Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 14 tháng 7, 2015

Cái vạ chết lòng


Vương Trí Nhàn
Một tài xế taxi ở Sài Gòn có lần nói thẳng với tôi:
- Bây giờ thì chẳng ai nhường đường cho ai nữa, ai cũng cố chen lên bằng được, thành thử đường càng thêm kẹt. Mà con người sao đối xử với nhau quá tệ. Con người bây giờ ác quá!
Nhận xét ngẫu nhiên của người tài xế đã chạm tới mối quan hệ giữa người với người trong đời sống hàng ngày, mà giao thông chỉ là một khía cạnh.
Lẽ ra chúng ta phải nhìn những người đang ngồi trên chiếc xe bên cạnh xe mình với cặp mắt thiện cảm.
Cùng dân thành phố với nhau, cùng lo làm ăn công chuyện, lẽ ra phải giúp đỡ và chia sẻ với nhau.
Đằng này hình như mỗi người cùng đi với ta trên đường là đối tượng cạnh tranh với ta, là kẻ ngăn cản ta trong cuộc mưu sinh quyết liệt, kẻ làm hỏng mất dự định tốt đẹp mà ta đang theo đuổi. Giữa những người cùng đi đường tự lúc nào đã nảy sinh cái quan hệ giữa các đối thủ.

Có ai muốn đâu nhưng sao lại có cuộc biến hình khốn khổ vậy!
Chú ý tới một khá cạnh tâm lý nữa: sau khi phải vượt qua một chặng đường chen chúc khó chịu, nhiều người cảm thấy mệt nhoài. Sinh ra nản lòng. Sinh ra ngán ngẩm. Cảm thấy mình không được tôn trọng. Tự thấy mình như bị đọa đày, lại thấy mình có quyền hư hỏng cho đỡ bực…
Có thể tôi đã phóng đại một chút nhưng đó chính là một phần những chấn thương tâm lý mà tình trạng giao thông căng thẳng đã mang lại cho xã hội.
Tôi lại nhớ tới những chấn thương khác.
Năm 18 tuổi, từ Hà Nội tôi vào thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, học trường Đại học Sư phạm. Đi cắt hộ khẩu, một việc bình thường mà tôi phải chầu chực, rồi bị vặn vẹo tới mức phải ra ngoài khóc mới đủ sức vào làm tiếp. Gần nửa thế kỷ đã qua, đến nay trong lòng tôi câu chuyện vẫn còn in hằn như vết sẹo.
Con của anh bạn dạy tiếng Anh ở một trường trung học cơ sở mới đây đã xin nghỉ việc để đi làm cho một công ty nước ngoài. Anh bạn cho rằng chỉ vì thu nhập?! Không hẳn. Ở Hà Nội hiện nay chỉ cần biết chút tiếng Anh cũng sống được.
“Khổ nhất với cháu bây giờ là không yêu được học sinh. Chẳng những dốt, lười mà còn… láo với mình nữa chứ. Bài làm mình vừa trả, nó nhìn qua rồi liệng ngay xuống đất. Chỉ vào lớp năm phút nhiều khi cháu đã muốn bỏ lớp để đi. Thế thì làm sao tiếp tục công việc mà người ta bảo là thiêng liêng này được nữa”. Tôi không còn biết khuyên bảo gì nữa khi nghe cháu nói vậy.
Trong các gia đình, các bậc cha mẹ đang phải chứng kiến một lớp trẻ chán chường.
Trẻ không thiết học.
Trẻ không tìm thấy niềm vui sống.
Trẻ nhìn người lớn bằng con mắt nghi ngại, căm ghét.
Thế có nên đổ hết lỗi cho lớp trẻ? Không đúng!
Mặc dầu chúng ta đã tìm hết cách để hạn chế việc đưa tin gọi là tiêu cực trên mặt báo, song ai cũng hiểu là làm sao ngăn chặn hết được cuộc đời ùa vào tai con em chúng ta.
Chỉ cần ra phố, chỉ cần ngồi với một đám bạn bè, chỉ cần nhìn cảnh một phiên tòa trên truyền hình hay lắng nghe câu chuyện qua lại giữa bố mẹ bên mâm cơm… bọn trẻ đã hiểu hết tất cả.
“Cá nhân cảm thấy không thể ảnh hưởng tới hoàn cảnh xã hội đang sống, không tìm được chuẩn mực đúng đắn cho mọi hành vi của bản thân và tự nhiên cuộc đời mất đi khá nhiều ý nghĩa đáng lẽ phải có. Khi nhận ra mọi giá trị đảo lộn, họ cảm thấy chỉ có thể đạt tới mục đích của mình bằng những con đường bất hợp pháp.
Trong khi trở nên càn rỡ hư hỏng, họ vẫn cảm thấy cô đơn và không ai hiểu hết cho mình…”.
Đó là nội dung của khái niệm tha hóa được các nhà xã hội học hiện đại miêu tả, và được ghi lại trong cuốn “Từ điển xã hội học” do nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Viện chủ biên.
Không còn phân biệt đúng sai, mất lòng tin ở chung quanh và chính mình, không còn cảm thấy cái gì là thiêng liêng, nghe mấy chữ “tình người“ giống như một lời đùa cợt, thấy ai giàu… lập tức nghĩ ngay rằng người ấy không làm ăn bất hợp pháp thì cũng tham nhũng, ăn cắp…
Bằng kinh nghiệm của mình và những người xung quanh, tôi cảm thấy lúc nào cũng có thể bổ sung những chi tiết tương tự để vẽ nên tâm lý con người hiện đại.
Người xưa có câu “cái vạ chết lòng” là chỉ cái ý này.
Trong các sách sinh học, người ta nói rằng trước khi chết thực sự, thật ra “cái chết bộ phận” diễn ra thường xuyên trong mỗi sinh vật.
Cái sự “chết lòng” nói ở đây cũng dùng theo nghĩa đó. Tôi không nói tất cả, nhưng quả thật tình trạng “một cái chết dần mòn của những gì tốt đẹp” không xa lạ với nhiều người.
Với lớp lớn tuổi thì còn đỡ.
Ta tìm cách chống lại.
Rồi ta có vẻ khỏi bệnh.
Rồi ta lại mắc tiếp.
Đến như lớp trẻ thì bệnh trạng phát triển rất nhanh và nhiều trẻ đang nhoài ra khỏi tầm tay chúng ta để sống với niềm tin của những kẻ sống để trả thù đời, bất cần, phá phách. Khi người ta trẻ thì các chấn thương càng nặng.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vượt biên đánh bài: Đi dễ, khó về


Bài và ảnh: LÊ PHONG

NLĐO - Vượt biên sang các casino ở Campuchia kiếm vận may hoặc chơi một lần cho biết, rất nhiều người phút chốc tán gia bại sản, bị giam cầm, thậm chí bỏ mạng nếu người thân không có tiền chuộc

5 giờ sáng, chúng tôi đón ô tô chạy tuyến TP HCM - cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh). Xe vừa dừng, cánh xe ôm chạy đến chèo kéo. “Em lên xe, anh chở qua bên kia đánh bài, được ăn uống, ngủ nghỉ miễn phí. Chỉ mang tiền, không cần giấy tờ tùy thân” - Hùng, một tay “cò”, lên tiếng chào mời. Khi được hỏi về giá cả, Hùng gãi đầu cười: “Anh lấy 300.000 đồng, rẻ hơn mấy chỗ khác, bao luôn đi - về. Em yên tâm, ở đây tụi anh làm ăn lâu dài mà”.

Vượt biên

Không chạy thẳng vào đường chính về cửa khẩu Mộc Bài, Hùng quay xe đi tuyến đường song song biên giới, hướng về huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Hơn 20 phút sau, khi vào một con đường mòn, Hùng dặn: “Vào đến gác chắn, em đừng nói gì. Mọi việc để anh lo”.

