Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 5 tháng 8, 2015

HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000


(Thời biến đổi gien)
  Kỳ 17
Bùi Ngọc Tấn
Tôi đi Hà Nội một mình mà không kèm theo sách, giờ đây danh nghĩa là sách của tôi mang về Hải Phòng định bán, chứ không phải sách của Luyến. Còn phải lên gặp Luyến, gặp Ngợi trực tiếp bàn bạc trao đổi đã. Đồng hồ báo thức để 5 giờ nhưng vợ chồng tôi đều thức giấc trước đó. Lụi hụi với các phép tính tới khuya, đặt mình là tôi đánh đồng thiếp. Còn vợ tôi mất ngủ, một dấu hiệu ít thấy ở người suốt ngày quần quật với công việc nội trợ, với lo nghĩ. Vợ tôi bảo: Em mất ngủ quá. Đêm thức chán lại ngồi dậy. Ngồi mãi.
  Trời còn tối. Tất cả im lặng. Tất cả vẫn đang ngủ. Nhìn qua cửa kính ra ngoài cửa sổ chỉ thấy ánh điện vàng vọt. Rất khẽ làm những công việc thường nhật của buổi sáng. Không muốn hàng xóm biết để rồi người ta nói nhà ông Tấn có việc gì mà dậy sớm thế. Phải giữ bí mật cả những chuyến đi.Lai vô ảnh, khứ vô hình. Vệ sinh cá nhân. Đun nước pha trà. Đang ngồi hút thuốc lá uống trà, tự cho phép mình hưởng thụ cuộc sống một cách xa xỉ như vậy thì trên gác lửng vợ tôi gọi: Anh ơi. Lên đây! Tôi lên. Vợ tôi đã thắp hương. Ba nén hương đỏ hồng trên ba bát hương. Thế giới của vợ tôi. Niềm tin và hy vọng của vợ tôi. Ảnh bố mẹ tôi sau làn khói hương. Vợ tôi đang khấn. Bao nhiêu năm rồi, vợ tôi theo hết đền này phủ nọ, cầu xin bình an may mắn sức khoẻ cho chồng cho con, điều lành đem đến điều dữ mang đi. Tôi ngồi xuống cạnh. Tôi cũng thì thầm nhỏ to cầu xin tổ tiên, ông bà, bố mẹ cho chuyến đi của tôi được may mắn.
Rồi chúng tôi xuống sàn. Vẫn còn sớm lắm.
Chúng tôi khẽ khàng trong mọi cử động. Trời bỗng đổ mưa. Nghe rõ tiếng nước từ mái nhà rỏ giọt qua lần cửa kính. Không biết làm gì, vợ tôi ra ngồi cạnh giường thõng hai chân xuống sàn. Im lặng. Tôi xót vợ, xót mình. Những năm mới yêu nhau đâu ngờ rồi lận đận khốn khổ suốt cả đời. Không nhớ đã có bao nhiêu buổi sớm như thế này. Dậy sớm. Khẽ khàng trong mọi cử động. Không biết nói gì với nhau. Không biết an ủi động viên nhau như thế nào. Bất trắc hiểm nguy rình rập. Cuộc đời chúng tôi là lặp đi lặp lại những buổi sớm cảm thấy hết cái vất vả, cô đơn, sự đe doạ đến với một đời người. Và chúng tôi, hai sinh linh bé nhỏ, sắp đi hết kiếp, cảm thấy tất cả sự vô lý của kiếp mình, sự tráo trở của cuộc đời và cái số phận cay đắng vất vả chúng tôi phải chịu. Chúng tôi càng thấy gắn bó với nhau, nương tựa vào nhau chống đỡ mọi gió bão cuộc sống. Tôi muốn ôm lấy vợ. Vẻ mặt vợ tôi lúc đó là sự im lặng nhẫn nại, cố giữ thản nhiên. Nhưng tôi biết Bích đang rất lo, rất thương tôi. Trước lúc tôi đi, nàng còn quàng cho tôi tấm ni lông và tôi đã ôm nàng. Tôi định đóng cửa bếp rồi xuống thang, nhưng vợ tôi bảo: Anh cứ để đấy. Chốc nữa em còn hoá vàng cơ mà. Hoá vàng xong vợ tôi sẽ đi lễ ở Minh Đức. Hai hôm trước vợ tôi vừa đi lễ ở Hà Nội. Năm nay tôi sao Thái Bạch. Vợ tôi rất lo. Tôi cũng lây cái lo của vợ.
Đường 5 bây giờ là con đường đẹp nhất, tốt nhất trong cả nước. Xe ô tô mười lăm phút một chuyến. Ngồi trên ô tô tôi nghĩ đến thân phận mình và bật ra được một câu văn: “Tôi luôn bất hoà với chính quyền.” Và cười chua chát. Bất hoà với vợ cũng đã khốn nạn rồi. Lại còn bất hoà với chính quyền thì đời mờ rồi, Tấn ơi! Rồi mỉm cười đính chính lại: Chính quyền luôn bất hoà với tôi. Đúng vậy. Tôi có làm gì họ đâu. Tôi theo họ. Cả nhà tôi theo họ. Tự nhiên họ bắt tôi bỏ tù. Hơn ba năm định thả nhưng lại tống tôi đi tù tiếp. Chán chê rồi thả ra. Rồi theo dõi. Hết năm này sang năm khác đến tận bây giờ. Tôi chỉ viết về chuyện họ tự nhiên bắt tôi bỏ tù chứ có bịa đặt vu cáo gì họ đâu. Bỗng nghĩ đến Henri Charrière. Nghĩ đến người tù khổ sai trước tôi mấy chục năm. Bây giờ chắc ông ta đã chết rồi. Đã xuôi tay, đã rũ hết đắng cay, đau khổ, sục sôi căm giận rồi. Tôi nghĩ đến tập tiểu thuyết Papillon của ông. Tôi nghĩ đến những hình phạt ông đã chịu. Nhưng nghĩ nhiều hơn đến tập sách của ông, đúng hơn nghĩ đến cách, đến việc ông cho in tập sách đó.
Henri Charrière, người đã không chịu thua, người tù khổ sai vượt ngục đến Venezuela sinh sống, trở về Pháp, đất nước của ông, đất nước đã đày đoạ ông, với quyển tiểu thuyết tố cáo nền công lý của nước Pháp, phơi bầy toàn bộ sự thật khủng khiếp về cuộc sống của những tù nhân Pháp trong những nhà tù Pháp, ông Henri Charrière ấy đã được nước Pháp chào đón như một anh hùng. Sự trở về của ông, quyển tiểu thuyết của ông làm xao xuyến nước Pháp. Những đoạn trích trong quyển tiểu thuyết của ông đăng tải trên báo làm mọi người quên cả cuộc vận động bầu cử tổng thống Pháp đang bước vào giai đoạn gay go quyết định nhất.
Ôi! Truyền thống văn hoá Pháp. Nền dân chủ đã ngấm vào máu của dân tộc Pháp. Nghĩ về ông, tôi buồn cho mình, cho dân tộc mình. Cũng phải nói thêm rằng: Bản án đối với Henri Charrière là sai, là không đúng, là oan. Nhưng chỉ oan trong án đó. Còn Henri Charrière không hoàn toàn trong sạch. Ông chính là một thành viên của giới tội phạm.
Trên ô tô tôi triền miên với những suy nghĩ đó. Mưa mỗi lúc một nặng hạt. Tới địa phận Gia Lâm trời tạnh. Nhưng vẫn rét cóng. Không khí trong veo dưới nền mây xám quánh như có ai cầm một cái bay thợ nề khổng lồ miết vào nền trời, lớp nọ chồng lên lớp kia.
Tám rưỡi tôi đến nhà Lê Bầu. Bầu đang ngồi ở cửa chữa bệnh, nghĩa là cầm một con ong mật cho nó đốt vào chỗ đau. Anh cứ bị đau luôn, khi ngón tay cái, khi ngón tay trỏ, khi vai. Đau đâu anh cho ong đốt ở đấy. Vỉa hè trước cửa nhà là cô bán nước mía, là cô bán bia hơi, luôn thu hút lũ ong. Ong vo ve bay tới đậu xuống hút nước mật mía hay uống bia là anh chộp. Anh chộp rất thiện nghệ. Chộp mà nó không đốt được. Cái ngòi vẫn còn nguyên để tiêm vào đúng chỗ đau. Chộp được nhiều anh cho đốt nhiều. Chộp được ít đốt ít. Những chỗ sưng u ở chân tay, ở người biến hết.
Bầu bao giờ cũng là liều thuốc paracetamon của tôi. Nhức đầu, mệt mỏi tiêu tan. Thấy tôi, anh vất con ong đã mất ngòi ra vỉa hè, kéo tôi vào nhà và vẫn với giọng vui vẻ sôi nổi cố hữu của anh:
– Mọi sự đã xong. Đúng như quy định. Cái Luyến nó láu lắm. Vừa nhấc điện thoại nghe mình nói, nó đã bảo: “Anh Tấn bảo em gửi quần áo cho anh ấy chứ gì? Bây giờ anh có nhà không. Em bảo cháu nó mang đến ngay đây.” Hai bao dứa căng. Khâu rất cẩn thận.
Tôi hình dung ra hai bao sách ấy. Tôi đã xe những bao như vậy từ nhà Đình Kính về. Chật căng. Vuông thành sắc cạnh. Chỉ những người đóng gói chuyên nghiệp mới làm được như vậy.
– Mày có biết tao gọi điện cho nó báo tin đã nhận được sách như thế nào không. Luyến đấy à? Bầu đây. Lê Bầu đây. Đã nhận nhuận bút rồi. Mà nhận được nhuận bút thật. Nhuận bút Chân dung Nhà giáo ưu tú. Nhà chật quá. Để ở buồng trong rồi. Tí nữa vào xem.
– Tôi mất tên rồi. Điện thoại tới tấp. Toàn ông Lê Bàn — Lại cười sảng khoái. Để tao nói mày nghe. Hôm họp đại hội nhà văn Hà Nội, họp xong anh em ngồi lại ở cái bàn để ấm chén với bánh kẹo. Tất cả đều nói về mày. Cái Trần Thị Trường mới “láo” chứ. Nó bảo tất cả những người làm lãnh đạo đều phải đọc quyển này. Tôi mà làm lãnh đạo tôi mua cho mỗi người một bộ. Có cả bà Hà, Bằng Việt, an ninh văn hoá ngồi đấy nữa chứ.
Chuyện ấy tôi đã biết. Vũ Bão đã viết thư cho tôi, những bức thư đánh máy làm ra vẻ điện tín đầy stop của anh.
– Cái Trường nó bảo anh Tấn viết một chữ cũng có văn hoá. Ông phải viết đi. Viết một tập: Tôi đã viết và in Chuyện Kể Năm 2000 như thế nào.
Bầu nói đúng ý tôi. Nhiều người xui tôi như vậy. Sau này gặp Vương Trí Nhàn, Nhàn nói hình ảnh hơn:
– Mao Trạch Đông nói súng đẻ ra súng. Anh em mình thì sách đẻ ra sách. Anh viết một tập Hậu Chuyện kể năm 2000 đi.
Lê Bầu pha trà. Đến lúc ấy anh mới pha trà. Vì còn quá sôi nổi với những thông tin. Những thông tin bung ra vào cái lúc nhiều người đã nghe về quyển tiểu thuyết của tôi, đã tìm và đã đọc.
– Tôi là đại diện toàn quyền của ông ở đây rồi. Điện thoại liên tục hỏi ông Lê Bàn. Mình bảo Lê Bầu đây thì chúng nó cứ đòi gặp ông Lê Bàn cơ. Còn không, ông để cho tôi mấy bộ. Còn không ông để cho tôi một bộ. Thằng Phú, không phải Ngô Văn Phú đâu, Nguyễn Đỗ Phú cơ, mò đến, mình bảo không có. Nó cứ đứng thần ra: Bây giờ kiếm ở đâu được một bộ nhỉ. Thằng Trần Chinh Vũ thì đến hỏi ông có không. Tao bảo tất nhiên là phải có chứ. Ông đọc xong chưa. Xong rồi. Đọc từ hồi còn là bản thảo. Thế ông cho tôi mượn. Không được. Người khác mượn mất rồi. À, còn nàng Tuyên. Điện thoại reng reng. Nhấc lên. Tôi là Tuyên đây. Tôi gặp ông Lê Bàn. Nàng Tuyên ở bộ phận đầu tư sáng tác Hội Nhà Văn ấy, mày biết không nhỉ. Thằng Xuân Thiều thì không điện thoại. Chiều nào cũng tới đây. Hỏi về mày. Rủ tao đi uống bia. Nó bảo mày lên thế nào cũng phải gọi điện cho nó.
Anh reo to:
– Ông Dương Duy Ngữ! Dê Dê Ngủ! Ông đại tá trưởng trại sáng tác Đồ Sơn nữa. Ông Lê Bàn đấy à? Hắn đã lên chưa? Bùi Ngọc Hắn đã lên chưa. Hắn lên thì gọi điện ngay cho Dê Dê Ngủ nhé. Lại còn bà Hà với thằng Hồ Anh Thái cứ hỏi Lê Bình trong truyện là ai. Tao bảo là thằng Nguyên Bình. Nó đang ở Hà Nội ấy. Thế là hai người cứ bắt tao đưa đi gặp thằng Nguyên Bình.
Tôi kêu đói. Chưa ăn sáng. Đi sớm quá. Lại mưa. Lại gặp ô tô ngay. Mày ngồi đây. Tao đi mua cái gì ăn. À, bún đây này. Bún gì ấy nhỉ. Bún ốc. Bún gà hết rồi. Nhìn ra hàng bún sát vỉa hè trước cửa chỉ thấy những con ốc nhồi và rau sống, mấy con ruồi bay lên đậu xuống làm tôi ngần ngại:
– Tao không ăn được ốc.
– Để tao đi mua bánh mì.
Bầu ra phố và cầm về cho tôi một cái bánh mì to cặp pa-tê, dưa chuột thái mỏng. Tôi nhai. Giòn. Ngon. Lâu lắm tôi mới ăn kiểu bánh mì này, từ hồi còn đi làm, lênh đênh trên tầu cá tới Sài Gòn buôn bột mì, ngô, sữa hộp, vải thiều… Bầu nhìn tôi ăn và tiếp tục câu chuyện với giọng sôi nổi của anh:
– Ra được là thắng rồi. Chúng tao bảo nhau là phải ổn định tư tưởng cho chúng mày dưới ấy. Nhất là Bích. Bích có lo không. Cái hôm họp đại hội nhà văn Hà Nội tao bảo thằng Tấn nó có Châu Âu bảo đảm rồi. Ha ha ha..
Anh nói bóng gió tới cái giấy mời tôi của Parlement International des Ecrivains hai năm trước đó.
– Trong hội nghị, nàng Trần Thị Trường cứ hỏi tao về mày. Tao bảo nó trúng đại biểu chính thức rồi — đại biểu dự đại hội nhà văn. Nếu Trường với tôi cùng trúng đại biểu, họp đại hội tôi xin hứa thế nào cũng giới thiệu cô với nó.
Thật xúc động. Tôi không chờ đợi những điều tốt đẹp như vậy. Những người tâm huyết vẫn còn rất nhiều. Hơn thế người ta còn công khai bầy tỏ tình cảm với quyển tiểu thuyết bị cấm của tôi, bầy tỏ tình cảm với tôi. Cái bóng đen vẫn lừng lững hù doạ mọi người không còn thiêng nữa. Người ta đã có thể nói to ý nghĩ của mình mà không sợ hãi. Nó chứng tỏ mọi người đã chán ngấy cái trật tự xã hội dựa trên sự giả trá và muốn chấm dứt nó.
– Trần Thị Trường. Hình như làm đại diện một tờ báo nào trong Nam ấy phải không?
– Trước nó làm phóng viên báo Tuổi Trẻ thường trú ở ngoài này. Bây giờ chuyển về báo Người Công Giáo. Nhanh nhẹn. Xinh lắm. À, nó còn bảo anh Tấn anh ấy viết thế bọn chúng nó đang nhẩy xếch lên kia kìa.
Tôi gọi điện cho Mạc Lân, ông Vũ Mạc của tôi, người lính me của tôi, thông báo rằng cái việc tôi nhờ ông ấy bán sách vẫn còn nguyên giá trị. Bởi vì trước đó tôi đã gọi điện từ Hải Phòng lên cho Lân nói rằng việc tôi nhờ Lân là không cần thiết nữa. Đó là một lần Lam Luyến chẳng biết nghe đâu vô cùng phấn khởi gọi điện cho tôi báo tin sách đã được phát hành bình thường, làm tôi reo lên:
– Có thế chứ. Anh tin rằng bây giờ cũng có những cái đầu sáng suốt chứ. Chẳng lẽ cứ đặc sệt như đầu anh phó cối hay anh hoạn lợn mãi!
Hôm ấy tôi đã reo như thế với Luyến.
Còn hôm nay tôi gọi điện cho Lân:
– Một trăm bộ tôi nhờ ông, ông đã bán hết chưa. Nếu còn thì ông tập trung lại để tôi mang nộp. Tôi đưa ông ngày mồng 6 Tết. Tôi chỉ lấy bốn mươi nghìn một bộ. Ông bán hết rồi hở. Ông bán ở đâu. Ngay vỉa hè à? Liệu rồi thu xếp cho tôi xin tiền nhé.
Đầu dây kia, tiếng Lân vẫn với cách phát âm quen thuộc kéo dài âm tiết ở những tiếng cuối câu:
– Tôi bán hết rồi. Cám ơn ông đã thương tôi nghèo. Tôi cũng kiếm được chút ít. Này. Thế bây giờ vẫn cần phải như thế à? Lại phong thánh à?
Ý Lân muốn nói lại tịch thu, lại cấm à? Còn khoảng sáu, bẩy phút là đến giờ. Giờ tôi gặp Luyến ở quán cà phê quen thuộc phố Ngô Văn Sở. Việc hẹn gặp Luyến cũng phải qua Bầu. Bầu giục: Đi đi. Tao đã thông báo với nó rồi. Xe ôm đầu đường ấy. Đến giờ J rồi đấy.
Mũ Nin-da. Áo Phổ Nghi. Quàng túi. Đi xe ôm. Đúng chín giờ tôi có mặt ở phố Ngô Văn Sở. Ngó vào hiệu cà phê. Vắng tanh. Không khách. Không chủ. Có thể Luyến đến chậm. Rét quá. Trở về nhà xuất bản, hỏi người thường trực.
– Chị Luyến đến rồi. Vừa đi ra ngoài xong. Đi bộ.
Lại đi. Nin-da lại đi. Quán cà phê vẫn không khách. Nhưng đã có chủ. Cô chủ quán đang ngồi cộng cộng trừ trừ gì đó ngẩng lên nhìn. Từ sáng đến giờ cô Luyến chưa đến đây bác ạ.
