Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 7 tháng 8, 2015

Kỳ 2: Bước đi định mệnh

Nguyễn Hữu Đang - Bi thương và cay đắng; 


Già Đang ngồi trước ngọn nến nhỏ để hồi tưởng lại số phận của mình. Ánh sáng chỉ đủ soi trang sách đọc. Bên cạnh cuốn “Hiện tượng chủ nghĩa duy vật biện chứng” của Giáo sư Trần Đức Thảo là một mảnh giấy ghi "14/2 (Âm lịch)" - ngày giỗ mẹ Nguyễn Hữu Đang. Ông gấp cuốn sách dừng lại trang 113.  “Trần Đức Thảo là một Giáo sư triết học trường Cao đẳng sư phạm Paris. Trường này là cái nôi nổi tiếng đào tạo những nhà tư tưởng và chính khách cho nước Pháp. Với học vị ấy con đường danh vọng đã mở rộng cho ông Thảo trong nước Pháp và cả Âu, Mỹ. Thế mà ông đã từ bỏ tất cả để về Việt Nam tham gia kháng chiến”. Điều đó làm Nguyễn Hữu Đang quý mến ông.

Giáo sư Trần Đức Thảo

Ông nhớ gương mặt ông Thảo, hơi bầu bĩnh, cái nhìn hồn nhiên sau cặp kính cận với cuộc đời như ngơ ngác.
Ông Đang nắp ngọn bút Satađô cài vào bìa trang sách để ngay ngắn trên những trang bản thảo đang viết dở. Ông đứng dậy lại ngồi xuống mở bút ghi vào trang giấy nho nhỏ mua mấy thứ cần thiết về giỗ mẹ:

Một con cá chép, một miếng thịt gáy và con gà thiến, một nắm hoa huệ, một hộp nến nhỏ, nải chuối…

Ông Đang ngắm lại nơi mình ở, chỉ có mấy bộ quần áo treo vắt lung tung, một cái tủ con, một cái hòm gỗ, giữa nhà kê một cái bàn to. Cái bàn đó đã có lần cụ Nguyễn Kim Đoán lên chơi gặp anh Văn (Võ Nguyên Giáp) và ông Đang dắt ông Đoán đi ăn trưa rồi về nằm ngủ trên đó. Hai ông cứ quay sang nhau mà nói chuyện về những ngày làm ở Hội Truyền bá quốc ngữ, ngày Lễ Độc lập 2/9/1945 mà hai vị gắn bó.

Trong nhà không có bếp núc, không có sự sắp đặt của bàn tay người phụ nữ. Suốt bao năm ròng, ông Đang thường ăn cơm đầu ghế nhà ông Tài Sỉu lái xe cho bưu điện Hà Nội. Nhà Tài Sỉu giã giò chả bán, thức ăn là đậu phụ kho với thịt ba chỉ, rau luộc chấm với nước thịt kho rất ngon. Quán cơm nhà Tài Sỉu bán chủ yếu cho dân nghèo, những người buôn thúng bán mẹt…Ông Đang là thực khách quen nhà Tài Sỉu trong suốt những năm ở Hà Nội. Mỗi lần đãi khách, dù sang dù hèn hoặc người nhà Thái Bình lên, được ông đãi cơm đều ra quán đó. Ông thích nhất là món cá trê kho với thịt gáy của nhà Tài Sỉu. Món đó trở thành món ăn thường xuyên của ông và cũng được coi là món ngon nhất để đãi khách “đầu ghế”. Có lần ông Mười Hương đi công tác về ngủ lại với ông Đang, cũng ra đó ngồi trên cái ghế băng gỗ lim đen thín nhà bà Tài Sỉu, nhấm nháp món cá trê kho với thịt gáy sém cạnh.

Hồ Gươm, Hà Nội, sau ngày lập lại hoà bình, 1954 

Vì cảnh nhà như thế nên không thể tổ chức làm giỗ cho mẹ được, ông Đang mới nảy ra ý định làm giỗ bên nhà chú Dương. Trước ngày giỗ mưa quá, mưa rả rích rả rích. Ông Đang đạp xe xuống Nam Đồng, nơi ở của anh ruột Nguyễn Hữu Thoan. Ông đứng lại trước cái ngõ lội, mấy con vịt cỏ đang mò ở cái ao đen sì bẩn tưởi kêu lép nhép. Cảnh tình thật hoang vu buồn tẻ. Ông nghe rõ tiếng chị dâu than thở về cảnh nhà khó khăn. Anh em mỗi người một nơi. Bác cả Nguyễn Hữu Ruông ở ngoài Hải Phòng. Hai bác đều là viên chức. Bác trai những ngày này đang lặn lội ở Bạch Long Vĩ thu mua hải sản, còn chú út Nguyễn Hữu Đang nghe đâu có chuyện gì lôi thôi chính trị, mắc mớ với Chính phủ, chắc gì đã nhớ ngày mẹ nằm xuống.

Ông Đang đứng chôn chân đầu ngõ nghe chị dâu nói và nhìn qua ô cửa sổ từ phía chái nhà, thấy anh trai đứng bật dậy khỏi cái ghế băng và muốn nói một câu gì đấy với vợ. Chị dâu biết ý lùi lại phía giường nằm, tiếng thở nặng chình chịch vang lên giữa bầu không khí lặng ngắt mưa bụi tháng Hai. Ông nhìn mãi bóng bà chị dâu đưa tay áo chùi nước mắt.

Ông Thoan lại lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế băng. Khi ông Đang cũng vừa kịp nhận ra ngôi nhà của anh tồi tàn như sắp sụp xuống. Quanh đấy chuồng lợn, chuồng gà và cái giếng nông toen hoẻn nước đỏ ngầu, mấy cây chuối thân già những tàu lá rũ xuống trước sân đẫm mưa xuân. Ông bỗng cảm thấy lòng nặng trĩu, buồn rầu xấu hổ trước cuộc sống của ba anh em.

Ông mạnh dạn bước vào đầu sân, cái xe đạp kéo theo vệt đất bùn đỏ như son trên lớp gạch màu thâm thẫm. Con chó cụt đuôi sủa lên trời mấy tiếng vu vơ. Nhận ra ông Đang, ông Thoan nói: “Chú vào nhà”. Ông Đang vội tháo dép vứt ở đầu sân giếng múc gầu nước cọ rửa, tiện cái chổi lúa vứt ở đầu hè chùi qua loa bước vào ngồi xuống chiếc ghế băng. Trước mặt ông là cái bàn nước gỗ xấu xí nứt toác.

Ông Thoan rót chén nước vối đỏ quạch ra cái chén sứt sẹo, nói với em:
- Chú uống nước đi!

Chị dâu là người tính tình mau mắn vui vẻ đã chạy ra ngồi xuống đầu ghế tiếp chuyện chú em, ông Thoan cất lời trước:

- Trông người chú xấu quá, chắc không ngủ được, nghe đâu người ta đặt điều cho chú phải không?

Ông Đang chép miệng:

- Thời buổi thay đổi nhanh chóng quá, không biết đâu mà lường được, nó kéo theo cả lòng con người cũng đổi thay.

Ông Đang vừa nói vừa chăm chú nhìn vào lọn tóc bạc thòi ra ngoài chỏm mũ len như đuôi con gà trống mà anh trai đang trùm khít lên đầu.

Ông Thoan nói câu trầm ấm:

- Giá ngày ấy chú cứ theo cụ Tố, theo cái nghề dạy học có hay không? Hội Truyền bá quốc ngữ mãi mãi còn sống trong lòng dân chúng. Đằng này chú lại theo cái nghề làm văn làm báo chính trị. Vào được chỗ ở của Cụ Hồ rồi làm Trưởng ban ngày lễ Độc Lập mà giờ nghe ra khó sống. Con người chú vừa là của hành động nhưng lại muốn làm “chủ thuyết” nữa nên mới khổ. Sống đến cái tuổi như chú và tôi, mới nghiệm ra một điều, cái chí thành bại của con người không mấy khi thành đạt theo lý tưởng ban đầu. Nào là thời thế, may rủi, số phận đã dẫn đến sinh mạng của con người còn hay mất. Giả thử như hồi đó Pháp nó bắt được chú, đày ra Côn Lôn, với tội danh cộng sản thì giờ gia đình ta vinh dự biết bao nhiêu?

Ông Đang trả lời lập lờ anh và hình như cũng đã định nói với chính mình:

- Cũng có thể… Tôi vừa lớn, thời tuổi trẻ nông nổi quá, cái nết còn dở dở dang dang, khi trở thành người lớn, lao ngay vào cuộc sống thật hỗn độn, lúc Tây, lúc Nhật, lúc Tàu, lúc Tưởng…Tôi đã lựa chọn con đường đi với Đảng có xu hướng chính trị là yêu nước. Rồi được làm cán bộ Việt Minh, ở Hội nghị quốc dân Tân Trào được cử làm Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền. Tôi ghét các phe cánh đảng phái Việt quốc, Việt cách, có thằng tin vào cái thuyết da vàng, có thằng tin vào thằng Nhật, nhưng thực ra Nhật tệ hơn cả Pháp. Tôi chỉ tin vào Chính phủ Cụ Hồ nên khi làm Trưởng ban ngày lễ Độc Lập 2/9/1945, tôi đã đứng trên lễ đài dâng ấn kiếm cho Cụ Hồ. Khi nhận được ấn kiếm, bất thần cụ giơ kiếm lên cao, nói đanh thép: “Lưỡi kiếm này là để trừng trị những tên hại dân, phản quốc”.

Ông Đang lấy lại bình tĩnh ngồi duỗi chân rút điếu thuốc hút nhả khói lên trần nhà nói bâng quơ:  

- Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, lúc đánh giáp lá cà người ta dùng gươm và lưỡi lê để đâm chém những kẻ bỏ chạy. Cụ Hồ đã cảnh cáo những kẻ định bỏ chạy theo giặc chống lại Chính phủ. Tôi không phải là người như thế, anh chị cứ yên tâm.

