Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 9 tháng 8, 2015

"Chúng tôi đã được gỡ mặt nạ, để nhìn thấy nhau là hai con người, bình thường, giản dị, có thể nói với nhau về nhưng ưu tư cho hạnh phúc của con người, ở bên này và bên kia".


Nhà văn Nguyên Ngọc:
 Nguyên Ngọc và Thomas Vallely trong khuôn viên Đại học Phan Châu Trinh (Hội An). Ảnh Vũ Thành Tự Anh
 
Có cần bàn luận gì thêm về câu chuyện dưới đây không, thưa quý vị?
 
Bên cạnh nhiều điều chưa thực sự tốt đẹp thì trên đất nước Việt Nam hiện nay vẫn đang có những chuyển động rất tốt đẹp bởi những con người có tầm vóc và lương tri. Chúng ta rất cần cổ vũ cho sự thắng thế của những tư tưởng nhân văn, bởi vì chắc chắn con đường tiến lên phía trước là không hề bằng phẳng. Nói theo quan điểm của những người theo chủ nghĩa Mac là: Cuộc đấu tranh của những tư tưởng nhân văn, tiến bộ vẫn có nhiều khả năng rơi vào bi kịch nếu như sự tiến bộ chưa đủ sức để chiến thắng những cái cũ lỗi thời, lạc hậu nhưng còn chiếm ưu thế. Nhất là trong những giai đoạn nhiễu loạn giá trị, những di chứng của hàng ngàn năm đang trói buộc con người có vô vàn biến thái, ẩn nấp tinh vi, làm thành những trở lực ghê gớm trên con đường dân tộc đang đi về phía trước.
 
Tôi xin chuyển lại nội dung bài viết được đăng trên TuanVietNam.net và mong được mọi người cùng góp thêm tiếng nói.
 
 
Họ là hai người khác nhau về chủng tộc, ở hai quốc gia cách xa nhau về địa lý và khác biệt về lịch sử hình thành. Những năm tháng chiến tranh, có lúc họ là kẻ thù một mất một còn của nhau trên mảnh đất nhỏ ven sông Thu Bồn (Quảng Nam). Sau khi cởi bỏ bộ đồ lính trận, trở về cuộc sống thường nhật trong thời bình, họ lại gặp nhau ở Việt Nam như một cơ duyên. Vậy mà cũng đã trên hai mươi năm. Điểm tương đồng gắn kết họ lại với nhau: một niềm tin bất diệt vào sức mạnh giáo dục đối với sự trường tồn của mỗi quốc gia. Đó là giá trị vĩnh cửu của hoà bình.
 
Cuộc trò chuyện của chúng tôi với hai - kẻ - cựu - thù - hai - người - bạn - hai - nhà - văn - hoá ở cách nhau hơn nửa vòng trái đất luôn đau đáu về nền giáo dục Việt Nam, một nền giáo dục mang trong mình nó nhiều khuyết tật.
Được biết hai ông vốn là cựu thù tại chiến trường bãi dâu sông Thu Bồn - Quảng Nam trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng may mắn, cả hai còn nguyên vẹn trở về. Ký ức chiến tranh ấy có ám ảnh các ông trong cuộc sống hoà bình hôm nay?
Nguyên Ngọc: Có hôm tôi kể với Thomas Vallely hồi cuối năm 1969 - 1970, khi Mỹ đánh phá cực kỳ ác liệt trên vùng nông thôn Quảng Đà (tên của vùng Bắc Quảng Nam hồi bấy giờ), cố cày trắng, quét sạch hết các cơ sở cách mạng, để đánh bật và tiêu diệt chủ lực Việt Cộng, thì chúng tôi, đứng đầu bấy giờ là anh Bí thư Quảng Đà, đối phó bằng cách quyết trụ lại trong các bãi bói ven sông Thu Bồn thuộc vùng Gò Nổi, Điện Bàn. Bí thư tỉnh quyết trụ ở nơi ác liệt nhất thì không bí thư huyện, từ đó cũng không bí thư xã nào, rồi không cơ sở cách mạng nào ở từng thôn xóm bỏ đất của mình mà chạy. Vô cùng gian nan, trầm luân nữa, từng ngày, nhưng cuối cùng cứ như vậy mà giữ được đất, từng tấc, được dân, từng người, giữ được phong trào…
Miệt bói ấy ngày trước là những bãi dâu (tiếng Quảng Nam gọi là “biền dâu”) xanh mướt và mênh mông, cơ sở của nghề lụa nổi tiếng xứ Quảng. Khi dâu đã bị quét sạch, thì tự nhiên mọc lên một loại cây gọi là cây bói, giống như lau sậy, hoang dã hơn, cũng mênh mông, mịt mùng hơn. Chúng tôi đào hầm bí mật trụ lại trong bói. Ngày nào Mỹ cũng bắn vào đấy, cả đêm nữa, có hôm còn tưới xăng đốt, chúng tôi cháy sém cả tóc, chậm chân một chút chết thiêu ngay… Thomas bảo, đúng năm ấy ông là thủy quân lục chiến ở Quảng Đà, chính ông đã bắn vào các bãi bói đó. Tôi bảo, cũng may ông bắn xoàng… Và chúng tôi cùng cười.
Vậy đó, chiến tranh sau gần nửa thế kỷ. Hôm ấy, hai chúng tôi ngồi ở một quán nhỏ ven sông Hoài - Hội An. Bên ngoài lắc rắc mưa xuân. Rất yên tĩnh… Chị gọi chúng tôi là “cựu thù”. Đúng thôi. Nhưng bây giờ, quả thật rất khó hình dung. Trong cuốn sách rất hay “Nếu đi hết biển” của mình, đạo diễn Trần Văn Thủy có dẫn lời một nhà văn cựu chiến binh Mỹ, Wayne Karlin, nói rằng chiến tranh đắp lên khuôn mặt của người ở bên kia chiến tuyến một chiếc mặt nạ, chiếc mặt nạ hì hợm của kẻ thù. Để cho ta khinh bỉ, căm thù và tiêu diệt. Nhiệm vụ của văn học hôm nay là gỡ chiếc mặt nạ ấy ra, trả lại khuôn mặt người cho con người, để ta nhận ra khuôn mặt nguời của nhau. Chúng tôi thường không gọi ông là Thomas Vallely, cũng ít khi gọi Thomas, chỉ quen gọi Tommy. Nhìn mà xem, Tommy, cũng lạ, nhiều lúc ngồi với ông, tôi không có cảm giác đang nói chuyện với một người Mỹ. Mà với một ông già Việt phúc hậu, thậm chí có gì đó… hơi quê mùa, thật thà và quê mùa…
Vậy đó, giá trị của hòa bình. Trả lại những gì giản dị nhất của đời thường. Thật buồn và đau đớn, phải đổ biết bao nhiêu máu xương để có lại được điều giản dị này…
Có lẽ nhân đây cũng xin nói luôn: Tôi muốn gọi ngày 30/4 giản dị thế này: Ngày Hòa bình. Không gì vĩ đại hơn đâu.
Thomas Vallely: Tôi phục vụ 13 tháng tại Việt Nam trong khoảng thời gian giữa 1969 và 1970. Như đã tâm sự với người bạn già Nguyên Ngọc của tôi trong một bữa ăn trưa gần đây bên bờ sông Hoài ở Hội An, tôi - một thanh niên 19 tuổi - bước vào cuộc chiến mà hầu như không hiểu tí nào về hệ tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản hay các giả định chiến lược có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. (Tôi chỉ học được chút ít về chủ nghĩa cộng sản khi tôi vào đại học - tức là sau khi tôi từ Việt Nam trở về). Giống như nhiểu thanh niên trai trẻ thế hệ mình, tôi lớn lên với sự quyến rũ của dư âm Thế chiến II, cuộc chiến mà người Mỹ từ trước đến giờ luôn xem là “Cuộc chiến chính nghĩa” được tiến hành vì mục đích cao cả. Nhưng khi là một người lính thủy quân lục chiến đặt chân tới Quảng Nam, tôi thấy ngay rằng vai trò của Mỹ ở Việt Nam khác hoàn toàn.
Khi tới Việt Nam lần đầu, tôi đã không biết gì về đất nước này và tôi cũng đã không học được nhiều trong thời gian tôi ở đó. Trên thực tế, có thể nói là tôi đã học được hai điều. Thứ nhất, tôi hiểu rằng Hoa Kỳ không thể thắng trong cuộc chiến này. Chiến thắng là điều không thể khi mà hỏa lực Mỹ giết hại quá nhiều dân thường vô tội. (Bạn không cần phải là một chuyên gia chống chiến tranh du kích nổi tiếng như John Paul Vann (*) để nhận ra điều đó). Thứ hai, tôi đã rất vui khi sống sót trở về.
Phải rất lâu sau tôi mới bắt đầu học hỏi về Việt Nam. Tôi đã có rất nhiều người thầy tuyệt vời. Một trong những người tuyệt vời nhất là Nguyên Ngọc. Tôi học được rất nhiều điều từ Nguyên Ngọc, nhưng có một bài học nổi bật hẳn lên vì nó liên quan đến Việt Nam ngày nay. Nguyên Ngọc cho rằng khi chiến tranh kết thúc năm 1975, rất nhiều người Việt Nam nhầm tưởng là đấu tranh đã kết thúc. Trên thực tế, những thách thức lớn nhất vẫn đang chờ ở phía trước.
Nghe nói hai ông đang cùng phản biện cho một phim tài liệu lịch sử về chiến tranh Việt Nam? Sự thật lịch sử quan trọng nào của cuộc chiến tranh này sau 40 năm được công bố?