Biên giới hiện ra trước mặt với một thanh gác chắn do một người đàn ông ngồi giữ. Thấy chúng tôi, ông ta đẩy thanh chắn lên cho qua. Đi thêm một đoạn thì đến địa phận nước bạn, 2 người mặc quân phục biên phòng Campuchia tiến đến hỏi, Hùng rút 30.000 đồng đưa rồi dắt xe đi qua huyện Bavet, tỉnh Svay Rieng (Campuchia). Ngoảnh lại phía sau, chúng tôi thấy 5 chiếc xe máy chở theo nhiều người ăn mặc sang trọng cũng đang đi cùng.

Hùng dò hỏi: “Thấy em lóng ngóng, đi đánh bài hay mang tiền chuộc mạng người thân?”. Chúng tôi nói đi nộp tiền dẫn bạn về nước. Nghe vậy, Hùng chậc lưỡi: “Anh biết ngay mà. Qua bên kia, nếu có đánh bài thì chọn những điểm lớn, an toàn tính mạng hơn chứ mấy sòng bài, trường gà lậu là tụi nó bắt lại. Nếu người nhà không gửi tiền, xem như đi tong ngón chân, vành tai”.

Đến trước cửa sòng bài Le Macao (cách cửa khẩu Bavet - Mộc Bài hơn 1 km), Hùng lấy tiền công rồi để lại số điện thoại. Đứng nép bên đường quan sát, chúng tôi thấy nơi đây có trên chục sòng bài đang hoạt động, cạnh đó nhan nhản tiệm cầm đồ, cá độ đá banh. Xe máy chở khách ra vào liên tục.

Theo chân một nhóm phụ nữ, chúng tôi vào Bavet Casino. Một nhân viên bảo vệ gập đầu chào, kéo cánh cửa gỗ cao trên 3 m hé lối đi. Sau khi làm thủ tục, chúng tôi được hướng dẫn gửi hành lý và bước qua 2 cửa kiểm tra. Vào bên trong, một không gian thoáng rộng, sang trọng được bao phủ bởi ánh sáng vàng dịu, tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài. Cạnh các bàn đang quy tụ hàng trăm người chơi bài là khu ăn uống, khách sạn 4 sao hoàn toàn miễn phí.

Quan sát một nhóm 8 người đang sát phạt bài xì- tố, chỉ một lát chúng tôi thấy có 2 người thua sạch số tiền đem theo. Ngay lập tức, một người rút điện thoại gọi người thân yêu cầu chuyển tiền. Người còn lại tiến ra ngoài cửa vay nóng 5.000 USD tiếp tục sát phạt.

Rời sòng bạc Bavet Casino, chúng tôi tìm đến một điểm khác thu hút nhiều người Việt. Sòng này kinh doanh đánh bài lẫn tổ chức trường gà cá độ. Gần trăm người đang reo hò, chen lấn nhau để giành vị trí tốt xem trận gà thứ 18. Kết thúc trận, có người tức tối thốt lên: “Bữa nay đen quá, thua gần 100 chai (triệu)”. Một thanh niên đứng gần đó, bị hai người đàn ông Campuchia kẹp tay lôi về hướng khách sạn đối diện, mặc cho người này vùng vẫy, hứa tiếp tục chơi để trả số tiền đã vay.

Bỏ mạng, tán gia bại sản

Sau nhiều lần móc nối, chúng tôi làm quen được với ông Hòa, một tay chuyên chở người qua Campuchia để nộp tiền chuộc. Ngày 2-7, ông Hòa chở 2 gia đình có con bị giam cầm ở sòng bài Campuchia nên gọi chúng tôi đi cùng.

Bà P.T.A (45 tuổi, tạm trú quận 7, TP HCM) cho biết đây là lần thứ ba bà qua Campuchia để đưa con về. Cách đây 2 năm, bà có căn nhà và khu xưởng ở đường Hậu Giang (quận 6). Đứa con trai (26 tuổi) mê cờ bạc, tài sản có giá trị 30 tỉ đồng chẳng mấy chốc đi tong. Hiện mẹ con bà A. tá túc ở nhà trọ nhưng con trai bà vẫn không bỏ thói đam mê cờ bạc.

Đưa chúng tôi xem tin nhắn trên điện thoại có nội dung: “3 ngày phải có mặt đưa tiền. 1 tuần không thấy sẽ bị đánh. 15 ngày không hồi âm sẽ mất thận con bà hoặc tìm thấy xác nó”, bà A. thở dài. Hai lần trước đi chuộc con, bà cũng nhận tin nhắn tương tự, lần nào tim bà cũng đập mạnh, đầu óc choáng váng.

Lần này, bà A. mang 10.000 USD chuộc con. Để có được ngần ấy tiền, bà phải năn nỉ, xin vay họ hàng bên nội, bên ngoại, mỗi người một ít. Đã 5 ngày kể từ khi hay tin con bị bắt ở sòng bài Lien Casino, đêm nào bà cũng bị ám ảnh cảnh con nằm co ro trong phòng giam, chờ bà đến đưa về.

“Hôm qua, chỉ mượn được 7.000 USD, tôi gọi hỏi nhân viên sòng bài, họ lạnh lùng nói: “Không trễ, không thiếu”. Nửa đêm, tôi phải đón xe xuống TP Bà Rịa (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) vay thêm một người bạn làm ăn chung ngày xưa để đủ tiền. Con hư cũng do tôi. Từ nhỏ, nó không có cha; còn tôi suốt ngày lo làm ăn, ít có thời gian quan tâm đến con. Nó gây ra nông nổi này, tôi rất giận nhưng cha mẹ nào bỏ con cho được” - bà A. rầu rĩ nói.

Sau khi làm giấy tờ nhập cảnh Campuchia, chúng tôi thuyết phục bà A. cho đi cùng nhưng cũng chỉ được phép đứng bên ngoài sòng bài. “Khi vào giao tiền nhận con, chúng quản chặt lắm. Mình có biểu hiện gì lạ là chết” - bà A. lo lắng.

Nghỉ chân ở một quán nước, bà A. run run bấm từng phím điện thoại. “Tôi tới khẩu rồi. Cho tôi gặp thằng nhỏ” - bà A. nói. “Mày ra lệnh với tụi tao hả? Trễ tí nữa là con mày nhừ đòn” - người bên kia quát. Bà A. nài nỉ: “Cho tôi nghe tiếng con một chút thôi rồi tôi gặp mấy người đưa tiền”. Ít giây sau, đầu dây bên kia tiếng nói ú ớ: “Mẹ… mẹ! Dẫn con về” rồi im bặt.

Ngồi một chút, có người đàn ông chạy xe máy biển số Campuchia tới rước bà A. đi. Gần 1 giờ sau, mẹ con bà A. dắt díu nhau quay lại. Con trai bà A. kể: “Trong đó có gần 20 người nằm vật vờ, ăn toàn bánh mì. Ngày nào tụi nó cũng hăm dọa. Ra tới đây mới biết còn sống, còn lành lặn trở về”.

Gia đình đi chung bà A. cũng đón được con trai nhưng người thanh niên này bị đánh bầm mắt vì người thân mang tiền chuộc đến trễ. Khi chúng tôi hỏi thăm, họ như người vô hồn, không nói không rằng, lẳng lặng lên xe ông Hòa ngồi.

Chúng tôi không về cùng họ, nán lại ở biên giới để tìm hiểu thêm. Đầu giờ chiều, có đôi vợ chồng dáng dấp nông dân được một tay xe ôm chở tới trước một khách sạn. Vài phút sau, chúng tôi thấy họ cùng một thanh niên bước ra, cả gia đình đều khóc. Một người chủ quán nước gần đó nói: “Mỗi ngày, tụi tôi chứng kiến hàng chục người dắt nhau qua đây chuộc người thân về. May phước, vợ chồng ông kia kịp chuộc con, không thì thằng nhỏ bị mang đi Phnom Penh rồi đưa sang Trung Quốc, coi như toi đời”.