Hít một hơi thuốc với dáng vẻ trầm tĩnh, ông Đang nói tiếp:

- Lòng người đổi thay theo thời thế. Chỉ cần nhanh mắt một tý cũng nhận ra ai là người như thế nào? Họ thay đổi đến nỗi vợ con anh em cũng phải giật mình thon thót. Nhìn họ như lạ lại như quen. Có thằng hai mặt, nửa nạc, nửa mỡ, đầu đội mũ lưỡi trai Tàu nhưng đeo gươm Nhật. Còn em trước sau chỉ có áo trấn thủ, mũ ca lô, dép lốp Cụ Hồ. Em của anh chị không như họ nói đâu, khi em cắp quần áo ra khỏi nhà, mẹ dặn điều gì, thày dạy dỗ ra sao em nhớ lắm. Hồi mẹ ốm, tất cả nhờ vào anh chị đây và gia đình bác Ruông hầu mẹ, hầu bố, rồi hầu bà cô, bà dì rồi lo nuôi các cháu, bây giờ thằng Hà đã bằng này rồi. Biết đâu những ngày tới, chị dâu lại phải theo nuôi ông em trong tù. Cái đời em, cái lý tưởng độc lập, tự do em theo đuổi cho dân cho nước… Nếu em có sự sa xảy gì, anh chị nên tìm nơi nào ẩn thân làm ăn, xa đất Hà Nội, quên đứa em bất hiếu với thày mẹ, bất nghĩa với anh em, không lo gì được cho các cháu…

Tay ông Đang lúc ấy bỗng quờ ra kéo cháu Hà ôm vào lòng. Bà Thục, vợ ông Thoan, tự nhiên nấc lên mếu máo:

- Chú có tội tình gì cơ chứ? Tội tình gì mà phải vào tù. Chị nghĩ chả nhẽ các “đồng chí” của chú lại xử tệ với chú được sao? Cụ Hồ lại để họ làm bậy bạ được sao?

Ông Đang cúi đầu im lặng, nước mắt lã chã:
- Ấy là em nghĩ vơ vẩn thế chị ạ, tình hình chưa xấu đến nỗi…

Bà Thục nói luôn:

- Tôi rắp tâm từ mấy hôm nay, nếu Chính phủ không cho chú làm việc, chú cứ về đây ở với anh chị, vì ở quê cũng chẳng còn ai mà cậy nhờ. Chú đừng nay đây mai đó bơ vơ nơi xứ lạ.
Ông Đang đưa tay lên miệng cắn móng,  tranh lời chị:

- Thôi, mọi việc cứ xếp lại đã, hôm nay em xuống thưa với anh chị cho em được đứng ra lo giỗ cho mẹ năm nay.

- Chú nói thế sao được? Việc giỗ Tết thờ cúng tổ tiên là việc của mọi người trong gia đình, ai cũng phải có lòng thành…

Ông Đang chen ngang:
- Em biết là vậy nhưng năm nay nó khác. Có thể đây là lần giỗ cuối cùng em được cúng mẹ.

Ông Thoan nói luôn:
- Tôi hiểu, tôi hiểu! Chú định thế nào?

- Em định làm ở nhà chú Dương trên phố Đinh Lễ, nhà chú rộng rãi, bạn bè con cháu đến đấy cũng tiện. Nghe tin chú Dương nhà mình mới được bổ nhiệm Trưởng ban tài chính Trung ương Cục miền Nam. Mấy năm rồi, mỗi lần ra Bắc, chú thồ ra cho em cả đống sách để đọc.

Ông Thoan nói luôn:
- Chú nói thế cũng phải, mẹ thằng Hà cứ để cho chú ấy lo. Có thế mới vơi đi được nỗi buồn của chú.

Ông Thoan quay sang em trai, nói thêm:
- Chú lên ngay Đinh Lễ nói với thím Dương xem sắp xếp ra sao. Ngày mai vợ chồng tôi sẽ lên trên ấy sớm.

Ông Đang như nhẹ lòng hơn khi thấy anh trai hiểu mình, nhưng nhớ tới mẹ già đã khuất, ông lại than thầm: “Đúng đời là bể khổ,  người trẻ lo giành danh lợi, người già lo ngày sống, lo lúc chết, lo cả miệng đời, tiếng để… Lo cả mồ mả, gia tiên... Như thân mình đây, để bố mẹ nằm lạnh vắng trên một khu đất, hàng năm hương nhạt khói tàn, chả hiểu cái vui cái buồn của các cụ dưới ấy ra sao, lại luôn luôn nghĩ rằng trên đời này chỉ có mình mới nắm được chân lý, hiểu được chân lý… Các cụ xưa thường dạy: “Con đi đâu thì đi, giỗ Tết phải về nhà thắp cho các bậc sinh thành một nén nhang”. Giờ giỗ mẹ đi cúng nhờ nhà người khác, nghĩ mà tủi cho mẹ, không biết cụ có biết đường về nhà chú Dương không? Bày ra thì con cháu mình ăn, các cụ được miếng nào? Ngày còn bé, cứ có tiếng động bát đũa của mẹ dưới bếp, chơi đâu xa mấy cũng chạy về. Bây giờ trả nghĩa mẹ thế nào đây?”.

Cháu Hà nãy giờ ngồi nghe rất lễ phép, rất chăm chú, có vẻ hiểu lòng chú. Chú ấy còn trẻ mà khổ thế này. Bố mẹ mình chắc còn khổ hơn nhiều.

Chị Thục chạy vào buồng lục lọi một lúc sau đưa ra một chiếc áo mưa màu xanh vá hai miếng chéo ở góc:
- Chú cầm lấy. Mưa lâu thấm ướt áo, dễ cảm lạnh lắm. Ngày kia lại gặp nhau trên nhà chú Dương rồi...

Ông Đang đi ra ngõ. Ông Thoan chép miệng:

- Tội nghiệp cho chú, chẳng chết ở nơi mũi tên hòn đạn lúc khởi nghĩa nhưng không khéo lại mòn mỏi chết nơi tù ngục…

Ngày giỗ trời lạnh, ánh nắng đầu mùa xua đi sương lạnh, mọi nhà trên các phố xá phơi phóng áo chăn sau bao ngày mưa dầm mưa dề ủ một chỗ, giờ tung ra bắt nắng. Giữa sân nhỏ nhà chú Dương, thím Thảo ngồi rửa bát đũa chén, dội nước sôi rồi xếp gọn phơi trên chiếc chõng nhỏ. Chỗ vòi nước cuối sân, mấy bà ngồi vặt lông gà, mổ cá, ai cũng khen con cá chép chú Đang mua to và đẹp. Chú ấy giỏi cả mọi đường.

Thím Thảo bắt lời, bình luận cứ như một người làu thạo chính trị:

- Chú là một trí thức, một nhà văn nhà báo, lại có tài tổ chức thực hiện những nhiệm vụ lớn như ngày lễ Độc Lập, trong thời gian ngắn nhất, đây cũng coi như trận đánh cuối cùng vào chế độ đế quốc thực dân, cái tài huy động sức người, sức của và tài chỉ huy của chú khác gì một nhà quân sự. Ngày lễ Độc lập là một trận đánh Cụ Hồ lãnh đạo coi như trận đánh hay, phối hợp tất thảy các mặt.

 Ông Đang đứng trong nhà lau bàn thờ, nghe chị em bàn luận, gương mặt héo, nụ cười nhợt nhạt, ý nghĩ như tự nói một mình: “Giá hàng ngày ngồi viết lấy một câu văn hay để lại cho hậu thế có hơn không? Đằng này lại thích đi làm những việc động trời động bể nên mới chết…”.

Chợ Đồng Xuân những năm 1958 - 1960.

Lúc đó, ông Thoan từ bệnh viện Phủ Doãn đạp xe về đến đầu nhà, nghe mọi người bàn luận mà héo cả ruột, ông muốn mọi người đừng nhắc gì đến sự tài giỏi của chú Đang, chỉ thêm cho người ta ghét. Lúc nãy, ở ngoài bệnh viện ông đã nghe thấy mấy ông bác sĩ to nhỏ với nhau: “Bọn Nhân văn - Giai phẩm là bọn chống Đảng” mà chú Đang cầm đầu. Bây giờ ông Thoan mới thấy thèm cảnh sống yên ấm, dù thiếu thốn nhưng sống trong vui vẻ, trong lao động ví như chị quét rác bệnh viện. Cứ sáng sớm nghe thấy tiếng chổi tre là nghe thấy chị nói cười ồn ã, cuộc đời chẳng có gì phải lo nghĩ, nó như cái vòi nước cứ mở là chảy xối xả vào thùng. Ông Thoan thấy trong cái thời buổi khó khăn này, vợ ông phải chịu biết bao lo lắng khốn khổ dội vào cái căn nhà nhỏ bé. Thế mà mỗi bữa đong gạo thổi cơm, cô ấy phải xúc lại nửa bơ đổ vào hũ tiết kiệm giành lúc có khách ở quê lên. Ông như thấy vợ mình đã già dần đi và có những biến đổi trong con người… Nhiều lúc ông tự trách mình bất lực không lo nổi miếng ăn cho vợ con, giờ lại thêm chuyện chú Đang nữa. Ông bước vào, thấy chú Đang gục đầu vào bàn thờ, hai mắt đỏ hoe. Cả bữa hai anh em chỉ ngồi nhấm nháp và véo một tý xôi ở góc đĩa. Cuộc họp mặt cả nhà rầu rĩ buồn tẻ. Chỉ có cu Hà cứ lăng xăng, nó không cho ai động đũa vào con cá chép chưng với cà chua nằm chật cái đĩa lớn. Nó bảo:

- Cá chép chú Đang mua đẹp lắm, vây đuôi cá cứ như đang bơi đấy, nhất là lớp vảy cá vẫn ánh lên đủ sắc màu....