Nguyên Ngọc: Theo chỗ tôi được biết Tommy là cố vấn của bộ phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam, đã quay trong mấy năm qua. Ông đến Hội An tìm tôi, là bạn cũ, trong chiến tranh và trong hòa bình, rủ tôi sang xem một số phần bộ phim đang ở dạng bản nháp đó, và có ý kiến.
Tôi nghĩ chắc không có “sự thật lịch sử quan trọng” (và mới) nào đáng để tò mò, được công bố đâu. Nếu có thì cũng là đôi cách cắt nghĩa khác nhau nào đó về một số sự kiện trong chiến tranh, cũng là những sự kiện đã được nói đến rồi. Có lẽ điều quan trọng nhất qua bộ phim này là nhìn lại cái cuộc bi thảm ấy (còn gì bi thảm hơn chiến tranh?) như thế nào. Hiểu về nó ra sao? Và để làm gì? … Những năm qua, ngày tôi càng nghĩ rằng chắc không thể tách một cuộc chiến tranh ra khỏi hậu chiến của nó. Có hôm tôi hỏi Tommy: có phải ngày ấy ông sang Việt Nam, cầm súng và đánh nhau, vì ông được người ta nói rằng phải ngăn cộng sản ở bên ấy lại, để lan ra cả Đông Nam Á thì hậu quả khôn lường… Tommy bảo không hề. Ông là người dân Mỹ, được gọi đi làm nghĩa vụ công dân, ông đi, thế thôi… Ở cái quán nhỏ bên sông Hoài, chúng tôi đã nói với nhau về những điều như thế.
Suốt hơn 30 năm sau chiến tranh, Tommy trở lại Việt Nam, đã làm bao nhiêu việc vì Việt Nam, từ những điều to lớn góp phần cho thay đổi và phát triển của đất nước này, đến những việc có ích cụ thể, thiết thực… Vì sao? Tôi nghĩ, từ hậu chiến nhìn lại, chắc nhiều người Mỹ hiểu ra rằng chỉ đơn giản ra đi vì “nghĩa vụ công dân” như họ đã đơn giản ra đi, lại có thể tàn phá cả một đất nước tận ở đâu đâu. Nay họ muốn góp phần làm lại …
Còn chúng ta, hậu chiến cho ta nghĩ gì? Nếu vì một hậu chiến như thế này hôm nay, thì có đáng cho những hy sinh khủng khiếp như đã qua? Ta cũng phải từ hậu chiến mà nhìn lại chiến tranh. Thôi, phải nói thôi, cho tôi nói thật: chúng ta đang sống chẳng xứng chút nào với những gì vì nó mà những năm tháng đằng đẵng ấy ta đã cắn răng lại mà sống và chiến đấu. Ta vẫn thường nói chiến tranh chưa thôi đào bới lương tâm nước Mỹ. Cũng phải để cho nó còn đào bới lương tâm chúng ta nữa chứ. Theo nghĩa đó, đừng quên chiến tranh. Đừng phản bội chiến tranh. Sống và làm ăn sao đây hôm nay, để đừng tiếc một cuộc chiến tranh đã quá khủng khiếp.
Thomas Vallely: Cũng chỉ mới gần đây, khi tham gia với tư cách là cố vấn cho một dự án phim tài liệu ở Mỹ, tôi mới bắt đầu đào sâu hơn nữa vào lịch sử cuộc chiến mà tôi và ông Nguyên Ngọc đã đối đầu. Tôi hy vọng rằng, hai năm nữa khi bộ phim được phát hành, nó sẽ giúp khán giả hiểu rõ hơn về cuộc chiến này. Ở Hoa Kỳ có những bất đồng tai hại ngay cả về những sự kiện cơ bản. Ngay cả khi chúng tôi có nhiều khả năng tiếp cận tư liệu lịch sử hơn so với phía Việt Nam thì để những tư liệu này nói lên sự thật ở phía Hoa Kỳ cũng không đơn giản.
Ở Việt Nam, thách thức này thậm chí còn lớn hơn bởi vì rất nhiều tài liệu lưu trữ cho đến nay vẫn rất khó tiếp cận. Một trong các lý do tại sao tôi quyết định tham gia thực hiện bộ phim này là vì các nhà làm phim thực tâm muốn xem xét cuộc chiến từ quan điểm của tất cả các bên chứ không chỉ từ phía Hoa Kỳ. Chúng tôi rất biết ơn sự hỗ trợ từ chính phủ Việt Nam cho phép đoàn làm phim đến Việt Nam và trò chuyện với nhiều người đã từng tham gia cuộc chiến. Mong rằng nhiều người Việt Nam sẽ xem phim. Họ có thể đánh giá bộ phim về chủ đề phức tạp như thế thành công ra sao.
Nguyên Ngọc: Nói thật nhé, điều tôi quan tâm, và cảm thấy hạnh phúc: Tommy và tôi bây giờ, chúng tôi đã được gỡ mặt nạ, để nhìn thấy nhau là hai con người, bình thường, giản dị, có thể nói với nhau về nhưng ưu tư cho hạnh phúc của con người, ở bên này và bên kia.
Nhà báo Mỹ gốc Ý quá cố Oriana Fallaci từng viết cuốn sách rất hay trong thời điểm chiến tranh Việt Nam ở giai đoạn khốc liệt nhất, trước và sau Mậu Thân 1968. Từ Việt Nam, bà nhận ra rằng: “Cuộc sống, cuộc chiến tranh và rồi chẳng có gì” - NXB TP. HCM - năm 1991. Trong bài thơ “Đá ơi”, tuyển tập Thơ Nguyễn Duy, NXB Hội Nhà văn - 2010, người chiến sĩ năm xưa ấy cũng thốt lên lên tiếng thở dài: “Nghĩ cho cùng / trong mọi cuộc chiến tranh. Bên nào thắng thì nhân dân đều bại” . Với hai ông, chiến tranh là gì? Cuộc sống là gì, và hoà bình có phải là điều mà con người luôn chiến đấu để gìn giữ?
Nguyên Ngọc: Tôi có đọc cuốn sách của Oriana Fallaci, đã rất lâu, một cuốn sách thật hay. Sách viết bằng tiếng Ý. Trong bản dịch tiếng Pháp của Jacqueline Remilet - NXB Robert Laffont - Paris, nó có tên là La vie, la guerre, et puis rien, Cuộc sống, cuộc chiến tranh, và rồi không còn gì nữa hết. Cuốn sách ấy bắt đầu bằng một câu hỏi : Qu’est-ce que la vie ? Cuộc sống là gì ? Cũng có nghĩa : Con người là gì? Trong chiến tranh, con người không từ bất cứ điều gì để tiêu diệt con người ở phía bên kia. Và, bằng một biện chứng éo le mà kinh hoàng, cũng đồng thời tự diệt đi con người ở trong chính mình. …et puis rien, và rồi không còn gì nữa hết! Tôi nghĩ Tommy, bạn tôi, làm nhiều việc cho Việt Nam, kiên trì, tận tụy, cũng chính là để tự làm lại mình, con người của mình, trong mình, sau chiến tranh.
Chúng ta cũng vậy, phải vậy. Cho nên, tôi nghĩ, đẹp thay, mà cũng là tất yếu chăng, ông ấy và tôi, chúng tôi lại gặp nhau trong giáo dục. Nhất thiết phải là trong giáo dục, bằng giáo dục. Không có cách nào khác. Chỉ có thể làm lại con người bằng giáo dục. Năm ngoái, Thomas Vallely được trao giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh vì cống hiến cho giáo dục Việt Nam. Trong diễn từ nhận giải thưởng tháng 3/2014, Tommy khẳng định chỉ có thể cứu đất nước này bằng giáo dục! Nghĩa là từ làm lại con người. Tôi nghĩ chắc ở nước mình, thậm chí có thể cho đến tận hôm nay, Phan Châu Trinh là người thật sự thống thiết hiểu rằng cần phải làm lại con người để mà xây dựng lại đất nước này, và chỉ có thể bằng giáo dục.
Có phải giáo dục trong ý nghĩa ấy đã kết hai ông lại cùng nhau trên con đường gian truân của giáo dục Việt Nam? Nhìn nhận của hai ông một cách thẳng thắn về thực trạng giáo dục Việt Nam? Và nó còn có cơ may nào cho một nền giáo dục vốn đứt quãng và có quá nhiều bất cập hiện nay?
Nguyên Ngọc: Đã mấy chục năm nay rồi, ở Việt Nam chúng ta bàn cãi miên man về giáo dục, cải cách đi rồi cải cách lại, đổi mới rồi đổi mới căn bản và toàn diện… Nói đủ thứ chuyện, và đều hay ho, cũng không sai. Nhưng rồi đâu lại vào đó. Về cơ bản, chưa nhích lên được gì. Tôi cũng có một ngôi trường nhỏ, gần mười năm nay tôi loay hoay với nó. Đến nay thì có lẽ tôi đã hiểu: nếu tôi, chúng tôi, dù đã có đủ thứ lý thuyết thâm thúy, đủ thứ chương trình tiên tiến, hiện đại…, nhưng nếu chúng tôi không tạo được một môi trường thật sự tự do cho những người học thật sự tự do, thì chắc chắn chúng tôi sẽ thất bại. Như giáo dục của chúng ta bây giờ.
Chị muốn tôi nói chỉ vài chữ về thực trạng giáo dục của chúng ta ư? Chúng ta không có một nền giáo dục tự do. Và đó là nguy cơ cho dân tộc. Chúng ta cần một nền giáo dục tự do. Với tôi, đến hơn 40 tuổi tôi mới thật sự hiểu cần nhất, quý nhất cho con người là tự do. Lần sau, nếu còn có lần đó, tôi sẽ cố gắng hiểu ra sớm hơn.
Thomas Vallely: Nguyên Ngọc và tôi thoạt đầu trở thành bạn bè không phải vì chúng tôi có cùng một quá khứ là cựu chiến binh mà vì niềm tin của chúng tôi vào vai trò vô cùng quan trọng của giáo dục đối với tương lai của Việt Nam. Tôi đã vinh dự nhận giải thưởng Phan Châu Trinh năm ngoái. Tôi hiểu rằng Phan Châu Trinh có một niềm tin sắt đá rằng giáo dục là chìa khóa để chuyển hóa Việt Nam thành một xã hội tiên tiến. Rõ ràng là Nguyên Ngọc đang tiếp nối sự nghiệp của Phan Châu Trinh, cả hai đều thông qua giáo dục đại học và thông qua các nỗ lực của mình để gìn giữ và tôn vinh di sản văn hóa phong phú của Việt Nam.
Tôi đồng ý với Nguyên Ngọc rằng tự do là yếu tố nền tảng của một nền giáo dục có chất lượng. Nhưng nó không phải là yếu tố quan trọng duy nhất. Giáo dục phải truyền cảm hứng cho học viên, thôi thúc họ tự suy nghĩ cho bản thân mình và cho họ khả năng theo đuổi học tập suốt đời. Thi sĩ William Butler Yeats từng phát biểu một câu nổi tiếng rằng “giáo dục không phải là rót cho đầy tri thức mà là thổi bùng ngọn lửa”. Hẳn nhiên, giáo dục cũng phải chuẩn bị cho học viên đóng góp một cách có ý nghĩa cho xã hội của họ.
Hiện tại, tôi đang tham gia vào nỗ lực thành lập trường Đại học Fulbright Việt Nam (FUV), một trường đại học độc lập, không vì lợi nhuận. Tôi hy vọng rằng cho dù FUV đi theo hướng đổi mới công nghệ để cung cấp cơ hội học tập được thiết kế nhằm chuẩn bị cho sinh viên đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế tri thức thế kỷ 21, FUV vẫn sẽ thể hiện tinh thần của Phan Châu Trinh.
Thomas J. Vallely trở lại Việt nam khá sớm, từ những năm 80 của thế kỷ trước, ông từng hướng dẫn các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam nghiên cứu thực địa sự phát triển của một số nước Đông Nam Á với kỳ vọng Việt Nam sẽ “phát triển theo hướng rồng bay”. Mục tiêu này của ông có đạt được?
Thomas Vallely: Trọng tâm công việc của tôi ở Việt Nam trong 30 năm qua là làm thế nào để Việt Nam vượt qua được những thách thức này và khai thác hết tiềm năng to lớn của mình. Một cách công bằng, tôi rất tôn trọng những thành quả của Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới. Tuy nhiên, Việt Nam có thể và còn phải làm nhiều hơn thế nữa.
Cách đây vài năm, một số đồng nghiệp của tôi ở Trường Fulbright dịch cuốn sách Tại sao các quốc gia thất bại (**) trong đó tìm hiểu lý do vì sao một số ít quốc gia có thể trở thành nước phát triển cao trong khi đa số các nước khác lại thất bại. Các tác giả của cuốn sách này kết luận rằng chất lượng thể chế ở mỗi nước là yếu tố quyết định. Bởi vì thể chế phản ánh hệ thống chính trị của mỗi quốc gia, nên đó là một cách khác để nói rằng chính trị xác định quỹ đạo phát triển của mỗi quốc gia.