Gần 2 năm trước, chúng tôi tình cờ quen biết Lê Văn A. (SN 1991) khi anh ta mới được người thân chuộc mạng. A. bị một số “cò” dụ dỗ sang biên giới đánh bài, nợ tiền, A. phải “thế mạng” hơn 120 triệu đồng. Người thân phải đi vay “nóng”. Mới đây gặp chúng tôi, A. cho biết đang làm khuân vác tại KCN Tân Tạo (quận Bình Tân, TP HCM), số tiền nợ vẫn chưa trả xong trong khi ba A. bị tai biến nằm một chỗ, mẹ A. phải nai lưng bán vé số dạo. “Giờ hối hận thì đã muộn. Chỉ vì tôi mà gia đình kiệt quệ như vậy” - A. thở dài.
***

Nhảy lầu vì bị “cầm mạng”

Trên địa bàn tỉnh Long An, có nhiều trường hợp tham gia đánh bạc ở casino hết tiền, buộc phải “cầm mạng”, trong đó chủ yếu ở huyện Tân Hưng, Kiến Tường, Mộc Hóa, Tân Trụ, TP Tân An.

Mới đây, Nguyễn Thành Nhân (SN 1987, ngụ ấp Bình Hòa, thị trấn Tân Trụ, huyện Tân Trụ, tỉnh Long An) qua cửa khẩu Mộc Bài đánh bạc, sau đó vay tiền của nhóm người ở casino 40 triệu đồng và tiếp tục thua. Nhân điện về gia đình yêu cầu đem 50 triệu đồng chuộc mạng trong vòng 2 ngày.

Vì đánh bạc thiếu nợ, bị “cầm mạng”, gia đình không có tiền chuộc, bị bắt giam ở casino, bị đánh đập nhiều lần, không chịu nổi đau đớn, chiều 9-8-2014, anh Đỗ Thành Công (SN 1977, ngụ ngã tư Bình Hiệp, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An) và một người khác (ở Vĩnh Long) đã lao ra khỏi cửa sổ. Anh Công chết, người kia bị thương nặng.

Ngày 20-4-2015, Võ Thành Khang (SN 1992, ngụ ấp Tân Bình, thị trấn Tân Trụ) thua hết tiền, thế mạng 30 triệu đồng rồi tiếp tục cháy túi. Gia đình phải vay nóng 45 triệu đồng đem sang chuộc Khang về.

H.Minh

Phần nhận xét hiển thị trên trang

"Nước 4000 năm vẫn trẻ con"

Câu thơ Tản Đà như sấm*)

Thạch GiảnBlog Trần Nhương
Chẳng ai hiểu dân tộc mình bằng các nhà văn nhà thơ, bởi lẽ họ là người chép sử của dân tộc, họ nói lên tiếng nói của dân tộc.

Nhà văn Phùng Tuyết Phong hồi thập niên 30 đến thăm Mao Trạch Đông ở chiến khu Thụy Kim có kể cho Mao nghe: “Một người Nhật nói, cả Trung Quốc chỉ có 2 người rưỡi hiểu được người Trung Quốc. Một là văn hào Lỗ Tấn, hai là Tưởng Giới Thạch, nửa người kia là Mao Trạch Đông”. Nghe xong, Mao cười ngất: Hảo, cái tay Nhật Bản ấy nói đúng lắm!

Hai thập niên sau, Chủ tịch Mao nói: Lỗ Tấn mới là đệ nhất thánh nhân của Trung Quốc, còn tôi (Mao) chỉ là “hiền nhân”.

Ở ta cũng có nhà thơ Tản Đà chỉ dùng hai câu thơ là đủ nói lên tính cách dân tộc mình:

Dân hai nhăm triệu ai người lớn 
Nước bốn nghìn năm vẫn trẻ con.

Thằng trẻ ranh này xin múa rìu qua mắt thợ để lạm bàn về tính trẻ con của người Việt ta.

Trẻ con ai chẳng hồn nhiên? Vì thế nếu có lỗi lầm gì thì thiên hạ cũng bỏ qua. Còn nhớ năm xưa Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức đến thăm Trung Quốc. Sau khi Bác Hồ làm cụ Mao đớ người ra vì cái ôm hôn nồng thắm chưa từng có trong lịch sử ngoại giao thế giới, toàn bộ lưu học sinh Việt Nam có mặt ùa tới ôm lấy Bác, có anh sờ cả râu Bác. Cụ Mao đứng như trời trồng; mấy cán bộ bảo vệ Trung Quốc cuống lên không biết làm thế nào để bảo vệ hai lãnh tụ. Nghe nói sau đấy họ bị kiểm điểm gay gắt lắm, còn học sinh ta thì chẳng sao.

Trẻ con thích gì?

Thích hình thức. (Già được bát canh, trẻ được manh áo mới). Bệnh hình thức của ta có lẽ nặng nhất thế giới. Cứ xem đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội thì đủ rõ. Chẳng thấy thủ đô sạch hoặc văn minh thêm, mà có lẽ ngược lại, trong khi tiền tỷ tiêu cả trăm, nghìn.

Thích được khen, ghét bị chê. Gặp người nước ngoài bao giờ cũng hỏi họ thấy Việt Nam thế nào. Vì phép lịch sự, ai lại chê chủ nhà bao giờ. Nhà đài ta phỏng vấn chính khách, nguyên thủ nước ngoài không bao giờ thiếu câu hỏi ấy (xem phỏng vấn Ban Ki-mun ... mới đây). Được khen thì hý hửng lắm. Sao không hỏi có thấy chúng tôi có khiếm khuyết gì? Một tiến sĩ tâm lý viết sách nói về tính cách người Việt, sách in xong bị thu hồi ngay khi chưa kịp bán.

Thích khoe khoang. Vì còn bé nên chỉ có thể khoe bố mẹ, ông bà, chứ bản thân có gì để khoe. Bệnh ca ngợi, khoe khoang tổ tiên rất thịnh hành (“Ăn mày dĩ vãng”). Thời cách mạng, kháng chiến, cha ông ta vô cùng giỏi. Nhưng chúng ta bây giờ giỏi cái gì? Tham nhũng, lãng phí, giả dối, đạo văn, đạo công trạng người khác thành của mình, chạy chức ... Chẳng hiểu có cái gì xấu của xã hội tư bản mà ta còn thiếu?

Trẻ con làm gì cũng khác người lớn.

Ta có lắm cái khác thiên hạ đến kỳ cục. Một ông Giám đốc Sở tỉnh Hà Tây cũ lái ô tô cán phải hai bố con đi xe máy, không đỗ xe đưa người ta đi cấp cứu (nếu cấp cứu kịp có thể sống) mà vô lương tâm lái xe vù mất. Hai mạng người chết, ông này lĩnh cái án treo! Kỳ cục là Tòa Tối cao cũng bỏ qua. Chuyện này đáng ghi vào Sách Ghi-nét về xử án công bằng.

Bài Tiến hay lùi đúng lúc cũng là yêu nước trên VietnamNet vạch ra: “Từ tháng sáu (2010) đến nay có quá nhiều điều phải bàn, (đó là) những câu chuyện ... an nguy của xã tắc” :

- Cho nước ngoài thuê khoảng 340.000 hec ta đất rừng với giá 1 hec ta bằng 10 bát phở; - Dự án đường sắt cao tốc với dự kiến 56 tỷ USD bị Quốc hội bác;

- Quy hoạch chung Hà Nội với sáng kiến dời đô và tiêu hủy đất nông nghiệp kỷ lục; - Dự án Bô xít ở Tây Nguyên, quả bom nổ chậm bùn đỏ lơ lửng treo trên đầu dân tộc; - (Con tàu) Vinashin với khoảng 86.000-120.000 tỷ đồng tiền ngân sách (thuế dân) đang chìm theo làn nước lạnh.

Tác giả bài báo đưa ra một từ rất hay Tư duy bỗng dưng: - Bỗng dưng phải làm đường sắt cao tốc; - Bỗng dưng phải dời đô lên Ba Vì; - Bỗng dưng phải khai thác bô xít ... Khó mà kể hết những cái bỗng dưng ấy. May mà dân chúng, các nhà trí thức mạnh dạn góp ý (tuy rất dè dặt), nếu không thì còn phí vài trăm tỷ đô vì cái tư duy bỗng dưng cả thế giới không có.

