Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2015

Văn chương có nổi sóng, khi biển Đông bị đe dọa ?



Nói một cách hình ảnh thì mỗi khi “Biển Đông dậy sóng” thì văn thơ của ta cũng dậy sóng. Có điều, trong các “phong trào” sáng tác về biển đảo ấy thì chỉ thơ là “áp đảo”, sáng tác văn xuôi quá ít. Với thơ viết về biển đảo sau những đợt biển Đông dậy sóng vừa qua, có cảm giác như không khí thơ thời chống Mỹ cứu nước đã tái hiện, với nét nổi bật là sự cộng hưởng giữa nhà thơ với công chúng, với xã hội, với thời đại. Chỉ khác là cái hào khí của thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đã để lại một loạt tên tuổi, một loạt tác phẩm thơ ca đi cùng năm tháng; còn thơ ca viết về biển đảo gần đây, sau những cao trào rầm rộ, lắng đọng trong đời sống văn học không nhiều.


Để có những câu thơ lời văn “neo được trong lòng biển”

MAI NAM THẮNG

 Những năm gần đây, thơ văn Việt Nam viết về biển đảo là viết về những người lính hải quân giữ biển, những ngư dân bám biển và lực lượng Kiểm ngư thực thi pháp luật trên biển; là tinh thần “Cả nước hướng về Hoàng Sa, Trường Sa thân yêu” với những chứng cứ lịch sử và pháp lý khẳng định chủ quyền và quyết tâm thực hiện chủ quyền thiêng liêng ấy.

Với cảm hứng và tâm thế ấy, những năm gần đây mỗi khi chủ quyền biển đảo của Tổ quốc bị xâm phạm hoặc bị đe dọa xâm phạm, như những vụ Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh của Tổng công ty dầu khí Việt-Xô Petro, bắt giữ và đánh đập ngư dân ta, hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, v.v…  thì cùng với đồng chí đồng bào cả nước, các nhà văn nhà thơ của chúng ta, cả chuyên nghiệp lẫn nghiệp dư, cũng rầm rộ “ra quân” ào ạt trên các phương tiện truyền thông. Nói một cách hình ảnh thì mỗi khi “Biển Đông dậy sóng” thì văn thơ của ta cũng dậy sóng.

 Có điều, trong các “phong trào” sáng tác về biển đảo ấy thì chỉ thơ là “áp đảo”, sáng tác văn xuôi quá ít. Với thơ viết về biển đảo sau những đợt biển Đông dậy sóng vừa qua, có cảm giác như không khí thơ thời chống Mỹ cứu nước đã tái hiện, với nét nổi bật là sự cộng hưởng giữa nhà thơ với công chúng, với xã hội, với thời đại. Chỉ khác là cái hào khí của thời “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đã để lại một loạt tên tuổi, một loạt tác phẩm thơ ca đi cùng năm tháng; còn thơ ca viết về biển đảo gần đây, sau những cao trào rầm rộ, lắng đọng trong đời sống văn học không nhiều. Trên các diễn đàn văn học thường chỉ một vài tác phẩm được nhớ, được nhắc nhiều, như các trường ca “Hạ thủy những giấc mơ” của Nguyễn Hữu Quý, “Tổ quốc đường chân trời” của Nguyễn Trọng Văn… cùng một số bài thơ, như: “Mộ gió” của Trịnh Công Lộc, “Hào phóng thềm lục địa” của Nguyễn Thanh Mừng, “Tổ quốc nhìn từ biển” của Nguyễn Việt Chiến, “Tổ quốc gọi tên mình” của Nguyễn Phan Quế Mai, v.v...  Và cũng xin nói thật là trong số những bài thơ nổi trội trên đây, vẫn hiếm có những câu thơ ấn tượng, “để đời” như trong một số bài thơ và trường ca viết về chủ quyền biển đảo của một số nhà thơ lớp trước như Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Anh Ngọc, Ngô Xuân Hội… viết cách nay đã hơn ba chục năm.

Thực trạng “thơ nhiều mà vẫn ít” trên đây, theo tôi bởi thơ viết về biển đảo gần đây vẫn mang tính phong trào, nặng về cổ động. Nhiều tác giả viết về biển đảo chủ yếu theo cảm hứng sử thi; dựa vào các sự kiện lịch sử để lập tứ dàn ý khiến người đọc cảm thấy mòn cũ. Cũng có những tác giả có ý thức lao động chữ nghĩa, đổi mới cách viết-cách nói về biển đảo, về Hoàng Sa- Trường Sa, nhưng do thiếu trải nghiệm, thiếu thực tế, thiếu vốn sống về biển đảo  lại trở nên sáo và “diễn”.

