của An Bình Minh, Gã Tép Riu của Nguyễn Bắc Sơn, Cuộc đời ngoài cửa của Nguyễn Danh Lam, Seo sơn của Vũ Quốc Khánh và Đốt trúc của Nguyễn Đắc Như). So với ba cuộc thi trước thì cuộc thi lần thứ IV không có “đỉnh” (kiểu như Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh,Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh, Dòng sông mía của Đào Thắng, Bến đò xưa lặng lẽ của Xuân Đức, Rừng thiêng nước trong của Trần Văn Tuấn,…), nhưng cái “nền” khá rộng, thể hiện cái “phổ” tiếp xúc của tiểu thuyết với “cái hiện tại chưa hoàn thành” là rộng rãi và cập nhật. Con người thời đương đại với những số phận khác nhau hiện lên khá rõ. Chưa có sự đổi mới thi pháp thể loại nếu nhìn nhận một cách nghiêm túc, khoa học và công bằng. Nhà văn vẫn chủ yếu viết theo tinh thần “nệ thực”. Nhưng nhiệt hứng của nhà văn với cuộc đời và con người thì hiển hiện, đáng ghi nhận. Trong bài Phía trước của tiểu thuyết(in trên báo Công an nhân dân, số ra ngày 21-12-2015), chúng tôi đã đặt niềm tin của công chúng vào một thể loại được coi là “máy cái” của văn chương. Nhưng có lẽ tất cả còn đang ở phía trước.
Nói đến “mặt tiền văn chương” 2015 phải kể đến một số tiểu thuyết và truyện dài có tiếng vang trong năm như Hỗn độn của Nguyễn Khắc Phục, Người thợ mộc và tấm ván thiên của Ma Văn Kháng, Thị Lộ Chính Danh (tiểu thuyết lịch sử) của Võ Khắc Nghiêm, Tình cát của Nguyễn Quang Lập, Thông reo Ngàn Hống (tiểu thuyết lịch sử) của Nguyễn Thế Quang, Vỡ vụn của Nguyễn Bắc Sơn, Phách lạc hồn xiêu của Vũ Huy Anh, Hai người đàn ông trong cuộc đời chị của Bùi Việt Sỹ, Sương mù tháng giêng (tiểu thuyết lịch sử) của Uông Triều, Phùng Vương (tiểu thuyết lịch sử) của Phùng Văn Khai,Những kẻ giời hành của Đặng Vương Hưng, Thiên đường ảo vọng của Nguyễn Trí, Tiếng sáo lạc và Đáy giếng của Phạm Thị Bích Thủy, Con hoang của Lê Hồng Nguyên, Chỉ còn bốn ngày là hết tháng tư của Thuận, Chúa đất của Đỗ Bích Thúy, Quân khu Nam Đồng (truyện dài) của Bình Ca (có thể coi đây là một hiện tượng văn chương của năm, nó đáp ứng cái nhu cầu nhìn lại quá khứ và bản thân có lẽ ngày càng lớn hơn trong khuynh hướng nhận thức lại thực tại), Về cô gái này (truyện dài) của Nguyễn Ngọc Thuần, Ga ký ức của Phong Điệp, Huyết ngọc của Tống Ngọc Hân, Hoa xuyến chi nở muộn của Trần Lưu Sa,…
Một số tập truyện, tập truyện ngắn đáng đọc trong năm 2015 như Dưới rêu phong của Văn Chinh,Bùa yêu của Như Bình, Người lính kèn về làng của Trần Quốc Huấn, Hành trình của người lính của Lê Hoài Nam, Cạm bẫy ngọt ngào của Nguyễn Tuấn, Ám ảnh của Nguyễn Thị Ngọc Hà, Ngày đông có nắng của Thùy Dương, Viên kim cương bị bỏ rơi của Nguyễn Thị Vân Anh, Kỳ nhân làng Ngọc của Trần Thanh Cảnh, Tiếng kèn Pílè của Bùi Thị Như Lan, Miền vô thực của Tống Phú Sa, Không hẹn mùa côm cốm của Trần Quỳnh Nga, Những nẻo đường tu của Y Mùi, Trời làm lụt lội của Hoàng Ngọc Sơn, Bão đỏ của Thế Đức, Vệ đê trong đêm trăng của Lê Thị Bích Hồng, Chân trời tuyết phủcủa Nguyễn Tiến Lộc,…
Một số tản văn, tạp bút xuất bản trong năm 2015 rất đáng đọc như Tạp bút của Bảo Ninh, Giấc hoacủa Lê Hà Ngân (một cây bút mới toanh, có một lối văn rất trong sáng, nghiêng về cái Đẹp), Gã Tây kia sao lấy được vợ Việt của DiLi (hài hước, sinh động, cập nhật), Lạc trong đêm Liêu trai của Nguyễn Thị Ngọc Hà,…
Nói đến văn xuôi Việt Nam năm 2015, thiết nghĩ, không thể không nhắc đến Sống lửa của Nguyễn Thiện Đạo. Đọc và thấy một kiểu văn xuôi đượm chất “Liêu trai”. Không phải là ký, không phải là truyện ngắn, nó là một thứ văn xuôi nuôi dưỡng điện ảnh, theo cách viết của Nguyễn Thụy Kha thì: “Dọc theo chiều thứ năm không gian, văn xuôi Nguyễn Thiện Đạo hôn phối với nghệ thuật thứ bảy để ngỏ một kịch bản cho điện ảnh. Hay và lạ”. Một nhạc sỹ có tài năng viết văn, tôi nghĩ, văn của người này chắc chắn là độc đáo nhưng quả thực kén độc giả. Tôi biết tác phẩm này của Nguyễn Thiện Đạo không được PR, nó lặng lẽ đến với những “con mắt xanh” cả trong công chúng, cả trong giới phê bình một cách khiêm tốn. Có lẽ văn chương hiện hình cả trong những bề nổi và cả bề chìm của nó chăng?
Bìa 4 trường ca
Bìa 4 trường ca
NHÌN SANG THƠ VIỆT NAM NĂM 2015 THẤY SỰ TRỤ VỮNG ĐÁNG MỪNG CỦA TRƯỜNG CA. Nhà thơ Khuất Bình Nguyên trong tiểu luận Trường ca nửa sau thế kỷ 20 đã ghi nhận: “Nửa sau thế kỷ 20. Thơ Việt Nam được mùa trường ca. Nhất là sau năm 1975. Chỉ trong vòng trên dưới 50 năm có tới 164 trường ca của 102 tác giả. Chưa kể đến gần 30 truyện thơ và hàng trăm bài thơ trường thiên khác” (Báo Văn nghệ số 1+2 ra ngày 2-1-2016). Trường ca là “trọng pháo” của thơ cũng như tiểu thuyết là “máy cái” của văn chương vậy. Ai đó nói có vẻ chí lí. Năm 2015, riêng thể loại trường ca, tôi thấy, có dư ba nhất là Long mạch của Hoàng Trần Cương, Biển mặn của Nguyễn Trọng Tạo, Thức với biển của Nguyễn Đình Tâm (Giải Nhất cuộc thi sáng tác văn học 70 năm ngành Giao thông vận tải do Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ Giao thông vận tải tổ chức năm 2014-2015). Thực sự là tin vui với làng văn, đặc biệt những nhà thơ có ý đồ sáng tác trường ca. Trong một bài giới thiệu trường ca Long mạch của Hoàng Trần Cương chúng tôi có viết, đại ý, tác phẩm này được viết bằng một cảm hứng mang tinh thần “đại khí” văn chương, khác hẳn cái lối viết chỉ dựa vào “tiểu khí” nhằm ám chỉ, vạch vòi, nói cho sướng miệng của một số ít người cầm bút tự nhận mình là nhà văn. Đọc những trường ca này thấy ấm nóng tình yêu Tổ quốc, Nhân dân và con người Việt Nam đang vươn lên từng ngày, từng giờ để viết thành lịch sử thời đại. Nói theo cách của Nguyễn Đình Thi thì, đó là tác phẩm có khả năng thổi lên gió bão của đời sống mới.
Tôi muốn dành đôi dòng cho trường ca Cuộc chiến mười ngàn ngày của tác giả Hữu Đạt. Ông là nhà giáo – nhà văn (công tác tại trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội). Trong trường ca này ông đã ứng dụng một hình thức “hình họa” bởi: “Thơ hình họa thực chất đã phá bỏ một nguyên tắc phổ biến là tính hình tuyến của ngôn ngữ trong quá trình tạo lập văn bản (…). Vừa đọc, vừa xem đó chính là cách tiếp cận thơ hình họa” (Lời nói đầu). Cứ xem đây là một thể nghiệm và thái độ của chúng ta là bình tĩnh đón chờ hiệu ứng nghệ thuật của một mô thức mới đang xâm nhập vào thực tiễn sáng tác thơ nói chung, trường ca nói riêng. Riêng tôi biết, để hoàn thành trường ca này Hữu Đạt đã ấp ủ và viết trong vòng mấy năm trời. Đúng như người ta nói, lao động văn chương chữ nghĩa là một thứ lao động khổ sai, cô đơn luôn luôn như đối diện với “pháp trường trắng”.
Không ít người bi quan về thơ Việt Nam hôm nay. Cái lí lẽ mà họ đưa ra là sở dĩ thơ không hay vì nhà thơ không được nói thật lòng mình. Nghe có vẻ có lí. Nhưng như cổ nhân nói “vạn cái lí không bằng một tí cái tình”. Nhà thơ phải xem lại cái tình của mình đã đủ chín chưa, đã đủ sâu chưa, hay chỉ mới phơn phớt? Đọc thơ dự thi trên tạp chí Văn nghệ quân đội năm 2015, riêng tôi thấy, không có gì đáng phải bi quan cả. Thơ có những bước đi riêng của mình, thơ có những tiêu chí đánh giá khác với các thể loại văn chương cùng tồn tại trong một không gian và thời gian cụ thể. Chúng tôi quan sát thấy nhà xuất bản Phụ nữ trong năm 2015 vẫn mạnh dạn in cùng lúc hai tập thơ của Nguyễn Việt Chiến Tổ quốc nhìn từ biển và Hoa hồng không vỡ. Buổi giới thiệu hai tác phẩm mới của Nguyễn Việt Chiến ở Bảo tàng Phụ nữ rất đông độc giả tham dự và mua sách, lắng nghe chăm chú và trao đổi rất sôi nổi. Trường hợp một nhà thơ một năm in hai tập thơ phải kể thêm Đặng Cương Lăng với Khoảng trống và vì sao và Hạt lúa phận người (người thơ này trong vòng 6 năm – từ 2009 đến 2015 – đã in 8 tập thơ, ai đó gọi đây là “một tín đồ thơ” cũng không ngoa chút nào), Trần Hùng với bộ đôi Vườn khuya, Thảm thắc chứng tỏ vẫn còn nhiều duyên nợ, sống chết với thơ. Tôi tự nhận mình không phải là người “sành” thơ. Nhưng năm qua đã đọc nhiều tập thơ khá như Minh triết đất đai của Nguyễn Vũ Tiềm, Dặm xa tìm về của Nguyễn Thanh Kim, Chia ngũ cốc của Nguyễn Quang Hưng, Ngọn nến cháy của Thuận Vy, Trong veo nước suối nguồn của Quang Hoài, Trăng vàng ngồi vớt trăng vàng của Hoàng Việt Hằng, Lục bát tôi của Đặng Nguyệt Anh, Cảm tạ cuộc đời của Hoàng Cát, Cãi vã với linh tinh của Trần Cao Sơn, và tùy bút thơ Người đi đã trở về của Lê Tuấn Lộc,…Vậy nên riêng tôi thấy không hề có văn chương nói chung, thơ nói riêng lâm nguy như ai đó đã tung ra một báo động giả.