Đúng là tư duy trẻ con. Bỗng dưng nghĩ ra và “quyết” làm ngay, chẳng hề cân nhắc tính toán. Lại thích làm chuyện lớn trong khi chưa biết nó ra sao. Tiền của bố mẹ (tức của dân) cho nên không xót, chậc lưỡi một cái là xong. Bố mẹ xót ruột nhưng thương con nên bỏ qua.

Trẻ con dễ tính và dễ quên. Tính cách này vừa hay vừa dở. Hay ở chỗ không thù dai, sẵn sàng bắt tay kẻ thù cũ khi họ chơi đẹp. Dở ở chỗ hay quên chuyện lớn. Chuyện to đùng là mỗi con dân tự dưng è cổ gánh món nợ cả triệu bạc thì không dành phiên họp riêng để bàn, trong khi chuyện 20 năm nữa may ra mới làm (đường sắt cao tốc) thì bàn tới bàn lui, lại còn bỏ phiếu thông qua nữa, chưa kể trước đó một số vị còn đi nước ngoài tham quan bằng tiền dân!

Báo chí khoe GDP tăng trưởng mấy phần trăm, nhưng ít nói tới giá cả tăng chóng mặt.

Trẻ con hay chối lỗi. Một vị hoa tay tươi cười nói như ra lệnh trong kỳ họp Quốc hội trước: Ta nhất định phải làm đường sắt cao tốc. Kỳ họp này chẳng thấy vị nào ra phân trần về vụ Vinashin. Rồi xem, có ai từ chức vì chuyện “bỗng dưng” mất 4-5 tỷ đô-la này.

... Trẻ con thì lắm chuyện lôi thôi, rông dài kể mãi sao hết. Mong bạn đọc bàn thêm.

Dân tộc Việt Nam không thể mãi mãi trẻ con, mà phải trưởng thành, tiến vào hàng ngũ những dân tộc tiên tiến. Nếu đất nước có bé về diện tích thì cũng là bé hạt tiêu – như Nhật Bản, Hàn Quốc, Israel, chẳng sợ gì nước lớn. Huống chi ta đứng thứ 13 thế giới về số dân.

Muốn vậy phải dựa vào dân, phải cho dân được thật sự tự do nói, sao cho “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, chớ có vì lợi ích của một số người hoặc nhóm. Phải khai thác tối đa trí tuệ của dân. Người Việt không thua kém mặt bằng chung tri thức của nhân loại. Ngô Bảo Châu đã cho thấy Việt Nam là dân tộc thứ hai ở châu Á giành được giải Nobel Toán cao quý.

Dẫu có thế nào thì trẻ con cuối cùng vẫn thành người lớn, vì có sự dạy dỗ của cha mẹ, của xã hội. Nhưng một dân tộc thì ai dạy dỗ? Nếu không phải là chính chúng ta, những người chủ của đất nước này. Cả tôi lẫn bạn hãy suy ngẫm, hãy kiểm điểm thật kỹ bản thân, vì tư duy của chúng ta hãy còn trẻ con lắm, dù đã 4000 năm tuổi.

Lạy cụ Tản Đà, mong cụ linh thiêng chỉ bảo chúng con vài lời.



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Để có những người bay: Thầy dạy bay và bầu trời bay

Nguyễn Đức LamNghiên cứu lập pháp
Tranh "Có cánh thì bay" của nữ hoạ sĩ Phạm Thị Hải
Thực tế của nền giáo dục hiện nay khiến tất cả phải tự hỏi, không có lẽ chúng ta cả năm này qua năm khác cho ra trường đời những "chú gà công nghiệp" mãi sao? Đâu rồi những chú chim ưng dũng cảm, kiêu hãnh, tung cánh vào bầu trời khoáng đạt, bao la? Làm thế nào để có những chú chim ưng biết bay và dám bay? Điều này lại phụ thuộc vào tất cả thầy và trò, ngành giáo dục, gia đình và cả xã hội...

Trước hết, học trò có muốn là chú chim ưng trên núi đá kia không, hay chỉ muốn suốt đời như chú gà công nghiệp yên ổn trong chuồng? Quả thật có những người thầy đã dạy theo cách khơi gợi, hướng dẫn, nhưng học sinh, sinh viên lại kêu là "dạy không đúng sách giáo khoa". Nghĩa là những sinh viên này muốn kiến thức được "đóng hộp" và trao cái hộp đó cho họ, hay nói cách khác, họ muốn được mớm những thứ thức ăn tăng trọng có sẵn, mà không muốn tự mình tìm mồi.

Tiếp đó, ai là người dạy bay? Không ai khác ngoài người thầy. Thế nhưng, sự thụ động của học trò cũng do nhiều thầy cô còn giữ cách dạy khuôn sáo, tẻ nhạt thậm chí nhồi nhét kiến thức, làm tê liệt lòng ham muốn và khả năng sáng tạo của học trò. Và trớ trêu thay, ít nhất vài thế hệ thầy cô giáo hiện nay lại chính là sản phẩm của nền giáo dục từ chương, bởi vậy khó mà hình dung được lớp giáo viên đó đột nhiên thay đổi bản chất của mình để thay đổi cách thức sư phạm, bắt đầu khi dậy sự suy nghĩ độc lập của học trò, hơn nữa biết chấp nhận sự phản biện nghi vấn, chấp nhận và khuyến khích trò "biết cãi lại".

Tác giả cuốn “Dạy con làm giàu” đã đưa ra cách phân biệt "tài sản" và "tiêu sản", theo đó tài sản là những thử sinh ra thu nhập, còn tiêu sản là những thứ sinh ra chi phí, người giàu là người biết mua tài sản, nên nó làm cho người giàu càng giàu hơn, trái lại, người nghèo mua phải tiêu sản mà họ nghĩ là tài sản, nên suốt đời cứ luẩn quẩn phụ thuộc vào tiền, mà không biết cách bắt đồng tiền phục vụ mình. Có lẽ cách dạy và họe hiện nay của chúng ta cũng như vậy: lệ thuộc vào kiến thức, thậm chí là nô lệ của kiến thức, mà không bắt kiến thức phục vụ mình. làm giàu cho khối óc mình. Người thầy, như nhà văn Nguyên Ngọc nói, là người không chỉ truyền đạt "kiến thức", mà bày cho học trò cách biến "kiến thức" thành "tri thức", tức là thực sự "ngộ" ra, chiếm lĩnh kiến thức, thoát ra khỏi nó, vượt lên nó, tự làm giàu, làm mới tri tuệ của mình đến suốt đời.

Vậy thì biến kiến thức thành tri thức như thế nào? Sau đây là một vài bài học về cách dạy ở các trường Đại học ở Singapore: Giáo sư không chỉ đưa ra dàn bài, mà khuyến khích sinh viên tự tìm ra các chủ điểm khác không có trong dàn bài để đưa ra thảo luận, chưa hết, giáo sư còn ghi chú: "các thông tin cập nhật sẽ được điểm cao". Như vậy, người thầy đã không ngại sinh viên cập nhật mới hơn mình, sẵn sàng đón nhận thông tin từ sinh viên. Đồng thời, dạy và học theo vấn đề (problem-based teaching & learning), theo tình huống (case study), học tập suốt đời (long life learning) được nhắc đến nhiều như những cách, những phương pháp mới để hấp thụ tri thức.