Ông Thoan nói với con bằng cái giọng ngùi ngùi:

- Chú muốn tiên tổ giúp chú như “cá chép vượt vũ môn”. Nếu vượt qua được cửa vũ môn là hóa rồng, vì ở đấy ghềnh thác nước ngược ghê gớm, cá phải dùng vây dùng đuôi, quẫy đạp ngược nước mà lên. Khi đã “Vũ môn tiên đạt” sớm đỗ đạt vinh hoa rồi thì thay đổi được hoàn cảnh của mình, của gia đình mình, quê hương mình, dân tộc mình. Nhưng tiếc thay…

Lời nói xa xôi đượm tính triết lý chỉ có ông Thoan, ông Đang và thím Thảo, chị Thục hiểu được, còn cu Hà và bao người khác chẳng hiểu nó ra làm sao mà góp chuyện. Sau lúc ồn ã bên mâm cơm, bây giờ ông Đang mới có điều kiện ngắm lại chân dung từng con người trong gia đình. Biết đâu cuộc gặp mặt lần này, từ ánh mắt đến nụ cười, tiếng nói của họ sẽ in sâu vào ông...

Và đúng thế, sau ba mươi năm tù tội sau này, ông mới được gặp lại họ, và có người mãi mãi không còn gặp nữa vì đã trở thành người thiên cổ. Chiều ấy ông Đang lại lững thững đạp xe về nơi ở. Mở cửa vào nhà mắt ông dừng lại tên Trần Đức Thảo in trên bìa cuốn sách rồi chép miệng: “Vụ Nhân văn này làm lôi thôi biết bao người văn nghệ sĩ, làm họ buồn chán, có người bị dọa dẫm như sắp bị bóp cổ, rút gân thì sống sao đây, đừng nói gì đến việc sáng tạo cho nhân loại học thuyết này học thuyết nọ. Họ lo sắp bị truy tố, bị săn đuổi, không biết kêu ai. Rồi ngoài đời bao chuyện... Chuyện nào cũng kinh thiên động địa như chuyện chiến trường".

Ông mân mê ngọn bút Satođô còn mới, thoáng trong đầu nghĩ: "Cái này dành cho thằng Hà, ngòi bút này đã viết ra những dòng chữ “vì Độc lập, vì tự do của dân tộc” giờ thành một tai họa cho chính người dùng nó. Nhưng với lớp trẻ như thằng Hà, biết đâu được dùng nó là việc có ý nghĩa hay?”...

 Mấy hôm sau ông ghé chợ trời mua quần áo cũ, hình như ông đã chuẩn bị cho chuyến đi khổ hạnh.

Ông ướm thử cái quần vải dầy xổ gấu. "Còn tốt lắm” - Ông lẩm bẩm rồi lom khom cúi rạp người xuống đống quần áo cũ hỗn độn bốc mùi ẩm mốc định chọn thêm vài chiếc áo. Bỗng có tiếng nói: “Xin mời anh về cơ quan”. Rồi hai bên là hai thanh niên khoác tay ông như bạn hữu dắt nhau đi chơi đẩy ông lên chiếc xe bịt kín chạy vù đi. Lên xe, ông phản đối việc bắt người vô cớ. Ông hỏi:

- Các anh bắt tôi theo lệnh ai? Giấy đâu? Hay đây là vụ bắt cóc?

- Lệnh à! - Người thanh niên há to miệng, chỉ vào mồm mình - Lệnh ở đây mà ra, tất cả ở đây!

Ông nhìn vào cái miệng với hàm răng trắng của anh ta. Từ đấy không cất lời nữa...

Chỉ đến khi đứng xem người ta lúc lọi nhà cửa, nhìn thấy cái bút Satođô người thanh niên mân mê, ông liền bảo:

- Các anh phải để đó, liệt kê vào danh sách cá nhân tài sản của tôi bị thu giữ. Sau này tôi vẫn khai cái bút đó với nhà chức trách. Vì đấy là kỷ vật tôi đã dùng viết vài lời trên báo chí vận động dân Hà Nội đóng góp tài trí, vật lực xây dựng Kỳ đài Độc Lập 2/9/1945.

Lúc sau họ leo lên tầng hai tiếp tục khám xét nhà ông Thiếu Bảo…

Chiều ấy họ đưa ông vào Hỏa Lò...

Người ta đã hỏi rất nhiều chuyện liên quan đến việc ông mua quần áo ở chợ Trời làm gì? Mặc dù ông đã nhiều lần giải thích việc mua quần áo đó là để dùng cho bản thân mình, vì ông không có nhiều tiền mua quần áo tốt.

Tất cả lời khai của ông, người ta đã đập lại cho đó là lừa dối nhà chức trách và buộc tội ông có ý định thay đổi hình dạng để chạy trốn…Cũng như việc đào xới tài liệu, đào xới tư tưởng, ông đã cùng với Thụy An làm gián điệp cho Pháp, họ cứ đóng vào khung tội “chống Đảng” và làm gián điệp bắt thừa nhận. Nhưng ông quyết không cầm bút ký cho đến khi họ đưa ông từ Hỏa Lò lên trại giam Tân Lập, Phú Thọ, vẫn với tội danh tên tù “NH” (nguy hiểm). Khi ông đi rồi, bà Thục chị dâu thương chú em tù tội ngày nào cũng mò vào Hỏa Lò nghe tin tức, khi có nắm cơm to tướng, lúc thì lọ muối vừng rang vội hơi cháy. Bà Thục chan chứa nước mắt, ruột cứ xóc lên vì mọi thứ mang vào đều được các chú bảo vệ khám xét hạch sách. Cơm thì người ta bẻ ra từng miếng nhỏ, họ sợ trong đó có tài liệu. Đến nỗi niêu cá trê kho khô với thịt gáy, lúc ở ngoài chú Đang thích ăn nhất, cũng bị bẻ vụn ra gói lại chuyển vào phòng giam. Mà những thứ ấy có được đến tay chú Đang không, không rõ nữa?

Ông Đang bị bắt rồi, bác cả Ruông đang làm ở Ty Hải sản Hải Phòng cũng bị đẩy ra Bạch Long Vĩ, còn Nguyễn Hữu Thoan bị đẩy xuống làm anh lao công quét vôi bệnh viện Phủ Doãn. Vợ con ông Thoan quấn túm chạy lên rừng khai hoang sinh sống ở làng Cổi thuộc Châu Lạng Sơn. Ở đấy toàn người Mường. Lúc đầu mẹ con đi làm thuê, sau vào HTX nông nghiệp. Anh Hà chữ nghĩa khơ khớ, xoay ra dạy trẻ con học, kiếm thêm tiền sinh sống.

Ở Hòa Lò, ông Đang ngày nào cũng bị thẩm vấn, lúc vào nửa đêm, có khi khoảng ba giờ sáng, có hôm vừa bảnh mắt đã bị lôi ra hạch sách. Vẫn là cái anh ấy, giọng đều đều như nước chảy, con mắt lim dim nhìn vào được đến ruột gan người tù. Thi thoảng anh đưa ra những câu hỏi chẳng đâu vào đâu. Trả lời hở một tí trúng cái bẫy cài mình là chết.

Ông Đang kể lại, có một cuộc thẩm vấn như thế này:

- Ông và bà Thụy An có quan hệ với nhau như thế nào? Thường xuyên liên lạc với tổ chức gián điệp nước ngoài ra sao? Tại địa điểm nào?

- Thưa ông, tôi quen biết bà Thụy An qua số anh em văn nghệ sĩ, người ta khen cà phê bà An ngon lắm. Thường thì chúng tôi đến đó uống cà phê, nói “bốc” với nhau chứ có để liên lạc móc nối với ai đâu mà các ông gán cho tôi tội gián điệp, chống Đảng. Là con người tôi cũng phải biết nghĩ chứ? Tôi có làm được cái gì cho ra tấm ra miếng đâu mà còn nói đến chống ai? Gần với ông Cụ lúc làm việc thấy Cụ như một Thánh nhân, học được Cụ đôi ba điều, tệ lắm tôi cũng không trở thành thằng bán nước, hoặc nhẫn tâm đi câu kết với bọn xấu…

Một trăm lần vẫn những câu hỏi như thế. Nguyễn Hữu Đang trở thành người có “án mờ”. Đã là “án mờ” càng phải thít chặt. Anh cán bộ ngồi trên chiếc ghế, chân nọ gác chân kia đưa mắt nhìn gườm gườm ông Đang, cái nhìn như đe dọa. Cửa phòng giam đóng sập lại… Tiếng bước chân đi của cán bộ thật nặng nề…

Mùa thu đến. Lúc nào trời cũng trắng nước như tóc của người tù trắng xốp phơi trong kiên Hỏa Lò.

Ông Đang được chuyển lên trại Tân Lập vào ngày mưa sét chớp sáng lòa, sấm gầm ầm ĩ. Mưa không dứt, ông nhìn về những dãy núi Chinh trước mặt là con đường đi bộ vào vùng đất Soi Đẽn nhạt nhòa nước trắng. Ngòi Lao, nước chảy từ phía trên trôi xuống như xé những bụi cây, như lật hòn đá to nằm chềnh ềnh giữa suối. Núi non chìm trong mưa. Đoàn tù đi bộ phải dừng lại ngồi xuống sườn quả đồi có nhiều cây to. Mỗi người có một chiếc mũ to che đủ chỏm tóc, còn tất cả phải hứng nước. Họ xây lưng chụm đầu ngồi quây lại cho đỡ rét. Cái rét của nước mưa thấm sâu vào gan ruột người tù làm mọi người co rúm.

Trên cái nền nhà giam, đoàn tù vừa từ Hỏa Lò lên nhập trại Tân Lập, khi về đến các buồng, còn để lại những vệt đen sũng nước... Cả đám tù trông loi ngoi như một đàn chuột nhắt bị rơi xuống suối…
(Còn tiếp)
VÕ BÁ CƯỜNG
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thiếu gì cái tiết kiệm? Riêng nhà em thấy cái này không tốn quá đâu. Chả có câu: "Ba anh khâu giày hơn một nhà thông thái".. Có nhẽ lãnh đạo ta áp cái này cũng nên?

Tiết kiệm là quốc sách

Tiết kiệm là quốc sách.
 