NGHIÊN CỨU, LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC 2015 vẫn âm thầm và bền bỉ như chính cách thế tồn tại của nó trong văn chương hôm nay. Kỷ niệm 250 năm sinh Đại thi hào – Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du ((được coi như một hoạt động lớn nhất của đời sống văn chương trong năm), ngoài phần lễ, có nhiều hội thảo khoa học trên toàn quốc. Tinh túy của các công trình nghiên cứu được tập hợp trong 2 bộ sách lớn Di sản văn chương đại thi hào Nguyễn Du: 250 năm nhìn lại (do NXB Khoa học xã hội ấn hành) và Đại thi hào dân tộc – Danh nhân văn hóa Nguyễn Du (do NXB ĐHQG. Tp HCM ấn hành). Nhân Đại hội đại biểu toàn quốc Hội NVVN lần thứ IX, một cuốn sách đầy đặn đã đến tay toàn thể các hội viên như một món quà có ý nghĩa: Tuyển tập lý luận phê bình văn học 1945-2015. Đây là dạng sưu tập, một thứ cẩm nang rất tiện dụng cho văn giới. Một sự nhìn lại thành tựu chặng đường 70 năm lý luận phê bình văn học bởi sự kế tục và đóng góp của nhiều thế hệ. Một bộ sách đẹp của Đinh Xuân Dũng Văn hóa, văn học, nghệ thuật Việt Nam đương đại (2 tập, 890 trang) được trân trọng giới thiệu tại Thư viện Quốc gia. Tác giả nguyên là đại tá, công tác tại Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là những công trình có tính chất tổng kết. Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Bá Thành (Đại học Quốc gia Hà Nội) với công trìnhToàn cảnh thơ Việt Nam 1945-1975 đã đánh một dấu mốc quan trọng trong nghiên cứu thơ Việt Nam hiện đại nửa sau thế kỷ XX. Riêng tôi nghĩ, cuốn sách này sẽ tạo nên tranh luận học thuật thú vị vì những vấn đề được nghiên cứu được coi là mới mẻ và táo bạo. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện có Văn chương nghệ thuật và thẩm mỹ tiếp nhận đi vào một hướng mới – lý thuyết tiếp nhận – vốn còn rất mới mẻ ở ta. Công trình tập thể (Trần Khánh Thành, Nguyễn Thanh Tâm, Vũ Lan Anh) Khuynh hướng tượng trưng và siêu thực trong thơ Việt Nam hiện đại là một chuyên luận có cái nhìn khá mới mẻ về thơ hiện đại Việt Nam từ góc độ thi pháp thể loại. Nghiên cứu viên Cao Kim Lan (Viện Văn học) có công trình nghiên cứu thú vị Tác giả hàm ẩn trong tu từ học tiểu thuyết. Là một người trẻ nhưng chị có cái nhìn khá sâu về văn xuôi đương đại Việt Nam. Nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Thanh Tâm (công tác tại Viện Văn học) ra mắt chuyên luận Loại hình Thơ mới Việt Nam 1932-1945. Một công trình có tiếng vang và được tìm đọc. Anh còn là đồng tác giả (cùng Ngô Hương Giang) của chuyên luận Mai Văn Phấn & hành trình thơ vào cõi khác. Tác giả Nguyễn Thanh Tâm cùng trang lứa với Đoàn Ánh Dương, Ngô Hương Giang, Hoàng Đăng Khoa, Hoàng Thụy Anh, Đoàn Minh Tâm,…đang gieo niềm hi vọng về một thế hệ kế cận trong lĩnh vực khó khăn nhất như người ta thường nói.
Mảng sách phê bình – tiểu luận cũng khá phong phú, không như ai đó do không chịu khó sưu tầm và đọc nên có cảm giác là “không có gì đáng nói”!? Nguyễn Đức Tùng tận tít tắp Canada vẫn hào hứng góp vào đời sống văn chương Việt trong năm bằng tác phẩm mới của mình Thơ cần thiết cho ai. Chu Giang (Nguyễn Văn Lưu) vẫn hừng hừng khí thế với Luận chiến văn chương (Quyển ba). Có người khen, người chê nhưng thiết nghĩ đây là một giọng phê bình khá đặc biệt vì tinh thần “xung thiên” của sự viết. Bích Thu với Văn học Việt Nam hiện đại – Sáng tạo và tiếp nhận vẫn tỏ rõ là cây bútt nữ viết phê bình có duyên, cái duyên mặn mòi của người trải nghiệm và tinh tế. Lý Hoài Thu với Văn nhân quân đội bày tỏ thịnh tình của mình với các nhà văn mặc áo lính và văn học viết về chiến tranh. Cách viết của tác giả trong tập sách đẹp này là mềm mại hóa những vấn đề tưởng chừng khô cứng và nhất thời. Tập phê bình thơ Âm thanh của tưởng tượng của Lê Hồ Quang, riêng chúng tôi nghĩ, là nổi trội nhất trong năm. Tác giả là giảng viên khoa Sư phạm Ngữ văn, trường Đại học Vinh. Tôi biết chị có làm thơ nên có thể đi vào thế giới nghệ thuật thơ một cách rất tinh tế và sâu sắc. Lê Thị Bích Hồng với Những người tự đục đá kê cao quê hương một lần nữa xóa tan định kiến về một cán bộ Tuyên giáo, quen “ăn sóng nói gió”, nay khá mềm mại uyển chuyển khi viết về các nhà thơ, nhà văn các dân tộc ít người Việt Nam thời hiện đại (Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Y Phương, Pờ sảo Mìn, Lò Ngân Sủn, Mai Liễu và Cao Duy Sơn). Có vẻ như một năm “âm thịnh” của phê bình chăng? Nhà thơ Trần Quang Quý ngẫu hứng với Đốt đèn tìm lửa thơ (Những suy cảm về thơ), thêm một bằng chứng về tiềm năng viết phê bình thơ của các nhà thơ từ Chế Lan Viên, Xuân Diệu đến Vũ Quần Phương, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Vũ Tiềm… Đặng Hiển (thuộc thê đội U80 vẫn cần cù, nhẫn nại viết phê bình). Văn chương người cùng thời (dày hơn 500 trang) khiến người đọc tâm phục khẩu phục về lao động chữ nghĩa của ông. Nguyên An trung thành với thể loại chân dung, tiếp tục trình làng Người thường gặp. Lối viết nhẩn nha, nghiêng về phác thảo chân dung đôi khi cũng gây thú vị cho độc giả thấy tiếp tục phải bổ sung những gì chưa thỏa mãn trong sách mình đọc.
MỘT VÀI KỶ LỤC VĂN CHƯƠNG CỦA NĂM 2015. Cuốn hồi ký của một diễn viên điện ảnh nổi tiếng được in ở một nhà xuất bản có thương hiệu, với số lượng “khủng” (10.000 bản), giá khá đắt. Nhưng chúng tôi không coi đó là kỷ lục văn chương của năm, nó thuộc phạm trù thị trường, văn hóa đại chúng. Nhà văn Ma Văn Kháng (sinh 1936), năm 2015, theo cách tính tuổi ta thì ông 80, thuộc hàng “bát tuần”. Tôi nhớ nhà văn Nguyễn Khải có viết một ý về “văn già văn trẻ”. Ông gọi thế hệ mình là “gừng càng già càng cay”. Ở tuổi đáng lẽ chỉ có nghỉ ngơi, vui chơi với con cháu, nhưng tôi thấy nhà Ma Văn Kháng vẫn cứ cặm cụi bên bàn viết. Có khi là viết mới, có khi là chỉnh sửa, có khi là tập hợp sáng tác. Năm 2015 nhà văn đã ra mắt độc giả bốn tác phẩm: Người thợ mộc và tấm ván thiên (tiểu thuyết), Nhà văn anh là ai (tiểu luận), Bông hồng vàng (truyện ngắn mi – ni), Bài ca trăng sáng (gồm 4 truyện vừa). Nhiều người còn nhớ trong buổi giới thiệu sách Chuyện của Lý (tiểu thuyết) tại nhà xuất bản Hội Nhà văn, khán thính giả có vẻ ngậm ngùi, nuối tiếc khi nhà văn Ma Văn Kháng tuyên bố từ nay sẽ “rửa tay gác kiếm”. Ấy thế mà từ bấy đến nay vẫn cứ thấy ông cho “ra lò” đều đều. Người ta vẫn kêu ca là thơ thời nay dễ in nhưng khó bán (chỉ để tặng!?). Vậy nhưng các trường ca Biển mặn của Nguyễn Trọng Tạo đã in tới 4000 bản, Thức với biển của Nguyễn Đình Tâm đã in tới 3000 bản. Ai dám bảo thơ chỉ “cho không biếu không”. Trường hợp Quân khu Nam Đồng (truyện dài) của Bình Ca cũng có thể coi là một kỷ lục văn chương của năm. Trong vòng chỉ chưa đầy một năm đã tái bản lần thứ ba (mỗi lần 2000 bản), có thể xếp vào loại sách bán chạy, nhưng vẫn giữ được chất văn như là “một cuốn sách khiến ta khó rời mắt trước khi lật đến trang cuối cùng”. Nữ nhà văn trẻ DiLi in mới và tái bản tất cả 9 cuốn trong năm 2015, trong số đó có tập tản văn rất ngộ nghĩnh Gã Tây kia sao lấy được vợ Việt, bán chạy. Thừa thắng xốc tới, ngày 18-1-2016 DiLi tiếp tục ra mắt tác phẩm mới Câu lạc bộ số 7 (tiểu thuyết trinh thám) tại Trung tâm Văn hóa Pháp, Hà Nội./.
Hà Nội, tháng 1 năm 2016
* Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội, số Tết Bính Thân 2016
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ký kết xác thực lời văn Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương


Ngày 04 tháng 02 năm 2016, Bộ trưởng phụ trách thương mại của 12 nước tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) gồm Ốt-xtrây-lia, Bru-nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru, Xinh-ga-po, Hoa Kỳ và Việt Nam đã tham dự Lễ ký kết để xác thực lời văn Hiệp định TPP tại Auckland, Niu Di-lân. Sau khi ký chính thức, các nước sẽ tiến hành thủ tục phê chuẩn Hiệp định theo quy định của pháp luật nước mình. Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày nhận được thông báo sau cùng bằng văn bản về việc các Bên đã hoàn thành thủ tục pháp lý nội bộ.
Được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng đã thay mặt Chính phủ Việt Nam ký xác thực lời văn Hiệp định TPP và 35 thỏa thuận song phương trong các lĩnh vực liên quan đến dịch vụ tài chính, dệt may, nông nghiệp, sở hữu trí tuệ… mà Việt Nam đã thống nhất với một số nước TPP. Các thỏa thuận song phương này sẽ có hiệu lực cùng thời điểm với Hiệp định TPP.   
Sau hơn 5 năm đàm phán với hơn 30 phiên làm việc ở cấp kỹ thuật và hơn 10 cuộc đàm phán ở cấp Bộ trưởng, các nước TPP đã chính thức kết thúc đàm phán Hiệp định vào ngày 05 tháng 10 năm 2015 tại Hội nghị Bộ trưởng tại Át-lan-ta, Hoa Kỳ. Hiệp định bao gồm 30 chương, đề cập không chỉ các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà còn cả các vấn đề mới như thương mại điện tử, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, doanh nghiệp nhà nước v..v.  
  Bộ Công Thương xin trân trọng công bố toàn văn Hiệp định TPP bằng 3 thứ tiếng gồm tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha đã được các nước ký xác thực lời văn và có giá trị pháp lý như nhau.  
Bên cạnh đó, nhằm mục đích đáp ứng kịp thời và đầy đủ hơn nhu cầu thông tin của các cơ quan hoạch định chính sách, cộng đồng doanh nghiệp và người dân, Bộ Công Thương cũng xin công bố bản dịch tiếng Việt do các Bộ, ngành có liên quan thực hiện. Mặc dù phải thực hiện trong một thời gian ngắn với khối lượng văn kiện rất lớn nhưng các Bộ, ngành đã cố gắng đảm bảo tính chính xác tối đa về mặt nội dung và sẽ tiếp tục chỉnh sửa, hoàn thiện các bản dịch này trong thời gian tới./.    
  