Chú chim ưng đã muốn bay, đã biết bay, nhưng bầu trời đâu? Môi trường giáo dục nào? Suốt hàng bao thế kỷ, người Việt có quan niệm "nửa chữ cũng là thầy"? Nếu coi đây là truyền thống "tôn sư trọng đạo" thì không phải bàn luận thêm. Nhưng mặt khác, phải chăng vì có phần tâm lý như thế, nên việc dạy học ở ta từ bao đời nay thường diễn ra một chiều từ người thầy phán xuống (chứ không phải truyền sang, chưa nói đến chiều phản hồi ngược lại). Bên cạnh đó, tâm lý học để thi ra làm quan, vinh thân phì gia theo những khuôn mẫu như thuộc làu Tứ Thư, Ngu Kinh, biết viết các bài chiếu, bài biểu, làm thơ... nên thói quen "tầm chương trích cú” ăn sâu trong các đời học trò, học thuộc, phụ thuộc là chính, thầy là người dạy chữ của thánh hiền, mà thánh hiền nhiều khi lại tượng trưng cho chân lý, nên trò chỉ biết nghe theo, việc dạy và học theo cái vòng quay đó mà diễn ra. Ngày nay, nền giáo dục "tạo ra nhu cầu giả tạo buộc học sinh phải học thêm ngoài giờ, tập cho họ thói quen dựa dẫm vào thầy, ngại tự học, ngại tìm tòi, suy nghĩ độc lập, cho nên cứ rời thầy ra, rời nhà trường ra là y như những con gà công nghiệp mới ra ra khỏi chuồng đã luống cuống tìm cách chui lại vào chuồng (GS.Hoàng Tụy).

Hơn nữa, ở ngoài đời, nơi công sở, đâu đây các bậc bề trên vẫn có cái nhìn kì thị vớnhững người trẻ dám "nói leo", "cãi leo lẻo". Không ít các quan chức tụ tập, quây quần quanh mình những người thân trong gia đình, họ tộc cấp dưới vì là bậc con cháu không dám phê bình, lật ngược vấn đề mà chỉ biết phục tùng, hoặc im lặng, ngược lại, cấp trên vì là bậc cha chú nên cũng gia trưởng, độc đoán. Nhu cầu nào thì sản phẩm đó. Ngoài đời chỉ ưa những người ngoan ngoãn, phụ thuộc thì nhà trường cũng cho ra lò những người như thế, bởi nếu khác đi sẽ không được dùng đến.

Đúng như các nhà giáo dục và trí thức hàng đầu của nước ta kêu gọi, chấn hưng nền giáo dục hiện nay là mệnh lệnh từ cuộc sống. Vì thế, nó phải được khởi động và diễn ra từ hai chiều: từ trên xuống và quan trọng hơn - từ dưới lên, trong đó, nên bắt đầu từ mỗi cô cậu học trò nhỏ. Để nền giáo dục có thể cho ra đời những người bay, xin mượn ý câu thơ của nhà thơ Trần Dần:

“Tôi tiếc cho những chân trời không có người bay,
và tiếc cho những người bay không có chân trời…”


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Người Việt Nam đầu tiên đặt chân đến châu Mỹ

Nguyễn Hiến LêCon đường Thiên lý
Từ một người đi tìm vàng ở California, ông đã trở thành ký giả người Việt đầu tiên trên đất Mỹ. Ông là Trần Trọng Khiêm, người làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, Phú Thọ.

Trần Trọng Khiêm sinh năm Tân Tỵ (1821), tức năm Minh Mạng thứ 2, là con của một gia đình thế gia vọng tộc ở phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng trong người lúc nào cũng sẵn máu phiêu lưu. Năm ông 21 tuổi, vợ ông bị một viên chánh tổng âm mưu làm nhục rồi giết hại. Sau khi giết tên chánh tổng báo thù cho vợ, ông xuống Phố Hiến (Hưng Yên), xin làm việc trong một tàu buôn ngoại quốc và bắt đầu bôn ba khắp năm châu bốn bể.

Suốt từ năm 1842 đến 1854, Trần Trọng Khiêm đã đi qua nhiều vùng đất từ Hương Cảng đến Anh Cát Lợi, Hoà Lan, Pháp Lan Tây. Do trí tuệ sắc sảo, đến đâu ông cũng học được ngoại ngữ của các nước đó. Năm 1849, ông đặt chân đến thành phố New Orleans (Hoa Kỳ), bắt đầu chặng đường 4 năm phiêu bạt ở Mỹ cho đến khi tìm đường về cố hương.

Sau khi đến Mỹ, ông cải trang thành một người Trung Hoa tên là Lê Kim rồi gia nhập đoàn người đi tìm vàng ở miền Tây Hoa Kỳ. Sau đó, ông trở về thành phố Xanh–Phát–Lan–Xích–Cố (phiên âm của San Francisco) và làm kí giả cho tờDaily News 2 năm. Cuộc phiêu lưu của Trần Trọng Khiêm (tức Lê Kim) trên đất Mỹ đã được nhiều tài liệu ghi lại.

Trong cuốn sách La Ruée Vers L’or của tác giả Rene Lefebre (NXB Dumas, Lyon, 1937) có kể về con đường tìm vàng của Lê Kim và những người đa quốc tịch Gia Nã Đại, Anh, Pháp, Hòa Lan, Mễ Tây Cơ… Họ gặp nhau ở thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Louisiana vào giữa thế kỷ 19 rồi cùng hợp thành một đoàn đi sang miền Viễn Tây tìm vàng.

Thời đó, “Wild West” (miền Tây hoang dã) là từ ngữ người Mỹ dùng để chỉ bang California, nơi mà cuộc sống luôn bị rình rập bởi thú dữ, núi lửa và động đất. Trong gần 2 năm, Lê Kim đã sống cuộc đời của một cao bồi miền Tây thực thụ. Ông đã tham gia đoàn đào vàng do một người ưa mạo hiểm người Canada tên là Mark lập nên.

Để tham gia đoàn người này, tất cả các thành viên phải góp công của và tiền bạc. Lê Kim đã góp 200 Mỹ kim vào năm 1849 để mua lương thực và chuẩn bị lên đường. Đoàn có 60 người nhưng Lê Kim đặc biệt được thủ lĩnh Mark yêu quý và tin tưởng. Do biết rất nhiều ngoại ngữ, ông được ủy nhiệm làm liên lạc viên cho thủ lĩnh Mark và thông ngôn các thứ tiếng trong đoàn gồm tiếng Hòa Lan, tiếng Trung, tiếng Pháp. Ông cũng thường xuyên nói với mọi người rằng ông biết một thứ tiếng nữa là tiếng Việt Nam nhưng không cần dùng đến. Lê Kim nói ông không phải người Hoa nhưng đất nước nằm ngay cạnh nước Tàu.

Ông và những người tìm vàng đã vượt sông Nebraska, qua núi Rocky, đi về Laramie, Salt Lake City, vừa đi vừa hát bài ca rất nổi tiếng thời đó là “Oh! Suzannah” (Oh! My Suzannah! Đừng khóc nữa em! Anh đi Cali đào vàng. Đợi anh hai năm, anh sẽ trở về. Mình cùng nhau cất ngôi nhà hạnh phúc). Họ thường xuyên đối mặt với hiểm họa đói khát và sự tấn công của người da đỏ để đến California tìm vàng. Sốt rét và rắn độc đã cướp đi mất quá nửa số thành viên trong đoàn.
Trong đoàn, Lê Kim nổi tiếng là người lịch thiệp, cư xử đàng hoàng, tử tế nên rất được kính trọng nhưng đó đúng là một chuyến đi mạo hiểm, khiến già nửa thành viên trong đoàn chết vì vất vả, đói khát và nguy hiểm dọc đường đi.

Sau khi tích trữ được một chút vàng làm vốn liếng, Lê Kim quay trở lại San Francisco. Vào giữa thế kỷ 19, nơi đây còn là một thị trấn đầy bụi bặm, trộm cướp. Là người học rộng, hiểu nhiều, lại thông thạo nhiều ngoại ngữ, Lê Kim nhanh chóng xin được công việc chạy tin tự do cho nhiều tờ báo như tờ Alta California, Morning Post rồi làm biên tập cho tờ nhật báo Daily Evening.