Từ hồi còn bé tí tôi đã nghe những người trong bộ máy cai trị xứ này nói thế. Tôi sướng lắm bởi thày (bố) tôi cũng luôn nhắc con cái phải tiết kiệm, và đừng có màu mè hình thức. Vậy nên tôi góp ý với đảng và nhà nước:

Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đang thăm và làm việc ở xứ ta. Mà chẳng phải chỉ riêng ông Kerry, nước này từng đón tiếp rất nhiều ông to bà nhớn. Đáng lưu ý, đáng nhẽ những người đứng đầu bộ máy cầm quyền nước này (nhất là tứ trụ, mà sao lắm trụ thế) hoặc tụ họp nhau lại, hoặc cử một vị nào đó ra để thay mặt đón tiếp, trò chuyện, hội kiến, hội đàm chi chi đó, thì lại cứ tách riêng lẻ, mỗi ông tiếp một lúc, có khi chỉ trong một buổi chiều mà cả 4 ông tiếp, quanh đi quẩn lại vẫn dăm ba câu xã giao, vẫn vài nội dung mà các ông ấy đã quán triệt để nói với khách. Nhìn chung giống nhau đến 90%, chỉ khác cái bản mặt. Rất nhàm chán, lãng phí bởi một cuộc tiếp như vậy rất tốn kém tiền bạc, công sức, thời gian...

Tôi nhận thấy chỉ xứ ta mới màu mỡ riêu cua kiểu vậy, nước khác ít có bởi họ rất thực chất. Theo tôi, các vị nên gộp làm một lần, chỉ trừ trường hợp mỗi vị có những riêng tư muốn thì thào với khách. Nhưng làm gì có chuyện ấy, nhỉ.
 
Nguyễn Thông
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không khảo mà xưng _ Người TQ để lộ dã tâm của mình. Nhưng xin các "đ/c bốn tốt" nhớ cho rằng VN không dễ dọa nạt đâu!

(Quốc tế) - Những bình luận kích động chiến tranh giống như Mã Đỉnh Thịnh đã và đang tố cáo chính hành động leo thang, dã tâm bành trướng cùng các thủ đoạn…

Mã Đỉnh Thịnh, ủy viên Chính hiệp tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, biên tập viên đài Phượng Hoàng, Hồng Kông.
Mã Đỉnh Thịnh, một biên tập viên của đài Phượng Hoàng đồng thời là thành viên Chính hiệp tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc ngày 5/8 chủ trì chuyên mục bình luận “Phòng quan sát tình hình quân sự” đã lên tiếng kích động xung đột, chiến tranh khi huênh hoang lên tiếng đe dọa “san bằng” các căn cứ quân sự của Việt Nam một khi nổ ra xung đột Việt – Trung trên Biển Đông.
Ông Thịnh bình luận việc Việt Nam mới nhận thêm 2 tàu ngầm Kilo do Nga chế tạo có thể gia tăng ít nhiều áp lực đối với các căn cứ tàu ngầm hạt nhân và tàu sân bay Trung Quốc ở vịnh Á Long, đảo Hải Nam.
Mã Đỉnh Thịnh huênh hoang tuyên bố: “Nếu quả thật xảy ra chiến tranh Trung – Việt, Trung Quốc nhất định sẽ sử dụng ư thế lớn nhất của nó là tên lửa và tên lửa mang đầu đạn hạt nhân. Chỉ cần tên lửa thông thường của Trung Quốc cũng có thể san bằng các hải cảng của Việt Nam, bao gồm căn cứ không quân.”
“Không có các căn cứ này thì Việt Nam có mạnh đến đâu cũng như con chim mất cánh, Mỹ hay Nga dù có muốn giúp thì nước xa khó cứu được lửa gần. Kể cả khi Hoa Kỳ can thiệp vào Biển Đông, nhiều lắm cũng chỉ là viện trợ quân sự, rất ít khả năng họ trực tiếp xuất quân can thiệp”, Mã Đỉnh Thịnh rêu rao.
Bản thân tàu ngầm chủ yếu tác chiến dưới nước, uy hiếp của nó với các chiến hạm mặt nước khá lớn. Từ các cuộc chiến tranh trước đây có thể thấy muốn hạ một tàu ngầm đối phương phải sử dụng lực lượng chiến hạm mặt nước đông gấp 3 đến 4 lần. Các tàu ngầm Kilo mà Nga bán cho Việt Nam đều là loại tiên tiến nhất, cho nên tấn công nó không bằng trực tiếp hủy diệt các căn cứ tàu ngầm Việt Nam, Mã Đỉnh Thịnh tuyên bố.
Viên học giả, quan chức Trung Quốc này cho rằng cuộc tập trận vừa qua của hạm đội Nam Hải, Trung Quốc trên Biển Đông (lần đầu tiên) có sự tham gia của mấy tiểu đoàn tên lửa chiến lược với mục tiêu giả định là các căn cứ của đối phương trên đất liền, Mã Đỉnh Thịnh lưu ý.
Có thể thấy một bộ phận truyền thông và học giả Trung Quốc đang theo đuổi chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hung hăng hiếu chiến thường xuyên vin cớ Việt Nam mua tàu ngầm Kilo của Nga để đưa ra những giả định, bình luận kích động chiến tranh, làm nóng dư luận khu vực vốn đã căng thẳng vì những hành vi leo thang gây hấn, bành trướng của Bắc Kinh trên Biển Đông.
Những bình luận kích động chiến tranh giống như Mã Đỉnh Thịnh đã và đang tố cáo chính hành động leo thang, dã tâm bành trướng cùng các thủ đoạn bành trướng sức mạnh quân sự, đe dọa các bên trên Biển Đông mà Trung Quốc đã và đang làm thời gian qua.
Trong khi Trung Quốc sắp tổ chức duyệt binh quy mô lớn kỷ niệm 70 năm kết thúc chiến tranh và các nhà lãnh đạo nước này rao rảng rằng không bao giờ được quên lịch sử bị Nhật Bản xâm lược thì chính quân đội Trung Quốc đang giễu võ dương oai đe dọa hòa bình, an ninh ổn định và luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Truyền thông, học giả “hỏa lực mồm” Trung Quốc vẫn ra rả cổ súy kích động chiến tranh ở Biển Đông chính là cái tát đập lại những tuyên bố rằng Trung Quốc muốn duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000