Cuốn Tại sao các quốc gia thất bại lập luận rằng những quốc gia thành công nhất là những quốc gia phát triển thể chế chính trị dung hợp. Ở mức độ khiêm tốn, quá trình này có thể được quan sát thấy tại Việt Nam. Theo tôi, việc củng cố vai trò và uy tín của Quốc hội là một trong những xu hướng đáng khích lệ nhất gần đây ở Việt Nam. Tuy nhiên, tôi không biết bất kỳ ai ở Việt Nam tin rằng tiến triển hiện nay đủ nhanh và đúng hướng để tiến tới các thể chế chính trị thực sự dung hợp.
Trong khi dường như có sự đồng thuận rộng rãi bề ngoài về những ưu tiên chính sách quan trọng như sự cần thiết phải cải cách thể chế, cải cách pháp lý và tái cấu trúc nền kinh tế, tôi không cho rằng những ưu tiên này rốt cuộc đã trở thành một tầm nhìn chung cho tương lai của xã hội Việt Nam. Xây dựng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là một mục tiêu đáng hoan nghênh, nhưng trên thực tế các khẩu hiệu kiểu như thế thực sự hàm ý gì?
Một tầm nhìn chung như vậy chỉ có thể phát khởi thông qua các cuộc tranh luận và thảo luận cởi mở. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã thấy ví dụ về những thảo luận rộng rãi trên cả nước có thể đưa đến tầm nhìn thống nhất hơn. Chúng ta đã thấy điều đó ở thảo luận về đổi mới hiến pháp năm 2013. Chúng ta đã chứng kiến điều đó qua sự thể hiện tình cảm đặc biệt tiếc thương đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời. Đến nay, những thảo luận này vẫn được tiếp tục hàng ngày trên internet. Đáng tiếc là những cuộc thảo luận này lại diễn ra chủ yếu ở bên ngoài thể chế công. Quốc hội có thể tạo ra một diễn đàn Việt Nam cần để kiến tạo một tầm nhìn quốc gia thuyết phục hơn.
Tôi cho rằng những yếu kém kinh tế là mối đe dọa lớn nhất đối với Việt Nam. Trong số những người tôi quen, không thấy ai tin rằng Việt Nam đang phát triển hết tiềm năng vốn có. Nếu không trở lại mức tăng trưởng kinh tế nhanh và toàn diện hơn thì nhiệm vụ quản trị quốc gia sẽ trở nên ngày càng khó khăn. Việt Nam thường được khen ngợi về tính “ổn định chính trị”, nhưng nguồn gốc của sự ổn định này là gì? Tôi cho rằng nó bắt nguồn từ cảm giác lạc quan về tương lai. Kể từ lần đầu tiên tôi trở lại Việt Nam năm 1985, những người Việt Nam tôi quen biết phần lớn đều tự tin vào tương lai của họ cũng như tương lai của đất nước. Họ nhiệt thành tin rằng cuộc sống của con cháu họ sẽ tốt đẹp hơn họ. Liệu người Việt Nam năm 2015 có còn tin tưởng vào tương lai? Tôi không chắc.
Chúng ta đều biết rằng khi các nước phát triển, việc duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh để nâng cao mức sống cho đại bộ phận người dân sẽ càng ngày càng khó khăn hơn. Một nền kinh tế phát triển chia sẻ trên bình diện rộng không chỉ tạo ra sự thịnh vượng mà còn mang lại nhiều lợi ích vô hình khác cho xã hội. Một nhà kinh tế ở trường Đại học Harvard viết cuốn sách nhan đề “Hệ quả đạo đức của tăng trưởng kinh tế” trong đó lập luận rằng các xã hội được hưởng thành quả của tăng trưởng kinh tế thường khoan dung hơn với sự đa dạng, nhiệt thành với dân chủ hơn và tạo ra nhiều cơ hội thăng tiến xã hội hơn. Ngược lại, kinh tế đình trệ thường dẫn tới xáo trộn xã hội, suy giảm sự khoan dung và bất ổn dân sự. Bởi vậy, có rất nhiều lý do tại sao Việt Nam cần phát triển kinh tế tốt hơn.
Nhà văn Nguyên Ngọc từng chọn cho mình 3 địa điểm trên đất nước khốn khổ của ông để yêu mến với niềm tự hào và ray rứt khôn nguôi: Tây Nguyên, Hội An và Hà Nội. Còn Thomas, nơi nào ở Việt Nam mà ông có thể có chút cảm tình? Vì sao như vậy?
Nguyên Ngọc: Hồi kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, tôi có nói: «Hà Nội đẹp đến nỗi nó bị phá thế mà vẫn còn đẹp!». Thế nhưng, sự xuống cấp của Hà Nội không chỉ có ý nghĩa tự nó. Nó tiêu biểu cho sự xuống cấp văn hóa của đất nước này. Thanh lịch nghìn năm bị thay thế bằng hai thứ trộn lẫn: vừa nhếch nhác quê kệch vừa hợm hĩnh diêm dúa lố bịch, nghĩ cho cùng cũng chỉ là một. Nơi là khuôn mặt từng yêu kiều của đất nước nay đang trưng ra một diện mạo xấu và không ít lần làm trò cười cho thiên hạ: giật hoa đào, giành suất ăn khuyến mãi, leo tường vào tắm miễn phí, chặt cây xanh hay như chuyện xây tháp truyền hình cao nhất thế giới gần đây, v.v...
Những người yêu Hà Nội đều đau! Tôi nghĩ: cả nước cần xúm lại mà cứu Hà Nội, vì cả nước. Còn Tây Nguyên, mấy năm trước đây tôi đã từng báo động : những giới hạn quan trọng đến mức sinh tử ở đây đã bị vượt qua: phá sạch rừng, đảo lộn dữ dội cơ cấu dân cư, hủy hoại tất cả các dòng sông lớn, hút cạn nước ngầm, phá vỡ các làng…, để cuối cùng phá nát văn hóa. Ở nơi vốn là một vùng văn hóa vào loại độc đáo và đặc sắc nhất nước, nay chỉ còn văn hóa Tây Nguyên dỏm. Hầu như không còn có thể quay trở lại, và đang thật sự không có đường ra… Vậy mà, chẳng hạn, người ta vẫn tiếp tục nói dối về chương trình bô-xít tai họa, nghĩa là cuộc tàn phá suốt 40 năm chưa hề chịu dừng lại.
Nhiều lần tôi tự hỏi : Vì sao ? Chỉ có thể là tham lam, ngu dốt, và kiêu ngạo, coi thường mọi thứ. Hỏi xem : Có ai đến Tây Nguyên để học? Học sự hiền minh bất tận của rừng, và của những dân tộc từng biết cách sống với rừng, nghĩa là với tự nhiên, hàng nhiều ngàn năm nay. Một bài học có thể cho cả nhân loại và nền văn minh đang lúng túng của mình ngày nay. Chúng ta đừng ngạo mạn, xấc xược đối với các dân tộc Tây Nguyên và với văn hóa. Hình như đang có một dòng lũ vô văn hóa đang muốn cuộn phăng cả đời sống chúng ta. Điều này thật đáng sợ. May thay, còn có một Hội An. Hội An nhỏ thôi, nhưng trong văn hóa không có khái niệm nhỏ hay lớn.
Tôi cũng không muốn nói thêm nhiều về Hội An. Chỉ xin có một nhận xét: Hội An luôn thấy mình có vấn đề, luôn lo lắng, đặc biệt về văn hóa. Bởi vì ở đây người ta hiểu một chân lý khắc nghiệt: cái đẹp luôn mong manh, từ một người con gái đẹp cho đến một văn hóa đẹp. Nó luôn bị thách thức từng ngày, và trong từng con người. Phải thận trọng từng chút, trân trọng từ cái nhỏ nhất. Đến Hội An có thể nhận ra một trong những điều lạ này, ở từng công việc, từng con người: vừa nhẹ nhàng, thong dong, thoải mái, vừa cẩn trọng, tinh tế trong từng chút nhỏ; có lẽ vì vậy mà ở đây cái bình dân với cái tinh hoa có thể hài hòa thật hay…
Còn một chỗ để ta không hoàn toàn bi quan.
Thomas Vallely: Địa điểm yêu thích của tôi ở Việt Nam không phải là một thành phố hay tỉnh lị nào mà là một ngôi nhà. Chính xác hơn, đó là ngôi nhà và phòng tranh của người bạn thân của tôi, họa sĩ Phạm Lực, một hậu duệ trực tiếp của Nguyễn Du. Bất cứ khi nào tôi tới thăm Phạm Lực, trò chuyện về tranh của ông, tôi đều được học hỏi thêm về Việt Nam, cả về quá khứ và hiện tại. Tranh của Phạm Lực thấm đượm di sản văn hóa phong phú của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng là tiếng nói vang vọng về cuộc sống trong những thời kỳ sáng tác của ông. Ví dụ, một chủ đề quen thuộc trong tranh Phạm Lực những năm chiến tranh là những mất mát mà người phụ nữ phải gánh chịu. Ngày nay, một trong số những bức tranh của ông đề cập đến vấn đề môi trường suy thoái, sự câu kết độc hại của tiền bạc, quyền lực và lòng tham. Sáng tác của ông vừa mang tính cách đặc trưng Việt Nam nhưng đồng thời cũng rất có tính phổ quát.
Tôi luôn rời nhà Phạm Lực với cảm giác được tiếp thêm sức lực. Và đó là một lý do vì sao tôi không hoàn toàn đồng ý với nhiều bạn bè Việt Nam cùng hay trên lứa khi họ cho rằng văn hóa nghệ thuật của Việt Nam ngày nay thiếu sức sống hay không đáng được trân trọng như trong quá khứ. Trên thực tế, với tôi, văn hóa Việt Nam ngày nay sôi động chưa từng thấy. Điều này mới đây lại được khẳng định khi tôi tham dự lễ trao giải thưởng Phan Châu Trinh 2015, trong đó vinh danh một số nghệ sĩ tài năng. Lễ trao giải có sự tham dự của nhiều cá nhân ưu tú, đại diện cho rất nhiều giai tầng của xã hội Việt Nam. Tôi rời buổi lễ với cảm giác lạc quan về tương lai của Việt Nam.
Xin cảm ơn Thomas Vallely và nhà văn Nguyên Ngọc đã dành thời gian quý báu để cùng trao đổi một câu chuyện dài trong thời bình về Việt Nam một cách thẳng thắn và đầy trách nhiệm.Chúng tôi cũng không quên cảm ơn TS Vũ Thành Tự Anh, người giúp chúng tôi tiếp cận với ông Thomas Vallely để thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Minh Nguyễn thực hiện (theoBizlive/ Người Đô Thị)
*Tiêu đề bài viết do Tuần Việt Nam đặt
______________
(*) Năm 1988, NXB Vintage Books - A Division of Random House - New York xuất bản cuốn: “A Bright Shining Lie - John Paul Vann and America in Vietnam” của Neil Sheehan, phóng viên của hãng thông tấn UPI và báo New York Times. Ông là người chứng kiến cuộc chiến tranh Việt Nam từ giữa năm 1962 - 1972. Từ đó, Neil Sheehan phát hiện ra John Paul Vann - một chuyên gia chống chiến tranh du kích - một con người mà thông qua cuộc đời - người ta có thể viết về sự dính líu của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. John Paul Van đã chết ở Việt Nam năm 1972 trong lúc vẫn tin rằng nước Mỹ sẽ thắng trong cuộc chiến. John Paul Vann là biểu tượng, là nhân vật của cuốn sách đoạt giải thưởng Pulitzer và giải thưởng sách quốc gia của Mỹ năm 1988.
Bản dịch của NXB TP. HCM năm 1990 và tái bản lần thứ hai vào năm 1995, mang tên: “Sự lừa dối hào nhoáng - John Paul Vann và nước Mỹ ở Việt Nam” do nhóm dịch giả ở Sài Gòn và nhà báo quá cố Lê Minh Đức hiệu đính.
(**) “Vì sao các quốc gia thất bại” của Daron Acemoglu và James A. Robinson, Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Chi với sự hợp tác của Hoàng Thạch Quân và Hoàng Ngọc Lan.
Hiệu đính: TS. Vũ Thành Tự Anh - NXB Trẻ - Năm 2013.
Theo TuanVietNam.net 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thấy anh Lãng hơi bị điên, nhưng cũng nên đọc để suy ngẫm:

Nguy cơ chiến tranh Việt Trung và chiến lược phòng vệ của Việt Nam (P1)


Phần 1 - Đi tìm nguyên nhân từ nguồn gốc lịch sử
            Ngày 05/09/2008, mạng Sina.com, một website trong lãnh thổ Trung Hoa, loan tải một bản kế hoạch mang tên: "Kế hoạch A - càn quét Việt Nam trong 31 ngày".
 Bản kế hoạch này nhanh chóng được hàng loạt các trang web Trung Quốc đăng tải lại gồm cả tờ South China Morning Post và trở thành một trong những chủ đề gây xôn xao dư luận trong một thời gian dài. 
Kế hoạch A, không nổi tiếng vì các kiến giải chiến dịch, chiến lược quân sự thâm sâu, nhưng lại khét tiếng vì tham vọng mà nó đặt ra: Đánh chiếm toàn bộ Việt Nam trong 31 ngày, điều mà 15 cuộc xâm lăng của các triều đại Trung Quốc trong suốt nhiều thế kỷ chưa bao giờ làm được, hoặc ngay cả các đạo quân hùng mạnh nhất thế kỷ 20, gồm lực lượng viễn chinh của Pháp, liên quân Hoa Kỳ và cả đạo quân 600 nghìn người của Đặng Tiểu Bình năm 1979 chưa bao giờ dám mơ tưởng tới. Xét về mặt quân sự, đây là một kế hoạch có tính ảo tưởng, nhưng nó phản ánh một xu hướng và khao khát bắt rễ thâm sâu trong chính quyền và xã hội Trung Hoa: Tham vọng nuốt sống Việt Nam và kế đó là các quốc gia Đông Nam Á lân cận. Không có gì ngạc nhiên, nếu trong một bối cảnh ảo tưởng đẹp đẽ của giấc mộng Trung Hoa, nếu kế hoạch A thành công, chắc chắn sẽ có các kế hoạch B,C,D ... với mục tiêu là Lào, Campuchia, Thái Lan, Mã lai ... và rộng hơn là toàn khu vực.
            Tháng 8/2011, trang China News liệt kê về 6 cuộc chiến tranh Trung Quốc sẽ phát động trong 50 năm tới. Bao gồm cuộc chiến thống nhất Đài Loan (2020 - 2025); Cuộc chiến thu hồi các đảo tại Biển Đông (2025 - 2030); Cuộc chiến thu hồi Nam Tây Tạng,  đánh bại Ấn Độ (2035 - 2040); Cuộc chiến thu hồi quần đảo Điếu Ngư (sekaku) và quần đảo Lưu Cầu (Okinawa), đánh bại Nhật Bản (2040 - 2045); Cuộc chiến thống nhất Ngoại Mông, xâm lược và xóa tên Cộng hòa nhân dân Mông Cổ (2045 - 2050); Cuộc chiến thu hồi vùng Viễn Đông, đánh bại nước Nga (2055 - 2060). Bản kế hoạch này gây một tiếng vang còn lớn hơn kế hoạch A vì tham vọng không tưởng của nó. Theo đó tất cả các quốc gia láng giềng hiện hữu của Trung Quốc đều sẽ nằm trong phạm vi mục tiêu của một cuộc chiến trong tương lai mà Trung Quốc sẽ đánh bại tất cả.
Một cuộc trưng cầu trên trang báo mạng Hoàn Cầu, một trang tin trực thuộc Nhân Dân Nhật Báo, cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 2008 cho thấy có 80% người sử dụng mạng Trung Quốc ủng hộ "hành động quân sự cứng rắn" với Việt Nam.
            Điều gì đang diễn ra trong lòng xã hội Trung Hoa, vì đâu mà cái ý tưởng gây chiến và xâm lược các nước khác lại có sức sống kinh khủng đến thế trong suy nghĩ của người dân và chính quyền đang cai trị đất nước này???
 