Đề tài mà Lê Kim thường viết là về cuộc sống đầy hiểm họa và cay đắng của những người khai hoang ở bắc California và quanh khu vực San Francisco, trong đó ông hướng sự thương cảm sâu sắc đến những người da vàng mà thời đó vẫn là nạn nhân của sự phân biệt chủng tộc. Lê Kim cho rằng các mỏ vàng đã khiến cuộc sống ở đây trở nên méo mó và sa đọa không gì cứu vãn được.

Nhiều bài báo của ông đăng trên tờ Daily Evening hiện vẫn còn lưu giữ ở thư viện Đại học California. Đặc biệt, trong số báo ra ngày 8.11.1853, có một bài báo đã kể chi tiết về cuộc gặp giữa Lê Kim và vị tướng Mỹ John A. Sutter. Tướng Sutter vốn trước là người có công khai phá thị trấn San Francisco. Khi Lê Kim mới đến đây, ông đã được tướng Sutter giúp đỡ rất nhiều. Sau khi bị lật đổ, Sutter đã bị tâm thần và sống lang thang ở khắp các bến tàu để xin ăn, bạn bè thân thiết đều không đoái hoài đến.

Khi tình cờ gặp lại, Lê Kim đã cho vị tướng bất hạnh 200 Mỹ kim. Ông đã chê trách thái độ hững hờ, ghẻ lạnh của người dân San Francisco và nước Mỹ đối với tướng Sutter, điều mà theo ông là đi ngược với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ông.

Sang năm 1854, khi đã quá mệt mỏi với cuộc sống hỗn loạn và nhiễu nhương ở Mỹ, cộng thêm nỗi nhớ quê hương ngày đêm thúc giục, Lê Kim đã tìm đường trở lại Việt Nam. Nhưng ông cũng đã kịp để lại nước Mỹ dấu ấn của mình, trở thành người Việt Nam đầu tiên cưỡi ngựa, bắn súng như một cao bồi và cũng là người Việt đầu tiên làm ký giả cho báo chí Mỹ.

Người Minh Hương cầm quân chống Pháp

Năm 1854, Trần Trọng Khiêm trở về Việt Nam vẫn dưới cái tên Lê Kim. Để tránh bị truy nã, ông không dám trở về quê nhà mà phải lấy thân phận là người Minh Hương đi khai hoang ở tỉnh Định Tường. Ông là người có công khai hoang, sáng lập ra làng Hòa An, phủ Tân Thành, tỉnh Định Tường. Tại đây, ông tục huyền với một người phụ nữ họ Phan và sinh được hai người con trai, đặt tên là Lê Xuân Lãm và Lê Xuân Lương.

Trong di chúc để lại, ông dặn tất cả con cháu đời sau đều phải lấy tên đệm là Xuân để tưởng nhớ quê cũ ở làng Xuân Lũng.

Trong bức thư bằng chữ nôm gửi về cho người anh ruột Trần Mạnh Trí ở làng Xuân Lũng vào năm 1860, Lê Kim đã kể tường tận hành trình hơn 10 năm phiêu dạt của mình từ một con tàu ngoại quốc ở Phố Hiến đến những ngày tháng đầy khắc nghiệt ở Hoa Kỳ rồi trở về an cư lạc nghiệp ở Định Tường. Khi người anh nhắn lại: “Gia đình bình yên và lúc này người đi xa đừng vội trở về”, Lê Kim đã phải tiếp tục chôn giấu gốc gác của mình ở miền Tây Nam Bộ.

Nhưng chưa đầy 10 năm sau, khi Pháp xâm lược Việt Nam. Lê Kim đã từ bỏ nhà cửa, ruộng đất, dùng toàn bộ tài sản của mình cùng với Võ Duy Dương mộ được mấy ngàn nghĩa binh phất cờ khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười. Tài bắn súng học được trong những năm tháng ở miền Tây Hoa Kỳ cùng với kinh nghiệm xây thành đắp lũy đã khiến ông trở thành một vị tướng giỏi.

Năm 1866, trong một đợt truy quét của Pháp do tướng De Lagrandière chỉ huy, quân khởi nghĩa thất thủ, Lê Kim đã tuẫn tiết chứ nhất quyết không chịu rơi vào tay giặc. Gia phả nhà họ Lê do hậu duệ của Lê Kim gìn giữ có ghi lại lời trăng trối của ông: “Trước khi chết, cụ dặn cụ bà lánh qua Rạch Giá gắng sức nuôi con, dặn chúng tôi giữ đạo trung hiếu, đừng trục lợi cầu vinh, đừng ham vàng bỏ ngãi. Nghĩa quân chôn cụ ngay dưới chân Giồng Tháp. Năm đó cụ chưa tròn ngũ tuần”. Trên mộ của Lê Kim ở Giồng Tháp (tỉnh Đồng Tháp) có khắc đôi câu đối:

“Lòng trời không tựa, tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh
Chính khí nêu cao, tinh thần hùng nhị còn truyền hậu thế”.


Ghi công ông, hiện ở phường Long Bình, quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh có con đường mang tên Trần Trọng Khiêm nối phố Nguyễn Xiển với phố Mạc Hiển Tích.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nỗi oan Khổng tử & chuyện con ruồi!

KHẢI NGUYÊN


Chẳng phải là nỗi oan Thị Mầu càng không phải nỗi oan Thị Kính. Đây là nỗi oan khó gọi tên, khó giãi bày, có khi ẩn sau ánh hào quang.

Bình sinh Khổng tử trải qua ba việc lớn: đi thuyết khách, làm chính khách và dạy học. Hai việc đầu liên quan mật thiết với nhau. Ngài du thuyết các vua chư hầu cố vực dậy cái ngai “con trời” đã ọp ẹp của nhà Chu. Họ ít nghe ngài. Thảng hoặc có người toan nghe nhưng khi thấy chẳng thuận với quyền và lợi của họ thì họ quay lưng lại. Cả hai vai thuyết khách và chính khách đều long đong đến mức có lúc ngài nói ra miệng với học trò là sẵn sàng đi theo kẻ cướp hoặc tán đồng người ta ví mình như con chó nhà có tang. Bước thành đạt nhất của ngài là lúc được vua nước Lỗ nghe theo và cho làm quan có quyền hành thực sự ở mức có thể giết phăng kẻ đối lập trước mặt vua. Tiếc rằng lúc đang đắc thế nhất lại phải cược tiền đồ sự nghiệp của mình vào miếng thịt tế và rồi đành phải ra đi. Cuối cùng sự nghiệp của ngài chốt lại ở việc dạy học. Đây là thành công duy nhất của ngài và được người đời đánh giá cao. Dẫu rằng danh tôn “vạn thế sư biểu” là có cường điệu và vì lí do chính trị là chủ yếu thì cũng là một sự ghi công không tệ.

Bảo thẳng ngài rằng ngài là “người thầy của muôn đời” hẳn là ngài chẳng dám nhận. Chẳng phải vì bọn hậu sinh của ngài chỉ mượn danh ngài, trưng những câu nói của ngài, tạo ra học thuyết, thậm chí một “đạo”, -đạo Khổng Mạnh, ghép tên ngài với tên một học trò của học trò ngài-, thực ra là để củng cố thứ chế độ chuyên chế sống dai nhất trong lịch sử nhân loại. Càng về sau ngài càng được “thánh hóa”, song đạo của ngài tuy được xếp vào hàng tôn giáo (Nho giáo) lại nặng về thế quyền, thay vì thần quyền, và ngày càng gắn chặt vào thế quyền, vừa là công cụ ý thức hệ, vừa là công cụ ngu dân, là cái “ám ảnh” xã hội và lịch sử đeo đẳng rất khó gột. Ngài có thể can dự gì được vào những chuyện đó!