(Thời biến đổi gien)
 Kỳ 19
 Bùi Ngọc Tấn
Phải đến quá tám rưỡi tối nhưng tất cả vẫn cứ chờ. Rượu chưa mở — một chai vốt ca. Chưa ai đụng đũa. Hẳn họ đã đói mèm. Tất cả reo lên khi thấy chúng tôi. Sự chờ đợi cuối cùng đã chấm dứt. Tôi cảm thấy mình là người có lỗi. Thì ra các anh làm bữa rượu này để mời tôi — họ đã được Đinh Quân thông báo thời gian tôi từ Yên Thế trở về Hà Nội — và cứ nhất định chờ tôi có mặt để vừa ăn vừa trò chuyện cùng tôi. Chỉ giữa các anh với nhau, ăn uống lúc nào chả được. Đinh Quân đưa túi kem cho vợ. Hiền hỏi:
– Ai trông xe cho anh mua kem. Anh bắt chú trông xe à?
Quân cười:
– Thì đồng chí Nguyễn Văn Tuấn chứ ai!
 Chúng tôi uống rượu. Đúng hơn, tôi chỉ nhấp một xíu vốt ca, còn toàn ăn kem. Phần nhậu là nhiệm vụ của các bạn trẻ. Đến lúc ấy tôi mới biết Nguyễn Xuân Tiệp là con trai nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc, người hồi chống Pháp đã về trường Hàn Thuyên dạy lũ học sinh chúng tôi làm nhạc không son phe. Và Hường vợ Tiệp là con gái hoạ sĩ Sĩ Ngọc, một hoạ sĩ tôi hằng kính yêu, đã minh hoạ những truyện của tôi in trên báo Văn Học.
Hường – Tiệp xưng cháu, nhưng tôi cười: Em thôi.
– Cháu… Em đã được đọc đâu. Hường bảo. Có bộ sách của anh thì mẹ em giằng mất. Mà mẹ em cũng chưa được đọc ngay. Bạn mẹ em đọc. Các cụ đọc mải miết. Đọc đi đọc lại. Đến bây giờ em vẫn chưa được đọc. Cứ có ai đến là mẹ em lại cầm bộ sách ra, lật hai cái bìa bốn có ảnh anh. Mẹ em bảo: Đây này. Lúc mới tiếp quản người ta như thế này. Bây giờ các ông làm người ta thành ra như thế này.
Tôi thực sự xúc động. Không xúc động sao được khi chị Sĩ Ngọc chưa biết mặt tôi mà xót thương tôi đến thế. Bức ảnh bìa bốn tập 1 là bức ảnh tôi chụp mùa Đông năm 1954 với anh Bùi Đức Thành, anh thứ hai tôi khi hai anh em cùng vào tiếp quản thủ đô. Tôi mới hai mươi tuổi chưa hằn một nếp ưu tư. Còn bức ảnh in ở tập 2 Minh Nhật chụp tôi mùa thu năm 1997 rất đẹp. Tôi như từ bóng tối nhô ra, nhăn nheo, kiên nghị, không đầu hàng, mắt bên tối thì sáng, mắt bên sáng thì tối…
Tôi hỏi Lương Xuân Đoàn:
– Lam Luyến có nói với mình là nhờ Đoàn vẽ bìa nhưng không được…
Đoàn bảo:
– Hồi ấy em đi Na Uy.
Cùng với thời gian, Đoàn cũng như những người ngồi quanh mâm rượu tối đầu hè hôm đó đều đã trở thành những người bạn thân thiết của tôi. Thân thiết và quý trọng. Nguyễn Xuân Tiệp chẳng hạn. Anh đã làm đơn xin nghỉ khi đang giữ chức vụ hoạ sĩ trưởng Bảo Tàng Mỹ Thuật Việt Nam, một cái ghế có quyền lực và mang lại cả… tiền. Ngô Hà Thái nữa. Biết tôi cưới vợ cho con trai út, đứa con khi tôi đi tù về mới lên bốn đã hỏi tôi hai câu hỏi Thái không thể nào quên được: Sao bố đi lâu thế? Bố già chưa hở bố? Thái đã cùng Phạm Xuân Nguyên xuống Hải Phòng dự tiệc cưới còn gọi là “ăn cơm bụi giá cao.” Ăn xong, tối đêm lại mò về Hà Nội. Nhìn hai anh tươi cười bên mâm cỗ, tôi lắc đầu: “Hai thằng này. Người ta đã tha cho rồi, không mời mà vẫn cứ xuống Tôi hiểu các anh không thể vắng mặt trong ngày vui của gia đình tôi. Đó là những người theo một nghĩa nào đó đã là ruột thịt.
Mãi khuya tôi mới từ chỗ Tiệp – Hường về nhà Dương Tường, không chợp mắt được dù rất mệt. Hai mắt dõi vào bóng đêm và tìm thấy trong đó hạnh phúc. Tôi đã có thể hình dung được phần nào cuộc sống mới đang đến với tôi. Không còn cô độc thầm lặng với một khối u nặng trĩu vón cục kết tủa trong tim óc. Có ai đó nói rằng: Không gì khủng khiếp bằng nhìn một trí thức không mang gì khác ngoài nỗi bất công đè nặng trên vai. Tôi hiểu được điều ấy. Nhiều người hiểu được điều ấy. Bằng chính cuộc đời họ, bằng những ngày đêm gậm nhấm gông cùm trong khi tai luôn nghe rao giảng về lòng nhân ái. Tôi nghĩ đến những bậc đàn anh, cha chú: Phan Khôi, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính… Những người Nhân Văn Giai Phẩm, những người Xét Lại Hiện Đại, những người có cái đầu dại dột dùng để nghĩ, những tai vạ mà những người đi trước thời đại phải mang.
Lại càng không thể không nhớ lại những ngày hậu tù cô đơn mà ghê sợ. Ở Hải Phòng tôi chỉ có một Nguyên Bình. Và khi Nguyên Bình đã chuyển lên Hà Nội thì tôi không còn nơi nào để mà đi đến nữa. Điều kinh khủng của xã hội này là như vậy: Không còn nơi nào để mà đi đến nữa! Cái ông Henri Charrière vượt khỏi nhà tù là đã được sống ngay trong vòng tay xót thương đùm bọc của những người dân Venezuela đến độ những cô gái đã qua đêm cùng ông để bù đắp cho ông. Mời ông hãy đến đất nước của tôi. Ông sẽ được hưởng điều mà chỉ những đất nước triệu lần dân chủ hơn, triệu lần nhân ái hơn mới có
*
Cuối cùng thì cái quyết định thu hồi tiêu hủy tập tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của tôi và có hình thức kỷ luật nghiêm khắc Ban Giám đốc nhà xuất bản Thanh niên đã được công bố. Tôi không được nhận quyết định ấy và chỉ đọc nó trên các báo. Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thông ton Phan Khắc Hải ký ngày 16 tháng 3 năm 2000 kết tội nó đã vi phạm khoản 1 và 2 điều 22 luật xuất bản và quy chế lưu chiểu. Tôi lùng tìm bộ luật xuất bản. Tôi tra ngay khoản 1 và 2 điều 22, những khoản tập sách của tôi vi phạm mà vì thế nó bị thu hồi tiêu huỷ.
Đây rồi điều 22 : Nghiêm cấm các xuất bản phẩm có nội dung:
1– Chống lại nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại khối đoàn kết toàn dân.
2– Tuyên truyền bạo lực, chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước, truyền bá tư tưởng, văn hoá phản động, lối sống dâm ô đồi trụy, các hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục.
Lại một cái gì chẹn ngang cổ. Lại cố hớp lấy mấy ngụm khí trời để khỏi chết vì tắc nghẹn. Chao ơi! Đã bao năm rồi vẫn một kiểu cai trị như thế. Vẫn nói trắng thành đen, nói đen thành trắng. Vẫn lì lợm không biết xấu hổ. Sự lì lợm này mài nhẵn những bộ mặt, ăn mòn phản ứng trên da mặt. Nó làm mặt người gần mặt con vật. Bởi để có một nét phản xạ trên khuôn mặt, con người cần đến bao nhiêu hệ cơ bắp, dây thần kinh mà con vật không thể có. Hãy xem lại từng khoản mà ông thứ trưởng Phan Khắc Hải đã ký.
Khoản 1: Chống lại nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tập tiểu thuyết của tôi chỉ thuật lại chân thực những điều chà đạp lên cuộc sống con người. Những bi kịch của xã hội độc tài độc trị, của sự nhân danh cách mạng xâm phạm những quyền cơ bản nhất của con người mà cách mạng đã giương cao ngọn cờ tập hợp nhân dân đứng lên giành lấy. Và niềm tin đã đổ vỡ. Bao nhiêu xương máu đã đổ, hy vọng đón bình minh những vẫn chỉ là đêm đen. Bằng vào những kinh nghiệm cay đắng của bản thân và của biết bao người khác, tôi viết tập sách này để kêu gọi nhà nước hãy thực thi luật pháp, đừng bao giờ để xẩy ra những thảm cảnh tương tự. Nếu một nhà nước thật sự của dân do dân vì dân như người ta vẫn nói, nếu một nhà nước làm theo hiến pháp và pháp luật như khẩu hiệu do chính nhà nước đưa ra, nếu một nhà nước dũng cảm nhìn thẳng vào sai lầm và quyết tâm sửa chữa như những người lãnh đạo nhà nước vẫn hàng ngày tuyên bố thì sẽ đón nhận tập sách của tôi như một bằng chứng cụ thể để sửa đổi, làm cho đất nước mạnh hơn lên, con người sống cùng nhau trong tình thân ái, không hận thù nghi kỵ, lại càng không đàn áp, tiêu diệt. Nhận sai lầm bao giờ cũng là một việc làm nâng cao uy tín của mình. Nếu cái uy tín ấy không còn thì cũng là bước đầu khôi phục nó, nhen nhúm nó trở lại.
Quyết định của Bộ Văn hóa Thông ton nói tập sách của tôi phá hoại khối đoàn kết toàn dân. Đúng là hài hước. Đại hài hước. Chẳng lẽ lại thanh minh rằng trong tiểu thuyết của tôi có mọi tầng lớp dân tộc. Kinh. Nùng. Thổ. Mán. Hoa. Công giáo. Nhà báo. Việt kiều. Cán bộ. Nông dân, nghệ sĩ, máy trưởng, ăn cắp, giết người, chính trị, “ngụy quân”, bộ đội… Đủ các tầng lớp các thành phần dân tộc đi tù chứ! Phá hoại khối đoàn kết toàn dân ở chỗ nào?!