Bản đồ xâm lăng của đế chế Trung Hoa
 (Phần màu đen là một phần lãnh thổ gốc của Trung Quốc trong lịch sử)
Trong lịch sử, lãnh thổ Trung Quốc (phần màu đen trên bản đồ) chỉ là một phần nhỏ so với Trung Hoa hiện đại. Vùng đất phát tích của Trung Quốc là vùng Hà Nam (Hình tam giác nhỏ màu đỏ trên bản đồ). Rất khó để phân tích rạch ròi về chủng tộc gốc của người Trung Quốc. Nhiều nghiên cứu nhân chủng học kết luận sắc dân Hoa Hạ (hay Hán Tộc - khái niệm có từ thời nhà Hán), là kết quả hỗn huyết từ các cuộc xâm lăng của người Mông Cổ phía bắc, hòa huyết với các sắc dân bản địa và hình thành chủng tộc Mongoloid. Sự lai giống trong quá trình xâm lăng diễn ra liên tục, cuối cùng hình thành một chủng người được gọi là Hoa Hạ, và được người Trung Quốc ngày nay thừa nhận là chủng tộc chính thống của Trung Quốc hiện đại. Có thể nói lịch sử hình thành của người Trung Quốc "chính thống" là kết quả của các cuộc xâm lăng, và được viết tiếp cũng bằng các cuộc xâm lăng. Người Trung Quốc liên tục bành trướng ra bốn phía, lần lượt sát nhập Tân Cương, Tây Tạng, Nội Mông và phần đất thuộc về Bách Việt. Luôn có ưu thế về số đông so với các dân tộc giáp giới, người Hoa Hạ luôn có cảm giác về một sự ưu việt, giống như quan điểm của Hitler sau này về một giống dân siêu đẳng so với các dân tộc xung quanh. Quan điểm này là một quan điểm bén rễ đến tận xương tủy trong suy nghĩ của người Trung Quốc suốt chiều dài lịch sử. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà nhiều lần dân Hoa Hạ cảm thấy bị sỉ nhục chua cay. Lần đầu tiên là khi các đạo quân của Thành Cát Tư Hãn tràn ngập Trung Hoa và dựng lên nhà Nguyên, cai trị Trung Quốc từ năm 1271 - 1368. Lần thứ hai là dưới triều đại Mãn Thanh, một dân tộc du mục thiểu số phương Bắc, xâm lược toàn bộ Trung Hoa và duy trì cai trị trong 268 năm, từ 1644 - 1912. Cho đến nay, đây vẫn là những thời kỳ lịch sử được coi là sỉ nhục của người Hoa Hạ hay Hán tộc, được coi là thời kỳ mà người Hán phải nhận giặc làm cha. Chính điều đó hình thành nên những hiện tượng tâm lý phức tạp của người Trung Quốc hiện đại. Một mặt họ vẫn tự coi là một giống dân siêu đẳng, luôn có cảm giác ưu việt vì lợi thế số đông. Mặt khác cũng cái số đông ấy luôn mặc cảm tự ti, dù chôn sâu trong lòng, vì số đông vượt trội ấy vẫn phải khuất phục nhiều lần trước các sắc dân thiểu số và phải chấp nhận hai triều đại cai trị "Nhận giặc làm cha" như những triều đại chính thức trong lịch sử Trung Quốc. 