Tất nhiên, không phải nhà văn muốn viết hay về biển đảo thì phải được ra tận nơi Trường Sa, Hoàng Sa, phải mục sở thị về biển đảo và ngược lại. Nhưng về cơ bản và nhất là trong bối cảnh thời sự hiện nay, việc được chứng kiến cuộc sống, lao động, sẵn sàng chiến đấu… của quân và dân biển đảo; được trải nghiệm thực tế ở Trường Sa, Hoàng Sa, khu vực DK1… là điều kiện hết sức quan trọng. Bởi vậy theo tôi, cần phải thay đổi cách đi thực tế biển đảo và Trường Sa như trong thời gian qua. Hội Nhà văn Việt Nam cần phối hợp với Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển và Cục Kiểm ngư để tổ chức những chuyến đi thực tế biển đảo dành riêng cho các nhà văn, phù hợp với điều kiện biển đảo và đặc điểm tác nghiệp của nhà văn; không nên tổ chức cho nhà văn đi chung với các đoàn đại biểu đi thăm Trường Sa kiểu “gặp nhau lần nào cũng vội” như lâu nay. Nhà văn phải được nhìn gần, nhìn thật gần biển đảo thì sáng tác của họ mới gần với cuộc sống, tâm tư, tình cảm của bộ đội và ngư dân trên biển đảo. Xin nêu một ví dụ: Trường Sa bây giờ đã được phủ sóng truyền hình và mạng viễn thông Viettel; Trường Sa bây giờ cây cối xanh tốt hơn, có điện mặt trời và điện gió chạy suốt ngày đêm, nhiều đảo có máy lọc nước biển thành nước ngọt tinh khiết… Cho nên những chuyện khát nước, chuyện khát thư, chuyện nắng gió biển khơi… chuyện đi nhặt trứng chim, trứng vích; chuyện nuôi chó, nuôi lợn, trồng rau… của bộ đội Trường Sa bây giờ không giống như trong chùm thơ được giải và và trong tiểu thuyết “Đảo chìm” của Trần Đăng Khoa mấy chục năm trước nữa. Tâm tư, nguyện vọng của bộ đội Trường Sa bây giờ như thế nào khi các chế độ đãi ngộ ở ngoài đó cao gấp 3 lần so với trong đất liền? Trong đêm tối mênh mông, nhất là vào mùa biển động, những người lính trên các nhà giàn chơ vơ ở DK1 suy nghĩ gì? Cảm giác của họ trong những hoàn cảnh ấy ra sao? Sự hiện diện của họ ở đây là tự nguyện hay chấp nhận? Nếu được lựa chọn thì họ sẽ lựa chọn điều gì? Vân vân và vân vân… Miêu tả, diễn đạt, lý giải những điều đó nếu chỉ bằng tài năng bẩm sinh và trí tưởng tượng của nhà văn chắc chắn là không đủ! 

Đồng thời, Hội Nhà văn Việt Nam và các hội văn nghệ địa phương cần phối hợp với các ngành chức năng tổ chức các lớp tập huấn, nói chuyện thời sự, cấp phát tài liệu chuyên đề… để nâng cao nhận thức và kiến thức về biển đảo cho các nhà văn. Biển đảo Việt Nam có vùng chủ quyền hoàn toàn, vùng đặc quyền kinh tế, vùng quyền chủ quyền, vùng quyền tài phán… nếu không phân biệt được những khái niệm đó thì đôi khi sáng tác của nhà văn sẽ gặp nhầm lẫn đáng tiếc.

Với tôi, trên hành trình phấn đấu, trước mắt chỉ mong được như cố nhà thơ Nguyễn Văn Dinh từng mong: Một câu neo được trong lòng biển/ Xin gửi khơi xa chút mặn mòi…


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nắng nôi thất thường như này, bác í muốn trọc đầu cho mát đây!

ĐỖ LAI THÚY xin ra khỏi Hội nhà văn VN lẫn Văn đoàn Độc Lập

Nếu được thành lập Văn đoàn sẽ là một đối trọng (chứ không phải đối lập) về mặt học thuật và nghệ thuật (chứ không phải về mặt chính trị) với Hội Nhà văn. Biết đâu nhờ thế mà cả hai bên thúc đẩy nhau phát triển theo hướng tốt đẹp. Nhưng rồi tình hình có vẻ không phải như vậy. Ở Việt Nam ám ảnh chính trị là rất lớn. Và, trong lăng kính chính trị thì khó có gì còn nguyên là nó nữa, nhất là các tư tưởng học thuật. Bởi vậy, tôi nghĩ rằng hiện nay, với hoàn cảnh và ý hướng riêng của mình, tốt nhất là làm nghề một cách độc lập, tự mình chịu trách nhiệm cho chính mình, không tham gia vào bất cứ một hội, đoàn nào.
ĐƠN nè:
Kính gửi:
- Ông Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam
- Ông Nguyên Ngọc, Trưởng ban Vận động Thành lập Văn đoàn Độc lập

Thưa hai ông, tôi là Đỗ Lai Thúy, hội viên Hội nhà văn Việt Nam, thuộc bộ phận lý luận phê bình.

Năm 1992, tôi vào Hội với mục đích để có điều kiện nâng cao trình độ học thuật và nghệ thuật của mình, đồng thời, nếu có thể, đóng góp cho Hội và rộng ra cho ngành phê bình văn học nói chung, nhằm góp phần xây dựng một nền văn học Việt Nam giàu tính nghệ thuật và tính hiện đại. Trong 23 năm ở trong Hội, tôi đã hiểu được những giới hạn của bản thân mình cũng như những khung khổ của Hội với tính chất là một hội chính trị – xã hội – nghề nghiệp. Vì thế đã không có sự gặp gỡ giữa nguyện vọng được làm nghề của tôi và mục đích làm chính trị qua văn chương của Hội. Điều này khiến tôi băn khoăn rất nhiều.