Lại sụp mũ ra phố rét buốt. Lại Nin-da. Ngoái tìm chung quanh. Một chiếc ô tô lùi thẳng vào tôi. Vội tót lên vỉa hè, vượt qua chiếc ô tô đang de đuôi vào sát hè, chỗ tôi đứng. Người ta có thể gây ra một vụ tai nạn giao thông lắm chứ. Lại về nhà xuất bản. Vừa nhô ra phố Bà Triệu thì có tiếng người gọi phía sau. Luyến. Anh chờ em một tí. Em đang làm việc với một nhân vật. Anh cứ vào quán ấy đi. Quán ấy hay quán bên cạnh cũng được. Chờ em. Tí nữa em sang.
Tôi quay lại. Luyến vận bộ đồ đen đi trước tôi. Nhanh nhẹn. Gọn gàng. Tôi đi sau Luyến một quãng. Luyến vào một hiệu cà phê giải khát ngay ngã ba, phía bên kia đường, nơi tôi vừa đi qua tìm Luyến. Làm như không để ý đến Luyến, tôi vào hiệu cà phê đã hẹn. Lột mũ Nin-da. Nhâm nhi một cốc Lipton. Ngóng nhìn qua cái rèm hơi cuộn lên ngoài cửa sổ. Chờ Luyến. Không biết cuộc thảo luận ở quán cà phê bên kia đang diễn ra như thế nào. Chắc chắn là chung quanh tập sách của tôi. Thế rồi Luyến đến. Anh em mình sang ngồi bàn bên này. Anh uống gì? Lipton à? Sao anh không uống cà phê nâu? Anh uống thêm một tí nhé.
Luyến phổ biến cho tôi những tin tức tôi đang nóng lòng. Thứ nhất là số sách phải nộp. Tôi giữ năm trăm bộ, đưa cho Luyến ba trăm bộ. Cộng lại là tám trăm. Tôi rất mừng vì con số 800. Thêm một trăm bộ. Luyến vừa làm việc với thư ký của tướng Phạm Chuyên, giám đốc công an Hà Nội. Đưa biếu anh ta một bộ. Em muốn gỡ. Có hai khả năng. Một, thu trắng. Hai, sửa chữa rồi cho phát hành. Nếu thu thì Cao Giang sẽ về hưu sớm ba năm. Bùi Văn Ngợi và Phạm Đức sẽ mất chức và bị kỷ luật. Em phải đứng ra ngoài cuộc. Càng xa càng tốt. Danh nghĩa anh in chứ không phải em. Em sẽ đưa cái hoá đơn đỏ cho anh. Không biết em để đâu, tìm chưa ra. Tí nữa em sẽ phôn cho cháu tìm đưa đến ngay. Hoá đơn thanh toán với nhà in. Chiều nay là có. Anh chỉ ký vào bên cạnh. Em ký trước rồi. Thì anh nhờ em quen việc in ấn. Quyển này nhà xuất bản từ chối in A. Tác giả tự in, in B. Nguyên tắc in B là nhà xuất bản phải cử người giám sát theo dõi. Nhà xuất bản cử em. Do đó em đứng tên biên tập. Anh nhờ em với anh Đình Kính việc in ấn. Vì anh Kính cũng đang in quyển Nhà Văn Hải Phòng Thế Kỷ 20.
Đến bây giờ tôi mới biết ngóc ngách đầu đuôi của việc tác giả tự in, in B là như thế và cố gắng nhớ trình tự như Luyến dặn.
– Thế nhé. Còn người em nhờ để có thể sửa chữa một số đoạn rồi cho phát hành là phó phòng Bộ. Anh ta rất nhiệt tình. Anh ta cũng bảo em phải đứng xa vụ này ra. Hướng của anh ấy là sửa chữa rồi cho phát hành. Được như thế là tốt nhất. Không ai việc gì. Em đã lấy được tập sách A25 đánh dấu những đoạn phải sửa. Anh ta nói sẽ giúp đỡ được năm mươi phần trăm. Nhưng anh Ngợi, anh Phạm Đức rất căng. Không chịu sửa. — Lại thêm một lý do nữa để tôi yêu quý hai anh Bùi Văn Ngợi và Phạm Đức.
Tôi tán thành việc tôi nhận mình tự in. Nhưng không thể chung chung như thế được. Phải rất cụ thể. Cụ thể đến từng chi tiết. Để có thể trả lời rành rọt, khớp khi ngồi trước bàn hỏi cung. Chỉ một chi tiết vênh thôi là đủ hỏng tất cả. Tôi đã bị bắt tù, bị hỏi cung, tôi biết. Các ông chấp pháp và cán bộ điều tra xúm nhau lại nghiên cứu từng câu trả lời và dễ dàng tìm ra ngay những sơ hở.
– Anh nhớ là anh nhận sách vào chiều 26 Tết.
– Nhưng mình không biết nhà in ở đâu.
– Chỗ trường Nhạc.
– Trường Nhạc ở chỗ nào mình có biết đâu. Thôi được. Chốc nữa mình thuê xe ôm lên nhà in để biết đường đi lối lại. Bởi chỉ cần họ hỏi nhà in ở đâu, mặt mũi nó ra sao là mình chết cứng, không trả lời được.
– Thôi thì em lấy sách hộ anh, em nhận sách từ nhà in chứ không phải anh.
– Nhưng sau đó anh nhận sách ở đâu, từ tay ai?
Luyến nói tên một hiệu sách, số nhà, đường phố. Tôi đoán là hiệu sách của con trai Luyến. Tôi cũng chẳng biết đường phố đó là đâu. Nói chung, thành phố Hà Nội với những tên phố mới, những khu mở rộng, tôi chẳng biết mô tê gì.
– Vậy anh nhận sách ở nhà em. Em thuê ô tô chở sách từ nhà in về thẳng nhà em.
Chúng tôi thống nhất đến từng chi tiết nhỏ nhất. Tôi lấy sách ở nhà Luyến buổi chiều mồng 6 Tết. Ô tô xí nghiệp in chở. Chở thẳng về nhà Bầu gửi ở đấy. Em phải dặn lái xe hộ anh. Là chở sách từ nhà in về nhà Luyến rồi từ nhà Luyến về nhà anh Bầu phố Phùng Hưng. Thanh toán với lái xe là em, hết bao tiền anh không biết. Tôi nhớ Lê Bầu về Bắc Giang ăn Tết đến mồng 4 mới ra Hà Nội. Vậy mồng 6 Tết tôi chở sách đến nhà Bầu là hợp lý.
Tưởng đã hòm hòm công việc bỗng Luyến hỏi:
– Anh nhận thêm cho em ba chục bộ được không?
Tôi gật đầu ngay tắp lự. Bởi tôi đã cắt đi số lượng của nhiều người. Bảo họ nhận lại không khó.
Lại một ý kiến mới toe nữa:
– Em gửi năm mươi bộ vào Sài Gòn. Trong ấy công an điện ra: Có sách bán ở hiệu và đã bán hết rồi. Anh phải nhận đã gửi vào Sài Gòn hộ em.
Tình huống quá bất ngờ đối với tôi. Tôi thừ người. Sao hôm nay Luyến mới nói với tôi? Trong ấy công an báo cáo ra. Bất khả kháng. Tôi mừng vì sách của tôi đã vào tới trong ấy. Năm chục bộ chỉ là con số tối thiểu, tượng trưng. Chắc chắn Luyến phải gửi vào đó hàng trăm. Bên cạnh niềm vui là một cái gì bất ngờ gần như phật ý. Chỉ không thể giấu được, Luyến mới nói cùng tôi. Vậy chắc chắn tirage không chỉ là 1500 bộ như ghi trên trang signé. Nhưng niềm vui át đi tất cả. Sách của mình đã đến được với nhiều người. Ai? Ai có thể giúp tôi “mang sách” vào trong ấy được nhỉ? Tôi nghĩ chưa ra. Phải tìm được một người bạn đem sách của mình vào bán ở Sài Gòn. Người ấy phải vì mình mà xác nhận việc đó trước công an. Chưa nghĩ ra thì cũng cứ phải nhận thôi. Chẳng đẩy cho ai được. Để Luyến nhận nghĩa là một kỷ luật nặng sẽ đến với Luyến. Cái gánh này Luyến không kham nổi. Phải đỡ cho Luyến.
Vẫn chưa hết:
– Còn bốn bộ ở nhà xuất bản Kim Đồng nữa.
Tôi thừ người.
Nhưng Luyến đã nghĩ sẵn phương án hộ tôi:
– Bốn bộ này anh bảo anh Bầu nhận. Người của nhà xuất bản Kim Đồng đến nhà anh Bầu. Sách chưa được phép bán. Nhưng họ có giấy giới thiệu. Anh Bầu bán theo giấy giới thiệu. Giấy vất đi đâu mất rồi. Bán đúng giá bìa. Anh đừng lo. Có người nhận cấp giấy giới thiệu. Giới thiệu từ lúc sách còn chưa có vấn đề gì cơ mà. Anh cứ bảo anh Bầu thế hộ em.
Tôi thống nhất lại với Luyến mọi chi tiết và ghi vào một tờ giấy, kể cả giờ lái xe chở sách đến nhà Bầu vào lúc sáu, bẩy giờ tối, rồi từ đấy chuyển đi cho bè bạn ở Hà Nội và chở về Hải Phòng.
Một ý nghĩ mới nẩy sinh trong tôi. Tất cả những chuyện này là để đối phó với công an, đối phó với chính quyền. Còn với Bùi Văn Ngợi thì sao. Ngợi thừa biết Luyến đứng ra in và phát hành. Số sách đang trong tay Luyến. Chẳng cứ Ngợi. Cả Cao Giang, Phạm Đức. Cũng như cả nhà xuất bản đều biết như vậy.
– Anh sẽ nói với anh Ngợi như thế nào vì anh Ngợi biết rõ không phải anh in, cũng không phải anh đã bán đi bẩy trăm bộ. Nếu các anh ấy muốn mình nộp thêm nữa thì sao.
Ngẫm nghĩ một lúc, Luyến bảo:
– Cứ một kịch bản thôi anh ạ. Phải giữ đúng một kịch bản. Đề phòng những trường hợp xấu nhất.
Tất nhiên tôi nghe Luyến, nhưng trong lòng thật buồn. Có lẽ bài học trong cuộc sống hôm nay là như vậy. Cứ một kịch bản, dù trái ngược với thực tế, dù gây khó khăn cho bè bạn. Chỉ một kịch bản để mình giữ đằng chuôi, để đề phòng mọi diễn biến xấu nhất có thể đến với mình. Luyến không cho tôi nghĩ ngợi lâu:
– Bây giờ em về nhà xuất bản. Anh bảo với anh Ngợi sáng nay anh lên à? Thế thì tí nữa, nửa tiếng nữa anh đến. Anh Ngợi nói với em hôm nay anh lên mà.
Tôi nhẩy xe ôm về Phùng Hưng với Lê Bầu. Thuật lại cho Bầu nghe mọi chuyện.
– Ông nhớ tôi chở sách đến ông chiều tối mồng 6 Tết. 1100 bộ.
– Bao nhiêu bộ tôi không biết. Chỉ biết rằng nhiều lắm.
– Ông phải nhận thêm cho tôi ba mươi tư bộ.
– Ba mươi tư bộ chứ năm mươi tư bộ cũng được. Vì còn thằng Hoà Vang. Nó bảo sách của anh Tấn mà em không bán được à? — Cho tới lúc ấy tôi không quen biết cũng như chưa một lần gặp mặt Hoà Vang nên câu nói ấy làm tôi rất quý trọng anh. Kỳ trước mày bảo tao, tao đã phân cho nó ba mươi bộ. Nó đồng ý ngay. Sau mày lại bảo cắt của nó. Tao cắt. Bây giờ chỉ gọi điện nói hợp đồng vẫn còn nguyên giá trị là xong thôi.
Tôi gọi điện cho Bùi Văn Ngợi từ nhà Bầu.
Tiếng Ngợi reo vui:
– Anh đang ở đâu thế? Đang ở Hà Nội à? Mời anh đến đi. Đến ngay cũng được. Tí nữa đến cũng được.
Tôi đến Ngợi ngay. Lại xe ôm. Chú lái xe ôm đầu phố có cái áo bu-dông ca-rô đỏ tía như áo Hemingway trong bức tranh Thọ Vân vẽ tặng treo ở nhà tôi trước khi tôi bị bắt, vừa chở tôi đến gặp Luyến lúc nẫy. Trời tạnh. Đường khô dần. Nhưng gió vẫn thông thốc. Không khí càng trong veo vì rét.
Đang định bước vào thang máy nhà xuất bản thì có tiếng gọi: Bác đến chỗ mẹ cháu ạ. Cậu con trai Luyến. Cháu đưa bác cái này. Cái hoá đơn đỏ đút trong một túi ni lông dầy. Rất cẩn thận.
Đi thang máy lên hành lang tầng bốn, tôi còn ngồi xổm ở phía cầu thang bê tông, giở túi xách ra xem lại cái hoá đơn đỏ — lần đầu tiên tôi trông thấy cáihoá đơn đỏ — thì có tiếng Luyến ngay bên:
– Anh vào gặp giám đốc đi.
Chưa vào phòng Ngợi ngay. Tôi còn vào phòng biên tập văn học. Gặp lại các anh, tôi cảm thấy mình là người có lỗi. Mọi người ngừng hết công việc nhìn tôi, nhìn vào người đã làm xao động nhà xuất bản, làm giám đốc, tổng biên tập, các biên tập viên, cả những người hành chính, phát hành nhao nhác lao đao. Sinh hoạt, làm việc của nhà xuất bản đang vận hành trơn tru đều đặn bỗng bị lay đến tận gốc.
Phạm Đức, Cao Giang, Lê Hùng xiết tay tôi thật chặt. Cái xiết tay của các anh nói với tôi rằng tình hình rất gay go nhưng chúng ta tin rằng chúng ta đã làm một việc tốt và quyết đứng vững. Vừa uống xong chén nước, cửa phòng biên tập bật mở. Một phụ nữ cao lớn, áo bành tô không cài khuy bước vào. Tôi chưa gặp chị bao giờ còn chị tươi cười chào tôi rất thân mật:
– Em chào anh Tấn.
Tôi đứng lên bắt tay chị. Chị ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Hoàn toàn cởi mở như đã quen tôi từ lâu, như mọi người đang có mặt trong phòng là gia đình chị:
– Anh còn bộ nào không? Để cho em một bộ.
Tôi hơi hoang mang về cách đặt vấn đề hồn nhiên của chị ngay trong nhà xuất bản đang yêu cầu tôi nộp lại toàn bộ số sách bị nhà nước cấm mà danh nghĩa tôi đang giữ:
– Tôi hết mất rồi chị ạ.
Vẫn hồn nhiên như vậy, chị nói:
– Em có người bạn bay từ thành phố Hồ Chí Minh ra chỉ để mua bộ sách của anh mà không mua được lại bay vào. Người ta nhờ em kiếm cho một bộ.
Rồi lắc đầu cười:
– Không biết ông ta có bao nhiêu tiền mà ghê thế.
Đó là chị Hoàng Việt Hằng, vợ nhà văn Triệu Bôn. Cái ông “không biết có bao nhiêu tiền mà ghê thế” này ngẫu nhiên tôi cũng đã gặp. Phải năm, sáu năm sau. Đó là “ông” Nguyễn Trọng Chức, thư ký toà soạn báo Tuổi Trẻ. Một hôm, tôi đang ở nhà vợ chồng Hải Yến, con gái tôi tại thành phố Hồ Chí Minh thì nhận được điện thoại của Nguyễn Duy mời đến nhà uống rượu với Nguyễn Quang Sáng và mấy bạn đọc Việt kiều. Lát sau, một người cao lớn râu ria đi chiếc xe máy kềnh càng đen chũi đến nhà làm xe ôm. Người xe ôm này phóng xe với tốc độ kinh hoàng, luôn nhầm đường, phải quành đi quành lại. Tôi bảo anh đi chầm chậm thôi. Anh cười, dọa dẫm:
– Đèo anh, em đi thế là chậm rồi. Chốc nữa đưa anh về, em sẽ đi xe một bánh thôi cho nhanh, để chị đỡ mong.
Người lái xe ôm đó là Nguyễn Trọng Chức.
Chức bảo tôi:
– Hỏi anh không được, chị Hằng đã gặp Lam Luyến, mua được một bộ gửi cho em rồi. Chị Luyến đang đưa sách cho chị Hằng thì anh Ngợi đến.
Hôm ấy Hoàng Việt Hằng cứ nằn nì tôi mãi. Chị tủm tỉm nhìn tôi như báo trước cho tôi biết câu chuyện chị sắp nói rất thú vị:
– Hôm nọ có thằng cháu em đến chơi. Em xuống bếp làm thịt bò cho nó ăn. Em bảo cháu chịu khó chờ cô một tí. Rồi em đọc đoạn bà Bượng chửi cho nó nghe. Anh có nhớ đoạn bà Bượng chửi không nhỉ.
– Có. Tôi có nhớ.
– “Hôm nay 14 tháng 6 năm Bính Thìn chủ nhật bà nghỉ.” Nó bảo cô đọc sai rồi. Hôm nay 14 tháng 6 năm Bính Thìn phẩy chủ nhật chấm bà nghỉ.
Chị cười. Ôi! Tiếng cười của chị mới vui tươi sảng khoái làm sao. Thật sung sướng khi thấy mình đã mang lại tiếng cười như vậy cho người khác. Chị lại hỏi:
– Anh ơi. Ông Ngụy Như Cần còn sống không?
Tôi trả lời, câu trả lời những câu hỏi loại này tôi đã nghĩ sẵn rồi:
– Đây chỉ là nhân vật tiểu thuyết thôi, chị ạ.
Chị “thế à” một cách đầy nghi hoặc rồi chào tôi và mở cửa bước nhanh ra ngoài nhỏ to gì đó với Lam Luyến ở hành lang đối diện. Cao Giang tranh thủ nói với tôi một số tình hình. Ngoài những điều Luyến đã nói, tôi biết thêm mấy chi tiết nữa. Nhà xuất bản mới gửi hai bộ cho bí thư thứ nhất và bí thư thường trực Trung Ương Đoàn để hai vị này đọc và giám định. Cả Dương Xuân Nam. Cũng một bộ. Vì Nam là tổng biên tập báo Tiền Phong nhưng lại là thường vụ phụ trách khối báo chí xuất bản, văn hoá tư tưởng. “Cậu ấy nói cũng có biết anh, biết anh trước đây làm báo Tiền Phong.”
Rời phòng văn nghệ, tôi sang phòng giám đốc. Trên quãng hành lang ngắn ngủi ấy, nhiều người nhìn tôi. Mấy cánh cửa đóng kín bỗng bật mở, những cặp mắt hướng cả vào tôi, thấy tôi nhìn lại, làm như nhìn đi chỗ khác. Khó định nghĩa cái nhìn ấy. Kiểu nhìn một con thú lạ.
B.N.T.
(Xem tiếp kỳ sau)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