Mặc cảm đan xen giữa kiêu ngạo và tự ti ấy được tô đậm thêm với thời kỳ chiến tranh Nha phiến và cuối triều Thanh, khi các cường quốc phương Tây kéo nhau vào đặt tô giới trong lãnh thổ Trung Quốc, và được nhấn đậm bằng cuộc xâm lăng của người Nhật Bản từ năm 1937 - 1945. Một lần nữa, người Hoa Hạ bị khuất phục bởi một dân tộc ít người hơn rất nhiều lần. Chỉ nhờ vào cơ may lịch sử khi Nhật Bản bị liên quân Hoa Kỳ và Liên Xô đánh bại mà Trung Quốc giành lại được độc lập. Chính quá trình lịch sử hình thành phức tạp ấy đã tạo ra người Trung Quốc hiện đại ngày nay, họ luôn có khao khát dựa vào số đông để chứng minh tính ưu việt siêu đẳng của mình bằng cách tiếp tục xâm lấn các vùng lãnh thổ xung quanh. Khao khát chứng tỏ sức mạnh cơ bắp ấy được làm mạnh thêm bởi nỗi tự ti dai dẳng hình thành từ nỗi nhục nhiều lần phải "nhận giặc làm cha" trong lịch sử. Kết quả là cái máu xâm lược trong người Trung Quốc luôn vượt trội so với khao khát chung sống hòa bình, mạnh hơn bất cứ một dân tộc nào trên thế giới ngày nay. Mỗi khi có điều kiện mạnh lên, điều người Trung Quốc nghĩ tới đầu tiên là phải thể hiện đẳng cấp ưu việt số đông của mình bằng các hành vi xâm lấn. Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe hoàn toàn có lý khi phát biểu trước lưỡng viện Hoa Kỳ, rằng người Trung Quốc có máu xâm lược "Thâm căn cố đế"
            Từ những dữ liệu lịch sử và những tham vọng hung hăng trong các kế hoạch xâm lược được lan truyền phổ biến trên các website tiếng Trung hiện nay và một tỷ lệ luôn cao hơn 80% số lượng thanh niên Trung Quốc sử dụng mạng ủng hộ các hành vi quân sự chống lại các nước láng giềng, cho thấy đây không phải là những ý tưởng đơn lẻ, ngược lại, nó là một trào lưu tư duy thâm căn cố đế trong xã hội Trung Quốc. Đây là điều mà tất cả các nước trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia giáp giới với Trung Quốc phải nhìn nhận một cách thấu đáo và KHÔNG ĐƯỢC PHÉP ẢO TƯỞNG VỀ DÒNG TƯ DUY CHỦ LƯU CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC VÀ CHÍNH QUYỀN TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI DÃ TÂM XÂM LƯỢC CŨNG NHƯ CÁC HÀNH VI CHIẾN TRANH. Mọi nhận định sai lầm hoặc coi nhẹ dòng tư duy chủ lưu này đều sẽ dẫn đến hậu quả rất đắt.
Phần 2 - Thực lực và khả năng Quân đội nhân dân Trung Hoa
Quay trở lại với Kế hoạch A - càn quét Việt Namtrong 31 ngày của mạng Sina.com. Khó có thể nói ai là tác giả của bản kế hoạch này. Nếu nói đó là một phương án phác thảo của một sỹ quan tham mưu có kiến thức nào đó của Trung Quốc thì sẽ là không chính xác, vì tính ngô nghê rất lớn của nó khi nhận định về thời gian và kết quả của các chiến dịch tấn công. Nó giống như việc vạch ra một trận chiến tranh mà một bên chỉ việc đấm còn bên kia thì không có ai hoặc là không chống cự. Chưa tính đến việc thiếu vắng hoàn toàn các phân tích về hậu cần, vốn là một phần thậm chí còn quan trọng hơn cả việc vạch ra các ý tưởng chiến dịch, chiến lược tấn công, cho thấy đây không thể là một sản phẩm của một quân nhân chuyên nghiệp. Tuy nhiên cũng rất khó kết luận vì có nhiều tướng tá Trung Quốc như thiếu tướng La Viện là một điển hình cho một quân nhân cấp tướng nhưng dường như không có kiến thức quân sự. Do đó cũng không có gì ngạc nhiên nếu kế hoạch này lại do một quân nhân mang hàm cấp tướng tương tự như tư lệnh của binh chủng "Hỏa lực mồm" La Viện của Trung Quốc vẽ ra. Dù vậy, bản kế hoạch A này cũng có một phần khá gây chú ý, đó là ý tưởng về các mũi tiến công chiến lược của Trung Quốc nếu tiến đánh tổng lực Việt Nam.
Bản đồ về các mũi tấn công theo Kế hoạch A - càn quét Việt Nam trong 31 ngày
            Ý tưởng xuyên suốt của Kế hoạch A, là tiến hành một cuộc tấn công phủ đầu ồ ạt bằng hàng nghìn tên lửa chiến thuật, tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo vào các mục tiêu quân sự, kinh tế, chính trị của Việt Nam. Tiếp đó là sử dụng từ 1000 - 1500 phi cơ tấn công oanh tạc vào các mục tiêu quân sự trong giai đoạn 2, nhằm tiêu diệt năng lực đề kháng của quân đội ViệtNam. Trong giai đoạn sau cùng, bộ binh và lục quân, hải quân được sử dụng trong các chiến dịch tấn công tổng lực. Phần lớn các đạo quân giáp biên giới sẽ tiến công theo các đường tiến quân giống năm 1979, đạo quân quan trọng nhất, dưới sự yểm trợ của không quân và hải quân, sẽ đổ bộ tấn công khu vực Thanh Hóa, nhằm cắt rời lãnh thổ Việt Nam ở phần hẹp nhất, cô lập miền Bắc khỏi miền Trung và Miền Nam. Tổng lực lượng quân sự huy động cho kế hoạch A, ngoài lực lượng tên lửa chiến lược, chiến thuật, sẽ gồm khoảng 3500 máy bay, 1200 xe tăng và 3000 xe bọc thép, cùng với số quân huy động trực tiếp tham chiến khoảng 520 nghìn người. Dự kiến mục tiêu của kế hoạch là sẽ chiếm Hà Nội sau 16 ngày chiến tranh, và chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt nam sau ngày thứ 31.
            Đây là một kế hoạch không tưởng khi xét về các mục tiêu chiến tranh. Nó giống như một bản phác thảo các tham vọng xâm lược hơn là một kế hoạch chiến tranh đúng nghĩa. Thực lực quân đội nhân dân Trung Hoa hiện nay rất mạnh, nhưng không đủ năng lực về hậu cần và yểm trợ để hỗ trợ cho một đạo quân nửa triệu người tác chiến trên một chiến trường kéo dài 2000 km với địa hình rất phức tạp. Đặc biệt và việc yểm trợ và đảm bảo hậu cần cho cánh quân thứ ba, được coi là cách quân quan trọng nhất đánh gãy xương sống Việt Nam khi đổ bộ vào Thanh Hóa. Trong điều kiện Việt Nam dù yếu thế hơn, nhưng các lực lượng không quân, hải quân và bộ binh phòng thủ mặt đất của nó hoàn toàn có khả năng đánh quỵ một hạm đội đổ bộ xuất phát từ Trung Quốc và kéo dãn đội hình hành quân 500 km trên biển trước khi đến được mục tiêu. Bên cạnh đó, số lượng tên lửa, oanh tạc cơ và máy bay được đưa vào sử dụng trong kế hoạch có vẻ gây ấn tượng, nhưng dường như vượt quá nhiều lần năng lực không quân thực sự của Trung Quốc, khi chỉ có khoảng trên 500 máy bay là thuộc các thế hệ tương đối hiện đại có thể đảm trách các kế hoạch tấn công sâu vào lãnh thổ Việt Nam, do đó khó có thể thực hiện được tham vọng tiêu diệt năng lực quân sự của Việt Nam trong các đòn đánh phủ đầu. Ngoài ra, kế hoạch hoàn toàn không tính toán tới các phản ứng của đối phương, khi chắc chắn Việt nam luôn có kế hoạch dự phòng chu đáo để bảo tồn năng lực quân sự và phản công trước các đòn đánh của tên lửa và máy bay Trung Quốc. Sau 20 năm chiến tranh với lực lượng quân đội mạnh nhất thế giới là Hoa Kỳ, hơn bất cứ quốc gia nào, người Việt nam có kinh nghiệm hơn ai hết về kỹ năng phân tán và bảo vệ khí tài chiến tranh trước các đòn oanh tạc không quân. Mà xét về năng lực thực sự, không quân PLA ngày nay còn thua không quân Mỹ những năm 1970 về khả năng tác chiến tổng thể.
Tù binh Trung Quốc 1979
            Quân đội nhân dân Trung Quốc PLA hiện có gì trong tay? Trên bảng xếp hạng của Global Firepower, Trung Quốc xếp thứ ba trong số các quân đội mạnh nhất thế giới, chỉ sau Mỹ và Nga. Ngân sách quốc phòng năm 2014 của Trung Quốc khoảng 188 tỷ USD (số liệu thực theo ước tính của Mỹ), xếp thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ và gấp nhiều lần ngân sách quân sự Nhật Bản (50 tỷ USD) và Nga ( 98 tỷ USD).
            Năm 2013, Trung Quốc lần đầu tiên công bố quân số của lực lượng vũ trang, số quân tại ngũ của Trung Quốc hiện khoảng 2,2 triệu người. Trong số 1,483 triệu quân sử dụng trực tiếp cho hoạt động tác chiến, lục quân có 850.000 quân, hải quân có 235.000 quân, không quân có 398.000 quân. Cũng trong năm 2013, Bộ Quốc phòng Mỹ dự đoán chỉ riêng Lục quân Trung Quốc đã có 1,25 triệu quân. Lục quân Trung Quốc biên chế tổng cộng 18 tập đoàn quân, thực chất là tập đoàn quân độc lập hợp thành các binh chủng, bao gồm tất cả các binh chủng. Bên dưới tập đoàn quân là các sư đoàn và lữ đoàn - ở cấp này bộ binh có 31 đơn vị, cơ giới có 23 đơn vị, xe tăng có 17 đơn vị, pháo binh có 19 đơn vị, hải quân đánh bộ có 5 đơn vị, nhảy dù có 3 đơn vị. Kho vũ khí lục quân có khoảng 7.000 chiếc xe tăng hiện đại, 8.000 khẩu pháo. Trong 18 tập đoàn quân, có 11 tập đoàn quân triển khai ở khu vực phía bắc Trung Quốc, giáp với Nga. Ngoài lực lượng nhảy dù và hải quân đánh bộ, lực lượng đặc nhiệm Trung Quốc cũng có nhiều nhất 14.000 quân, trong biên chế là các trung đoàn độc lập và tiểu đoàn đặc nhiệm. Các lực lượng nhảy dù, hải quân đánh bộ và đặc nhiệm Trung Quốc chủ yếu trang bị xe bọc thép nội địa, bao gồm xe tăng đổ bộ và xe chiến đấu bộ binh nhảy dù.