Còn khoản 2, chỉ những người nhắm mắt trước sự thật, sự thật được ghi bằng giấy trắng mực đen, rõ ràng như hai với hai là bốn, hoặc những người trí óc không bình thường, thiểu năng trí tuệ mới dám nói rằng tôi vi phạm. Chẳng lẽ họ tìm thấy trong tiểu thuyết của tôi những luận điệu tuyên truyền bạo lực, chiến tranh xâm lược, gây thù hận giữa các dân tộc và nhân dân các nước, truyền bá văn hoá phản động, lối sống dâm ô đồi truỵ, các hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục như đã ghi trong khoản 2 điều 22 luật xuất bản?
Họ là ai? Những kẻ xưng xưng ngậm máu phun người. Vẫn biết quyền lực ở chốn thâm u, quyền lực nằm trong bóng tối, nhưng sao vẫn cứ ao ước “bạch hóa” nó, lôi nó ra ánh sáng. Một quyền lực hiện hình thành một con người, có mặt, có mồm, có tên gọi, có tuổi, có hình dong diện mạo từ bóng tối bước ra, để ghi vào lịch sử như một Tần Thủy Hoàng thời hiện đại.
Tôi nghĩ đến những ông kẹ với những giáo điều kết lại từng bối han gỉ trong đầu gần thế kỷ, những Thái Thượng hoàng đầy quyền uy, đang mang chút lực tàn ra bảo vệ sự trong sáng của cách mạng, đập bàn, giậm chân, giận dữ. Tôi nghĩ đến cái bộ đã ra quyết định thu hồi tiêu huỷ tập sách của tôi. Tôi nghĩ đến ông Bộ trưởng Trần Hoàn, người đã phá đàn Nam Giao, người sắp rời vị trí nhường chỗ cho Nguyễn Khoa Điềm. Trần Hoàn nguyên là giám đốc sở văn hoá Hải Phòng, biết tôi và trong buổi trao giải thưởng của tạp chí Văn Nghệ Quân Đội cho tôi đầu năm 2000 còn ôm lấy tôi vỗ vỗ vào lưng tôi, nói đủ cho tôi nghe: “Ông bạn già của tôi đây.” Rồi nghĩ đến thứ trưởng bộ Văn Hoá kiêm tổng thư ký Hội Nhà Văn Nguyễn Khoa Điềm, người mà Nguyễn Quang Thân đã bảo tôi: “Nhìn một người, mày đừng nhìn vào bản thân nó, mà hãy nhìn cái ghế nó ngồi.” Thân bao giờ cũng thông minh, sắc sảo. Lời Thân nói đáng buồn thay lại là chân lý. Theo chân lý đã được cuộc sống kiểm nghiệm và chứng minh này, cái ghế càng to độ hỏng của người ngồi ghế càng lớn. Ít nhất 99% là như vậy. Đến bao giờ lịch sử sẽ lôi ra được những gì ẩn trong những chiếc ghế vàng son đó? Tôi vẫn cứ nghĩ là một nhà thơ, Nguyễn Khoa Điềm hiểu được những gì nhân dân đang gánh chịu và thông cảm với tôi. Việc Nguyễn Khoa Điềm làm là bắt buộc phải làm. Nhưng Nguyên Ngọc, trong một lần về Hải Phòng thăm tôi nói khác:
– Trong Nguyễn Khoa Điềm có hai con người. Điềm hiểu tất cả nhưng lại làm ngược lại. Trong một hội nghị xuất bản, chính Nguyễn Khoa Điềm đã nói vềChuyện kể năm 2000: “Đây là một quyển sách độc ác.”
Sao Nguyễn Khoa Điềm lại nói thế nhỉ? Tập sách của tôi chỉ thuật lại trung thực một cuộc đời bị vùi dập, tù tội oan khuất. Lẽ ra ông ta phải nói: “Những người gây ra thảm cảnh này thật là độc ác.” Ông ta đã đánh tráo khái niệm, biến nạn nhân thành thủ phạm. Nguyên Ngọc còn kể trong một đại hội nhà văn, Nguyên Ngọc động viên Nguyễn Khoa Điềm nhận chức tổng thư ký, Điềm đã trả lời: “Tôi ở tỉnh chắc hơn.” Đúng là làm thường vụ tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế rồi từ đấy tiến thân chắc chắn hơn, cơ bản hơn làm anh tổng thư ký Hội Nhà Văn dân bầu xã cử đầy phức tạp bấp bênh này. Nguyên Ngọc kết luận:
– Mỗi bước đi, Điềm đều tính toán rất cẩn thận.
Có vẻ Nguyên Ngọc đã đúng. Ở Huế, thấy một nhà sư biểu tình ngồi, ông đã hạ lệnh: Hót! ([1]) Ở Huế, ông cấm tiểu thuyết của Nguyễn Khắc Phục. Ông lên Hà Nội làm tổng thư ký Hội Nhà Văn, thứ trưởng bộ Văn Hoá Thông Tin. Và chiếc ghế uỷ viên Bộ Chính Trị chờ ông trong đại hội đảng sắp họp. Lên án và sát hại Chuyện kể năm 2000 là một hành động bảo đảm cái ghế ấy là của ông.
Nhưng ông không ký lệnh. Ông Phan Khắc Hải ký. Đừng bao giờ dính vào việc ký lệnh đốt sách. Ô danh muôn đời không rửa được.
Trong đại hội nhà văn lần thứ 6 tháng 4-2000 tôi nhiều lần giáp mặt Nguyễn Khoa Điềm. Không hiểu ông có biết tôi không. Còn tôi làm như không biết ông, không chào ông. Chả làm quái gì phải chào một người không quen, một người luôn tự thấy mình là quan trọng, lúc nào cũng hầm hầm như giận dữ căm ghét tất cả lũ ăn hại phá quấy chúng tôi, những kẻ nhơn nhơn lợi dụng dân chủ khiến ông phải đau đầu vất vả. Với chức trưởng ban Tư Tưởng Văn Hoá Trung Ương Đảng, ông siết chặt báo chí, chiếu tướng các nhà xuất bản. Trong một hội nghị xuất bản, ông chỉ đạo Bộ Văn Hoá Thông Tin phê bình bằng văn bản nhà xuất bản Hải Phòng do nhà thơ Phạm Ngà làm giám đốc “đã in cho Bùi Ngọc Tấn, là người có sáng tác bị cấm, ba đầu sách trong một năm” — 2003. Có tin ông sẽ lên làm chủ tịch nước. Tin gần như chắc chắn. Đồng Đức Bốn một người hết sức thân cận với ông ([2])còn nói rõ cả thời gian đại ca sẽ nhậm chức. Thế rồi ông về hưu. Bị hất ra khỏi cung đình. Đạp xe đạp ở Huế, hẳn ông đã ngấm trò chơi chính trị, biết thế nào là những bậc cao thủ. Rồi ông trưởng ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung Ương Đảng, người lãnh đạo tư tưởng văn hóa toàn quốc đã về vườn ấy trả lời báo chí rằng cái yếu nhất hiện nay là văn hóa, ta cứ làm văn hóa như thế này thì còn đi xuống nữa. Ông nói tâm lý phổ biến của dân là không thích chính quyền, dân chỉ đối phó với chính quyền, và ông nói sống trong một xã hội như xã hội mình thì khi nào cũng phải sợ…Ông đã công bố trên Sông Hương số 6-2013 bài thơ Tự Do, một bài thơ như một bạn đọc nhận xét “giống Bùi Ngọc Tấn viết trước đó mấy chục năm và đã bị ông nghiền thành bột.”
(…) Giữa cái thời sống là đeo đuổi/ Danh hiệu, bạc tiền, ghế cao, nhà rộng / Tôi chọn tự do/ Thi sĩ/ Tự do trước hết chính mình/ Không chiều lụy mình/ Ngỏng cổ nghe lời khen tặng.
(…) Thật bình dị/ Tự do làm tâm hồn ta lớn lên. Trong chiều kích vũ trụ.
Ông nói ông mất tự do vì chiều lụy mình, vì muốn ngỏng cổ nghe lời khen tặng.
Để có lời khen tặng, bao nhiêu người đã phải trả giá, kể cả cái giá đất nước phải trả. Còn chúng tôi mất tự do vì chính các ông, vì sự ngỏng cổ của các ông, cách thức cai trị, trừng trị của các ông: Không in, xùy tay sai đánh đấm, nghiền sách, đốt sách, tống vào tù vô thời hạn. Chúng tôi cam chịu mọi khó khăn, nguy hiểm, nghèo khó, vào tù để có được cái tự do ông nói: Được là mình, viết điều mình mong ước, mặc cho ông cùng các bạn của ông liệt những hành vi như vậy là bất mãn, là chống đối — mà bây giờ gọi là chống phá, theo dõi, uy hiếp.
Khi ông Điềm mất sạch chức tước, về hưu, tôi thương… nhiều nhà phê bình lý luận và cả một số nhà văn nữa đã bỏ ra bao nhiêu công sức đầu tư, xào đi nấu lại một món đã được ninh nhừ đến mức… sột sệt là vụ đấu tranh tư tưởng nghệ thuật vị nhân sinh và nghệ thuật vị nghệ thuật giữa Hải Triều — thân phụ ông Điềm — và Hoài Thanh từ thời nảo thời nào, và sau cách mạng Hoài Thanh nhiều lần tự lên án mình đã đề cao cái hay cái đẹp của Thơ Mới: “Những câu thơ buồn nản vẩn vơ cũng đều là bạn đồng minh của giặc.” Mấy ông mẫn cán như thế, đánh dai còn cái lai quần cũng đánh như thế mà bỗng chốc thành công cốc. Giờ đây vụ này chắc sẽ vĩnh viễn xếp vào hồ sơ lưu của lịch sử. Hoài Thanh chắc sẽ không bị đào bới, và có thể yên giấc ngàn thu. Bởi ông Điềm không thể lại là một trong mười sáu ông vua không ai có thể kiểm soát và ngấp nghé ngôi vị Hoàng Thượng. Bởi làm gì có nghệ thuật vị nghệ thuật. ([3]Nghệ thuật nào cũng vì Con Người! Câu chuyện rẽ ngang về ông Nguyễn Khoa Điềm hơi dài, bởi đâu phải chỉ chuyện ông Điềm.
Trở lại chuyện của tôi.
Hai tuần lễ trước khi có lệnh thu hồi tiêu huỷ của Bộ Văn hóa Thông ton do ông Phan Khắc Hải ký, tôi đã xe hết sách mà Luyến đưa tôi để nộp lên nhà xuất bản. Nhà xuất bản không cho xe xuống chở sách mà chỉ cử hai người về nhà tôi. Một người bên phát hành. Một người làm cùng phòng với Lam Luyến. Tôi mời hai anh ăn trưa: Một bữa lẩu dê ở Ngã Sáu. Rồi các anh đi thuê xe ô tô. Một chiếc Toyota tám chỗ. Lúc đang xếp sách lên xe, có điện thoại của Đình Kính:
– Em đang ở nhà xuất bản Thanh Niên.
Kính đã từ Đà Nẵng về. Anh đã biết tất cả diễn biến cũng như biết tôi đã mang sách anh gửi ở quán cà phê về nhà tôi.
– Em chờ anh ở nhà xuất bản. Em vừa về đến đây
Tôi rất mong gặp Kính. Anh là người đã chở sách từ Hà Nội về nhà tôi như chở một niềm vui bất tận về cho tôi và hôm nay tôi nộp lại niềm vui ấy để nhận lấy thất vọng, anh cũng có mặt cùng tôi.