Và, đó cũng là lí do khiến tôi ghi tên vào Ban Vận động Thành lập Văn đoàn Độc lập với suy nghĩ rằng, nếu được thành lập Văn đoàn sẽ là một đối trọng (chứ không phải đối lập) về mặt học thuật và nghệ thuật (chứ không phải về mặt chính trị) với Hội Nhà văn. Biết đâu nhờ thế mà cả hai bên thúc đẩy nhau phát triển theo hướng tốt đẹp. Nhưng rồi tình hình có vẻ không phải như vậy. Ở Việt Nam ám ảnh chính trị là rất lớn. Và, trong lăng kính chính trị thì khó có gì còn nguyên là nó nữa, nhất là các tư tưởng học thuật.
Bởi vậy, tôi nghĩ rằng hiện nay, với hoàn cảnh và ý hướng riêng của mình, tốt nhất là làm nghề một cách độc lập, tự mình chịu trách nhiệm cho chính mình, không tham gia vào bất cứ một hội, đoàn nào.

Tôi viết thư ngỏ này, thay cho đơn, xin chính thức rút tên ra khỏi Hội nhà văn Việt Nam và Ban Vận động Thành lập Văn đoàn Độc lập.

Xin kính chúc hai ông sức khỏe và công việc tốt.
Trân trọng cảm ơn.

Hà Nội, ngày 12 – 07 – 2015
Đỗ Lai Thúy


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tình buồn của một người THƠ!

Trần Dần – Bao giờ em đi lấy chồng

AL suu tam
VX13Ảnh Dương Quốc Định
Thơ Trần Dần
Bao giờ em đi lấy chồng?
để anh sắm mừng quà cưới?
Anh mừng em đôi chiếu mới
em về giải kín giường đôi
Anh đi sang tận làng Ngòi
tìm mua gạo cẩm
xu xê bánh cuốn
tự tay anh buộc lạt điều
đôi gối tằm thêu
anh nhờ người thêu hộ
thiếp mời chính tay anh hoạ
anh đi hai họ
báo tin từng nhà
anh nói mẹ cha
mượn nồi mượn chõ
em có cần anh đầu cỗ?
bảo người nhắn gọi anh sang
giò lụa chạo nem lợn quay xôi gấc
vật bò mổ lợn
con dao anh cắt
nuộc lạt anh thắt
chân giò anh chặt
que xiên anh vót
nạc mỡ anh pha
giò thủ anh nén
nước xuýt anh nếm
cỗ lòng anh thuôn
chả quế anh nướng
rau ghém anh trộn
bún ngâm anh chuội
thịt dọi anh thái
gỏi cuốn anh cuộn
đĩa hoa anh ướm
mâm son anh dọn
đũa trúc anh so
Hay em nhờ anh giúp về việc vặt?
nồi ninh anh bắc
hành hoa anh ngứt
rau diếp anh bứt
lợn béo anh khênh
buồng cau anh trảy
rượu vò anh quảy
thiếu gì anh chạy
thuốc lá anh cuốn
đèn măng-sông anh mượn
rạp lều anh dựng
khách mời anh đón
ghế bàn anh dọn
mâm cỗ anh bưng
Hay em nhờ anh giúp về văn nghệ ?
để anh chuẩn bị chương trình?
Kèn hát anh mượn
trò vui anh chọn
bạn bè anh đón
tiết mục anh soạn
khẩu hiệu anh dán
xúc xích anh cắt
đèn đuốc anh thắp
chúc từ anh đặt
bình hoa anh cắm
khăn bàn anh giải
tuyên bố lý do anh nói
các mục anh nối
kèn tàu anh thổi
anh làm vui hai họ
vui đôi vợ chồng mới
anh lưu tới cuối
tiệc tan –
khách muộn anh tiếp
ghế bàn anh xếp
đồ đạc anh dẹp
mâm bát anh cất
đèn rạp anh tắt
thuốc lá thừa anh nhặt
Xong
xuôi – anh về.
(17 tình ca 1963-1964)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Bảy, 18 tháng 7, 2015

TRUNG QUỐC DÙNG MỸ ĐỂ DỌA VIỆT NAM..? VẬY CÁC LÃNH ĐẠO PHẢI ỨNG SỬ THẾ NÀO ĐỂ VỪA ĐƯỢC LÒNG DÂN MÀ KHÔNG XỨt MẼ 16 VÀNG & 4 TỐT...?



Trung quốc dùng Mỹ để dọa Việt Nam
Mấy tháng qua báo chí Trung quốc đã làm trò đóng tuồng diễn kịch với mọi hình thức lúc thì ca ngơị tình hữu nghị Việt Trung hết lời, lúc lại đưa ra những đe dọa, cảnh cáo Việt nam không được quan hệ theo đuôi Mỹ và họ không từ thủ đoạn gương đông kích tây chia rẽ lấy Mỹ mà hù dọa Việt nam hay lấy quan hệ Nga Trung đang tiến triển hiện nay để kích động sự nghi ngờ Nga v.v…

Bài báo sau đây đã chứng minh luận điểm này khiến bạn đọc Việt nam và thế giới cần phải lưu ý. Tôi xin trân trọng đăng tải lại bài báo quan trọng này để bạn đọc phán xét,

Theo báo Đa Chiều ngày 19/6 bình luận, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh thăm Trung Quốc từ 17 đến 19/6 cùng ông Dương Khiết Trì đồng chủ trì hội nghị Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt-Trung lần thứ 8. Về nguyên tắc, hội nghị này tổ chức luân lưu mỗi năm một lần ở 2 nước, từ năm 2006 đến nay đã được 8 kỳ và chỉ 2 năm không tổ chức là 2007, 2012.