            Ngoài ra, trong danh sách Lục quân Trung Quốc còn có lực lượng dự bị và cảnh giới được trang bị rất nhiều vũ khí cũ. Căn cứ vào các dự đoán khác nhau, Quân đội Trung Quốc tổng cộng có 9.000 - 12.000 xe tăng, khoảng 12.000 xe chiến đấu bộ binh và xe vận tải bọc thép (trong đó có 3.500 xe chiến đấu hiện đại), hơn 2.000 khẩu pháo tự hành các loại, gần 3.000 khẩu rocket, hơn 7.000 hệ thống tên lửa chống tăng, 15.000 pháo cao xạ và hệ thống tên lửa phòng không, khoảng 6.000 khẩu pháo kiểu kéo dắt và 10.000 khẩu pháo cối.
Vào cuối thế kỷ 20, so với Quân đội Mỹ, trang bị quân sự của Trung Quốc còn lạc hậu một thế hệ. Nhưng, hiện nay, tình hình đã thay đổi, Trung Quốc ở trình độ dẫn trước hoàn toàn về số lượng xe bọc thép bánh xích mới các loại. Đến nay, Quân đội Trung Quốc sở hữu gần 1.000 xe tăng Type 99, tính năng hoàn toàn có thể sánh ngang với xe tăng chiến đấu của các nước phát triển. Không lâu trước đã trang bị pháo tự hành và rocket hiện đại, bao gồm rocket Vệ sĩ-2D tầm bắn tối đa 400 km, có uy lực mạnh nhất thế giới. Tất cả những điều này cộng với sự thành công của công nghệ ô tô Trung Quốc (năm 2014 sản xuất gần 24 triệu xe), làm cho bộ binh Trung Quốc trở thành một lực lượng có tính cơ động mạnh, trang bị tốt. Ngoài ra, chuyên gia quân sự Mỹ chỉ ra, huấn luyện tác chiến của Quân đội Trung Quốc cũng đã có xu thế mới, bắt đầu thông qua diễn tập để tập các chiến dịch tiến công tốc độ nhanh với chiều sâu có thể đạt 1.000 km. Đồng thời, tiềm lực động viên khổng lồ của Trung Quốc vẫn chưa biến mất, ở đầu thế kỷ 21 dự đoán có thể động viên 380 triệu người, trong đó 208 triệu người thích hợp đưa vào biên chế.
            Về số lượng máy bay tác chiến, Trung Quốc đứng thứ ba, chỉ sau Mỹ và Nga. Căn cứ vào dự đoán của chuyên gia Mỹ, Không quân Trung Quốc bao gồm lực lượng hàng không hải quân có khoảng 2.100 máy bay chiến đấu các loại tương đối tiên tiến và 1.500 máy bay chiến đấu cũ, khoảng 500 máy bay vận tải, hơn 100 máy bay giám sát và trinh sát đặc chủng, tổng cộng có khoảng 31 sư đoàn và 4 trung đoàn độc lập.
            Lực lượng tên lửa hạt nhân Trung Quốc còn gọi là Lực lượng pháo binh 2 có khoảng 120.000 quân, tổng cộng có 1.500 - 2.000 quả tên lửa đạn đạo có thể lắp đầu đạn hạt nhân, bao gồm gần trăm quả tên lửa xuyên lục địa có thể tiêu diệt các mục tiêu trong lãnh thổ Mỹ và Nga.
Hiện nay, Trung Quốc đang sản xuất hàng loạt tên lửa chiến lược, từ tên lửa đạn đạo xuyên lục địa phóng giếng Đông Phong-5A lắp nhiều đầu đạn độc lập và có tầm bắn trên 13.000 km, đến tên lửa xuyên lục địa cơ động kiểu đường sắt và kiểu bánh lốp với tầm bắn có thể đạt 11.000 km, họ có đủ mọi thứ. Theo đánh giá của chuyên gia, về số lượng vũ khí hạt nhân Trung Quốc chỉ kém Nga và Mỹ, ít nhất có 130 quả tên lửa đạn đạo lắp đầu đạn hạt nhân, khoảng 40 quả tên lửa đạn đạo lắp đầu đạn hạt nhân trang bị cho tàu ngầm hạt nhân, vài chục quả bom hạt nhân trang bị cho máy bay ném bom chiến lược và 150 - 350 tên lửa hành trình lắp đầu đạn hạt nhân.
            Hải quân Trung Quốc, được đầu tư mạnh liên tục trong nhiều năm, hiện nay cũng là một lực lượng rất đáng gờm. Căn cứ vào số liệu của Mỹ, năm 2014, Hải quân Trung Quốc tổng cộng có 1 tàu sân bay, 24 tàu khu trục, 49 tàu hộ vệ tên lửa, 9 tàu hộ vệ hạng nhẹ, 57 tàu đổ bộ và mấy trăm tàu tuần tra bảo vệ bờ biển cùng 61 tàu ngầm dầu diesel và 5 - 8 tàu ngầm hạt nhân. Hải quân Trung Quốc chia làm 3 hạm đội lớn trong biên chế tác chiến: Hạm đội Bắc Hải phụ trách bảo vệ Bắc Kinh từ phương hướng trên biển, Hạm đội Đông Hải và Hạm đội Nam Hải trước hết được sử dụng cho các hành động nhằm vào Đài Loan.
            Trung Quốc cũng đã xây dựng cho mình một nền công nghiệp quốc phòng hùng mạnh. Các nhà cung cấp quốc phòng chính của Trung Quốc hiện nay bao gồm:
Tập đoàn Công nghiệp vũ khí Trung Quốc (Công ty Công nghiệp phương Bắc)
Tập đoàn trang bị vũ khí Trung Quốc (Công ty Công nghiệp phương Nam)
Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Trung Quốc
Tập đoàn Công nghiệp đóng tàu Trung Quốc
Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Trung Quốc
Tập đoàn Công nghiệp và khoa học vũ trụ Trung Quốc
Tập đoàn Công nghiệp cơ giới Trung Quốc
            Với thực lực quân sự tổng hợp như trên, có thể nói PLA hiện nay là một đội quân hùng mạnh, gần như áp đảo các nước trong khu vực châu Á. Con số thống kê về số lính, số dân có thể huy động vào quân đội, số tăng, pháo, máy bay, tên lửa và số lượng tàu chiến có khả năng gây choáng váng cho những người yếu tim. Giống như bất cứ thời kỳ lịch sử nào, Trung Quốc chưa bao giờ thiếu người và thiếu số lượng vũ khí liệt kê. Tuy nhiên những con số ấy không phản ánh năng lực chiến tranh thực sự của người Trung Quốc. (Còn tiếp)
            Bài thứ hai: Chiến tranh tổng lực và chiến tranh cục bộ. Giải pháp trước mối đe dọa hạt nhân)
Bài thứ ba: Phân tích thực lực quân sự Việt Nam. Những vấn nạn căn bản, các giải pháp tăng cường năng lực quốc phòng
Bài thứ tư: Chiến lược chống tiếp cận, đâu là vũ khí chiến lược?
Bài thứ năm: Chiến lược phòng thủ trước Trung Quốc, các phương án mới trong tình hình hiện tại
Bài thứ sáu: Các liên minh chính trị và kinh tế
Bài thứ bảy: Thoát Trung, một lần và lâu dài
Kết luận.
/Đại loại các bài kế tiếp sẽ bàn về các nội dung trên/.
(Series này sẽ có ít nhất 8 phần, do tính dài kỳ của nó nên anh Lãng không dự kiến thời gian kết thúc. Nó có thể được bổ sung trong tương lai khi xuất hiện thêm các nhân tố mới trong cục diện Châu Á - Thái Bình Dương. Tác giả giữ bản quyền về các bài viết này, mọi hành động sao chép và phổ biến vì mục đích phi lợi nhuận đều được cho phép với điều kiện trích dẫn nguồn và link tới bài viết gố).