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chân dung Sài Gòn một thế kỷ


Đầu thế kỷ 20 đàn ông Nam bộ không còn búi tóc củ hành nên nghề cắt tóc ra đời; giày dép bắt đầu phổ biến làm xuất hiện nghề sửa giày… Ngày nay trên vỉa hè vẫn còn ông thợ hớt tóc dạo, người thợ sửa giày lâu năm…
Không còn hình ảnh lam lũ chân đất áo bà ba như xưa, nhưng trong mưu sinh người Sài Gòn ngày nay vẫn giữ những nét văn hóa cơ bản của đầu thế kỷ 20.
Từ những năm 1910-1930, nam giới đã không còn búi tóc củ hành mà bắt đầu cắt tóc ngắn. Theo đó, nghề hớt tóc dạo đường phố ra đời. Đến nay, các tiệm cắt tóc, salon tóc đã chuyên nghiệp hơn, tích hợp nhiều dịch vụ tiện ích, nhưng thỉnh thoảng đâu đó trên vỉa hè đường phố Sài Gòn, dưới những bóng cây mát vẫn còn những người thợ cắt tóc bình dị, với những dụng cụ hành nghề rất đơn giản, nhỏ gọn.
Từ những năm 1910-1930, nam giới đã không còn búi tóc củ hành mà bắt đầu cắt tóc ngắn. Theo đó, nghề hớt tóc dạo đường phố ra đời. Đến nay, các tiệm cắt tóc, salon tóc đã chuyên nghiệp hơn, tích hợp nhiều dịch vụ tiện ích, nhưng thỉnh thoảng đâu đó trên vỉa hè đường phố Sài Gòn, dưới những bóng cây mát vẫn còn những người thợ cắt tóc bình dị, với những dụng cụ hành nghề rất đơn giản, nhỏ gọn.
Là phương tiện vận chuyển tiện lợi, taxi bắt đầu xuất hiện ở Sài Gòn - Chợ Lớn vào khoảng cuối những năm 40 và thịnh hành những năm 50 của thế kỷ 20. Trong ảnh là chiếc taxi năm 1970 (ảnh trên) và hiện nay (ảnh dưới).
Là phương tiện vận chuyển tiện lợi, taxi bắt đầu xuất hiện ở Sài Gòn – Chợ Lớn vào khoảng cuối những năm 40 và thịnh hành những năm 50 của thế kỷ 20. Trong ảnh là chiếc taxi năm 1970 (ảnh trên) và hiện nay (ảnh dưới).
Sài Gòn xưa có hàng nước, quán cóc bán trà đá, trà chanh…thì trên phố Sài thành hiện nay cũng phổ biến gánh hàng, bàn giải khát với đủ loại nước có ga, nước chanh, sâm lạnh, nước dừa...
Sài Gòn xưa có hàng nước, quán cóc bán trà đá, trà chanh…thì trên phố Sài thành hiện nay cũng phổ biến gánh hàng, bàn giải khát với đủ loại nước có ga, nước chanh, sâm lạnh, nước dừa…
Nghề đưa thư ở Sài Gòn bắt đầu phát triển từ đầu thế kỷ 20, chủ yếu là bằng chân, do các đoàn người vận chuyển từ nơi này đến nơi khác, chỉ một số ít thư được vận chuyển bằng xe. Khi đó đất phương Nam còn nhiều rừng rậm thú dữ nên nghề đưa thư khá nguy hiểm. Ngày này nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin, máy móc thiết bị hiện đại nên việc thông tin liên lạc đã nhanh chóng, tiện lợi hơn nhiều lần.
Nghề đưa thư ở Sài Gòn bắt đầu phát triển từ đầu thế kỷ 20, chủ yếu là bằng chân, do các đoàn người vận chuyển từ nơi này đến nơi khác, chỉ một số ít thư được vận chuyển bằng xe. Khi đó đất phương Nam còn nhiều rừng rậm thú dữ nên nghề đưa thư khá nguy hiểm. Ngày này nhờ sự phát triển của công nghệ thông tin, máy móc thiết bị hiện đại nên việc thông tin liên lạc đã nhanh chóng, tiện lợi hơn nhiều lần.
Hình ảnh chiếc xe đẩy bán hủ tíu dạo gắn liền với văn hóa ẩm thực Sài Gòn hơn 100 năm nay. Những chiếc xe bán hủ tíu đến nay gần như vẫn còn giữ nguyên cách buôn bán lề đường, đặc biệt là là tiếng gõ “lách cách” đặc trưng. Ngày nay vẫn còn những tiệm bán hủ tíu trên 50 năm tuổi như các tiệm của người Hoa ở khu Chợ Lớn, trên đường Triệu Quang Phục (quận 5), đường Gia Phú (quận 6),...
Hình ảnh chiếc xe đẩy bán hủ tíu dạo gắn liền với văn hóa ẩm thực Sài Gòn hơn 100 năm nay. Những chiếc xe bán hủ tíu đến nay gần như vẫn còn giữ nguyên cách buôn bán lề đường, đặc biệt là là tiếng gõ “lách cách” đặc trưng. Ngày nay vẫn còn những tiệm bán hủ tíu trên 50 năm tuổi như các tiệm của người Hoa ở khu Chợ Lớn, trên đường Triệu Quang Phục (quận 5), đường Gia Phú (quận 6),…
Gánh hàng rong đã có từ rất lâu đời, và trở thành một nét văn hóa đặc trưng rất Sài thành. Trải bao thăng trầm dâu bể của thời cuộc, gánh hàng rong ngày nay không khác xưa là mấy, vẫn đơn sơ quà vặt, bình dị những tiếng rao.
Gánh hàng rong đã có từ rất lâu đời, và trở thành một nét văn hóa đặc trưng rất Sài thành. Trải bao thăng trầm dâu bể của thời cuộc, gánh hàng rong ngày nay không khác xưa là mấy, vẫn đơn sơ quà vặt, bình dị những tiếng rao.
Nghề sửa giày bắt đầu xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, cho đến nay đã trở thành một trong những nghề thủ công lâu đời nhất tại Sài Gòn. Sửa giày được xem là một nghề khá nhàn nhã, thu nhập không cao nhưng ổn định, bất cứ khi nào cũng có việc để làm. Ngày nay, nghề sửa giày ít nhiều đã bị mai một, nhưng vẫn có thể bắt gặp những người thợ già đang miệt mài đóng giày trên hè phố, nhất là ở các đường Lê Thánh Tôn, Hai Bà Trưng (quận 1)...
Nghề sửa giày bắt đầu xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, cho đến nay đã trở thành một trong những nghề thủ công lâu đời nhất tại Sài Gòn. Sửa giày được xem là một nghề khá nhàn nhã, thu nhập không cao nhưng ổn định, bất cứ khi nào cũng có việc để làm. Ngày nay, nghề sửa giày ít nhiều đã bị mai một, nhưng vẫn có thể bắt gặp những người thợ già đang miệt mài đóng giày trên hè phố, nhất là ở các đường Lê Thánh Tôn, Hai Bà Trưng (quận 1)…
Lê Phương – Mai Nhật(Ảnh tư liệu Sài Gòn xưa tổng hợp từ nhiều nguồn)
Nguồn: VnExpress

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Con trai ông Nguyễn Bá Thanh viếng mộ cha ngày giỗ đầu


Bảo Ngọc - “Ổng là quan, tôi là dân. Tôi chỉ biết đến ổng qua những việc làm cho Đà Nẵng, cho đất nước. Năm ngoái, tôi tiễn ổng về với đất thì năm nay trở lại viếng mộ”, ông Ba nói.


Hàng nghìn người viếng mộ
Ngôi mộ ông Nguyễn Bá Thanh, nguyên Trưởng Ban Nội chính Trung Ương, cố Bí thư Thành ủy Đà Nẵng nằm lặng lẽ trong khuôn viên nghĩa trang gia đình. Cách đây đúng một năm, ngày 25 tháng chạp Âm lịch 2015, ông Nguyễn Bá Thanh từ trần sau cơn bạo bệnh. Hàng nghìn người dân Đà Nẵng và các địa phương đau buồn, xếp hàng dài suốt con đường tiễn đưa ông về với đất mẹ.

Những ngày giáp Tết Âm lịch 2016, thời tiết miền Trung giá lạnh, sự bận rộn ngày cuối năm không ngăn được hàng nghìn người dân đến viếng mộ ông Nguyễn Bá Thanh nhân ngày giỗ đầu.


Người phụ nữ đơn thân đứng lặng trước mộ ông Thanh

Anh Hoàng Tính (trú quận Thanh Khê) đứng lặng gần 1 giờ đồng hồ trước ngôi mộ cố Bí thư Thành ủy Đà Nẵng.

Anh Tính cho hay, anh là người con sinh ra, lớn lên ở Đà Nẵng nên cảm nhận rõ sự thay đổi của thành phố dưới sự lãnh đạo của ông Thanh.

Anh Hoàng Tính lặng người trước mộ ông Nguyễn Bá Thanh

“Tôi từng tham dự buổi nói chuyện của bác Thanh với thanh niên thành phố. Bác gần gũi, thân mật nhưng cũng rất nghiêm túc.

Những câu chuyện, lời khuyên của bác Thanh không cao siêu mà lại giản dị, ý nghĩa. Tôi trước đó là thiếu niên chậm tiến, từ những câu chuyện của bác Thanh mà tôi thay đổi, tự học việc làm để nuôi sống bản thân và gia đình”, anh Tính tâm sự.

Đi trên chiếc xe mưu sinh hằng ngày, ông Lê Ba chở theo người bạn Nguyễn Văn Tri (phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ) đến viếng mộ ông Nguyễn Bá Thanh từ sáng sớm ngày 3-2.

Ông Tri cho biết, nhờ ông Thanh ra chính sách mà năm nào người chạy xe ôm như ông cũng nhận được món quà tết từ thành phố.

Ông Tri, ông Ba không kìm được cảm xúc khi nói về ông Thanh

“Tôi ở gần nhà ông Thanh nên có mấy lần gặp gỡ nói chuyện. Ông ấy luôn hỏi thăm cuộc sống của anh em chạy xe ôm, gặp khó cái gì, khó khăn như thế nào. Ông ấy là lãnh đạo thành phố mà gần gũi, quan tâm đến dân lao động như tụi tui lắm”, ông Tri kể.

Ông Ba tiếp lời: “Ổng là quan, tôi là dân. Chúng tôi chưa có dịp gặp gỡ nhau. Tôi chỉ biết đến ổng qua những việc làm cho Đà Nẵng, cho đất nước. Năm ngoái, tôi đi tiễn ổng về với đất thì năm nay trở lại viếng mộ ổng vào ngày giỗ đầu”.


Bài thơ của một người dân sáng tác khi đến viếng mộ ông Thanh

Ông Đặng Nghi, trưởng thôn Lệ Xuân 2, xã Hòa Tiến đứng lặng người trước khu mộ người anh đồng hương.

Ông Nghi và ông Thanh quen biết nhau từ thời trai trẻ. Sau này, ông Thanh làm lãnh đạo thành phố nhưng mỗi dịp về quê đều đến thăm nhà ông Nghi và uống chung chén trà. Ông Nghi cho hay, từ ngày ông Thanh mất đến nay, tháng nào ông cũng lên mộ thắp nhang một lần.

Ông Đặng Nghi thắp hương cho ông Nguyễn Bá Thanh

“Tôi với ảnh trạc tuổi nhau nên thân như anh em. Tôi ngưỡng mộ những gì anh ấy làm được nên tháng nào cũng lên thắp nhang mong anh ấy mỉm cười nơi chín suối và phù hộ cho thành phố quê hương”, ông Nghi nói.