HẬU CHUYỆN KỂ NĂM 2000


(Thời biến đổi gien)
  Kỳ 18
  Bùi Ngọc Tấn
Tôi lại gặp Bùi Văn Ngợi. Khuôn mặt xương xương thanh thanh của anh với hàm hơi vuông, cái cằm nhòn nhọn, khi anh cười càng nhọn hơn. Nụ cười rất tươi. Hôm nay tôi lại gặp nụ cười tươi tắn ấy.
Bắt tay tôi rất chặt. Rồi anh mở tủ lấy ra một chai Grant — một loại uyt xki — uống dở. Chúng tôi chạm cốc. Tôi nói với anh rằng tập sách của tôi là đứa con chung của tôi và nhà xuất bản. Điều tôi lo là lo cho các anh, nhất là Ngợi chứ tôi chẳng còn gì để mất. Giờ đây tôi với nhà xuất bản là một. Tập sách tôi viết ra nhưng anh là người chịu trách nhiệm xuất bản. Chính vì vậy mà trong lời đề tặng Ngợi tập sách, tôi ghi Tặng anh Bùi Văn Ngợi người đã ký quyết định cho tập sách này bước vào đời. Ngợi bảo:
 – Tôi cũng nói thêm với anh rằng tập sách rất được hoan nghênh. Nhà xuất bản từ khi tôi về làm giám đốc chưa có tập nào được hoan nghênh như vậy. Điều đó càng làm chúng ta tin rằng chúng ta làm một việc tốt. Nếu cấp trên của chúng ta có cái nhìn khác chúng ta, nghĩ khác chúng ta, có một quyết định gì đó thì chúng ta chấp hành thôi.
Đến lúc ấy tôi đã tin chắc vào những suy nghĩ của tôi về cú điện thoại của Cao Giang: Tôi đang ở phòng giám đốc. Giám đốc lệnh cho tôi điện cho anh thì tôi điện. Hơi gián tiếp một tí…
Ngợi làm như vậy để có thể báo cáo với cấp trên, để toàn cơ quan và cũng để người vô hình trong cơ quan biết anh rất nghiêm túc trong việc xử lý cuốn sách. Một cách khiến không ai nói gì mình được. Một biện pháp giữ mình với những kẻ muốn đánh hôi và giờ đây đang muốn tiến thân. Kiểu vợ chồng Thao – Bình nằm trên giường diễn vở ngợi ca trong Chuyện kể năm 2000. Kiểu tôi và Đinh Chương khi bị treo bút, đi học lớp cải tiến quản lý hợp tác xã, tối tối nằm trên ổ rơm, chuyện thế sự trước cái hòm gỗ thông quang dầu khoá chặt.
– Công việc của tôi với công việc của nhà xuất bản là thống nhất. Tôi sẽ làm theo mọi ý kiến của anh. Anh hãy tin tôi và coi tôi như một thành viên của nhà xuất bản. Tôi già rồi, lạc hậu với những quan hệ ứng xử, cách giải quyết, đường đi nước bước hiện nay.
Ngợi nói:
– Trước tiên phải khẳng định lại một lần nữa rằng chúng ta làm một việc tốt. Nhưng hiện nay cũng đang rất nhiều ý kiến. Rất nhiều dư luận. Những dư luận chẳng biết có thật hay không nữa. Nhưng chưa có ai đến làm việc với tôi về tập sách. Tôi cũng chưa gặp riêng ai. Chưa. Có những cú điện thoại đến nhà, hẹn gặp. Tôi trả lời: Có việc gì mời đến cơ quan, ngày giờ thế nào cũng được. Trước lúc anh đến đây, tôi tiếp anh Nguyễn Khắc Phục. Anh Phục nói tập sách tốt như thế, cứ tổ chức hội thảo đi, chúng tôi sẽ phát biểu ý kiến. Tôi bảo: Anh nhầm rồi. Người ta tổ chức hội thảo là người ta sẽ mời những người của người ta đến. Cũng giáo sư này tiến sĩ nọ rồi viện trưởng này viện phó kia. Người ta phát biểu ý kiến đã được chỉ định. Thế thì hội thảo làm gì. Quyển sách của anh, tôi đọc, tôi ký quyết định in. Tôi chịu trách nhiệm. Sang năm 2000 rồi, ai mà không nghĩ đến vận mệnh đất nước, ai mà không nghĩ đến nhân dân. Trước đây một nước 400 đô la một đầu người có thể đánh thắng một nước 40.000 đô la một đầu người, nhưng bây giờ có thể như thế được không? Và nếu cuộc chiến tranh của chúng ta nổ ra trong thời điểm hiện nay thì liệu có hơn Kosovo không. Phá vỡ bao cấp trong kinh tế là tối cần thiết, nhưng còn phải phá vỡ bao cấp trong cái đầu, trong tư tưỏng nữa.
Anh chỉ lên đầu và khoanh một vòng chung quanh mái tóc thưa của anh.
– Cũng có người nói tôi in tập sách của anh là chơi trội, nhà xuất bản Hội Nhà Văn không dám in thì tôi in. Không phải. Cũng không phải tôi đọc dối, hoặc không đọc. Đúng là có những quyển tôi không đọc hết. Đọc một số trang thấy không có vấn đề gì thì thôi. Một năm ra vài trăm cuốn, cuốn nào cũng đọc cả thì chết. Nhưng quyển sách của anh tôi đọc đến ba lần dù nó dầy đến gần nghìn trang. Một lần đọc duyệt. Còn hai lần kia là để thẩm thấu văn chương của anh. Một lần duyệt chứ ai lại duyệt đến ba lần. Tôi quyết định in. Trước lúc anh đến, khoảng mười giờ, chị Luyến ngồi đúng chỗ anh ngồi bây giờ. Tôi nói với chị ấy: Chị hãy tách ra khỏi tập sách này đi. Nói gần nói xa chị ấy vẫn không hiểu, tôi phải nói thẳng với chị ấy: Chị hãy tách ra khỏi tập sách này để giải quyết công việc. Bởi vì chị chỉ làm một việc là theo dõi in ấn thôi. Anh đưa tôi bản thảo vào giữa năm 1999. Tôi đọc và đưa anh Cao Giang biên tập. Tôi ghi tên chị Luyến vào biên tập vì tôi cử chị ấy theo dõi in ấn cho tác giả. Chị Luyến là người tốt. Nhiệt tình với thơ. Nhiệt tình với công việc. Nhưng cũng còn những chuyện phải góp ý. Chị ấy có cách giải quyết tập sách theo cách riêng của chị ấy: Vận động, tiếp xúc ở hậu trường. Nhưng tôi bảo chị cứ để mặc tôi. Cho đến nay vẫn chưa ai có quyết định gì về tập sách này.
Chúng tôi vừa chuyện vừa uống rượu.
Ngợi cũng là người không uống được rượu.
Mặt anh ưng ửng, còn tôi chắc là đỏ lắm vì đã thấy rần rật thái dương. Cửa mở. Lê Hùng bước vào. Thì thầm với Ngợi. Nghe loáng tháng là xin phép Ngợi cho hội Hùng, Đức, Cao Giang đưa khách đi ăn cơm sớm nửa tiếng. Hùng nhìn tôi cười trước khi mở cửa đi ra.
– Tôi nghĩ chả có vấn đề gì. Tập sách chúng tôi cho là tốt. Các anh bảo ngừng lại để xem xét. Chúng tôi tập trung đưa về kho nhà xuất bản để đấy. Thế là xong chứ có chuyện gì? Cho nên anh giúp tôi, tập kết sách về đây. Họ còn nói sách phát tán hết rồi. Bây giờ giá có bảo ông Ngợi nộp mười quyển chắc cũng không có. Tôi thì có năm bộ, kể cả bộ anh tặng tôi. Tôi cũng đã cho đi mất vài bộ. Nhưng có mười bộ lưu chiểu. Bên Cục Xuất Bản hỏi năm bộ, tôi lấy đưa ngay. Cho nên tôi rất mong Trung Ương Đoàn có lệnh thu sách về. Sách tôi in. Các anh bảo hãy tạm ngừng phát hành. Tôi thu về kho nhà xuất bản. Thế là xong. Anh giúp tôi chuyện này. Nộp càng nhiều càng tốt.
Tôi khẳng định lại một lần nữa để Ngợi yên tâm:
– Tôi phải nhắc lại với anh rằng, tôi bây giờ cũng như một người của nhà xuất bản, máu thịt của nhà xuất bản. Tôi làm theo mọi ý kiến của anh. Tôi đã định thu sách mang lên ngay nhưng người tôi gửi sách còn đi Đà Nẵng.
– Còn nhiều không anh?
– Còn đâu bẩy, tám trăm bộ gì đấy thôi.
Ngợi có vẻ không quan tâm đến con số tôi đưa ra.
Anh bảo: Anh cố gắng càng nhiều càng tốt. Còn tôi cho phát hành đưa ô tô xuống lấy sách là để bảo vệ anh, bảo vệ số sách, ngộ nhỡ đi dọc đường xẩy ra chuyện gì đỡ phiền cho anh.
Đến lúc ấy tôi mới biết sự lo xa tốt đẹp của Ngợi.
- Vợ tôi đọc, bà ấy nói với tôi là anh cứ làm những việc thế này thế nọ. Tôi bảo với bà ấy: Thứ nhất là em ngồi đằng sau xe, anh không nhìn được vào mắt em vì anh phải nhìn đường, nếu không sẽ đâm vào xe người ta, gây tai nạn. Thứ hai là đến thăm ông ngoại thì cứ đến đi đã. Việc của anh, anh lo. Tôi đưa tập sách cho thằng con tôi đọc. Cháu đang học đại học. Đọc xong nó không nói gì. Cháu chỉ bảo mẹ: Việc của bố để bố giải quyết mẹ ạ. Thấy điện thoại gọi đến nhiều quá bà ấy hoảng. Bà ấy sợ nhiều thứ lắm. Cũng phải thôi. Nhưng tôi thì lại không sợ. Bây giờ có bao cách kiếm sống. Tôi có bằng lái xe. Tôi đã đi thanh niên xung phong. Với cái trí tuệ trung bình như tôi cứ đi họp thôi, mỗi cuộc họp một cái phong bì một trăm nghìn. Quá đơn giản mà chẳng phải động não.
Có người vợ nào không phải gánh nỗi lo của chồng. Gia đình tôi, tôi biết. Không chỉ nỗi lo, cả đau khổ nữa. Đau khổ cả đời. Tôi nghĩ mình thật có lỗi với chị Ngợi.
Ngợi hút thuốc. Anh hút thuốc như người nghiện. Không giống Phạm Đức, Cao Giang. Anh bảo tôi:
– Con người ta có nhiều vai diễn lắm. Ở cơ quan là thủ trưởng, về nhà là chồng, là bố. Đi họp là tép. Đừng quên vai diễn. Tôi đi họp, gặp anh Hồ Anh Dũng tổng giám đốc truyền hình. Chả trước tôi là cán bộ của tạp chí Thanh Niên thì anh Dũng là thư ký toà soạn. Anh Dũng hỏi tôi: “Sao ra tập sách căng thế?” Tôi chỉ cười: “Cũng phải dùng đến lưỡi dao mổ thôi anh ạ.” Bạn bè tôi bây giờ phần lớn là tổng biên tập. Sáng nay có hai ông tổng biên tập đến đây hỏi xin sách. Tôi bảo hiện nay đang tạm ngừng phát hành. Có đấy nhưng không đưa cho các anh được. Thời thượng mà. Gặp nhau, các vị hỏi nhau: Đã đọc quyển ấy chưa. Viết ghê lắm. Mình có một bộ.
Ngợi cười sảng khoái.
Từ lúc gặp nhau tới giờ, giữa lúc sinh mạng chính trị ([1]) của anh đang bị đe doạ, cái ghế của anh lung lay tới tận gốc, chưa một lần tôi thấy anh buồn.
– Cục Xuất Bản bảo tôi là lừa Cục khi đăng ký đề tài. Tôi bảo chúng tôi không đánh lừa, nội dung tập sách không viết về cái thiện và cái ác là gì? Họ bảo nhưng phải tóm tắt nội dung chứ. Tôi bảo thế các anh quy định lại đi. Tác phẩm nào chúng tôi in được thì cứ in, còn tác phẩm nào loại nào phải gửi cả bản thảo lên cho các anh đọc. Cục Xuất Bản cũng bảo chúng tôi tổ chức hội thảo. Tôi bảo hội thảo cũng phải có thời gian đọc nữa chứ.
Tôi vội nói:
– Mình đứng ra tổ chức hội thảo, sao anh không tổ chức. Mình được đứng ra mời đại biểu cơ mà.
Ngợi cười to trước sự ngu ngốc của tôi.
Rồi nghiêm mặt:
– Mình mời người của mình. Trình danh sách với họ. Họ điền thêm một danh sách khác. Anh mời thêm những người này để rộng đường dư luận. Thêm người là thêm tiền. Chuẩn bị hội thảo phải vài tháng, mất vài trăm triệu là ít. Đấy là chưa kể, hôm sau hội thảo thì tối hôm trước người ta đến tận nhà những người của mình, yêu cầu phải phát biểu thế này thế nọ.
Tôi thành thật:
– Đến chết tôi cũng không chừa được bệnh ngây thơ.
– Vô bổ mà lại mất tiền, mất thời gian. Một năm chúng tôi phải ra vài trăm đầu sách. Đâu chỉ có một quyển. Chúng tôi còn ra nhiều tập sách đối thoại khác. Đối thoại sử học rồi. Còn đối thoại địa lý nữa. Cũng rất căng đấy. Đừng nghĩ đối thoại địa lý mà không căng đâu. Nhưng đối thoại nghĩa là vấn đề chưa được kết luận…