Với tư cách người thầy, có những lời ngài dạy là hợp lẽ đời, tỉ như  “những gì mình không muốn chớ làm cho người”; có những lời khuyên khôn ngoan, tỉ như “với quỉ thần chỉ nên kính từ xa”; nhưng có những lời ngài dạy hoặc ngài tâm đắc chỉ hợp với tầng lớp thống trị hoặc có lợi cho họ, tỉ như “đàn bà là khó dạy”, “lễ nghĩa chẳng xuống đến hạng dân đen, hình phạt không lên đến giới quan lớn”. Tất nhiên, những lời của ngài, dù đúng dù sai, là dành cho con người và xã hội cách nay hơn hai ngàn năm; người đời sau muốn sử dụng hoặc lợi dụng phải biến báo đi.

“Đạo” của ngài lẽ tất nhiên là phát xuất từ ngài, bao gồm (chủ yếu) những gì ngài tiếp nhận từ tiền nhân, -những người nổi danh như Chu công và những người vô danh tập hợp trong các “kinh” mà ngài thu thập hoặc san nhuận. Nội dung của nó được các học trò thân tín của ngài và những lớp học trò hậu duệ của họ “biên tập”, bổ sung. Rồi nho sĩ các đời sau góp phần cải biên theo nhu cầu của thời thế, bắt đầu từ Đổng Trọng Thư, một Hán nho, người đã theo chủ trương của Hán Vũ đế đưa ngài và học thuyết nhân danh ngài lên ngôi độc tôn ở Hoa hạ; mạnh tay nhất sau này là Tống nho.

Các đời sau tôn sùng ngài là bậc thầy (phu tử), là nhà tư tưởng, triết nhân, thậm chí là “thánh”, cũng được đi. Nhưng nên nỗi cái gì cũng viện “thánh hiền”: đạo thánh hiền, lời dạy của thánh hiền, chữ của thánh hiền [Đến nước không được để những tờ giấy có chữ nho (“chữ của thánh hiền”) rơi vãi ở những nơi uế tạp, nhặt được nếu không tiện cất giữ thì phải hoặc là đốt đi hoặc là thả vào giếng nước ăn(!) như ở đất nước VN thời chưa xa lắm -chẳng biết còn ở xứ nào khác không?!] để cho đất nước trì trệ mà tâm thức lại u tối trước “họa của bọn quỉ Bạch dương” như ở Trung quốc, Việt Nam … thì đâu phải do ngài! Vậy mà có những người như cái ông Lỗ Tấn ở đất nước ngài kết tội ngài và đạo của ngài đã kìm hãm dân tộc Trung Hoa vào vòng nghèo hèn, lạc hậu. Thật không công bằng! Tại ngài hay tại “các người”. Cũng là dân Á đông “học Nho” mà sao người Nhật sớm tỉnh thức trước pháo hạm phương Tây? Tại “thuốc lú” hay tại người cứ muốn trầm luân trong thuốc lú? Đâu nặng tội hơn!

Ngài bị hàm oan vậy, song dù sao họ cũng còn có cái cớ của họ, bám víu vào những hoàn cảnh địa-chính trị, địa-lịch sử ... này nọ. Đến như cái bọn đã làm cách mạng rồi, đã làm “đại cách mạng văn hóa vô sản”, đã đập phá, đốt rụi hầu hết mọi thứ di sản rồi mà còn bày trò “phê Khổng” hạ bệ ngài. Vẫn biết đó là trò gắn kết chủ yếu để triệt đối thủ chính trị (Lâm và phe cánh) đồng thời quét các tư tưởng “phi Mao” (trong đó có dằn mặt “đại nho” họ Chu, mặc dù đó là một kẻ cực kì tuân phục họ Mao, theo hồi kí của Lí Chí Thỏa bác sĩ riêng của Mao). Ngài dây gì đến bọn họ mà lôi ngài dậy làm nhục ngài! Sau nạn này, tưởng thế là ngài sẽ được yên là bóng ma lịch sử, dù có đáng ngậm ngùi đôi chút. Chẳng ngờ mới đó chưa lâu mà nay người ta là dựng ngài dậy nâng lên cực cao, vượt mọi suy tôn từ trước. Thế lực cầm quyền tạo ra lớp “nhà nho mới” (chữ của Lưu Hiểu Ba -LHB) xưng tụng ngài không chỉ trong nước bằng mọi phương tiện truyền thông, thậm chí muốn nâng “Khổng tử như vị cứu tinh thế giới” mà LHB đã vạch ra. Cácviện Khổng tử được lập hầu khắp thế giới tuy dưới danh nghĩa trung tâm văn hóa nhưng lại chịu sự chi phối chính trị từ Bắc kinh. Vậy là với ý đồ “phục hưng vĩ đại” để thực hiện “giấc mơ Trung Hoa” bá quyền đại Hán siêu cường, dưới chiêu bài trỗi dậy hòa bình, người ta sử dụng ngài như là một giáo chủ “Trung Hoa giáo” hay “Đại Hán giáo” và là một thần tượng “tinh hoa tư tưởng phương Đông”. Đến đây thì ngài khó mà minh oan với thiên hạ. Vẫn biết sinh thời ngài có hai điều sở đắc lớn: thuyết “tôn quân” vì các đấng chí tôn thay trời chăn dân và thuyết “đại nhất thống” coi Trung Quốc là cái rốn thiên hạ. Hãy thông cảm với ngài. Thời của ngài, ngài chỉ được nghe truyền lại, kể lại từng có những thời thịnh trị dân cư được an lạc dưới các triều vua Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ, … , ngài chẳng mong gì hơn dân cảnh và dân tình được như dưới các thời ấy. Do vậy, việc thuyết giảng của ngài chủ yếu là “truyền đạt văn hóa cổ xưa”. Mặt khác, ngài cũng chỉ biết dưới trời (thiên hạ) chỉ có giang sơn nhà Chu, mệnh danh Trung quốc, và ven quanh là vùng đất của các dân tộc ít người bị coi là kém phát triển hơn và bị gọi là man di. Do vậy, ngài mong muốn thiên tử giang rộng tay ôm trọn cho muôn dân được hưởng ơn mưa móc. Ngày nay, hai điều đó họ đã đạt vượt xa sở nguyện của ngài lúc sinh thời. “Tôn quân” thì rõ ràng các “vua hiện đại”, cá nhân và tập thể, quyền uy lệch cả trời. “Đại nhất thống” thì họ đã thâu tóm một giang sơn rộng gấp hàng mấy chục lần cái “Trung quốc” nằm gọn trong lưu vực sông Hoàng Hà thuở ngài sống; nữa, còn vươn vòi “quyền lực cứng”, “quyền lực mềm” ra toàn cầu. Thế mà còn lôi ngài ra làm “cái bung xung” , một thứ chiêu bài phục vụ lòng ham hố không cùng của họ!

Hiện giờ trên thế giới người ta gờm tham vọng của Trung cộng cho nên người ta ngán những thủ đoạn “quyền lực mềm” của họ trong đó có những cái núp danh “Khổng tử” mà họ trưng ra. Khốn khổ cho ngài! Cũng là danh nhân được hậu thế của mình đem đặt tên cho trung tâm văn hóa đại diện đất nước mình, dân tộc mình ở nước ngoài, mà tên của ngài lại khiến người ta “cảnh giác” thế! Không như của các nước khác, (viện) Gớt của người Đức chẳng hạn, được người ta tôn trọng, vì nể, ít ra là không phải nghi ngại.

Đặt ngài đúng vị thế trong lịch sử, nói đúng hơn, đánh giá đúng đóng góp thực sự của ngài cho đất nước ngài, dân tộc ngài, cả những gì tích cực mà học thuyết của ngài từng ít nhiều đem lại cho nhân quần, là cách giải oan tốt nhất cho ngài. Càng tốt hơn nếu vạch được chân tướng đằng sau những ý đồ lợi dụng và tận dụng ngài để trả lại nguyên vẹn những gì thuộc về ngài, kể cả những tôn vinh mà ngài đáng được hưởng. Với ý nghĩa đó, không ít những người con đáng kính, trung thực và tỉnh táo, của dân tộc TH vĩ đại đã thẳng thắn vạch ra nhiều sự thật có vẻ như xúc phạm ngài mà ngẫm kĩ ra lại là “chiêu tuyết” cho ngài.