Ông Đặng Nhanh, quản gia khuôn viên nghĩa trang gia đình ông Nguyễn Bá Thanh cho hay, khoảng 1 tuần trước ngày giỗ đầu, người dân đến thắp hương rất nhiều.

Người đến thắp nhang từ anh xe ôm đến người làm công chức thành phố, bác nông dân cho đến doanh nhân nào đó. Đám trẻ con đi học về cũng ghé vào thắp hương cho bác Thanh.


Nhiều em học sinh cũng vào thắp hương viếng ông Thanh

“Ngày thường thì mỗi ngày có khoảng 100 người ghé thắp nhang. Một tuần gần đây thì có ngày gần 3.000 – 4.000 người. Họ là người dân Đà Nẵng và cả các tỉnh lân cận.

Có nhiều người ở Hà Nội, TP.HCM có việc đến Đà Nẵng cũng ghé viếng mộ ông Thanh. Cứ nửa tiếng là tôi phải rút bớt chân nhang một lần”, ông Nhanh kể.

Lưu giữ ký ức trong nhà lưu niệm

Sáng 3-2, gia đình ông Nguyễn Bá Thanh cũng đã mở cửa cho người dân vào tham quan khu nhà lưu niệm nằm trong khuôn viên khu nghĩa trang gia đình.

Nhà lưu niệm ông Nguyễn Bá Thanh

Theo đại diện gia đình, nhà lưu niệm sẽ trưng bày những hình ảnh về cuộc đời của ông Thanh từ khi là chủ nhiệm HTX Hòa Nhơn đến lúc làm Bí thư Thành ủy Đà Nẵng và Trưởng Ban Nội chính Trung ương.

Ngoài ra, nhà trưng bày còn có những kỷ vật gắn liền với ông Thanh trong suốt sự nghiệp.


Ông Nguyễn Bá Cảnh, con trai ông Thanh viếng mộ cha nhân ngày giỗ đầu

“Nhà trưng bày còn có những bài thơ, ca khúc, bài báo viết về ông Thanh. Đó là tấm lòng của mọi người đối với ông Thanh lúc đang làm việc và đã mất. Chúng tôi muốn những tư liệu, hình ảnh đó đến gần với tất cả mọi người”, đại diện gia đình ông Thanh cho hay.


Nhiều người tham quan nhà lưu niệm


Chiếc xe 67 gắn liền với cuộc đời ông Thanh trong nhà lưu niệm


Hình ảnh ông Thanh cùng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong một chuyến công tác

UBND TP Đà Nẵng cho biết, thành phố không có chương trình kỷ niệm về ông Thanh nhân dịp này.

Tuy nhiên trước đó, Đà Nẵng đã hỗ trợ xuất bản hai cuốn sách: “Người lĩnh xướng bài ca Đà Nẵng” và “Nguyễn Bá Thanh – Một người con của Đà Nẵng”.

Đài phát thanh truyền hình TP Đà Nẵng cũng ra mắt bộ phim tài liệu “Sống trong lòng dân” nói về cuộc đời ông Nguyễn Bá Thanh.


http://soha.vn/xa-hoi/con-trai-ong-nguyen-ba-thanh-vieng-mo-cha-ngay-gio-dau-20160203085511681.htm
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc: Những điềm báo xấu


 V. Minh
Hàng loạt các dấu hiệu cho thấy Trung Quốc khó tránh khỏi một đợt giảm tốc kinh tế kéo dài sau 3 thập kỷ tăng trưởng với tốc độ hai con số.


Tín hiệu đáng lo

Nhiều chỉ số cho thấy kinh tế TQ đang đối mặt với một thời kỳ tăng trưởng trì trệ kéo dài và không dễ lấy lại được đà tăng trưởng cao như trước.

Số liệu công bố hôm 25/1 từ Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia TQ cho thấy, lượng sử dụng diesel của Trung Quốc trong 2015 giảm 3,7% so với 2014. Đây là năm giảm thứ 2 liên tiếp và mạnh hơn mức giảm 1,5% trong năm trước đó.

Mức giảm 3,7% tính theo giá trị tương đối không phải quá lớn. Tuy nhiên, là nước tiêu thụ dầu lớn thứ 2 thế giới cho nên tính theo con số tuyệt đối số lượng dầu diesel mà Trung Quốc giảm tiêu thụ trong năm vừa qua là khổng lồ. Đây là một trong những yếu tố gây áp lực lên lớn lên giá dầu.
Đồng NDT của Trung Quốc liên tục mất giá.

Hồi tháng 8/2015, thị trường thế giới chứng kiến một hiện tượng lạ: Trung Quốc xả kho dự trữ dầu diesel. Sau thép, nhôm, dầu diesel là mặt hàng quan trọng tiếp theo được TQ tung ra bán ồ ạt trên thị trường trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới này chậm lại.
Lượng xấu khẩu dầu diesel của TQ trong tháng 8 đạt mức kỷ lục sau khi xuất khẩu nhôm và thép nhiều chưa từng có. Xuất khẩu diesel của TQ khi đó tăng tới 77% so với cùng kỳ lên hơn 722 ngàn tấn.

Theo Bloomberg, lần đầu tiên trong 25 năm qua, sản lượng thép ở Trung Quốc đã suy giảm. Trong năm 2015, các nhà máy thép của TQ đã giảm sản lượng do nhu cầu trong nước suy giảm, giá thép trên thế giới liên tục lao dốc. Theo đó, sản lượng thép năm 2015 giảm 2,3% xuống còn 803,8 triệu tấn. Tốc độ giảm trong tháng 12/2015 so với cùng kỳ là -5,2%.

Trong năm 2016, theo dự báo của Citigroup, sản lượng thép của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới này có thể tiếp tục giảm thêm 2,6% do kinh tế giảm tốc. Trong giai đoạn 1990-2014, sản lượng thép thô của nước này liên tục tăng trưởng tới hơn 12 lần và là một thước đo cho sự phát triển của kinh tế TQ.

Sản lượng điện và tăng trưởng tín dụng cũng là các chỉ số được nhiều chuyên gia phân tích tin dùng hơn cả và được xem là một biểu hiện thấy điều gì đang thực sự diễn ra trong nền kinh tế.

Trước đó, sự sụt giảm chưa từng có của kho dự trữ ngoại hối cũng là một tín hiệu xấu đối với kinh tế TQ.

Năm 2015, TQ chứng kiến lần đầu tiên trong lịch sử dự trữ ngoại hối giảm và xuống đáy trong hơn 2 năm. Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) cho biết, dự trữ ngoại hối đã giảm hơn 5.000 tỷ USD trong năm vừa qua xuống còn 3.330 tỷ USD.

Xuất khẩu cũng là vấn đề đáng bàn, theo AFP, trong năm 2015, lần đầu tiên kể từ 2009 xuất khẩu của nước này suy giảm. Tổng kim ngạch thương mại giảm 7% so với 2014 xuống còn khoảng 3,7 ngàn tỷ USD. Nhiều dự báo cho thấy, trong tương lai, xuất khẩu của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới sẽ không thể tạo ra một bước ngoặt thần kỳ như trước đây.

Năm ngoái, TQ cũng đã phải chứng kiến 1.000 tỷ USD tháo chạy khỏi nước này. Hiện tượng tháo chạy của các NĐT khiến nhiều người không khỏi liên tưởng về một tương lai không mấy sáng sủa của nền kinh tế nước này trong quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế xuất khẩu tốc độ cao sang mô hình ổn định hơn tập trung vào dịch vụ và tiêu dùng.

Nỗ lo giảm tốc 

Có quá nhiều những nhận định khác nhau về nền kinh tế TQ. Nhiều chuyên gia cho rằng, TQ sẽ chứng kiến một cú hạ cánh cứng và rơi vào khủng hoảng. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, một số chuyên gia cho rằng, không có gì phải lo cho TQ, nền kinh tế nước này vừa có một bước tiến lớn. Tiêu dùng đã tăng trở lại và dịch vụ đang ngày càng đóng góp lớn hơn vào GDP… TQ còn nhiều dư địa để kích thích tài khóa nếu cần thiết…

Mặc dù vậy, sự lo ngại là phổ biến. Theo thống kê của Google, nếu như trong năm 2014, các từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất về nước này là: TQ nền kinh tế lớn nhất thế giới, TQ vượt Mỹ, TQ nền kinh tế số 1 thế giới… thì các từ khóa chủ yếu trong năm 2015 là “kinh tế Trung Quốc sụp đổ”, “kinh tế Trung Quốc khủng hoảng”, "cuộc chiến tiền tệ"...

Cú sốc chứng khoán bắt đầu từ nửa cuối tháng 6/2015 khiến TTCK TQ bốc hơi gần 50%, tương đương mất 5 ngàn tỷ đồng đã khiến thế giới lao vào tìm hiểu xem vấn đề gì đang xảy ra với một huyền thoại về tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế mà chỉ trước đó vài tháng được xem là có thể vượt Mỹ để lên vị trí số 1 chỉ trong một vài năm sau đó.