Ngợi nói với tôi về những ông công an “không như ông Thanh Vân Chuyện kể năm 2000 của anh, thượng sĩ hạ sĩ đâu mà là cành tùng.”([2]) Gặp những ông này ở những cuộc họp nào đó, anh đang đứng trao đổi thì một đám đại tá trung tá thiếu tá đến, anh khéo léo tìm cách cắt câu chuyện rồi đi chỗ khác, bởi vì mấy ông cành tùng biết được về mình là do cái đám tá uý kia. Bây giờ mình nói với ông ấy, đám bậu sậu lại đứng bên thì nói làm gì. Tôi bảo ông ấy: Anh chưa biết tôi là ai, chưa từng gặp tôi mà anh ký giấy mời đúng tên, đúng địa chỉ, thế nghĩa là anh biết về tôi quá rõ do cấp dưới, nhưng đấy chỉ là biết một phía thôi.
Câu chuyện giữa chúng tôi cởi mở và thân mật. Tôi rất kính trọng anh khi anh nói:
– Anh đừng thương cảm cho tôi. Không in sách của anh, tôi sẽ in sách của người khác cũng như thế. Tôi làm giám đốc ngày nào biết ngày ấy thôi. Đi khỏi đây cũng được nhưng thương anh em. Anh em lại phải mất sáu tháng dò xét người thủ trưởng của mình. Làm cầm chừng. Nghe ngóng. Dạo tôi mới về làm giám đốc là thế đấy. Anh em nghe ngóng mất nửa năm. Tôi về đây có người bảo gánh cái gánh ấy nặng đấy. Họ nói thế nghĩa là họ mỉa mình đấy anh ạ. Rồi bây giờ thì bắt tay: Sao? Đang khó khăn phải không? Tức là họ vui: Thằng ấy sắp chết rồi. Thế đấy.
Anh như đúc kết một chân lý:
– Có những người muốn mình chết. Đến khi mình chết họ lại thương. — Ngợi cười hồn nhiên và cau mặt lại rất nhanh. — Họ thương thật. Nhưng tình thương ấy là tình thương dã man nhất.
Tôi hiểu được cái tình cảm ấy, cái ngôn ngữ ấy. Như thơ Nguyễn Duy hôn má bên này bật máu má bên kia.
– Tôi cùng học chính trị với một đồng chí thường vụ Trung Ương Đoàn. Chúng tôi phân công nhau làm bài và mệt quá cùng ra uống nước nghỉ giải lao thì điện thoại di động của anh ta kêu. Tôi nghe rõ tiếng Hữu Thọ: Sao? Đã viết quyết định ủng hộ thằng Ngợi chưa? Tức là viết quyết định kỷ luật tôi đấy. Anh ta trả lời rất khẽ. Tôi bảo: Ông cứ nói thoải mái. Tôi nghe hết cả rồi. Có gì mà ông phải giấu tôi. Cho nên thực sự tôi thương anh em. Guồng máy đang vận hành tốt. Mình ở lại ngày nào biết ngày ấy. Cũng có thể các ông ấy chưa hất mình đi ngay. Cứ để một thời gian nữa rồi mới hất. Như thế êm hơn. Đỡ dư luận. Trong nước ngoài nước xì xèo không có lợi.
Hữu Thọ là trưởng ban Tư Tưởng Văn Hoá Trung Ương Đảng sắp về hưu. Sau này ông ta có một lần về Hải Phòng làm việc. Đặng Thị Kim, cháu dâu tôi, trưởng ban Văn Nghệ đài phát thanh truyền hình Hải Phòng, người phỏng vấn ông, kể lại cho tôi: “Sau buổi làm việc, cháu hỏi ông Hữu Thọ về chuyện của bác, về Chuyện kể năm 2000, cháu không nói cháu là cháu bác, cháu chỉ bảo ở thành phố chúng em có một nhà văn như thế, như thế, viết một quyển sách như thế, ông Hữu Thọ bảo: “Đấy, những người có tài mình không dùng lại đẩy họ sang phía chống đối…” Tôi buồn cho ông Hữu Thọ thì ít mà buồn nhiều hơn cho cả một guồng máy kiên trì vận hành theo một nguyên tắc: làm mọi người khiếp sợ, không ai dám nói thật. Thời gian sách của tôi bị cấm, ông đương kim trưởng Ban Tư Tưởng Văn hóa Hữu Thọ im thin thit, không dám nói nhận xét của mình về tập sách. Đúng như ông Nguyễn Văn An, ủy viên Bộ Chính Trị khi về hưu đã nói: Trong Đảng lại càng mất dân chủ. Còn tôi nói: Cái ghế càng cao càng không dám nói sự thật. Hy vọng gì ở các ông?
Đứng dậy để chia tay, Ngợi nhắc lại:
– Anh đừng ái ngại cho tôi. Không in cho anh tập này tôi cũng in cho người khác những tập tương tự, vì cái máu của tôi nó thế.
Bước ra ngoài hành lang, anh còn thì thầm:
– Thế là thắng rồi. Anh thu sách về đi. Lọt được một quyển cũng là thắng rồi.
*
Tôi còn phải đi Hà Nội nhiều lần. Chẳng ai bắt đi, nhưng không thể cứ ở Hải Phòng khi toàn bộ những gì liên quan đến mình là ở trên ấy. Đi để nghe ngóng tin tức, đặc biệt khi tất cả mới là tin đồn, nhiều khi trái ngược nhau, lúc là tuyệt vời, lúc là tuyệt vọng, lúc đe dọa đến an toàn tính mạng, lúc “tịch thu thì tịch thu nhưng không đụng đến tác giả…” Đi để nghe dư luận về chất lượng tập sách, dư luận về việc thu hồi tiêu hủy.
Có thể nói tất cả những dư luận tôi nghe được về tập sách đều tốt. Không những thế, nhiều người trong các hàng chức sắc trung cao cấp đã đọc và không giống cái Bộ Văn Hoá Thông Tin hay Ban Tư Tưởng Văn Hoá, người ta khen nó, thích nó, bảo nhau tìm đọc nó. Không chỉ khen về nội dung về nghệ thuật mà còn đặc biệt chú ý tới thái độ trách nhiệm của người viết, về sự không hằn học, sự chân thành v.v… Tôi càng vững tin ở chất lượng mặt hàng tôi làm ra. Cái chất lượng ấy bảo vệ tôi, và cũng có tác dụng bảo vệ phần nào các anh chị nhà xuất bản.
Tôi không đến nhà xuất bản Thanh Niên mà chỉ gặp Luyến. Gọi di động của Luyến. Em đấy à? Nhớ em quá. Đúng chín giờ ngày… anh gặp em ở quán cà phê mọi khi nhé.
Thế là tôi lên. Có khi đi sớm quá, chưa kịp ăn sáng mà còn mươi phút nữa mới tới giờ hẹn, tôi ngồi xổm vỉa hè phố Ngô Văn Sở ngay trước nhà anh chị Xuân Thu, nơi được gọi là nhà anh chị Diệu trong Chuyện kể năm 2000, ăn xôi chè, cô bán xôi chè gánh rong cứ vào giờ ấy là có mặt. Chỉ một nghìn mà được một bát chè đỗ đen và xôi đầy tràn. Sao người ta có thể làm được một món quà rẻ như vậy. Lờ lãi bao nhiêu?
Tôi căn đồng hồ. Đúng chín giờ bước vào quán cà phê. Khi một mình Luyến. Khi cả Hằng Thanh. Hai người vừa uống mầu nóng vừa nhìn ra cửa chờ tôi. Tôi bước vào, lột mũ nin-da, tươi cười:
– T4 chào Z7 và A5.
Và xem đồng hồ:
– Chín giờ đúng. Tôi hoạt động “ở Đức” lâu năm nên có cái chính xác của người Đức. “Ở Đức” keng một cái là đi đánh răng rửa mặt. Keng cái nữa là chia mì sáng. Keng lần nữa ăn xong. Lại keng: Đi làm.
Khi hai bạn gái định thông tin những diễn biến mới nhất về tập sách, số phận những người làm sách, những dư luận chung quanh tập sách cũng như một điều chỉnh đột xuất nào đấy về số lượng sách tôi phải nhận đã bán, tôi lắc đầu:
– Gượm đã. Và thò tay xuống gầm bàn: Xem có rệp không đã.
Tính tôi thế. Có chết cũng cứ đùa. Chẳng tội gì âu sau rầu rĩ mãi.
Chuyện xong tôi đi. Về nhà Lê Bầu để thư giãn, để nghe tiếng cười quen thuộc của anh vang lên, liều thuốc an thần của tôi. Đến nhà Dương Tường, khách sạn ba sao của tôi. Ở đấy tôi được một phòng riêng. Có giường đệm, có cơ man là sách, có cả một toa-lét có bình nóng lạnh riêng. Đó là phòng vợ chồng Hải Âu, con trai Dương Tường đang ở bên nhà ngoại. Trinh, bà chủ “khách sạn”, vợ Dương Tường, người tôi quen từ hồi còn là một nữ sinh chăm sóc tôi rất chu đáo, nhưng điều tuyệt vời hơn là luôn dành cho tôi sự tự do như người nhà, ví như đi đâu về mệt, tôi có thể tót lên phòng “của tôi” xả nước nóng tắm rửa, nghỉ ngơi, mà không phải ngồi lại phòng khách trò chuyện xã giao. Thật đúng là khách sạn ba sao!
Và cháu Phương Mai, cháu Hải chồng Mai, vợ chồng cháu Hải Âu đều coi tôi như người trong gia đình. Cả em nữa. Em là tên tôi gọi cháu Mai Khanh bốn tuổi, con gái vợ chồng Mai. Tôi gọi cháu là em. Còn cháu gọi tôi bằng một cái tên cháu tự nghĩ ra khi Dương Tường chỉ vào tôi, hỏi:
– Ai đây?
Cháu nép vào vai Tường:
– Ông già Tuyết.
Từ ấy mỗi khi tôi lên, cả nhà lại gọi cháu:
– Mai Khanh ơi. Ông già Tuyết này.
Cháu khoanh tay mắt long lanh nhìn tôi:
– Cháu chào ông già Tuyết.
Nhiều khi Mai Khanh gọi tôi bằng một cái tên đã được rút gọn: Tiết!Tiết! như khi còn ở báo Tiền Phong, bữa cơm đạm bạc gọi bà Ai tiết nóng ơ mỗi khi bà đi qua, mua vài miếng cho thức ăn âm sâm rầm rộ theo cách nói của Tất Vinh.
Ở nhà Dương Tường tôi được làm quen với rất nhiều hoạ sĩ trẻ. Những Đặng Xuân Hoà, Đinh Quân, Hà Trí Hiếu… rồi qua họ tôi lại quen biết những người khác. Dương Tường đã mua sách của tôi cho tất cả. Có người lấy đến mấy quyển. Nhiều bộ sách đã được các bạn hoạ sĩ trẻ gửi ra nước ngoài trước khi có lệnh thu hồi. Họ đã đọc tôi. Hà Trí Hiếu, một hoạ sĩ của báo Quân Đội Nhân Dân, người tôi quen trong một cuộc khai mạc phòng tranh vẽ toàn bò là bò của anh ở Mai Gallery, bảo tôi:
– Giá bố cháu còn sống, bố cháu đọc tập sách của chú thì bố cháu thích lắm. Bố cháu mất lâu rồi. Bố cháu còn sống chú phải gọi là đại ca.
Thì ra bố Hà Trí Hiếu cũng đã bị tù gần một giáp.
– Sau hơn mười năm giam giữ, bố cháu được tha. Trước khi tha, người ta dẫn bố cháu đến một sân tù toàn gián điệp biệt kích, diễu qua diễu lại để họ nhận diện. Bố cháu sợ đến nỗi xuýt đái ra quần. Đang đi như thế mà tự nhiên có người chỉ tay bảo “tôi biết lão này” là chết, là không có ngày về. May, không ai hâm hấp điên điên làm như vậy.
Hiếu kể cho tôi tuổi thơ gian khổ của anh. Thật quá bất ngờ. Nhìn anh, ai nghĩ được rằng anh đã trải qua những ngày khó khăn đến thế. Một hoạ sĩ báo Quân Đội Nhân Dân, cao lớn, đẹp trai, nổi tiếng, bán được nhiều tranh lại cũng có một quá khứ nhọc nhằn đắng cay khi bố đi tù gần một giáp, lớn lên hoang dã “như con hươu con nai trong rừng.” Có lẽ Nguyễn Quang Thân nói đúng: “Hơn bù kém, nhà nào cũng có ít nhất một người đi tù. Quyển sách của mày mà được phát hành, tirage phải hàng triệu bản.” Hà Trí Hiếu bắt tôi ngồi để anh vẽ tặng tôi một bức chân dung. Ngồi ở nhà anh, một căn nhà treo ít tranh nhưng rất nhiều dậm, giỏ, vó, đăng… những dụng cụ bắt cá. Hoàn thành bức tranh, anh nói khi tôi ngó vào giá vẽ:
– Bức này cháu thích. Nó nói được cái lì của chú.
Nhìn tranh Hiếu, tôi cứ nghĩ đến câu thơ Mai-a:
Tôi là con gấu cộng sản
Cha tôi xưa kia là quý tộc
Bàn tay tôi da đỏ mịn màng.
Trong tranh, tôi như lẫn vào với đất, một thứ người của đất như Pierre Abraham, chủ nhiệm tạp chí Europe đã gọi Nguyên Hồng, lại cũng giống một con gấu bị đánh đến lùn xuống, đến bè bè chiều ngang, một con gấu lì đòn.