Đáng chú ý là thời gian diễn ra hội nghị Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt – Trung không cố định. Kỳ họp lần thứ 8 năm nay diễn ra ngay sau khi Phạm Trường Long, Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương Trung Quốc vừa kết thúc chuyến thăm Hoa Kỳ. Biển Đông chắc chắn là nội dung đàm phán chủ yếu của 2 nước Trung Mỹ, nhưng kết quả ra sao nay vẫn kín như bưng. Bắc Kinh chọn thời điểm này để hội đàm với Việt Nam khiến người ta phải suy nghĩ, (Đa Chiều nhấn mạnh.)

Trước đó hoạt động bồi lấp, xây dựng đảo nhân tạo (bất hợp pháp) của Trung Quốc ở Biển Đông làm cho khu vực ngày càng căng thẳng.

Tổng thống Philippines hôm 3/6 còn so sánh hành động này của Bắc Kinh ở Biển Đông không khác gì phát xít Đức Hitler, nhưng Việt Nam lại khá “bình tĩnh”. Người Việt bày tỏ thái độ thông qua việc phát triển sức mạnh quân sự.

Ngoài các vũ khí hiện đại Nga cung cấp cho Việt Nam để nâng cao khả năng phòng thủ ở Biển Đông như chiến đấu cơ Su-30MK2, tàu ngầm Kilo 636MV, tàu hộ vệ mang tên lửa thì Việt Nam còn không ngừng thúc đẩy quan hệ hợp tác quốc phòng với Hoa Kỳ. Theo Đa Chiều, Trung Quốc lo rằng vì chuyện Biển Đông, Việt Nam rất có thể “hoàn toàn ngả theo Mỹ”. Trong khi đó Hoa Kỳ cũng đang ủng hộ nhất định đối với Việt Nam ở Biển Đông, về lâu dài Mỹ mong muốn Việt Nam trở thành đối tác quan trọng trong chiến lược tái cân bằng châu Á, (Đa Chiều bình luận).

Hợp tác giữa 2 quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ vốn dĩ hết sức bình thường, nhưng trong thời điểm Biển Đông căng thẳng (vì chính hành vi leo thang, bất chấp luật pháp của Bắc Kinh) hai nước Việt – Mỹ xích lại gần nhau khiến Trung Nam Hải lo lắng. “Ổn định quan hệ Việt – Trung” là mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh, cũng là nhiệm vụ bức thiết của Trung Nam Hải. Tuy nhiên, tư duy thông thường của Trung Quốc không thể “phá giải được chính sách cứng rắn của Việt Nam”, (Đa Chiều bình luận.)

Một Việt Nam như thế nào thì phù hợp với lợi ích của Trung Quốc? Báo Đa Chiều đặt câu hỏi và trả lời, đương nhiên chí ít là Việt Nam trung lập trong quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Trung Quốc cũng mong làm sao để Việt Nam “không lên tiếng” trước các hành động (phạm pháp) của họ ở Biển Đông để cô lập Philippines. Do đó Bắc Kinh thường truyền đạt thông điệp, chủ trương của họ về Biển Đông thông qua các kỳ họp của Ủy ban Chỉ đạo quan hệ hợp tác Việt Nam – Trung Quốc.

Hội nghị lần thứ 8 tổ chức ngay sau khi Phạm Trường Long đi Mỹ đặt ra dấu hỏi lớn. Chắc chắn Biển Đông là nội dung chủ yếu trên bàn đàm phán Trung – Mỹ, nhưng cho đến nay Trung Quốc vẫn “giấu nhẹm” kết quả đã bàn những gì, thậm chí khiến dư luận phải đặt câu hỏi Bắc Kinh đã đổi chác những gì với người Mỹ trong chuyện Biển Đông?

Báo Đa Chiều đặt vấn đề, nếu như không có sự ủng hộ của Mỹ, Việt Nam sẽ bảo vệ yêu sách chủ quyền ở Biển Đông như thế nào? Tờ báo này cho rằng, do đó trong bối cảnh nghi vấn bao trùm này nếu Bắc Kinh tổ chức hội đàm với Việt Nam đễ “nắm chắc phần thắng”?

Theo tờ báo của người Hoa hải ngoại này, thủ đoạn ngoại giao tương tự đã được Bắc Kinh sử dụng rất thành công không chỉ 1 lần trong lịch sử. Năm 1958, Mao Trạch Đông đã hạ lệnh pháo kích Kim Môn, Mã Tổ do chính quyền Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan kiểm soát chỉ 3 tuần sau khi Tổng bí thư Liên Xô Khrushchev thăm Bắc Kinh.