Trung Quốc đối diện với khá nhiều vấn đề trong quá trình phát triển kinh tế.

Cú lao dốc trên TTCK nhiều thời điểm đã được chặn lại. Tuy nhiên, những nỗ lực này liên tục tan thành mây khói với những cú sốc sập sàn trong những ngày đầu năm mới 2016.

Sau một thời gian hàng thập kỷ tăng trưởng nhanh, nền kinh tế TQ cần phát triển chậm lại để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới có chất lượng hơn. Thay vì dựa vào đầu tư và xuất khẩu, nền kinh tế được hướng sang tiêu dùng và dịch vụ.

Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng chậm hơn là điều khó chấp nhận. TQ đã liên tục bơm tiền để kích tăng trưởng kinh tế và khiến TTCK bùng nổ tăng trưởng gấp 2,5 lần trong một thời gian ngắn ngủi 1 năm tính cho đến giữa 2015.

Trung Quốc đối diện với khá nhiều vấn đề trong quá trình phát triển kinh tế.

Nguồn: Vietnamnet

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư nghĩa là gì và phản ứng với nó như thế nào


Klaus Schwab

Phạm Nguyên Trường dịch

Chúng ta đang đứng trước cuộc cách mạng công nghệ sẽ làm thay đổi một cách căn bản lối sống, cách làm việc của chúng ta và cách chúng ta liên hệ với nhau. Sự chuyển hóa sẽ khác hẳn những giai đoạn mà nhân loại đã từng trải qua cả về quy mô, phạm vi và độ phức tạp. Chúng ta vẫn chưa biết nó sẽ diễn ra như thế nào, nhưng rõ ràng là: phải có phản ứng tích hợp và toàn diện, bao gồm tất cả các bên liên quan của cộng đống chính trị thế giới, từ các khu vực công và tư đến giới hàn lâm và xã hội dân sự.

Cuộc cách mạng công nghiệp thứ nhất sử dụng nước và máy hơi nước để cơ khí hóa quá trình sản xuất. Cuộc các mạng thứ hai sử dụng điện năng để tạo ra nền sản xuất đại trà. Cuộc cách mạng thứ ba sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Cuộc Cách mạng công nghiệp thứ tư hiện nay được xây dựng dựa trên cuộc Cách mạng thứ ba, tức là cuộc cách mạng kỹ thuật số diễn ra từ giữa thế kỉ XX. Đặc diểm của nó là sự hợp nhất các công nghệ, xóa nhòa ranh giới giữa vật lý, kỹ thuật số, và sinh học.

Có ba lý do giải thích vì sao những chuyển hóa đang diễn ra không phải chỉ đơn giản là sự kéo dài của cuộc Cách mạng công nghiệp thứ ba mà là Cuộc cách mạng thứ tư và là một cuộc Cách mạng khác: tốc độ, phạm vi và tác động lên các hệ thống. Tốc độ của những bước đột phá hiện nay là vô tiền khoáng hậu. So sánh với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây, cuộc Cách mạng thứ tư phát triển với tốc độ lũy thừa chứ không phải là tốc độ tuyến tính. Hơn nữa, nó sẽ phá vỡ hầu hết các ngành trong tất cả các quốc gia. Và bề rộng và chiều sâu của những thay đổi này báo trước sự chuyển hóa toàn bộ các hệ thống, cả sản xuất, quản lí lẫn quản trị.

Khả năng của hàng tỉ người kết nối với nhau bằng các thiết bị di động - với khả năng xử lí, dung lượng lưu trữ và tiếp cận với tri thức chưa từng có - là vô cùng vô tận. Và những khả năng này sẽ được nhân lên nhiều lần bởi những đột phá về công nghệ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, người máy, tập hợp các thiết bị có khả năng kết nối với nhau (Internet of Things), thiết bị tự động, in 3-D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử

Hiện nay, xung quanh chúng ta đã có khá nhiều trí tuệ nhân tạo, từ những chiếc xe tự hành và may bay không người lái đến những thiết bị trợ giúp và phần mềm phiên dịch hay đầu tư. Tiến bộ đầy ấn tượng trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) trong mấy năm gần đây – nhờ sự gia tăng theo cấp số nhân về khả năng tính toán và một lượng lớn dữ liệu, từ phần mềm được sử dụng để tìm ra các loại thuốc chữa bệnh mới đến những thuật toán được sử dụng để dự đoán những mối quan tâm về văn hóa của chúng ta. Đồng thời, hàng ngày các công nghệ chế tạo kỹ thuật số đang tương tác với thế giới sinh học. Các kỹ sư, nhà thiết kế và kiến trúc sư đang kết hợp thiết kế bằng máy tính, công nghệ in 3-D, kỹ thuật vật liệu và sinh học tổng hợp nhằm tạo ra sự cộng sinh giữa vi sinh vật, cơ thể chúng ta, những sản phẩm mà chúng ta tiêu thụ và thậm chí là cả những tòa nhà mà chúng ta sống nữa.

THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI

Tương tự như các cuộc cách mạng trước đây, cuộc Cách mạng công nghiệp thứ tư có tiềm năng nâng cao thu nhập trên toàn cầu và cải thiện chất lượng sống cho người dân trên toàn thế giới. Cho đến nay, những người thu lợi nhiều nhất là người tiêu dùng có thể đủ điều kiện và tiếp xúc được với thế giới kĩ thuật số; công nghệ đã làm ra các sản phẩm và dịch vụ mới có thể làm gia tăng hiệu quả công việc và niềm vui trong cuộc sống của chúng ta. Gọi taxi, đặt chỗ máy bay, mua sản phẩm, thanh toán, nghe nhạc, xem phim hay chơi game trên máy tính – tất cả những việc này đều có thể được thực hiện từ xa.

Trong tương tai, cải tiến về công nghệ còn có thể dẫn đến những điều kì diệu, mang lại những lợi ích lâu dài về hiệu quả và năng suất lao động. Chi phí vận tải và thông tin liên lạc sẽ giảm, hậu cần và chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ hiệu quả hơn và chi phí buôn bán sẽ giảm, tất cả những sự kiện này sẽ giúp mở ra những thị trường mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Đồng thời, như hai nhà kinh tế học Erik Brynjolfsson và Andrew McAfee đã chỉ ra, cuộc cách mạng này có thể làm cho bất bình đẳng gia, đặc biệt là vì nó có thể làm rối loạn thị trường lao động. Khi tự động hóa thay thế cho lao động trong toàn bộ nền kinh tế, việc máy móc thay thế cho người lao động có thể làm gia tăng khoảng cách giữa số tiền trả cho tư bản và tiền trả cho lao động. Mặt khác, cũng có khả năng là việc công nghệ thay thế cho người lao động sẽ dẫn đến kết quả là lao động trở nên an toàn hơn và được tưởng thưởng nhiều hơn.

Hiện nay chúng ta không thể dự đoán được kịch bản nào sẽ xay ra, và lịch sử cho thấy rằng kết quả thường là sự kết hợp của hai kịch bản nói trên. Tuy nhiên, tôi tin tưởng rằng, trong tương lai, tác nhân quan trọng nhất trong sản xuất sẽ là tài năng chứ không phải là tư bản. Điều này sẽ ngày càng chia thị trường lao động thành hai phân khúc “tay nghề thấp/lương thấp” và “tay nghề cao/lương cao”, điều đó, đến lượt nó, lại làm gia tăng căng thẳng trong xã hội.

Cùng với cuộc Cách mạng thứ tư, bất bình đẳng không những là mối lo chính trong kinh tế mà còn là mối lo lớn nhất trong lĩnh vực xã hội. Những người cung cấp nhà xưởng và vốn trí tuệ - các nhà sáng chế, các cổ đông và nhà đầu tư - sẽ là những người được hưởng lợi nhiều nhất, đấy là lí do giải thích vì sao khoảng cách ngày càng gia tăng về của cải giữa những có vốn và những người lao động. Vì vậy, công nghệ là lí do vì sao trong những nước có thu nhập cao công nghệ là lí do chính làm cho thu nhập của đa số dân chúng gia tăng rất chậm, thậm chí còn giảm: ngày càng cần nhiều người lao động có tay nghề cao trong khi nhu cầu về người lao động ít học hoặc không có tay nghề thấp ngày càng giảm. Kết quả là thị trường lao động với nhu cầu cao ở hai đầu, trong khi khoảng giữa thì không có nhu cầu.

Điều này giúp giải thích vì sao lại có nhiều công nhân thất vọng và lo sợ rằng thu nhập thực tế của họ và của con họ sẽ tiếp tục lẽo đẽo theo sau đà tăng của giá cả. Nó cũng giúp giải thích vì sao giai cấp trung lưu trên toàn thế giới ngày càng cảm thấy bất mãn và cho rằng xã hội bất công đối với họ. Nền kinh tế mà người thắng cuộc được tất cả, tức là nền kinh tế giành ít cơ hội cho giai cấp trung lưu là nguyên nhân dẫn tới bất ổn và thờ ơ đối với chế độ dân chủ.