Vừa đặt máy xuống chuông đã lại đổ. Nhấc máy. Dễ dàng nhận ra Nguyễn Trọng Tạo. Từ ngày xẩy ra sự cố về sách đến giờ tôi mới gặp lại Tạo — dù chỉ trên điện thoại. Mới quen nhau nhưng tôi rất quý anh. Cái bìa Chuyện kể năm 2000 của Nguyễn Trọng Tạo được nhiều người công nhận là một trong mấy cái bìa đẹp nhất những năm gần đây. Giọng trầm của Tạo bên kia đầu dây. Hôm qua Tạo đi vắng. Về cơ quan thì nhận được thư anh. Tôi bảo: Lại phải cảm ơn Tạo một lần nữa về cái bìa. Đẹp. Thông minh. Độc đáo. Cho dù cả bìa cả ruột mình đang thu gom để nộp đưa lên đài hoá thân hoàn vũ. Tiếng cười của Tạo cũng trầm như giọng nói: A25 họ bảo em: Bìa anh Tạo làm nhiều ẩn ý lắm. Em bảo bìa Nguyễn Trọng Tạo làm một trăm ẩn ý. Có tay bảo: Sao trông nó giống cái Khuê Văn Các thế nhỉ. Em bảo: Các ông nói đấy nhé. Không phải tôi nói, kẻo sau này lại đổ cho tôi. Bọn ở Huế ra Hà Nội gặp em, cứ đòi đọc, đòi phô-tô cop-pi, nhưng tập anh cho em và cả tập sách bản quyền cái bìa nữa lưu lạc đến đâu rồi. Đọc anh thích lắm. Sau Vũ Trọng Phụng, Tạo chưa đọc tập nào thích. Cứ ao ước thì bây giờ được đọc. Sướng. Tập tiểu thuyết của thế kỷ đấy. Thằng Nguyễn Quang Lập cũng thích lắm. Thích lắm ấy. Kỳ này đi đại hội nhà văn em sẽ tham luận: Có thật chúng ta mong muốn có tác phẩm lớn không? Nói để mà nói. Cho có mục tiêu, cho ra vẻ thế thôi. Chứ có tác phẩm lớn là xúm lại vặt trụi lông. Đấy tiểu thuyết là thế đấy. Chẳng trào lưu trường phái. Chẳng hiện sinh. Chẳng hậu hiện đại. Chẳng hiện thực huyền ảo. Hiện thực nghiêm ngặt mà thế đấy. Lại cười. Khà khà. Anh Tấn ơi. Anh viết về cái vụ in ấn Chuyện kể năm 2000 đi. Thích lắm đấy. Bao giờ in thì in. Cứ viết sẵn đi…
Tạo xui tôi viết Hậu Chuyện kể năm 2000. Lại một người đồng điệu. Trong điện thoại Tạo còn nói Tạo bảo với cánh A25 rằng đọc đi rồi rút kinh nghiệm: Đừng bao giờ bắt các nhà văn vào tù. Ra tù là họ viết đấy. Viết không cãi được đâu. Nếu bắt họ vào tù thì phải làm họ chết ở trong ấy. Tạo cười khà khà. Một câu nói đùa nhưng tôi nghe cứ rợn cả người bởi nó rất có thể trở thành hiện thực.
Chuyện với Tạo xong tôi lên xe chở sách đi Hà Nội. Không quên mang theo ba bốn phương án về số sách không nộp. Cả danh sách tặng với thống kê họ tên từng người. Chỉ không có địa chỉ. Dù Bùi Văn Ngợi đã rất căng với tôi trên điện thoại:
– Anh cho địa chỉ từng người để nhà xuất bản chúng tôi cử người đi thu. Vất vả cũng phải làm.
Tôi hơi hoang mang nhưng nghĩ ngay: Lại một cách nói với tôi nhưng đểngười vô hình nghe đây. Bởi việc đó gần như không thể thực hiện được. Ai lấy sách được của Bầu, Tường, Lân, Bão, Công Nam…?
Tuy nhiên tôi đã trả lời Ngợi:
– Tôi chỉ nhớ tên người chứ không nhớ địa chỉ đâu. Ngay ông anh ruột tôi ở Hải Phòng tôi thường xuyên đến chơi, nhưng không bao giờ nhớ số nhà.
Điều tôi nói là thực tế, nhiều thuyết phục. Khi nộp sách không thấy Ngợi nhắc gì đến địa chỉ những người tôi biếu sách và mua sách của tôi, tôi càng tin anh làm căng như vậy qua điện thoại chỉ là diễn, như tôi và Đinh Chương ngoài đời, như vợ chồng Bình trong truyện nằm trên giường diễn vở ngợi ca. Khó khăn nhất là năm mươi bộ Luyến gửi vào bán ở thành phố Hồ Chí Minh tôi đã lo liệu xong. Vũ Tín đã giúp tôi. Vẫn với tiếng cười hề hề quen thuộc, Tín nói với tôi như đang nói với các nhà chức trách lục vấn anh:
– Tôi đang ngồi bán hàng thì một ông bạn thương binh đi qua, ông ấy bảo sắp vào Sài Gòn kiếm ăn mà rách quá. Có cái gì mách ông ấy để ông ấy đưa chân kiếm tí tiền tầu xe. Tôi bảo khó lắm. Nhưng có cái này, làm được không. Có dăm chục bộ sách thằng bạn tôi mới in đây. Giá bốn mươi nghìn. Giá bìa là bẩy bẩy nghìn. Nhưng bán được trăm rưởi hai trăm nghìn một bộ đấy. Làm được thì làm. Ông bạn tôi làm ngay.
Tôi cũng lấy giọng nhà chức trách hất hàm hỏi anh:
– Ông bạn ông tên là gì?
Trần Quyết Thắng. Tín trả lời ráo hoảnh. Chắc là cái tên vừa mới nghĩ ra. Tôi nghiêm mặt, giọng gay gắt vặn vẹo của cán bộ điều tra, quắc mắt nhìn anh:
– Ông ấy ở đâu?
Vẫn kiểu tỉnh bơ của Tín:
– Ở bộ đội. Cùng đơn vị. Trước có nhớ cả xã, thôn đấy. Nhưng bây giờ chỉ nhớ là Thạch Thất Sơn Tây. Lâu quá rồi. Từ hồi tái chiếm Quảng Trị đến giờ nhớ thế chó nào được. Mỗi ngày nướng một đại đội! Một đại đội bốc hơi! May mà còn sống để nhớ cái tên tôi là Vũ Tín.
– Anh Trần Quyết Thắng giả tiền anh chưa?
– Giả tiền ngay. Tiền trao cháo múc. Bán chịu biết nhà bố ấy ở đâu mà đòi. Hề hề…
Vừa nói Tín vừa xoay cái chân gỗ lục cục lục cục trên nền đá hoa. Vẻ mặt tự tin đến mức khiêu khích. Và cười ầm lên, một tiếng cười giòn vang chiến thắng. Bỗng im bặt rồi chuyển rất nhanh sang sừng sộ, áp đảo không cho bàn cãi:
– Mấy tập ông còn ở chỗ tôi, tôi giải quyết hết rồi.
Tôi giật mình:
– Đừng ông ơi. Không có nữa đâu.
– Một bộ giải quyết ở đây. Một bộ thì một thằng ở Hoà Bình về cứ năn nỉ. Hai bộ ngược lên Phú Thọ. Đất tổ. Phải đưa về đất tổ Hùng Vương. Thằng này là bạn thân của mình. Cũng dân thông tấn xã…
Đó là lời một người đã có mặt ở những nơi gay go nhất trên mặt trận khu 5, đã bỏ lại một chân ở chiến trường Quảng Trị và không ai có thể nghi ngờ lòng yêu nước của anh. Vũ Tín, bạn tôi.
Khoản khó nhất đưa sách vào thành phố Hồ Chí Minh thế là xong. Yên tâm. Yên tâm vì có nhiều phương án trong túi. Yên tâm trên đường đi vì có lệnh của nhà xuất bản mang ba trăm bộ sách về Hà Nội. Trên xe anh cán bộ phát hành năn nỉ tôi mãi:
– Anh cho em một bộ. Bớt cho em một bộ thôi.
Giọng anh thiết tha. Mấy trăm bộ sách sắp đưa vào huỷ diệt mà không dám bớt ra một bộ cho anh. Là tác giả, lại càng đau, phải cố gắng lắm để không gật đầu, không đưa tay vào cái bao dứa căng phồng những sách là sách mình đã mài cuộc đời ra để viết, rút lấy một bộ. Chẳng biết anh là người thế nào. Có thể một cái bẫy. Tôi nói với anh là số lượng sách đã báo cáo với nhà xuất bản. Để tôi nộp rồi anh xin anh Cao Giang. Tôi sẽ nói giúp.— Giữ lời hứa, khi đến nhà xuất bản, tôi đã nói với anh Cao Giang về nguyện vọng của anh, Cao Giang đã gay gắt với anh: “Một bộ nhưng phải sẵn sàng nộp lại đấy.” Thế là cứu được một mạng sách khỏi bị sát hại.
Suốt dọc đường 5 không có sự cố gì. Nhưng khi về Hà Nội đến nhà Lê Bầu 105 Phùng Hưng để nhận thêm hai bao sách, chiếc Toyota sa vào vòng lao lý.
Ô tô đỗ trước cửa nhà Bầu, bên kia đường phía dốc cầu Long Biên và vẫn nổ máy. Chúng tôi xuống xe, băng qua đường, vào trong nhà, vần ra từng bao một. Anh lái xe chừng muốn xong việc thật nhanh, mau mắn xuống xe giúp chúng tôi khuân vác. Khi anh mới đi được mấy bước, tới giữa lòng đường, như chỉ chờ có vậy, “từ trên trời” rơi xuống ngay trước mũi xe hai người, một công an và một thanh tra giao thông mặc sắc phục. Tiếng còi vang lên làm tất cả chúng tôi sững lại. Thu bằng lái. Van xin. Nhưng mặt cứ lạnh như kem. Lẽ ra anh tài cứ ngồi sau tay lái thì chẳng sao. Xuống xe là phạm luật. Hiểu rõ mình phải làm gì, anh lái rút ví lấy ra năm tờ giấy bạc mười nghìn đỏ hồng, năm tờ cụ mượt đưa cho người công an đang giữ bằng lái của anh. Mặt cau lại để tỏ ra mình rất công tâm, khác hẳn thói thường, khinh bỉ trò ăn tiền bẩn thỉu, anh công an quay ngoắt người bước đi và ném lại một câu: “Về phường! Về phường giải quyết!” Tim tôi thắt lại vì lo. Về phường với những bao sách này có thể gay go. Họ sẽ kiểm tra hàng hoá. Chúng tôi có giấy. Nhưng sách sẽ được xếp ra. Người này cầm một quyển. Người kia cầm một quyển. A! Chuyện kể năm 2000. Sách cấm đây mà. Đình chỉ phát hành. Thu hồi tiêu huỷ. Sách phản động đây. Người ta càng tò mò xúm lại và thật khó giữ cho đủ số sách. Chưa kể cái nguy là cứ ngồi chường mặt ở đấy mà giữ sách không biết đến bao giờ.