Động thái này khiến dư luận quốc tế, đặc biệt là “bên thứ 3″ tức Hoa Kỳ phải nghĩ rằng hành động phiêu lưu trên của Mao đã được Moscow đồng tình ủng hộ nên “không dám manh động”. Trong khi thực tế Khrushchev chẳng biết gì về kế hoạch này của Mao. Đặng Tiểu Bình cũng lặp lại thủ đoạn này trong cuộc chiến tranh xâm lược 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979. Trước khi xua quân xâm lược Việt Nam, Đặng thăm Mỹ và thông báo cho Washington về cái gọi là “dạy cho Việt Nam một bài học”, nhưng người Mỹ đã không thể hiện sự ủng hộ một cách rõ ràng.

Tác dụng của Hoa Kỳ trong quyết định này chỉ là chia sẻ tình báo và hợp tác ngoại giao nhưng lại làm cho Liên Xô phải do dự, không biết Đặng có thỏa thuận gì với Mỹ làm tổn hại lợi ích của Liên Xô hay không. Cả 2 lần Mao và Đặng đều không yêu cầu đối tác giúp mình tiến hành hoạt động quân sự (xâm lược), nhưng đã rất thành công trong việc “lèo lái” dư luận hiểu rằng Bắc Kinh được 1 siêu cường hậu thuẫn, dọa “siêu cường kia” không dám can thiệp, dù là đồng minh của mình đang bị Bắc Kinh đe dọa, bắt nạt. Do đó theo Đa Chiều, việc bố trí kỳ họp thứ 8 Ủy ban Chỉ đạo hợp tác Việt-Trung ngay sau khi Phạm Trường Long đi Mỹ trên thực tế là vì Bắc Kinh muốn dùng Mỹ để hù dọa Việt Nam.

Việt nam phải làm gì để ngăn ngừa thảm họa Trung quốc từng bước nuốt đảo biển của Việt nam.

Như báo chí Phương Tây và báo chí trong nước Việt nam đã nhiều lần khẳng định rõ Trung quốc không để Mỹ trong mắt mình mà lợi dụng triệt để sự căng thẳng trong quan hệ Mỹ Nga qua cuộc chiến Ucraina để có thời gian xây dựng bồi đắp các đảo biển đã chiếm được của Việt nam để biến chúng thành căn cứ quân sự, các công sự kiên cố, những pháo đâì để thôn tính từng bước các đảo biển của Việt nam và thống trị biển Đông, biến đường lưỡi bò không phải là ý tưởng mà biến nó trở thành hiện thực, đặt quốc tế và Việt nam vào một sự đã rồi.

Có thể nói Trung quốc tranh thủ ngày đêm 24/24 giờ hút cát bồi đảo và tập trung các tầu lớn chuyển sắt thép, xi măng khi hút cát đến đâu đổ bê-tong kè đắp kiên cố đến đó.

Chỉ tính trong 1 năm qua diện tích các đảo đã mở rộng 200 lần, có nhiều nơi có cả sân bay và hầm kiến cố bố trí luôn pháo chống tầu hạng nặng tầm xa, các hỏa lực hiện đại diệt tầu, thậm chí có tin họ đã bố trí cả hỏa tiễn tầm ngắn và tầm trung để ngăn tầu chiến Mỹ và Việt nam nếu một khi cần đến.

Các ảnh chụp từ vệ tinh không phát hiện được bởi họ đặt chìm trong các tòa nhà bê tông và khi cần phát hỏa thì mái nhà tự động mở ra là họ có thể tấn công đối thủ ngay lập tức nhưng bình thường thì che mắt báo chí và các phương tiện ghi chụp của máy bay Mỹ hay các phương tiện trên không cũng như vệ tinh.

Mặt nữa, ngoài việc tăng cường đầu tư đóng tầu chiến lớn hiện đại, họ cho gọi lại các sỹ quan và lính hải quân đã về hưu có kinh nghiệm để trang bị xử dụng các tầu chiến này vì sự phát triển quá nhanh của các tầu thuyền mà không kịp đào tạo, để thu hút được lực lượng này họ trả lương bổng cho họ cao gấp 2 đến 3 lần lương chính nên dễ dàng lực lượng này tham gia vào chiến lược chiếm đảo biển của mình.

Bên cạnh đó, họ thực thi kế hoạch Mao Trạch Đông là chiến tranh toàn dân, họ bắt buộc các xưởng đóng tầu đánh cá tư nhân phải đống tầu có cả ụ pháo, biến tầu đánh cá thành tầu chiến đầu khi cần thiết. Tính từ năm 2012 đến nay, cả Trung quốc đã có 300.000 tầu có vũ trang kiểu này và khi cần chúng tập hợp lại thành các Hải đoàn dưới sự chỉ huy của các hạm đội và tầu chiến đấu mạnh của quân đội Trung quốc. Đây là sự nguy hiểm lớn nhất hiện nay.

Để tránh lộ ý đồ này, các tầu thuyền này tìm diệt, phá tầu đánh các của ngư dân Việt nam, tạo ra mối lo sợ cho các tầu thuyền đánh cá của ngư phủ Việt nam. Chỉ tính trong từ đầu năm nay đã có hơn 10 tầu thuyền của ngư phủ Việt nam bị họ đánh chìm tàu, bắt thu tầu, thu cá và phương tiện đánh bắt, còn ngư phủ bị đánh đập và đe dọa nguy hại đến tính mạng, bắt ép ngư dân Việt phải ký nhận chủ quyền Hoàng Sa & Trường Sa là của Trung quốc.