Lưu Hiểu Ba, người TQ nổi tiếng từng được giải Nôben hòa bình, trong bài “Hôm qua chó nhà tang, hôm nay chó gác cửa: ‘Bàn về cơn sốt Khổng tử hiện nay’ ” (Phan Trinh dịch ra tiếng Việt đăng BVN ngày 01/01/2015) nhận xét rằng giáo huấn của Khổng tử “chỉ là trí thông minh nhỏ, không chứa đựng trí tuệ lớn” và chỉ ra rằng: “Tệ sùng bái thánh nhân ở TQ là một công trình văn hóa giả tạo cực lớn do các đời vua chúa cùng bọn văn nhân cung đình phối hợp tạo nên”, và người ta đã sản ra “món hàng giả vô cùng nguy hiểm”. Ông cũng phân tích kĩ về “cơn sốt Khổng tử hiện nay” ở Trung Quốc, qua đó ta có thể luận ra nỗi oan khiên của họ Khổng. Nếu chẳng may mà người ta lợi dụng ông thành công trong muôn một thì tên tuổi của ông, của “đạo” ông không chừng sẽ gắn với những trang bi thảm của nhân loại, mặc dù hình tượng “chó gác cửa” đáng gây mủi lòng! 

Nhà đấu tranh cho dân chủ ở TQ họ Lưu cũng dẫn ý kiến của giáo sư Lí Linh, trường đại học Bắc kinh, cách nay chưa lâu, về một Khổng tử “nhân tạo” và trích một câu trong cuốn “Chó nhà tang – Tôi đọc Luận ngữ” của ông này: “Sau khi đọc Luận ngữ, tôi thấy tốt nhất không nên đặt Khổng tử lên bệ thờ, cũng không nên dìm ông xuống bùn, mà chỉ nên nói rằng ông rất giống Đôn Kihôtê (người hùng hoang tưởng trong một cuốn tiểu thuyết Tâybannha nổi tiếng –KN)”. Ai cũng biết Luận ngữ tập hợp những lời của Khổng tử do học trò ông ghi lại và là một trong những tác phẩm kinh điển chủ chốt của đạo Nho.

Ở đất nước VN chúng ta, đạo Nho của “đức Khổng, thầy Mạnh” theo chân bọn quan quân đô hộ bắc phương xâm nhập vào từ hai nghìn năm trước nhưng phải đến thời nhà Hậu Lê trở về sau mới thành độc tôn chi phối tư tưởng, đạo đức cả về mặt chính trị lẫn lối sống xã hội, … Tình trạng trên bắt đầu lung lay từ đầu thế kỉ 20, do ảnh hưởng văn minh Âu Tây, và bị xóa bỏ từ năm 1945. Vậy mà những năm gần đây, trước tình hình đạo đức xuống dốc, sự học xuống cấp, … , một số người, trong đó có thể có những người được đào tạo ở “nước bạn” hoặc có quan hệ làm ăn hay công tác gần gũi với “bạn” đã đề cập đến việc khôi phục lễ nghĩa đông phương, thực chất là lễ nghĩa Khổng giáo. Nổi đình đám nhất hiện tại là địa phương nọ bỏ ra hàng mấy trăm tỉ đồng xây dựng Văn miếu cực kì hoành tráng, sau khi đã cho quan chức chóp bu sang tận quê ngài Khổng học hỏi cung cách xây Khổng miếu, nói là để chấn hưng đạo học(!).[Nghe nói sau khi ‘được’ dư luận la ó dữ quá, các vị đưa tin “mới là đang bàn”!]. Rồi ra những người VN có lương tri có đủ tỉnh táo không để khỏi buộc tội oan ngài là nguyên nhân của những toan tính phi lí, phi nghĩa, cả phi tình, kia? Những toan tính chẳng hề có lợi cho việc giữ gìn, phát huy truyền thống VN nói riêng, truyền thống đông phương nói chung trong xu thế toàn cầu hóa!

Các “hiện tượng” vừa nói khiến hồ nghi cái ý đã nêu phía trên: sự tôn phục nho giáo và Khổng tử đã cáo chung từ năm 1945 về sau. Sực nhớ cách đây chưa lâu lắm, trong hồi kí của mình, một ông cựu phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng VN kể (khoe) hai điều đắc ý trong lần ông sang công du Bắc kinh: một là, đã đăng đàn nói bằng tiếng Trung (thay vì tiếng nước mình theo thông lệ bang giao quốc tế); hai là, khi thủ tướng Trung cộng hỏi muốn đi tham quan những đâu đã hãnh diện trả lời: Tôi là đồ đệ Khổng tử nên tất nhiên là muốn tham quan Khổng miếu. Chẳng biết ở cõi u minh ngài Khổng có vui lòng vì bỗng dưng có thêm một mê-tông-đồ (và các cụ Mác-Lê có buồn lòng vì bỗng lộ diện một phản đồ đạo mình ngay cả khi đang là một chức sắc cao vời!)? Hay là ngài phải khổ tâm vì phải làm thầy “oan” một “đệ tử” đã giảng giải thật “cao siêu” và “thú vị” cho một ông rất lớn khi so các danh ngôn “kỉ sở bất dục vật thi ư nhân” và “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”!

Thời Xuân Thu – Chiến Quốc, nước Tầu có không ít những đại gia về tư tưởng, học thuật: Lão Đam, Trang Chu, Dương Chu, Mặc Địch, Hàn Phi, … , trong đó có những người sâu sắc hơn hoặc đắc dụng hơn Khổng Khâu, nhưng rồi với đời sau đều mất hút trước uy danh và uy thế của họ Khổng và đạo Nho, chẳng phải do sự vượt trội của lẽ đạo cũng như con người Khổng tử. Hầu như không có phản ứng nào, và, cũng hầu như cam phận xuôi lịch sử (dẫu cũng đã có những ý kiến bàn tán, chẳng hạn, Lão tử phải bỏ đi ra ngoài quan ải vì ngán hoặc không ưa Khổng tử). Có một ngoại lệ, nhưng đây chẳng phải là nhân vật lịch sử; đúng ra chỉ là một nhân vật dã sử hoặc truyền thuyết. Hồi nào chầu rìa bên một buổi chuyện vãn của mấy cụ nho, người viết bài này được nghe kể về sự tích con ruồi. Sinh thời Khổng tử có một người kình địch về tài biện bác: Hạng Thác. Cậu bé này giải được những câu hỏi uẩn khúc; ngược lại họ Khổng không ít lần bí. Cậu bé mất sớm, gần cùng lúc với Khổng tử, người được tế lễ linh đình đương thời và hậu thế. Tình cảnh cậu bé thì trái lại. Hạng Thác bèn nguyện hóa thành con ruồi để hưởng trước những lễ vật bày ra cúng Khổng tử ngay khi chưa kịp khấn vái (mời mọc) ngài. Câu chuyện, -dĩ nhiên là vừa phi khoa học, vừa mất vệ sinh, phảng phất trào phúng,- muốn nói lên điều gì? Hư danh? Sự tôn phục, chân giả? Chỉ con ruồi biết thực ra là cúng bái (tôn sùng) ai và cái gì chăng? Đâu chỉ có chuyện “xôi thịt”! Hoặc giả chẳng còn là chuyện “kính nhi viễn chi”! Liệu thời nay còn những lời nguyền kiểu Hạng Thác? Có điều, có thể có nỗi oan thánh nhân mà khó có nỗi oan con ruồi!

06 - 2015

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bùi Văn Bồng1: NHỮNG BƯỚC ĐI OÁI OĂM CỦA LỊCH SỬ

Bùi Văn Bồng1: NHỮNG BƯỚC ĐI OÁI OĂM CỦA LỊCH SỬ: * Gs. TƯƠNG LAI Lịch sử là con người nhân với thời gian. Mà thời gian thì không ngừng cuộn chảy, cuốn theo những biến động dữ dội. Tron... Phần nhận xét hiển thị trên trang