Bức chân dung Đỗ Phấn vẽ tôi rất độc đáo: Trên cái đầu của một thằng tôi đang cúi xuống mọc lên một khối u, khối u ấy di căn thành một cái đầu khác, một thằng tôi khác, thằng tôi thứ hai cô đơn này đã nhìn ngang, nhìn đấy nhưng không nhìn ai cả. Nhận tranh của anh mà mãi sau này tôi mới biết anh là con của một biên ủy báo Tiền Phong, tôi đã dạy anh đủ trò nghịch ngợm khi anh lên bốn lên năm còn tôi mới ngoài hai mươi tuổi.
Đặng Xuân Hoà thì nói:
– Bộ sách của anh làm vợ em đến khổ. Cả sân 51, hết người này hỏi người kia hỏi. Người này chưa đọc xong, người khác đã hỏi mượn rồi. Chuyền tay nhau. Cả tháng không thấy trở về nhà. Em bảo vợ em cẩn thận kẻo mất. Không có mà mua đâu.
Sân 51 là số nhà 51 Trần Hưng Đạo, nơi đặt trụ sở của Uỷ Ban Toàn Quốc Các Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam, các hội nghệ thuật chuyên ngành và các tờ báo của hội và ngành. Tôi đã đến đấy tặng sách Phượng Vũ, Nguyễn Trọng Tạo và Hồng Đăng. Vợ Hoà làm việc ở đấy. Đỗ Thuý Hằng là hoạ sĩ của tập san Sân Khấu.
Đặng Xuân Hoà mời tôi và vợ chồng Dương Tường đi ăn chả cá Lã Vọng. Đó là bữa chả cá đầu tiên trong đời. Thú thật tôi chưa thấy bữa ăn nào ngon như thế. Có thể vì món chả cá là tuyệt vời, là thứ tôi “vẫn nghe nói đến nhưng chưa được cho vào miệng bao giờ.” Có thể vì tôi đang vui. Có thể vì Đặng Xuân Hoà dù còn rất trẻ và mới quen nhưng cũng chia xẻ mọi xót thương và mừng vui với tôi như vợ chồng Dương Tường bạn của tôi nửa thế kỷ. Vừa ăn vừa tự nhủ phải đưa vợ một lần đi chơi Hà Nội không suy nghĩ, hoàn toàn thanh thản, rồi đến đây ăn món chả cá này với những người bạn thân thiết của chúng tôi. Chả cá, một món ăn sang trọng, một món ăn tượng trưng cho Hà Nội, vợ tôi người Hà Nội gốc nhưng chưa một lần được nếm.
Đặng Xuân Hoà là hoạ sĩ đầu tiên vẽ chân dung tôi. Tôi ngồi làm mẫu cho anh ở Mai Gallery. Đốt thuốc lá liên tục mà vẫn buồn ngủ ríp mắt. Trinh mở tủ lạnh lấy cho tôi một bát chè đỗ xanh. Ăn chè lạnh, tôi tỉnh táo được tí chút và than thở:
– Nghề làm mẫu quả là gian khổ. Mình không làm được nghề này. Hoà ơi. Thù lao ngồi mẫu thế này được bao nhiêu đấy?
Bức chân dung Hoà vẽ tôi càng nhìn càng đẹp. Nó đẹp ở sự giản dị. Một thằng tôi tóc xám, áo xám, thứ màu xám của những bộ quần áo có đóng số, mắt mở to đăm đăm nhìn vào số phận. Cái nhìn lặng lẽ, khắc khoải không yên. Như một câu hỏi khoan xoáy vào thời gian trước mặt.
Khác với Đặng Xuân Hoà vẽ tôi bằng sơn dầu, Đinh Quân vẽ sơn mài. Khi tôi đang ngồi để Đặng Xuân Hoà vẽ, Đinh Quân đến. Anh ký hoạ tôi. Rồi về nhà làm sơn mài theo những điều anh đọc, suy nghĩ ghi nhớ về tôi.
Tôi trông thấy bức tranh Đinh Quân vẽ tôi vào hôm anh mời vợ chồng tôi và cả nhà Dương Tường đến nhà anh ăn cơm. Một gian phòng ngổn ngang những tranh là tranh. Toàn sơn mài. Bức chân dung chưa hoàn thành của tôi đặt dựa vào tường, xếp ngoài những bức tranh khác. Trên nền đen, một lão già tóc bạc, mắt lim dim thanh thoát giữa đời, rũ hết đắng cay như đang bay lên theo chiều thẳng đứng, một thứ phiêu diêu. Chúng tôi cùng im lặng ngắm bức tranh. Nó làm tôi xúc động.
– Cháu vẽ chú và nghĩ đến già Đô. Rồi nghĩ đến bố cháu. Bố cháu mất đã mười năm rồi.
Và cười rất tươi:
– Đồng chí Nguyễn Văn Tuấn đấy.
Đinh Quân gọi tôi là Nguyễn Văn Tuấn, hoá thân của tôi trong Chuyện kể năm 2000. Trong bữa ăn, thỉnh thoảng tôi lại nhìn bức chân dung đã được dựng vào cạnh tường để lấy chỗ dọn mâm. Và bảo Quân:
– Chú thương đồng chí Nguyễn Văn Tuấn quá. Đồng chí Nguyễn Văn Tuấn chẳng được miếng nào. Cứ ngồi một mình ở kia.
Quân kể chuyện khi bức chân dung hoàn thành, có một người Đức làm việc cho Viện Heinrich Bohl ở Chieng Mai Thái Lan đến nhà mời anh sang Thái. Thấy bức chân dung tôi, ông ta hỏi mua với giá 2000 đô la nhưng Đinh Quân nói bức tranh này không bán. Đây là chân dung một nhà văn đã bị tù năm năm và mới in một bộ tiểu thuyết bị cấm. “Thế là ông ta cứ hỏi mãi về chú.”
Tôi bông đùa:
– Sao không bán đi, Quân một nghìn, đồng chí Nguyễn Văn Tuấn một nghìn?
Quân giả bộ ngơ ngác:
– Ờ nhỉ. Tranh nhà giồng được. Cháu quên.
Cái tên “đồng chí Nguyễn Văn Tuấn” của Đinh Quân đặt cho tôi trở thành phổ biến trong nhà Dương Tường. Chẳng hạn khi thấy tôi lên, Trinh nhấc điện thoại gọi Đinh Quân ngay:
– Quân đấy à. Đồng chí Nguyễn Văn Tuấn mới lên.
Thế là Quân đến. Tôi bắt tay Quân và gọi Quân bằng chính cái tên anh đã gọi tôi:
– Chào đồng chí Nguyễn Văn Tuấn.
Quân đọc tôi rất kỹ. Anh đọc ngâm nga. Cháu không thể đọc nhanh, đọc một mạch được chú ạ. Cứ phải đọc đi đọc lại. Vừa đọc vừa suy nghĩ.
Anh rất yêu văn chương. Đọc nhiều. “Chả là trong thời gian ở bộ đội, cháu được giữ cả một cái thư viện. Nhiều sách lắm.” Đinh Quân còn bảo:
– Những trang chú viết về gia đình đọc thích quá. Đọc chú, cháu yêu gia đình cháu hơn. Chuyện kể năm 2000 còn là một quyển tiểu thuyết viết về gia đình nữa.
Tôi rất yêu quý Đinh Quân. Cả nhà tôi yêu quý Đinh Quân và gia đình Đinh Quân. Đinh Quân đã đưa cả gia đình xuống tôi. Hiền, vợ Đinh Quân. Và ốc, con gái vợ chồng Quân. Chẳng biết cháu tên là gì. Tôi cứ nhớ cái tên thường gọi trong nhà của cháu. Quân, Hiền, ốc đều có khuôn mặt đầy đặn phúc hậu, những người có khuôn mặt như vậy không thể làm điều ác. Những khuôn mặt như vậy làm ta tin và yêu ngay từ buổi gặp đầu tiên.([3])
Biết tôi lên Hà Nội thế nào Đinh Quân cũng tìm gặp. Không những thế, anh còn rụt rè hỏi tôi có tiếp được những người bạn của anh không, lúc là “một cậu cũng người Hải Phòng, đi lao động ở Kuwait mới về, bên ấy có gần trăm lao động người Việt, tất cả đều đọc chú trên mạng”, lúc là “những hoạ sĩ trẻ rất mến mộ chú.” Tôi vui vẻ nhận lời. Tôi quen hoạ sĩ Bàng Sĩ Trực qua Đinh Quân. Trực là con trai nhà thơ Bàng Sĩ Nguyên. Trực chưa đọc tôi. Mới chỉ nghe nói thôi. Trực kể cho tôi nghe tuổi thơ ăn đói của anh thời chống Mỹ. Một lần được ăn cơm, ăn xong anh phải tới bệnh viện. Bụng căng cứng như sắp vỡ. Ông bác sĩ bệnh viện Vĩnh Phú đã quá quen thuộc với những ca bệnh như thế, nói ngay ra nguyên nhân: “Vì ăn cơm đây mà.” Đúng như vậy. Ăn cơm no, uống nước, cơm nở ra, trương lên. Bác sĩ phải cho ống vào họng hút ra. Sau đó phải ăn nước cháo. Ăn ít một. Mãi hôm sau mới được ăn cơm.
– Thế bình thường Trực ăn gì?
– Cháu ăn rau. Toàn rau thôi. Với một miếng nắp hầm. Bữa ấy cháu được một suất gạo của chị cháu cho.
– Trực ăn rau gì?
– Xu hào, cải bắp, rau muống. Lá sắn thì muối như muối dưa ấy, rồi nấu ăn. Ăn no cũng chẳng sao. Có nhà luộc ăn, say chết cả nhà.
– Trong tù, lá sắn chú cứ ninh hai ba nước, ăn chẳng việc gì. Cái dạo chú còn giam cứu, nhiều anh nhận tiếp tế, no bụng đói con mắt, ăn đến bội thực, bên bệnh viện phải sang hút. Được lưng xô. Khiếp. Dạ dày người ta chứa được nhiều thật đấy.
– Cháu dạo ấy còn đang đi học mà cũng hút được lưng chậu đấy chú ạ. Trực nói và cười rất hồn nhiên.
Hoạ sĩ Vũ Thăng tôi cũng quen qua Đinh Quân. Quân giới thiệu trước: Cũng người Hải Phòng, một hoạ sĩ sơn mài có hạng, cháu rất kính nể. Té ra bố Vũ Thăng là một người bạn của cả gia đình tôi, nghĩa là của bố tôi và các anh tôi. Anh Nguyễn Vĩnh Huấn, cán bộ địch hậu Thuỷ Nguyên. Thời kháng chiến chống Pháp, anh hay lên nhà bố mẹ tôi tản cư ở Thái Nguyên và giảng cho chúng tôi — thời ấy còn đang đi học — nghe về chủ nghĩa xã hội khoa học và chủ nghĩa xã hội không tưởng. Tôi còn nhớ cả giọng anh, âm điệu của anh khi anh nói bằng tiếng Pháp: Socialisme scientiphique et socialisme utopique. Nghe anh giảng, chúng tôi phục lăn. Hoà bình lập lại, anh được đi học Liên Xô bẩy năm, về nước với tấm bằng phó tiến sĩ — nay là tiến sĩ — phát thanh. Anh chịu nhiều bất công và nghỉ hưu đã lâu. Anh đã chết. Chết đứng như bạn bè hưu trí của anh thường nói: Anh đi tiểu đêm và chết trong tư thế đầu gục vào tường.
Lương Xuân Đoàn, Nguyễn Xuân Tiệp, Ngô Hà Thái, tôi lại quen trong một hoàn cảnh khác. Tôi vừa đi ăn giỗ Nguyên Hồng trên Yên Thế về nhà Dương Tường. Cả nhà đi nghỉ ở Cửa Lò. Chỉ có tôi và Trinh. Tuổi già đi xa nên bị mệt. Đang ăn cơm với bà chủ khách sạn ba sao thì Đinh Quân đến. Anh đã biết trước ngày đồng chí Nguyễn Văn Tuấn từ Yên Thế về. Anh ngồi vào bàn ăn uống cùng chúng tôi. Bình thường như không có gì vội vã, mặc dù lúc ấy cả một bữa rượu đang chờ Quân và tôi ở phố Hàng Buồm. Quân không dám nói, vì thấy tôi quá mệt, cơm không ăn được, bia cũng chỉ nhấm nháp.
Xong bữa, Quân bảo:
– Trời Hà Nội đêm đẹp lắm. Chú có mệt không? Cháu đèo chú đi lòng vòng một tí nhé.
Tôi muốn nằm. Nhưng nể Quân. Vả lại đêm hè Hà Nội hấp dẫn tôi. Tôi muốn gặp lại những đêm hè Hà Nội của tôi ngày trước. Hai chú cháu đèo nhau đi. Tới hiệu kem phố Tràng Tiền, Quân bảo tôi trông xe. Anh vào mua một bịch kem nặng. Lại đi. Rẽ Hàng Đường, anh bảo: Có một đội toàn anh em trẻ thôi. Những người rất muốn gặp chú. Họ chờ sẵn cả rồi. Chú cháu mình đến được không chú?
Tôi chẳng thể nào từ chối. Tới một căn nhà sâu thẳm phố Hàng Buồm, trèo lên thang gác rồi lại đi ngược trở ra, bắt gặp một buồng lố nhố người. Một mâm rượu đã chờ sẵn. Nhà vợ chồng họa sĩ Nguyễn Xuân Tiệp. Cùng với chủ nhà Tiệp – Hường là Ngô Hà Thái, khi đó là phó tổng biên tập báo Thể Thao Văn Hoá, Lương Xuân Đoàn và Hiền vợ Quân.
B.N.T.
([1]) Ở các nước xã hội chủ nghĩa có một cái gọi là sinh mạng chính trị đấy. Anh vẫn sống nhưng người ta coi như anh đã chết rồi nếu anh không có nó.
(2) Cấp tướng.
(3)Tôi luôn mong cái gia đình trẻ trung ấy hạnh phúc nhưng thật không ngờ. Nó đã tan vỡ! Nó tan vỡ mấy năm sau đó! Thật buồn và ngoài sức tưởng tượng của tôi.
(Xem tiếp kỳ sau)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cứ hy vọng thôi..