Phản ứng về hành động này thì nhiều lần chỉ có hội đánh cá Việt nam đã lên án mà thôi, còn trên thực tế thì Bộ ngoại giao Việt nam phản đối rất ít ỏi và yếu ớt nên càng làm cho phía Trung quốc lộng hành mạnh hơn. Bởi vậy, trên diễn đàn Quốc hội Việt nam, nhiều đại biểu quốc hội Việt nam đã cóp phản ứng tích cực mạnh liệt chất vấn bộ ngoại giao và chính phủ Việt nam về vấn đề này.

Vấn đề hiện nay là Việt nam phải thành lập các hải đoàn ngư dân và cần có sự trang bị về vũ khí để bảo vệ chính mình, có tầu quân sự đi theo bảo vệ không để cho Trung quốc lộng hành muốn làm gì thì làm, đe dọa trầm trọng đến tính mạng của ngư dân và chủ quyền của Việt nam.

Trung quốc sợ điều gì?

Thực tế tình hình hiện nay Trung quốc không hề sợ Mỹ vì sức mạnh quân sự.

Tại sao vậy? Vì họ biết Mỹ và phương Tây đang sa lầy vào ván đề Ucraina và Trung động. Lại nữa, vì tuy họ chưa sản xuất được tầu chiến và phương tiện chiến tranh hiện đại như Hoa kỳ nhưng vì có quá nhiều tiền, họ lợi dụng mâu thuận Nga Mỹ nên ve vãn tung tiền mua các máy bay, hỏa tiễn hiện đại nhất của Nga như máy bay Su 30 , Su 35 và thậm chí đang đặt mua cả Su 40 với giá cao của Nga. Họ cũng đặt mua các dàn hỏa tiễn tầm xa , tầm trung và tầm ngắn chống hạm của Nga để đối phó với Mỹ không khoan nhượng. Họ ngạo mạn nói rõ không ngán đối đầu với Mỹ một khi Hoa kỳ đưa máy bay tầu chiến vào gần các đảo mà họ đã chiếm của Việt nam và đã xây dựng thành pháo đài bất khả xâm phạm.

Điều mà Trung quốc sợ lại chính là một khi Hoa kỳ và thế giới ra lệnh cấm vận kinh tế của họ. Vì họ biết rằng, kính tế Trung quốc dựa phần lớn vào xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài. Ngày nay họ đã trở thành công xưởng của thế giới này, nên một khi bị cấm vận là kinh tế Trung quốc sụp đổ và tan vỡ ngay.

Chỉ tính riêng trong quan hệ buôn bán với Việt nam, Việt nam đã nhập siêu đến 24 tỷ đô-la so với hàng xuất khẩu của Việt nam vào Trung quốc rồi.

Trung quốc cũng rất sợ Việt nam tẩy chay hàng hóa của mình để dùng hàng trong nước và hàng hóa từ Ấn độ và các quốc gia khác để thay thế. Có thể nói các tỉnh tiếp giáp với Việt nam của Trung quốc đang phát triển mạnh mẽ nhờ vào việc xuất khẩu ồ ạt vào Việt nam thông qua kênh chính thức và cả kênh lậu mà kênh lậu lại nhiều hơn kênh chính thức gấp nhiều lần.

Kể cả chân gà, lòng thối, hoa quả có tẩm hóa chất bảo quản, hàng may mặc kém phẩm chất, có độc hại v.v…tạp phế lù đều có thể bán vào Việt nam. Đổi lại việt nam lại là thị trường cung cấp gạo, thực phẩm và hoa quả ngon cho nước này thậm chí nhiều doanh nghiệp Trung quốc đã đến Việt nam mua tận gốc hàng hóa của các nhà sản xuất Việt nam. Họ còn phù phép dán mác Trung quốc để bán vào các nước.

Tình hình hiện nay là Việt nam như đang vẫn ngủ mê mệt... Chỉ mới thấy người dân và trí thức Việt nam tỉnh táo nhìn nhận thấy nguy cơ này mà thôi...............................

Hơn bao giờ hết biển Đông đang dậy sóng lớn và là thử thách lớn với đất nước này cũng như với cả khu vực Asian này. Hoa kỳ cũng đang thấy nguy cơ bị đánh mất ảnh hưởng và vai trò cường quốc của mình trước một cường quốc đanh vươn lên đánh mất vai trò thứ nhất của mình.

Muốn chống lại một cường quốc bành trướng và ngạo mạn như thế, Việt nam và Mỹ cần phải tìm đến nhau, xóa bỏ đi mọi ngờ vực để trở thành bạn bè đối phó với tên phù thủy nguy hiểm này. Thời gian không chờ đợi ai, đừng để Trung quốc đặt ra việc đã rồi để Hoa kỳ và cả Việt nam và quốc tế đứng nhìn rồi chép miệng mà hối tiếc.