Thái độ bất mãn có thể còn gia tăng bởi sự lan tràn của công nghệ số và thông tin do các phương tiện thông tin đại chúng loan tải. Hơn 30% người dân trên thế giới hiện đang sử dụng công cụ thông tin xã hội để kết nối, học tập và chia sẻ thông in. Trong thế giới lí tưởng, những tương tác này sẽ cung cấp cơ hội cho việc tìm hiểu và cố kết các nền văn hóa khác nhau. Nhưng chúng cũng có thể còn tạo ra và truyền bá những mong đợi phi thực tế cho những cá nhân và những nhóm người khác nhau, cũng như tạo cơ hội cho người ta truyền bá những tư tưởng và ý thức hệ cực đoan.


TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP


Chủ đề cơ bản trong những cuộc thảo luận của tôi với các CEO và những nhà quản lí doanh nghiệp cao cấp trên khắp thế giới là gia tốc của cải tiến và tốc độ của đổ vỡ là những điều khó nắm bắt và khó dự đoán và đấy là nguồn tạo ra những sự ngạc nhiên bất tận, ngay cả đối với những người có nhiều mối quan hệ và có nhiều thông tin nhất. Trên thực tế, có bằng chứng rõ ràng rằng các ngành công nghệ vốn là trụ cột cho cuộc Cách mạng thứ tư là những ngành có ảnh hưởng mạnh nhất đối với doanh nghiệp.

Bên phía cung, nhiều ngành đang chứng kiện sự xuất hiện của các công nghệ mới, sẽ tạo ra những biện pháp hoàn toàn mới nhằm đáp ứng những nhu cầu hiện có và làm rối loạn nghiêm trọng chuỗi cung ứng hiện có. Đổ vỡ còn do những người cạnh tranh đầy sáng kiến và nhanh nhẹn gây ra, những người này – nhờ tiếp cận với nền tảng công nghệ số toàn cầu trong nghiên cứu, phát triển, tiếp thị, bán và phân phối – có thể hất cẳng những người đang hoạt động trong những lĩnh vực này nhanh chóng hơn hẳn trước kia vì họ có thể cải thiện chất lượng, tốc độ và giá cả của hàng hóa mà họ cung cấp.

Sự thay đổi lớn bên phía cung cũng sẽ xảy ra vì sự minh bạch và tham gia của người tiêu thụ gia tăng và hành vi của người tiêu thụ thay đổi (ngày càng dựa vào mạng và dữ liệu trên mạng) buộc các công ty phải thay đổi cách thiết kế, tiếp thị và cung ứng sản phẩm và dịch vụ cho phù hợp.

Xu hướng chính là phát triển những nền tảng khả thi về công nghệ, có thể kết hợp cả cung và cầu nhằm phá vỡ những cơ cấu hiện có, như chúng ta đã thấy trong nền kinh tế “chia sẻ” hay “phục vụ nhu cầu”. Những nền tảng công nghệ này làm cho việc sử dụng bằng điện thoại trở nên dễ dàng hơn, dễ thu hút người, tài sản và dữ liệu hơn – bằng cách đó tạo ra những cách thức mới trong tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ ngay trong tiến trình. Ngoài ra chúng còn hạ thấp rào cản đối với doanh nghiệp và cá nhân trong việc tạo ra của cải, làm thay đổi môi trường làm việc và môi trường sống của người lao động. Những doanh nghiệp dựa trên nền tảng mới này sẽ gia tăng nhanh chóng trong nhiều lĩnh vực dịch vụ, từ giặt là cho đến mua sắm, từ những việc nhỏ mọn cho đến đỗ ô tô, từ mát-xa cho tới du lịch.

Nói chung, cuộc Cách mạng công nghiệp thứ tư có thể gây ra cho doanh nghiệp bốn tác động chính – tác động lên kì vọng của người tiêu dùng, tác động lên tính năng của sản phẩm, tác động lên đổi mới sáng tạo và tác động lên hình thức tổ chức. Dù là người tiêu dùng hay doanh nghiệp thì người tiêu dùng cũng ngày càng trở thành trung tâm của nền kinh tế, một nền kinh tế luôn luôn nghĩ tới cải tiến cách thức phục vụ người tiêu dùng. Hơn nữa, nhờ kĩ thuật số mà tính năng của sản phẩm vật chất và dịch vụ có thể gia tăng, và vì vậy mà giá trị của chúng cũng gia tăng. Công nghệ mới làm cho tài sản trở thành lâu bền hơn và dẻo dai hơn, trong khi dữ liệu và phân tích nói cho ta biết phải bảo quản chúng như thế nào. Đồng thới, thế giới với những trải nghiệm của nguồi tiêu dùng, dịch vụ dựa trên cơ sở dữ liệu, hiệu suất của tài sản dựa vào phân tích, đòi hỏi những hình thức hợp tác mới, đặc biệt là với tốc độ cải tiến và phá hủy như đã thấy. Cuối cùng, sự xuất hiện của những nền tảng toàn cầu và những mô hình kinh doanh mới có nghĩa là cần phải suy nghĩ lại về tài năng, văn hóa và hình thức tổ chức.

Nhìn chung, sự chuyển dịch không thể tránh khỏi từ số hóa đơn giản (Cách mạng công nghiệp thứ ba) sang sáng tạo đổi mới dựa trên sự kết hợp của các công nghệ (Cách mạng công nghiệp thứ tư) đang buộc các công ti phải xem xét lại cách làm ăn của họ. Tuy nhiên, điểm mấu chốt, vẫn là một: những người đứng đầu doanh nghiệp và những nhà điều hành cấp cao cần phải hiểu môi trường đang thay đổi, phải đưa ra những thách thức trước các giả định của nhóm điều hành và đổi mới sáng tạo không ngừng và liên tục.

TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI CHÍNH PHỦ

Khi thế giới vật chất, thế giới kỹ thuật số và thế giới sinh học tiếp tục hội tụ, các công nghệ mới và nền tảng mới sẽ ngày càng tạo điều kiện cho người dân tham gia vào công việc của chính phủ, thể hiện ý kiến của mình, phối hợp những nỗ lực của họ, và thậm chí tránh được sự giám sát của cơ quan công quyền. Đồng thời, chính phủ sẽ nằm được sức mạnh của công nghệ mới - dựa trên các hệ thống giám sát toàn diện và khả năng kiểm soát cơ sở hạ tầng kỹ thuật số - nhằm gia tăng khả năng kiểm soát dân chúng. Tuy nhiên, nói chung, khi vai trò trung tâm của chính phủ trong việc thực hiện chính sách giảm dần do có những nguồn cạnh tranh, tái phân phối và phân quyền mà các công nghệ mới làm cho trở thành khả thi thì các chính phủ sẽ ngày càng phải đối mặt với áp lực đòi thay đổi cách tiếp cận về sự tham gia của cộng đồng và lập chính sách.

Cuối cùng, khả năng của hệ thống quản trị và các cơ quan công quyền trong việc thích ứng sẽ quyết định khả năng sống sót của họ. Nếu họ chứng minh được khả năng nắm bắt được cái thế giới đang thay đổi một cách đột ngột này, buộc các cơ cấu của họ đưa sự minh bạch và hiệu quả lên mức đủ cao giúp họ duy trì lợi thế cạnh tranh thì họ sẽ tồn tại. Nếu không thể tiến hóa thì họ gặp nhiều khó khăn hơn.

Điều này sẽ đặc biệt đúng trong lĩnh vực luật lệ. Các hệ thống chính sách công và ra quyết định hiện thời đã tiến hóa cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp thứ hai, đấy là khi người ra quyết định có thời gian nghiên cứu vấn đề cụ thể và đưa ra phản ứng cần thiết hoặc khung pháp lý thích hợp. Toàn bộ quá trình được thiết kế theo lối tuyến tính và cơ học, kết quả của cách cách tiếp cận cứng nhắc “từ trên xuống”.

Nhưng cách tiếp cận đó không còn khả thi nữa. Do những thay đổi của cuộc Cách mạng thứ tư diễn ra với tốc độ nhanh và có ảnh hưởng rộng, các nhà lập pháp và những người quản lí đang đứng trước những thách thức chưa từng có và đa số không thể đối phó được.

Thế thì làm sao họ có thể bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và xã hội nói chung trong khi tiếp tục hỗ trợ đổi mới và phát triển công nghệ? Bằng cách nắm lấy nền quản trị “nhanh”, tương tự như khu vực tư nhân áp dụng phản ứng nhanh trước sự phát triển của phần mềm và hoạt động kinh doanh nói chung. Có nghĩa là nhà quản lí phải liên tục thích ứng với môi trường mới và đang thay đổi nhanh chóng, tự đào tạo lại để có thể thực sự hiểu những thứ mà họ đang quản lí. Muốn làm như thế, chính phủ và các cơ quan quản lí cần phải phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp và xã hội dân sự.