Có vậy mà tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Nhưng hắn đặt ra câu hỏi hóc búa quá, làm sao tôi trả lời cho thật chính xác được. Hắn vừa nhấp ngụm cà-phê vừa nói: “Tao hỏi mày nhé. Khi nào thì một con điếm chịu bỏ nghề? Câu hỏi này thật sự không ai trả lời chắc chắn được, mà chỉ có thể suy đoán hoặc phán xét.”
Tôi ngồi chau mày một lúc. Tôi phải nghĩ ra một câu trả lời gì đó mà hắn không ngờ tới, để khỏi bị lôi vào cái thòng lọng mà hắn đang treo lơ lửng trên đầu.
Hắn nhìn tôi đầy vẻ căng thẳng. Hắn làm tôi bắt đầu cảm thấy sốt ruột. Tôi đoan chắc rằng hắn đã thủ sẵn hàng tá câu trả lời trong đầu. Hắn chỉ cần tôi nói ra, hắn sẽ quy chụp tôi ngay tức khắc.
Tôi im lặng. Thật ra là tôi chưa tìm thấy câu trả lời hợp lý để đối đáp với hắn. Bao nhiêu giả thuyết hiện lên rõ mồn một trong đầu.
Con điếm sẽ bỏ nghề khi nó lấy chồng. Ồ, chắc chắn rồi. Khi có một ai đó đủ bao dung và yêu thương chìa đôi tay cứu vớt một đứa làm cái nghề bị cho là mạt hạng nhất ấy, thì ngay lập tức con điếm sẽ bỏ nghề.
Hình như tôi đang cười một mình. Hắn nhìn tôi bằng ánh mắt xoáy sâu. Hắn hỏi: “Sao? Mày tìm ra câu trả lời rồi phải không? Nếu mày không nghĩ ra được thì tao nghĩ mày nên múc não của mày ra khỏi hộp sọ. Khi nó nhìn thấy thứ ánh sáng huyễn hoặc của cuộc đời này, tự khắc nó sẽ hằn thêm thêm nhiều nếp nhăn.” Hắn nói như hắn là thượng đế, là kẻ cầm quyền vậy. Hắn nói như hắn có thứ quyền uy vô hạn đối với tôi. Tôi rít một hơi thuốc. Đám khói bạc phả ra trước mặt hắn.
Tôi nhìn thẳng vào mắt hắn bằng cái nhìn của quỷ dữ. Tôi nghe giọng mình đặc quánh như những tảng đá sắp rơi: “Mày hỏi tao câu đơn giản quá mà làm ra vẻ cao siêu. Con điếm sẽ bỏ nghề khi nó lấy chồng. Đúng không nào? Khi nó có ai đó có thể che chở bảo vệ nó trước mọi thách thức của cuộc đời, nó sẽ bỏ nghề. Tao chắc chắn đến cả ngàn phần trăm.”
Hắn phì cười nhẹ nhõm. Hắn nói: “Mày hiểu ra vấn đề rồi đấy. Mày thông minh đấy. Đúng lắm.”
Tôi chẳng để ý gì đến những lời hắn vừa nói. Tôi đang nhớ cái câu hắn nói hôm qua với lũ bạn: “Khen cho chết mẹ nó đi.”
Lời nói đôi khi là một thứ vũ khí đáng sợ. Lời khen ở cái xã hội như miếng thịt ôi thiu nửa nạt nửa mỡ này thì càng cần phải cảnh giác. Nó thối thây lầy lợm đấy, nhưng nguời ta cứ khen lấy khen để. Người và người tự giết nhau bằng cái thế giới ảo tưởng của chính họ. Mà dường như hắn cũng đang trong thời kỳ lột xác khỏi những ảo tượng mà xã hội hắn đang sống đã mất công nhào nặn ra.
Tôi nhìn hắn, nhìn khuôn mặt đầy suy tư của hắn. Tôi hỏi: “Mày nói tao bắt đầu hiểu ra vấn đề. Thú vị đấy. Nào, nói cho tao xem: vấn đề ấy là gì nào?”
Hắn cười ha hả, hỏi tôi: “Này nhé, mày có thấy cái xứ này đang muốn chạy trốn không?” Rồi hắn nhăn mặt. “À. Không. Dùng từ gì cho đúng nhỉ? Tháo chạy hay chạy thoát? Ừ, tao nghĩ là chạy thoát đấy. Mày nghĩ ra chưa? Này nhé, nếu ví xứ này như một con điếm thì nó sẽ tự cởi trói đời nó khi nào? Đấy. Mày nói rồi đấy. Khi nó lấy chồng chứ gì nữa! Giờ thì mày đã hiểu ra chưa nào? Mày cười là mày hiểu rồi nhé. Đồ chậm tiêu.”
Hắn lại bập vào môi một điếu thuốc khác. Hắn bật hộp quẹt ga châm lửa. Hộp quẹt cháy lên. Tôi ngồi nhìn cái vẻ bất cần đời của hắn rồi suy nghĩ: Cái xứ này đã sống đời đĩ điếm không biết bao nhiêu lâu rồi? Cứ nghĩ rằng việc nhẹ lương cao. Cứ bán hết những thứ được coi là vốn tự có. Tất cả đã bán hết. Bán sạch sành sanh. Đến ngay cả đất đai mồ tổ cũng mang ra rao bán rồi chia chát. Thật sự có khác gì một con điếm ngã giá từng bộ phận rách nát, toang hoác, nhún nhão trên cơ thể mình?
Khi con điếm bắt đầu đủ dũng cảm nhìn thẳng vào chính mình và nhận ra trò đu dây không còn phát huy được tác dụng, thì nó cảm thấy trào dâng một khát khao cháy bỏng: khát khao thoát kiếp. Cái xứ này giờ đây cũng thế. Khi những trò láo lường không còn tác dụng của chúng, khi mọi thứ được bày vẽ ra trước mắt chỉ là những vỏ bọc ảo tưởng, khi người ta phát hiện ra rằng cuộc đời nằm ở ngoài kia chứ không phải trong những cái vỏ bọc này, thì người ta bắt đầu không tin vào bất cứ một điều gì nữa. Tất cả chỉ còn là những viên đạn bọc đường.
Người dân xứ này bắt đầu chộn rộn. Người ta lo nồi cơm đáng ra là của chính họ bỗng một hôm bị nguời khác giành mất. Người ta lo lắm. Lo đến mất ăn mất ngủ. Lo đến gầy rạc chỉ còn da bọc xương.
Con điếm chán cảnh bị giày vò, chán làm đời đi bợ đỡ cung phụng người khác. Nó nghĩ ngay tới việc lấy chồng. Nó nghĩ tới việc thay đổi. Thay đổi để thoát xác, để trở về một cuộc sống bình thường như vốn có.
“Đấy. Giờ thì mày tin chưa? Cái con điếm già này bắt đầu thay đổi tính nết rồi đấy. Mày có tin nó sẽ kiếm được thằng chồng không?” Hắn đứng dậy rời khỏi quán và hỏi tôi câu đấy. Ly cà-phê đã trơ ra đáy cốc từ bao giờ. Tôi cũng đứng dậy, và cái đầu u u mê mê cũng tự hỏi mình câu ấy, rằng: Liệu con điếm này có cưới được chồng?
Cứ hy vọng thôi. Đời cũng chỉ cho ta có chừng ấy.