Ngày 23 tháng 6 năm 2015
Nguyễn Công Bằng.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mỹ ‘sẵn sàng phản ứng nhanh’ ở Biển Đông



 anle
Tân Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ hôm 17/7 tuyên bố quân đội nước này được trang bị tốt và sẵn sàng phản ứng trước bất cứ tình huống bất ngờ nào trên Biển Đông.
Đô đốc Scoot Swift, người mới nhậm chức Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương hồi tháng Năm, có phát biểu trên trong cuộc gặp với một nhóm các nhà báo tại thủ đô Manila, Philippines, hãng thông tấn AP đưa tin.
Ông cho biết Hải quân Hoa Kỳ có thể triển khai nhiều hơn bốn tàu chiến ven bờ mà nước này đã cam kết đưa đến khu vực.
Ông cũng tỏ ý muốn mở rộng các cuộc tập trận thường niên giữa Hoa Kỳ và các nước đồng minh trong khu vực thành một cuộc tập trận đa quốc gia.
Cuộc tập trận này có thể có sự tham gia của Nhật Bản, ông nói thêm.
Khi được hỏi liệu Hoa Kỳ sẵn sàng dành bao nhiêu nguồn lực cho Biển Đông, Đô đốc Swift nói ông hiểu sự lo ngại từ phía các đồng minh.
"Nguyên nhân khiến các nước tiếp tục đặt câu hỏi về cam kết lâu dài cũng như dự định của Hạm đội Thánh Bình Dương cho thấy tâm lý bất an trong khu vực", ông nói.
"Ngay cả khi chúng tôi triển khai toàn bộ Hải quân Hoa Kỳ đến khu vực, tôi nghĩ người ta vẫn sẽ hỏi "các ông có thể tăng cường thêm hay không?"
Tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc, Philippines, Việt Nam, Đài Loan, Malaysia và Brunei đã kéo dài nhiều năm qua, gây ra quan ngại về xung đột vũ trang trên Biển Đông.
Căng thẳng đã lên cao từ hồi năm ngoái, sau khi Trung Quốc bắt đầu xây đảo nhân tạo trên bảy bãi cạn mà nước này đang kiểm soát ở quần đảo Trường Sa.
Đáp lại những lo ngại này, Đô đốc Swift nói ông "rất hài lòng với những nguồn lực mà tôi đang nắm trong tay với tư cách là Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương".
"Chúng tôi sẵn sàng đáp trả bất cứ tình huống bất ngờ nào".
Các lực lượng của Mỹ và Philippines trong một cuộc tập trận chung gần khu vực Bãi cạn Scarborough.
Ông nói Hoa Kỳ không nghiêng về bên nào trong vấn đề tranh chấp chủ quyền, nhưng vẫn sẽ tiến hành các hoạt động nhằm đảm bảo tự do hàng hải trong vùng tranh chấp cũng như những nơi khác.
"Lập trường của Hoa Kỳ rất rõ ràng. Chúng tôi không ủng hộ việc sử dụng vũ lực hay chiến thuật ép buộc".
Không thay đổi hoạt động
Hải quân Hoa Kỳ đã đưa chiến hạm USS Fort Worth đến đóng tại Singapore.
Đây là một trong bốn tàu chiến hiện đại mà giới chức Hoa Kỳ đã cam kết triển khai để giám sát tình hình ở Biển Đông cũng như các khu vực khác.
Đô đốc Swift nói Hoa Kỳ có thể triển khai thêm nhiều tàu chiến ven bờ đến khu vực trong tương lai, vì hải quân nước này đang có kế hoạch mua thêm 52 chiếc nữa để sử dụng trên toàn cầu.
Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, có trụ sở đặt tại Trân Châu Cảng, Hawaii, được xem là hạm đội lớn nhất thế giới.
Hạm đội này bao gồm 200 chiến hạm và tàu ngầm, gần 1.100 phi cơ và hơn 140.000 thủy thủ cũng như nhân viên dân sự.
Tuy nhiên hạm đội này cũng hoạt động trong một khu vực rộng lớn, chiếm gần nửa bề mặt Trái đất, nơi sinh sống của hơn một nửa dân số thế giới.
"Tôi không thể ở tất cả mọi nơi cùng một lúc," ông Swift được hãng AP dẫn lời, nói.
Ông đã khen ngợi nỗ lực của Philippines trong việc tiến hành các cuộc tập trận nhằm nâng cao khả năng chiến đấu với các đồng mình của Hoa Kỳ như Nhật Bản.
Trung Quốc đã lên án các cuộc tập trận này, dù quân đội Nhật Bản nói các hoạt động này không diễn ra trong khu vực tranh chấp trên Biển Đông.
Đô đốc Swift khẳng định các đảo nhân tạo của Trung Quốc vẫn nằm trong khu vực tranh chấp và sẽ không làm cản trợ các hoạt động của quân đội Hoa Kỳ trong khu vực này.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Simon Leys, người cả gan đánh tan huyền thoại Mao Trạch Đông