Cuộc Cách mạng công nghiệp thứ tư cũng sẽ có tác động sâu sắc đối với an ninh quốc gia và quốc tế, ảnh hưởng đến cả khả năng và bản chất của các cuộc xung đột. Lịch sử chiến tranh và an ninh quốc tế là lịch sử của sự đổi mới công nghệ, và hiện nay cũng không phải là ngoại lệ. Các cuộc xung đột trong thời hiện đại dính líu đến các quốc gia đang ngày càng có tính “lai ghép” (hybrid), tức là kết hợp kỹ thuật chiến đấu truyền thống với các yếu tố phi nhà nước. Sự phân biệt giữa chiến tranh và hòa bình, quân nhân và không phải quân nhân, và thậm chí bạo lực và bất bạo động (chiến tranh trên không gian mạng) đang trở thành mờ nhạt.

Khi diễn ra quá trình như thế và các công nghệ mới như vũ khí tự động hoặc vũ khí sinh học dễ sử dụng hơn, các cá nhân và các nhóm nhỏ sẽ ngày càng tham gia nhiều hơn với nhà nước và có khả năng gây ra những thiệt hại to lớn. Khả năng dễ bị tổn thương mới này sẽ tạo ra những mối lo mới. Nhưng đồng thời, những tiến bộ trong công nghệ - ví dụ, biện pháp bảo vệ mới hoặc nhắm mục tiêu chính xác hơn - sẽ tạo điều kiện làm giảm quy mô hoặc tác động của bạo lực.

TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN


Cuối cùng, cuộc Cách mạng công nghiệp thứ tư sẽ làm thay đổi không chỉ những việc chúng ta làm mà còn thay đổi cả chính chúng ta. Nó sẽ có ảnh hưởng đến bản sắc của chúng ta và tất cả những vấn đề liên quan với nó: ý thức của chúng ta về sự riêng tư, quan niệm của chúng ta về quyền sở hữu, mô hình tiêu thụ của chúng ta, thời gian chúng ta làm việc và giải trí, và cách thức chúng ta phát triển sự nghiệp, trau dồi kỹ năng, gặp gỡ và xây đắp các mối quan hệ với những người khác. Nó đã và đang làm thay đổi sức khỏe của chúng ta và dẫn đến tự “định lượng” (ý là con người tự định lượng cho mình: thức ăn, sức khỏe, tâm lí…- ND), và làm gia tăng năng lực của con người nhanh hơn là chúng ta vẫn nghĩ. Có thể kéo dài danh sách này đến vô tận bởi vì nó là hoàn toàn phụ thuộc vào trí tưởng tượng của chúng ta.

Tôi là một người rất hăng hái và là người áp dụng công nghệ ngay từ đầu, nhưng đôi khi tôi cũng tự hỏi liệu sự hội nhập không tránh được của công nghệ vào cuộc sống của chúng ta có làm giảm bớt một số khả năng tinh túy của con người, ví dụ như lòng từ bi và sự hợp tác. Mối quan hệ của chúng ta với điện thoại thông minh là trường hợp đáng suy ngẫm. Kết nối liên tục có thể tước đi một trong những tài sản quan trọng nhất của cuộc sống: thời gian nghỉ ngơi, suy nghĩ và tham gia vào những cuộc đối thoại có giá trị.

Một trong những thách thức lớn nhất mà công nghệ thông tin mới đặt ra cho cá nhân là sự riêng tư. Theo bản năng, chúng ta hiểu được vì sao nó là lại quan trọng đến như thế, nhưng việc theo dõi và chia sẻ thông tin về chúng ta là phần thiết yếu của mối liên kết mới. Những cuộc tranh luận về các vấn đề cơ bản như tác động của việc mất quyền kiểm soát các dữ liệu của chúng ta lên đời sống nội tâm của chúng ta chắc chắn sẽ gia tăng trong những năm tới. Tương tự như vậy, những cuộc cách mạng trong lĩnh vực công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo, tức là những lĩnh vực đang định nghĩa lại con người nghĩa là gì bằng cách gia tăng tuổi thọ, sức khỏe, nhận thức và khả năng, sẽ buộc chúng ta phải xác định lại ranh giới đạo đức và đạo lí của chúng ta.

ĐỊNH HÌNH TƯƠNG LAI

Cả công nghệ lẫn những đổ vỡ đi kèm với nó đều không phải là lực lượng ngoại sinh mà con người không thể kiểm soát nổi. Tất cả chúng ta - trong những quyết định mà chúng ta làm mỗi ngày, trong vai trò người công dân, người tiêu dùng và nhà đầu tư - đều có trách nhiệm dẫn dắt sự phát triển của nó. Do đó, chúng ta phải nắm lấy cơ hội và sức mạnh mà chúng ta có để định hình cuộc Cách mạng công nghiệp thứ tư và hướng nó tới một tương lai thể hiện những mục tiêu và các giá trị chung của chúng ta.

Song, để làm được như thế chúng ta phải xây dựng được một quan điểm toàn diện và được mọi người trên thế giới chia sẻ về cách thức công nghệ tác động lên cuộc sống của chúng ta và định hình lại môi trường kinh tế, xã hội, văn hóa và con người của chúng ta. Chưa bao giờ tương lai lại đầy hức hẹn đến như thế, mà cũng đầy nguy hiểm đến như thế. Nhưng những người đưa ra quyết định hiện nay lại thường xuyên bị mắc kẹt trong tư duy truyền thống, tư duy tuyến tính, hoặc quá chú ý vào những cuộc khủng hoảng, không còn thời gian suy nghĩ mang tầm chiến lược về những lực lượng đổi mới và gây đổ đang định hình tương lai của chúng ta.

Cuối cùng, tất cả đều qui về con người và các giá trị. Chúng ta cần phải định hình tương lai sao cho tất cả chúng ta đều có lợi, bằng cách đưa nhân dân lên hàng đầu và trao quyền cho họ. Trong tình hình xấu nhất, phi nhân tính nhất, cuộc Cách mạng công nghiệp thứ tư có thể “rô bốt hóa” nhân loại và do đó có thể tước đoạt trái tim và linh hồn của chúng ta. Nhưng nếu nó trở thành lực lượng bổ sung cho các phần tốt đẹp nhất của bản chất con người – khả năng sáng tạo, cảm thông, quản lí – thì cuộc Cách mạng công nghiệp thứ tư có thể đưa nhân loại lên tầm cao mới của ý thức tập thể và đạo đức, dựa trên nhận thức chung về số phận. Trách nhiệm của tất cả chúng ta là bảo rằng phương án sau phải giữ thế thượng phong.

Klaus Schwab là người sáng lập và chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF)

https://www.foreignaffairs.com/articles/2015-12-12/fourth-industrial-revolution
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Tư, 3 tháng 2, 2016

Vụ lừa đảo lớn nhất Trung Quốc : 900.000 người bị mất 7 tỉ euro




Theo Reuters hôm qua 01/02/2016, tại Trung Quốc có 21 người đã bị bắt giữ sau khi phát hiện vụ lừa đảo tài chính với số người bị lừa lên đến 900.000. Các nạn nhân đã góp vốn vào công ty Ezubao để lấy lời với lãi suất cao hơn nhiều so với ngân hàng, tổng số tiền họ bị lừa khoảng 7 tỉ euro. Đây có thể là vụ lừa đảo lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc.
Hứa hẹn trả lãi từ 9 đến 14,5% khi đầu tư vào các dự án kinh tế tài chính bề ngoài có vẻ nghiêm chỉnh, Ezubao đã thu hút đến 900.000 người góp vốn, trong một đất nước tăng trưởng đang chậm lại và lãi suất chỉ đạo liên tục giảm xuống. Nhưng trên thực tế, hầu như toàn bộ các dự án của công ty này không hề hiện hữu.


Với phương thức lấy tiền của người gởi sau trả lãi cho người gởi trước, kiểu như vụ án Nguyễn Văn Mười Hai tại Việt Nam cách đây khoảng hai chục năm, từ khi thành lập vào tháng 7/2014, Ezubao đã gom được số tiền khổng lồ 7 tỉ euro (hay 7,6 tỉ đô la). Kiểu lừa đảo này được gọi là kim tự tháp Ponzi, nổi bật nhất là vụ Bernard Madoff, nhà môi giới chứng khoán Mỹ đã bị xử 150 năm tù giam năm 2009.

Từ khi khởi đầu « chủ nghĩa tư bản đỏ », mấy chục triệu người Trung Quốc đã rơi vào chiếc bẫy gởi tiền lãi suất cao hoặc bán hàng đa cấp. Chính quyền đã cấm các phương thức này vào năm 1998 và tăng cường trừng phạt, nhưng những món lợi lớn vẫn luôn làm mờ mắt nhiều người.

Phần nhận xét hiển thị trên trang