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGƯỜI CON GÁI SÔNG LA


Mọi người nghe hát hay không thì tùy, nhưng nên đọc những thông tin sau đây cho biết.

Hôm 8.8, tại Nghệ An khánh thành di tích Truông Bồn, một túi bom thời chiến tranh chống Mỹ. Tại đây, trên một diện tích cái xóm nhỏ chỉ 20 ha đã có hơn 1.200 bộ đội, TNXP hy sinh. Tôi sực nhớ xứ mình những đất thiêng như vậy nhiều lắm, mà ngã ba Đồng Lộc ở Hà Tĩnh là một điển hình. Không chỉ 11 cô gái TNXP mà cả ngàn bộ đội đã hy sinh nơi này, trong đó có người anh họ tôi là Ngô Duy Điệng con bà bá tôi (bà Điện) khi anh đang trên đường hành quân vào nam, qua đây, nay chưa tìm thấy mộ. Rất nhiều người lính đã hy sinh khi chưa tới chiến trường.
Nhạc sĩ đại tá Doãn Nho, một nhạc sĩ quân đội kỳ cựu, chính ông là tác giả bài quân ca Tiến bước dưới quân kỳ và nhiều ca khúc nổi tiếng khác, trong đó có bài Chiếc khăn piêu mà anh chàng Tùng Dương nhờ đó mà đoạt giải Bài hát yêu thích.

Lời bài hát Người con gái sông La được phổ theo bài thơ của nhà thơ Phương Thúy. Ít người biết chị là nhân vật khá đặc biệt, một nghệ sĩ đàn tam thập lục nổi tiếng, là con gái cưng của nhà phê bình Hoài Chân Nguyễn Đức Phiên (người viết Thi nhân VN chung với anh ruột là Hoài Thanh), vợ của nhà báo nhà văn Tuân Nguyễn. Tuân Nguyễn bị nhà nước vu cho xét lại chống đảng, đi tù năm 1968, chị đằng đẵng chờ chồng, chấp nhận cực khổ. Sau 1975, anh được thả, hai anh chị vào Sài Gòn sinh sống, anh đi bán báo dạo kiếm sống, bị xe máy tông và chết. Chị về Bắc, bị tâm thần, phải vào trại tâm thần - dưỡng lão Bắc Ninh sống nốt những năm cuối đời, gần như quên hết cả những vui buồn khổ đau đã chịu đựng trong kiếp trầm luân này.

Ca sĩ Tường Vy là giọng hát nổi tiếng những năm 60-80, được phong NSND. Tôi nhớ hồi còn bé nghe người lớn kể viên đại tá Coong Le (người đời quen gọi là tướng Coong Le) thuộc phái hữu bên Lào sang thăm VN, chính quyền Hà Nội tìm cách lôi kéo y vào phe Pathet Lào của Suphanuvong. Y được nghe Tường Vy hát, mê quá, đề nghị cụ Hồ làm mối cho y, cụ bảo tùy cô ấy. Tường Vy không chịu, bộ đội ta thiếu gì người tài giỏi, có ế đâu mà phải lấy gã Lào. Cong Le không lấy được người đẹp, y về bèn dẫn quân giã cho đám Suphanuvong những đòn chí tử. Ấy là tôi nghe kể vậy. Giờ chị Tường Vy còn sống, giá có thời gian hỏi han kỹ càng, chắc có bài báo hay.

Bài hát này, cũng như những chủ nhật trước, ai thích thì nghe. Còn những thông tin trên, tôi biếu không cho các vị thư giãn ngày cuối tuần. Xin chào, hẹn gặp lại 
(cứ y như đài truyền hình).
Nguyễn Thông
https://www.youtube.com/watch?v=KMYqE7RRVkQ 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đơn giản: Hắn thích gì viết nấy đồng bào ợ!


SOREN KIERKEGAARD-02
Nếu trong hệ thống triết học của Kant hay Hegel, người đọc không thấy đâu bóng dáng đời tư các ông, còn ở Kierkegaard thì khác, chúng đầy tràn. “Dấu ấn đời sống cá nhân gắn liền vào biến cố và cái thường ngày” làm nên ‘triết học’ Kierkegaard. Không phải Kant, Hegel không có đời sống cá nhân, hay đời sống cá nhân không ảnh hưởng đến tư duy họ, mà họ muốn loại bỏ chúng khỏi lâu đài triết học của mình.
Kierkegaard ngược lại, ông cho rằng đó chỉ là hệ thống chứ không phải đời sống thực, không phải con người với các lo âu, sợ hãi và run rẩy của con người.
Trong lĩnh vực văn học, có thể đối sánh H. Balzac với Henri Miller. Nếu người trước tham vọng làm ‘thư kí thời đại’, thì người sau tuyên bố đến lúc nào đó tôi chỉ viết về tôi, về những người tôi quen biết, người yêu tôi và bạn bè tôi, đời sống quanh tôi mà hoàn toàn không quan tâm đến chuyện khác; bởi tôi nghĩ chúng chỉ là văn chương.
Ngay bộ môn nghiên cứu cũng hệt. Bên cạnh những nhà mang ý hướng diễn ngôn một nền văn hóa, hay một mảnh văn minh – chặt chẽ và đầy tính khoa học; thì cũng có nhà chỉ đi và ghi chép cảm nghĩ của hắn quanh những gì hắn thấy, hắn nghe, hắn biết; nhưng không phải vì thế mà tác phẩm hắn kém giá trị.
Ở thời kì hiện tại, ý đồ dựng nên tác phẩm đồ sộ như Chiến tranh và Hòa Bình hay Anh em nhà Karamazov không nằm trong kế hoạch của nhà văn hậu hiện đại.
Vậy thì hắn muốn làm gì?...

Phần nhận xét hiển thị trên trang