 DBV

Phần nhận xét hiển thị trên trang

CHUYỆN THẬT Ở THỦ ĐÔ HÀ NỘI



Tôi đi Hà Nội một tháng, gặp một số chuyện “độc” chỉ có ở thủ đô, mang về làm quà kể cho bạn nghe. Kể từng chuyện nhé.

Niềm tin & quốc tịch

Chồng chị là đảng viên. Chị cũng đảng viên, cả hai đều là đảng viên thứ gộc. Họ làm ăn rất tài và phất rất nhanh. Hết mua bán đất đến mua bán nhà, rồi mua bán chung cư, rồi đến chơi chứng khoán. Đầu tư quả nào trúng ngay quả đó.

Một hôm, chị nói với tôi rằng, “Chị vừa mua thêm căn hộ ở Singapore, em ạ.” Tôi rất ngạc nhiên khi nghe chị nói như thế. Trước đây, tôi có nghe kể rằng chị đã mua một ngôi nhà ở Australia và một ngôi nhà nữa ở Mỹ, bang Cali hẳn hoi. Nghĩa là cho con đi du học ở xứ nào thì chị mua nhà cho chúng ở xứ đó. Trước để khỏi phải tốn tiền thuê nhà, khi học xong thì cũng vừa trả xong tiền nợ, và giá trị căn nhà cũng tăng đủ để sinh lời. Tuy vậy, tôi hỏi thêm cho rõ, “Nhưng chị đã có nhà ở Úc và ở Mỹ rồi thì mua thêm ở Sing làm gì?”

Chị bình thản chia sẻ thật với tôi, “Chị đầu tư mà em. Vả lại vốn vay tại Singapore cực rẻ. Chị sẽ chuyển toàn bộ tài sản ra nước ngoài luôn. Cái quy chế có chừng nửa triệu đô thì được nhập tịch ở Canada rất thoáng, nhà chị đang lo. Như thế sẽ an toàn hơn. Ở mình, giờ nhìn đâu cũng thấy bóng dáng thần chết. Từ thực phẩm cho đến xe cộ, sơ sảy chút là không toàn mạng. Thậm chí, tháng nào bọn chị cũng bay qua Singapore mua thực phẩm rồi đem về Hà Nội sử dụng dần dần. Mấy cái siêu thị ở đây cũng không thể tin được. Làm sao mà biết chắc rằng chúng không bán hàng đểu cho mình. Ăn bậy vào nếu không ngộ độc thì cũng ung thư.”