Chiếc ô tô chở chúng tôi “lẽo đẽo” bò theo họ tới đầu chợ Hàng Da. Họ dừng lại. Xe dừng lại. Anh lái xe đã tế nhị kẹp năm mươi nghìn vào tờ hợp đồng, trông rất kín đáo. Anh xuống xe, đưa tờ giấy có kẹp tiền ấy cho hai nhà đương cục. Nhưng người ta vẫn không thèm cầm. Lại đi. Đi và rẽ vào một phố ngang. “Người cầm lái vĩ đại” của chúng tôi bỏ xe bên vệ đường, cuốc bộ theo sau. Chẳng biết đi đâu. Hoá ra được một quãng khá xa, các nhà chức trách dừng lại. Dừng lại chờ đối tượng bị phạt. Nhà chức trách nhận kẹp giấy. Rồi trả lại bằng lái và tờ hợp đồng đã được rút mất nhân là năm tờ giấy đỏ mười nghìn, năm tờ cụ mượt.
Thì ra quy trình là như thế này:
1– Phải điều xe đi xa nơi huýt còi phạt.
2– Cho xe ô tô đỗ ở một nơi khác.
3– Nhận tiền xa chỗ đỗ xe.
Ba địa điểm khác nhau. Để đảm bảo sự trong sạch và liêm khiết của guồng máy.
Anh lái xe méo mặt, tự trách móc mình về chuyện đã nhanh nhẩu xuống xe. Giá cứ ngồi trong ca-bin thì chúng nó chẳng làm gì được mình. Cháu vừa nhẩy xuống xong. Không biết chúng nó ở đâu ra mà nhanh thế. Thế là mất ăn. Toi một ngày công. Đ. mẹ bọn ăn cướp. Đ. bà bọn ăn bẩn. Tổ sư bọn cướp cơm chim. Tôi không biết nói với anh thế nào. Bởi vì nhiều người ăn cướp, ăn bẩn lắm anh ơi! Càng to ăn càng bẩn, càng cướp cơm chim của nhiều người. Tối qua, thiếu tướng Phạm Chuyên, giám đốc sở Công An Hà Nội còn đeo cành tùng xuất hiện trên tivi nói về công an Hà Nội quyết tâm xây dựng lực lượng, nêu cao ý chí, nâng cao phẩm chất cách mạng, công bố những đường dây điện thoại nóng để nhân dân góp ý với công an. Chuyện phạt vạ, ăn tiền xẩy ra giữa thanh thiên bạch nhật. Bao nhiêu người nhìn. Bao nhiêu người biết. Có ai gọi đường dây nóng góp ý không? Chúng tôi thừa nhiệt huyết, thừa bất bình với những trò ăn bẩn và mọi trò dối trá đê tiện khác, chúng tôi cũng không bao giờ gọi. Vì chúng tôi đã quen rồi. Mà dù có gọi, phỏng ích gì? Tất cả chúng tôi đều đã bị đánh bại ý chí. Chúng tôi đã thua. Không chỉ trong chuyện cỏn con này. Mà trong mọi chuyện to lớn hệ trọng khác. Ngay chuyện bầu cử Quốc Hội đó thôi. Bao nhiêu năm người ta đã làm cho nhân dân hiểu rằng: Mọi cựa quậy muốn khác đi là vô ích. Tốt nhất là ngoan ngoãn làm theo ý họ. Ý trời.
Xe chạy dọc phố Bà Triệu nhưng chưa vào nhà xuất bản. Còn phải xuống Tô Hiến Thành. Đến nhà Mai Nam. Đã gọi điện trước, Mai Nam chờ sẵn. Chào anh Khan thơ! Đó là câu chào giữa tôi và Mai Nam, chỉ giữa tôi và Mai Nam thôi. Cả tôi, cả Mai Nam ai cũng là Khan thơ. Tiếng chào có từ hồi tôi làm báo Tiền Phong những năm 50 — thế kỷ trước — khi chúng tôi còn trong tuổi 20 đến Nhà Hát Lớn xem kịch Arthur Miller. Cái chết của người chào hàng, quá yêu anh Khan thơ trên sân khấu. Mai Nam giúp tôi việc khuân vác. Vừa khiêng vừa hỏi: Thu à? Sao lại dở thế nhỉ. Vẫn sợ sự thật như thế à? Thu thì cũng muộn rồi. Ai cũng biết như vậy. Kể cả những người ra lệnh thu hồi tiêu huỷ cũng biết như thế nhưng làm ra không biết mà thôi. Nhắm mắt tự đánh lừa mình, đó là phương pháp tư tưởng của những người cai trị hiện nay, từ việc lớn đến việc nhỏ, không cần biết sẽ đi về đâu.
Xe năm trăm bộ sách mới tinh, vuông vắn, dày dặn, đẹp đẽ vào kho thật đau. Đây là sản phẩm văn hoá đích thực cần đưa đến tay người đọc và bao người đang muốn đọc. Vẫn biết xã hội này chẳng bao giờ chấp nhận những quyển sách như Chuyện kể năm 2000, nhưng chỉ đến khi đọc Kundera tôi mới hiểu cái quy luật từ cội nguồn của nó và thấy lòng mình dịu lại đôi chút bởi đó là điều tất nhiên, là quy luật: Đặt nền móng trên tính tương đối và tính nước đôi của cõi người, tiểu thuyết không thể tương hợp với thế giới độc trị.([4])
Chúng tôi rẽ vào sân nhà xuất bản. Đình Kính đã đứng chờ tôi ở đó. Nhưng không kịp nói chuyện. Cao Giang bảo tôi lên gặp Ngợi ngay. Bấm thang máy. Tầng 4. Phạm Đức đón tôi ở hành lang, nói với tôi một ý giống như Bùi Văn Ngợi đã nói:
– In 1500 bộ. Nộp lại 1499 bộ cũng là thắng lợi.Anh Ngợi đang đợi anh. Nhưng anh vào đây tí đã. Có một đồng chí phóng viên báo Phụ Nữ biết anh lên cứ ngồi chờ anh từ đầu giờ chiều đến giờ. Sao anh lên muộn thế?
Tôi nói về vụ phạt xe và theo Đức vào phòng văn nghệ. Phóng viên báo Phụ Nữ là một người đàn ông đã đứng tuổi. Anh bắt tay tôi. Sau chén trà, anh nói:
– Tôi đã đọc tập sách của anh. Tôi chờ anh đến để gặp mặt tác giả và hỏi tác giả một câu. Một câu thôi. Đây là chuyện thật hay hư cấu văn nghệ?
Tôi trả lời anh vắn tắt như đã trả lời nhiều người khác.
Tôi hiểu mình đã đạt điều mình muốn khi bắt tay viết nó: Sự chân thật. Tất nhiên không phải chụp ảnh sự thật. Mà một sự thật được tổng kết, được cô đúc, được sáng tạo, được nâng cao, đi vào cốt lõi, tới tận cùng gốc gác. Nguyễn Quang Thân đã khuyên tôi vào cái lúc tôi bắt tay viết bộ sách này: “Chúng tao bịa về tù thì đúng là lạm phát. Còn mày. Đã có vàng bảo đảm rồi.” Có lẽ là như thế. Muốn bịa đặt, muốn hư cấu nghệ thuật cũng phải trên cơ sở một vốn sống nào đó…
Ngợi sang cắt đứt câu chuyện giữa tôi và anh phóng viên báo Phụ Nữ. Anh kéo tôi về phòng anh. Đây là những điều Ngợi đã nói cùng tôi:
– Ông Hữu Thọ đã chỉ thị cho các báo không được nói gì tới tập sách của chúng ta. Hôm nọ một thiếu tá A25 cầm giấy giới thiệu sang lấy một bộ sách. Tôi đưa cho anh ta một bộ và giữ giấy giới thiệu lại. Tôi nói: Anh về, nếu các anh ấy có hỏi, nhờ anh nói hộ là chúng tôi luôn chấp hành nghị quyết của cấp trên. Chả lẽ lại không nói. Anh ta về, người ta hỏi thế nó có nói gì không lại bảo nó không nói gì à?
– Thông thường khi xẩy ra vụ việc gì đó, đương sự hoặc là đến nơi này nơi khác thanh minh hoặc gõ cửa xin nhờ vả, giúp đỡ. Đằng này tôi không. Các ông ấy cứ chờ một trong hai thái độ quen thuộc ấy, nhưng cả hai đều không xẩy ra. Các ông ấy cũng hơi lạ. Lần đầu tiên các ông ấy thấy một thái độ như vậy. Cái-thằng-đương-sự không đi đâu cả. Vẫn cứ bình thường — cười.
– Phải nghĩ khác đi. Phá nếp nghĩ đi. Tôi đã cân nhắc in sách của anh vào thời điểm nào. Và tôi đã chờ đến khi Albright sang. Chính ta không muốn ký hiệp định thương mại chứ không phải Mỹ. Ta hơn 300 đô la một đầu người. Mỹ 41 nghìn đô la một đầu người và nó sẽ tăng lên 45 nghìn đô. Nó mới hơn 200 năm. Ta sắp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long. Khi ta có Chiếu dời đô, nước Mỹ chưa thành lập. Nguyễn Khắc Phục vừa ngồi đây nói với tôi: Trong đời làm giám đốc anh ra được một quyển này là hoàn thành nhiệm vụ rồi. Tôi bảo: Quyển này cũng như hàng trăm quyển khác. Đứng về đầu sách nó bình đẳng với nhau. Tất nhiên quyển này đỉnh này, quyển kia đỉnh kia. Tôi đã nói với mấy anh giúp việc tôi: Các anh đã đặt ra tình huống tôi phải bàn giao công việc,làm tường trình trong ba tháng liền, các anh sẽ giải quyết như thế nào chưa? Phải tính trước đi. Tất nhiên bản tường trình hay tự kiểm điểm của tôi chỉ hai trang thôi, viết bao lâu cũng chỉ hai trang thôi. Nhưng người ta đâu có đọc. Cái chính là người ta vô hiệu hoá mình. Rồi bằng một quyết định, họ điều mình sang cương vị khác. Là đảng viên, mình phải chấp hành. Tình huống ấy phải lường sẵn. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Nhưng tôi luôn tin rằng tôi đúng.
B.N.T.
([1]) Hoà Vang chứng kiến, kể lại.
(2) Bằng chứng là giáp Tết, ông kéo cả gia đình xuống chơi nhà Đồng Đức Bốn một ngày. Đám tang Bốn, ông cùng bốn ông cấp Vụ mang vòng hoa có đề chữ Ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung Ương kính viếng xuống dự tang lễ.
(3 ) Thật vui là năm 2009, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hoài Thanh đã được tổ chức khá long trọng, Trần Đình Sử nêu rõ: “Sự thắng thế của Hải Triều tuy đáp ứng nhu cầu bức thiết của cuộc đấu tranh xã hội, song tiềm ẩn nguy cơ của chủ nghĩa công lợi thực dụng, chỉ coi trọng nội dung xã hội, chính trị; coi nhẹ hình thức và đặc trưng nội dung văn nghệ.” Nhà thơ Vũ Quần Phương còn dẫn chứng: Hoài Thanh không thể là một người chủ trương nghệ thuật vị nghệ thuật. Bởi ngày ấy Hoài Thanh đã viết Văn Chương Và Hành Động, một tác phẩm bị thực dân Pháp cấm lưu hành, kêu gọi mọi người hãy hành động mà ngừng việc rung đùi làm thơ than việc nước!
( 4) Kundera – Nghệ Thuật Tiểu Thuyết, Nguyên Ngọc dịch.
(Xem tiếp kỳ sau)

Phần nhận xét hiển thị trên trang