mediaNhà văn, nhà nghiên cứu Simon Leys, tác giả cuốn sách nổi tiếng "Những bộ quần áo mới của Mao chủ tịch".DR
Tuần san Le Point kỳ này đăng bài phê bình sách của giải Nobel văn chương Pháp Mario Vargas Llosa. Ông đã đọc cuốn sách mới xuất bản của Pierre Boncenne, viết về Simon Leys, tác giả cuốn « Những bộ quần áo mới của Mao chủ tịch » - người đã nói lên sự thật và dũng cảm đối đầu với giới trí thức khuynh tả Pháp trong thập niên 60 đang say sưa với những huyền thoại xung quanh Mao Trạch Đông.
Nhà văn đoạt giải Nobel văn chương năm 2010 nhận xét, trong thập niên 60 đã diễn ra một hiện tượng là một bộ phận quan trọng trong giới trí thức Pháp ủng hộ và lý tưởng hóa Mao Trạch Đông cũng như cuộc Cách mạng văn hóa của ông ta.
Trong khi đó ngay tại Hoa lục, hồng vệ binh đang sỉ nhục các giáo sư, nhà nghiên cứu, khoa học gia, nghệ sĩ, nhà báo…trong đó nhiều người sau khi phải tự kiểm thảo do bị tra tấn, đã tự sát hay bị sát hại. Cơn điên tập thể này, được Mao cổ vũ trên toàn quốc, đã dẫn đến việc hủy hoại các tác phẩm nghệ thuật và công trình lịch sử, đàn áp thẳng tay những người bị quy là phản động. Xã hội Trung Quốc chìm trong làn sóng bạo lực, khiến hàng triệu người vô tội phải chết.
Trong tác phẩm « Chiếc dù của Simon Leys » do nhà xuất bản Philippe Rey ấn hành vừa ra mắt, Pierre Boncenne cho thấy trong khi đất nước khổng lồ châu Á phải chịu đựng thảm họa, tại Pháp những nhà trí thức nổi tiếng như Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Michel Foucault…lại coi Cách mạng văn hóa như một phong trào thanh lọc, có thể chấm dứt chủ nghĩa Stalin, tránh cho chủ nghĩa cộng sản khỏi nạn quan liêu, giáo điều, để thiết lập một xã hội cộng sản tự do không còn giai cấp.
Nhà Trung Quốc học người Bỉ Pierre Ryckmans, với bút danh Simon Leys, cho đến lúc đó không chú tâm đến chính trị lắm. Ông chuyên nghiên cứu về thi ca, hội họa Trung Quốc cổ điển và truyền thống Khổng giáo. Nhưng bức xúc trước tình trạng giới trí thức Pháp tán dương tai họa do Người cầm lái vĩ đại gây ra, Simon Leys đã quyết định đánh tan sự lầm lẫn này, qua việc cho ra đời một loạt sách tiểu luận. Có thể kể : « Những bộ quần áo mới của Mao chủ tịch », « Bóng đen Trung Hoa », « Những hình ảnh tan vỡ », « Rừng cháy »…Ông tiết lộ sự thật về những gì đang diễn ra tại Hoa lục, và đánh tan huyền thoại với lòng can đảm lớn lao và kiến thức thực tế về đề tài.
Cuốn sách của Pierre Boncenne kể ra những cuộc tấn công đáng xấu hổ vào Simon Leys, người dám đi ngược lại xu hướng chung. Những nhà văn khuynh tả cũng như khuynh hữu, các tờ báo uy tín như Le Nouvel Observateur, Le Monde lao vào thóa mạ, thậm chí tố cáo ông là nhân viên tình báo Mỹ. Không ít người coi Mao Trạch Đông là « thiên tài không thể tranh cãi của thế kỷ 20 », « một vị thần Prométhée mới ». Trong những năm ấy, rất ít trí thức như Jean-François Revel giữ được cái đầu lạnh, đứng lên bảo vệ Simon Leys.
Một mình chống lại tất cả, con người chính trực ấy can đảm đối đầu cả một tập thể, và cuối cùng đã chiến thắng trong cuộc chiến không cân sức.
Thế giới phương Tây cuối cùng đã nhận ra rằng Cách mạng văn hóa chỉ là một cơn lên đồng tập thể, bị Mao lợi dụng để trừ khử các kẻ thù chính trị, củng cố quyền uy tối thượng. Những gì còn lại sau đó ? Hàng triệu người chết - những con người vô tội phải bỏ mạng trước một lớp trẻ say máu, nhìn thấy kẻ thù của giai cấp vô sản khắp nơi. Và một Trung Quốc ngày nay là một nước tư bản độc tài, tôn sùng tiền bạc.
Theo tác giả bài điểm sách, « Chiếc dù của Simon Leys » giúp cho người đọc hiểu được vì sao cuộc sống tinh thần đang trở nên nghèo nàn, giới trí thức không còn nhiều ảnh hưởng lên xã hội vì ảo tưởng, thiếu thực tế - như sự mê muội trước Cách mạng văn hóa. Điều này có nghĩa là các giá trị cần thiết đã bị giảm giá, như việc định ra ranh giới rõ ràng giữa sự thật và dối trá. Một nền văn hóa mà các ý tưởng không được coi trọng có thể khiến xã hội vắng bóng phản biện, và các nền dân chủ có nguy cơ sụp đổ.
Giải Nobel Mario Vargas Llosa cho rằng, cần phải cám ơn tác giả Pierre Bonnenne đã viết ra cuốn sách nhằm trả lại công bằng cho Simon Leys, hình mẫu của người trí thức lương thiện, chưa bao giờ từ bỏ cuộc đấu tranh cho sự thật.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

LẶNG LẼ NHA TRANG



Ngô MInh

lặng lẽ cây buồm lặng lẽ khơi
trút áo thiên thu lặng lẽ ngồi
cát phơi lặng lẽ mùa da thịt
em chín bao giờ lặng lẽ...rơi
Ảnh nude Thái Phiên



Phần nhận xét hiển thị trên trang