Chị lại khuyên, “Mấy đứa nhỏ ở nhà ráng lo cho chúng đi du học hết đi. Ngày xưa thì hết tỵ nạn chính trị đến tỵ nạn kinh tế, còn bây giờ thì phải kể thêm tỵ nạn giáo dục nữa. Mà thật ra thì thời buổi này, ở cái đất nước này, mọi chuyện đều phải tính hết, không thể ù lì chờ nước tới chân mới nhảy. Em cố gắng mà chạy cho được thêm cái quốc tịch. Dù sao có hai cái quốc tịch vẫn hơn. Lỡ có chuyện gì... thì... bay hơn tiếng đã đến Singapore.”

Trời ơi, cỡ làng nhàng dân ngu khu đen như tôi thì làm sao mà... chạy thêm cái quốc tịch? Quốc tịch chứ có phải là mớ rau ế mua ở chợ chiều đâu mà dễ chạy vậy ta? Làm sao mà sống tiếp đây? Chẳng lẽ, cái xứ này đến hồi vận mạt rồi sao?

Tôi tình thật hỏi tiếp luôn, “Vậy anh chị nghĩ sao về cái vụ đảng viên của mình chứ? Đảng viên mà còn tính như thế thì dân đen như em phải làm sao? Niềm tin đặt vào chỗ nào đây?” Chị đáp, “Chị có còn sinh hoạt đảng gì nữa đâu, có cái thẻ thì giữ cho có để khỏi bị chúng hà hiếp. Ngó tới thêm nhục! Còn ông ấy thì phải giữ vì còn phải làm việc trong bộ. Rồi cũng tới lúc phải vất thôi. Chị còn nghe thằng bé nhà chị ở Mỹ nó nói là, ở nước ngoài các chính phủ họ căng với đảng viên lắm. Thậm chí khi thi quốc tịch ở Mỹ nó còn hỏi người ta khai ra có phải là đảng viên Phát-xít và Cộng sản hay không, nếu có là phăng-teo luôn.”

Tôi thầm nghĩ, trời ơi, làm sao mà sống tiếp đây? Các đại gia, các nhà tư sản đỏ mới có điều kiện để trở thành người tiêu dùng thông thái, nhà đầu tư thông minh như thế. Ai ai cũng thủ thế và chuẩn bị bài chuồn để bảo toàn mạng sống và của cải. Thường thường bậc trung như mình, nghĩ thì cũng nghĩ tới đấy nhưng chẳng thể làm được. Thôi thì có chết thì chết chung với nhau, chết chùm cả nước, chứ có riêng gì mình. Lỡ có chuyện gì thì làm ơn... lỡ sớm sớm giùm một chút.



Cái gì cũng “đéo”

Ngày nay hầu như ở Hà Nội người ta không còn, hay rất hiếm, nói từ “không”, mà thay bằng từ “đéo”. Ra phố thì cái gì cũng “đéo”. Từ già cho tới trẻ, nam hay nữ gì cũng vậy, cũng nói “đéo” thay cho “không”. Thậm chí, có khi bạn còn nghe “đéo” trong các môi trường lẽ ra rất lành mạnh như nhà trường. Cái gì cũng “đéo”. Nghĩa là, “đéo có cái gì mà không đéo”. Giả dụ, ở sạp báo, bạn hỏi, “Ông ơi, có báo Nhân Dân không?” / “Đéo có Nhân Dân, chỉ có Hà Lội Mới thôi!”. Kinh!



Thịt heo tự nuôi, cho nó lành!

Xem ti-vi, thấy một chị tre trẻ ở Hà Nội đặt họ hàng ở quê nuôi heo để ăn dần cho nó an toàn, bảo đảm là heo nuôi với nguồn thực phẩm tự nhiên, không có chất “tạo nạc”. Ai muốn ăn thịt heo thì phải ghi tên trước 8 tháng. Nhà đài VTV tường thuật như thể chị chàng kia thông minh lắm, như muốn khuyến khích mọi người theo cái gương đấy. Mình nghĩ, không chừng chắc rồi cũng tới cái lúc dân ta quay lại như thời bao cấp, cái thời nhà nhà nuôi heo, tự cung tự cấp, ủn ỉn ụt ịt trong mọi nhà, trên mọi hành lang chung cư, cho nó lành.



“Sĩ”

Ra đây một thời gian ngắn tôi nhận ra được cái tính “sĩ” của dân thủ đô. Tôi gặp một số người cho rằng mình là người Hà Nội chính gốc, có tổ tiên hằng bao nhiêu đời làm quan của triều nhà Hồ, nhà Lê. Những người này có niềm kiêu hãnh về dòng dõi của mình, và họ khinh đám dân nhập cư từ Nghệ An, Thanh Hóa, hay các xứ khác đến sống ở Hà Nội ra mặt. Nếu không khinh ra mặt được thì họ cũng ngấm ngầm tự hào về cái khả năng không nói ngọng nghịu, lẫn lộn hai âm “nờ” và “lờ”, và tự hào về cái giọng thanh tao (nhưng tôi nghe thì có khi chua lét) của họ, chứ không nặng chình chịch và quê mùa của người nhập cư. Họ cho rằng như thế mình mới là “sĩ”, là “kẻ sĩ”; nghĩa là, có thể nghèo, nhưng vẫn sang trọng, một cách nào đó, trong nhân cách thừa kế được từ dòng dõi nhiều đời trước.


Cao Thị Uyên


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Siêu bão Soudelor- được đánh giá là cơn bão mạnh nhất thế giới kể từ đầu năm, đang hướng tới Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc sau khi hoành hành ở quần đảo Bắc Marianas. >> Tại sao Soudelor là siêu bão mạnh nhất năm 2015? >> Siêu bão mạnh nhất năm đang tiến về Đông Á nhìn từ vũ trụ >> Siêu bão mạnh nhất năm tiến thẳng Đông Á >> Hà Nội lên kịch bản di dời 900 nghìn dân nếu có bão mạnh >> Hà Nội: Bảo đảm trên 50 ngàn người ứng phó với siêu bão Siêu bão Soudelor Siêu bão Soudelor Theo SCMP, Trung tâm Cảnh báo Bão liên hợp cho biết, siêu bão mạnh nhất hành tinh năm nay đang hướng đến phía Tây Thái Bình Dương với sức gió mạnh 354km/h, tương đương với bão cấp 5. Trong 24h tới, bão sẽ tiếp tục tăng cường trước khi suy yếu từ từ xuống cấp 3, cấp 4 tại thời điểm đổ bộ vào Nhật Bản, Đài Loan và Trung Quốc chiều 6/8. Bão Soudelor được đánh giá là mạnh hơn cả bão Pam với sức gió 270km/h quét qua đảo quốc Vanuatu (Thái Bình Dương) hồi tháng 3/2015 khiến ít nhất 15 người thiệt mạng và 75.000 người mất nhà cửa. Trước đó, hôm 2/8, Soudelor đã đổ bộ vào quần đảo Bắc Mariana của Mỹ ở tây Thái Bình Dương, gây thiệt hại lớn và khiến giới chức phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp. Gần 400 người trên quần đảo này đã phải sơ tán đến khu vực tạm trú khẩn cấp sau khi bão làm tốc mái nhiều nhà ở, gây ra tình trạng mất điện và nước, làm hư hại cơ sở hạ tầng trên diện rộng. Siêu bão mạnh nhất năm đang tiến về Đông Á nhìn từ vũ trụ Siêu bão mạnh nhất năm đang tiến về Đông Á nhìn từ vũ trụ Bão nhiệt đới Soudelor đang hướng tới đảo Đài Loan từ vùng biển phía tây Thái Bình Dương. Nó có thể trở thành siêu bão mạnh nhất năm 2015. Tờ SMH của Australia cho biết, bão Soudelor đã... Hà Nội lên kịch bản di dời 900 nghìn dân nếu có bão mạnh Hà Nội lên kịch bản di dời 900 nghìn dân nếu có bão mạnh Trong tình huống bão mạnh, siêu bão đổ bộ trực tiếp vào Hà Nội, hàng trăm nghìn dân sẽ được di dời tại chỗ hoặc sơ tán đến các địa điểm định sẵn để đảm bảo an toàn tính mạng. Phó... (Theo Tiền Phong)

Siêu bão Soudelor- được đánh giá là cơn bão mạnh nhất thế giới kể từ đầu năm, đang hướng tới Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc sau khi hoành hành ở quần đảo Bắc Marianas.

Siêu bão Soudelor
Siêu bão Soudelor
Theo SCMP, Trung tâm Cảnh báo Bão liên hợp cho biết, siêu bão mạnh nhất hành tinh năm nay đang hướng đến phía Tây Thái Bình Dương với sức gió mạnh 354km/h, tương đương với bão cấp 5.
Trong 24h tới, bão sẽ tiếp tục tăng cường trước khi suy yếu từ từ xuống cấp 3, cấp 4 tại thời điểm đổ bộ vào Nhật Bản, Đài Loan và Trung Quốc chiều 6/8.
Bão Soudelor được đánh giá là mạnh hơn cả bão Pam với sức gió 270km/h quét qua đảo quốc Vanuatu (Thái Bình Dương) hồi tháng 3/2015 khiến ít nhất 15 người thiệt mạng và 75.000 người mất nhà cửa.
Trước đó, hôm 2/8, Soudelor đã đổ bộ vào quần đảo Bắc Mariana của Mỹ ở tây Thái Bình Dương, gây thiệt hại lớn và khiến giới chức phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp.
Gần 400 người trên quần đảo này đã phải sơ tán đến khu vực tạm trú khẩn cấp sau khi bão làm tốc mái nhiều nhà ở, gây ra tình trạng mất điện và nước, làm hư hại cơ sở hạ tầng trên diện rộng.
Siêu bão mạnh nhất năm đang tiến về Đông Á nhìn từ vũ trụ

Siêu bão mạnh nhất năm đang tiến về Đông Á nhìn từ vũ trụ

Bão nhiệt đới Soudelor đang hướng tới đảo Đài Loan từ vùng biển phía tây Thái Bình Dương. Nó có thể trở thành siêu bão mạnh nhất năm 2015. Tờ SMH của Australia cho biết, bão Soudelor đã...
Hà Nội lên kịch bản di dời 900 nghìn dân nếu có bão mạnh

Hà Nội lên kịch bản di dời 900 nghìn dân nếu có bão mạnh

Trong tình huống bão mạnh, siêu bão đổ bộ trực tiếp vào Hà Nội, hàng trăm nghìn dân sẽ được di dời tại chỗ hoặc sơ tán đến các địa điểm định sẵn để đảm bảo an toàn tính mạng. Phó...
(Theo Tiền Phong)

Siêu bão Soudelor
Siêu bão Soudelor
Theo SCMP, Trung tâm Cảnh báo Bão liên hợp cho biết, siêu bão mạnh nhất hành tinh năm nay đang hướng đến phía Tây Thái Bình Dương với sức gió mạnh 354km/h, tương đương với bão cấp 5.
Trong 24h tới, bão sẽ tiếp tục tăng cường trước khi suy yếu từ từ xuống cấp 3, cấp 4 tại thời điểm đổ bộ vào Nhật Bản, Đài Loan và Trung Quốc chiều 6/8.
Bão Soudelor được đánh giá là mạnh hơn cả bão Pam với sức gió 270km/h quét qua đảo quốc Vanuatu (Thái Bình Dương) hồi tháng 3/2015 khiến ít nhất 15 người thiệt mạng và 75.000 người mất nhà cửa.
Trước đó, hôm 2/8, Soudelor đã đổ bộ vào quần đảo Bắc Mariana của Mỹ ở tây Thái Bình Dương, gây thiệt hại lớn và khiến giới chức phải tuyên bố tình trạng khẩn cấp.
Gần 400 người trên quần đảo này đã phải sơ tán đến khu vực tạm trú khẩn cấp sau khi bão làm tốc mái nhiều nhà ở, gây ra tình trạng mất điện và nước, làm hư hại cơ sở hạ tầng trên diện rộng.
Siêu bão mạnh nhất năm đang tiến về Đông Á nhìn từ vũ trụ

Siêu bão mạnh nhất năm đang tiến về Đông Á nhìn từ vũ trụ

Bão nhiệt đới Soudelor đang hướng tới đảo Đài Loan từ vùng biển phía tây Thái Bình Dương. Nó có thể trở thành siêu bão mạnh nhất năm 2015. Tờ SMH của Australia cho biết, bão Soudelor đã...
Hà Nội lên kịch bản di dời 900 nghìn dân nếu có bão mạnh

Hà Nội lên kịch bản di dời 900 nghìn dân nếu có bão mạnh

Trong tình huống bão mạnh, siêu bão đổ bộ trực tiếp vào Hà Nội, hàng trăm nghìn dân sẽ được di dời tại chỗ hoặc sơ tán đến các địa điểm định sẵn để đảm bảo an toàn tính mạng. Phó...

(Theo Tiền Phong)
Phần nhận xét hiển thị trên trang