Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2015

40 năm sau: Lịch sử đang lặp lại


Mới đây Nguyễn Quang Dy gọi điện cho tôi, bảo rằng có bài viết mới. Nhưng điều nữa mà Dy muốn nói là đám tang Thứ trưởng Trần Quang Cơ anh đã không có mặt tại Hà Nội để tiễn đưa một con người "có nhân cách đặc biệt, được mọi người, mọi phía, quý mến và kính nể". Nguyễn Quang Dy còn nói, vừa như tự nói với mình và nói thay cho bạn bè lứa chúng tôi, "Anh (anh Cơ) là tấm gương sáng cho thế hệ đàn em chúng tôi, chưa kịp lớn đã già…". Có chút chua chát đấy, nhưng Nguyễn Quang Dy đã nói đúng.

Bài viết Nguyễn Quang Dy ủy thác cho Blog tôi đưa lên cho bạn bè đọc dịp này, như anh nói, là "một nén tâm hương" thắp lên tưởng nhớ Cố Thứ trưởng Trần Quang Cơ mà anh nhất mực yêu mến và kính trọng. 

Vệ Nhi

-----

Như một nén tâm hương
Tôi ân hận đã không có mặt tại Hà Nội để dự đám tang tiễn đưa vong linh anh Trần Quang Cơ về cõi vính hằng (như đã tiễn đưa anh Lê Mai và anh Phạm Xuân Ẩn). Vì vậy, tôi nhờ blog Nguyễn Vĩnh đăng lại bài tôi mới viết trong dịp này (đã chỉnh sửa) như một nén tâm hương để kính viếng anh Trần Quang Cơ, một đồng nghiệp và bậc đàn anh đáng kính.  
Anh Trần Quang Cơ là một trong những nhà ngoại giao Việt Nam có nhân cách đặc biệt, được mọi người, mọi phía, quý mến và kính nể. Có lẽ vì anh có tấm lòng trung thực và nhân ái, có hiểu biết mang tầm chiến lược, có bản lĩnh kiên cường và đầy trách nhiệm. Đó là một nhân tài và một nhân cách quý hiếm, nhưng sống rất trong sáng và giản dị.    
Dù không làm ngoại trưởng, nhưng những đóng góp của anh lúc còn làm việc cũng như khi đã nghỉ hưu, xứng tầm ngoại trưởng, hoặc còn hơn thế. Dù trong hoàn cảnh nào, anh vẫn không bị vô hiệu hóa, vẫn dũng cảm nói ra sự thật và bảo vệ chân lý, như một nhân cách lớn. Anh là tấm gương sáng cho thế hệ đàn em chúng tôi, chưa kịp lớn đã già…
Nam mô a di đà phật!
NQD, 2/7/2015 
--- 
40 năm sau: Lịch sử đang lặp lại
Nguyễn Quang Dy *
“Có lẽ chúng ta đã tạo ra một quái vật Frankenstein”
Richard Nixon nói với William Safire (nhà báo New York Times) năm 1994, trước khi chết.
40 năm sau Chiến tranh Viêt Nam, cuối cùng người Mỹ và Việt Nam đang làm những gì mà họ đáng lẽ phải làm từ năm 1978 khi nước Việt Nam thống nhất rất cần (nhưng để tuột mất) cơ hội hòa giải và bình thường hóa với Mỹ (là kẻ thù cũ) để tái thiết và đối phó với hiểm họa mới từ Trung Quốc (là “anh em bạn thù”); hoặc từ năm 1945 khi nước cộng hòa mới do Hồ Chí Minh đứng đầu rất muốn đồng minh với Mỹ để được giúp đỡ nhằm đối phó với nước Pháp thực dân và Trung hoa Dân quốc; hoặc từ năm 1873-1875 khi vua Tự Đức cử ông Bùi Viện làm sứ thần sang Mỹ để tìm kiếm (nhưng không đạt được) sự ủng hộ của Mỹ nhằm chống lại ý đồ của Pháp muốn biến Vương quốc An Nam thành thuộc địa. Liệu lịch sử có lặp lại?



                                        Một phiên họp kín tại cuộc hòa đàm ở Paris.
Đáng tiếc là hai nước đã để tuột mất những cơ hội lịch sử, nên bây giờ phải “trở về tương lai”, sau khi bị bầm dập bởi cuộc chiến tranh sai lầm đẫm máu, và lãng phí quá nhiều thời gian, sức lực và xương máu vào những trò chơi hậu chiến, bao gồm cái gọi là “Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba” (không kém khốc liệt) giữa “anh em bạn thù” và những đồng minh mới. Chủ nghĩa giáo điều và ý thức hệ cộng sản đã bị phá sản, làm mọi người ngộ ra một sự thật đơn giản là “không có bạn thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn” (Lord Palmerston).   
Đấy là tóm tắt nhanh bức chân dung đầy bi kịch của quan hệ Việt-Mỹ. Thật trớ trêu là tương lai quan hệ Việt-Mỹ nay lại gắn liền với tương lai Biển Đông, mà tương lai của Biển Đông lại gắn liền với quan hệ Trung-Việt, cũng như quan hệ Trung-Mỹ. Để làm rõ những khía cạnh đầy uẩn khúc của các mối quan hệ này, hãy bình tâm xem lại một số bối cảnh lịch sử có liên quan và một số biến chuyển gần đây, như những dấu hiệu để “trở về tương lai”.  

Ông Võ Văn Kiệt và ông Bill Clinton, cả hai ông khi tại nhiệm đều đã đóng góp nhiều cho bình thường hóa quan hệ Viêt Nam - Mỹ




Ngăn chặn Trung Quốc: Trở về tương lai?   
Ai quan tâm đến lịch sử chắc vẫn nhớ 60 năm về trước (sau chiến tranh Triều Tiên và Điện Biên Phủ), Mỹ đã triển khai chiến lược Ngăn chặn Trung Quốc bằng cách sử dụng Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (South East Asia Treaty Organization - SEATO) làm cơ chế an ninh tập thể ở khu vực này. Chẳng có gì sai khi Mỹ ngăn chặn Trung Cộng lúc đó cũng như bây giờ khi họ hung hăng trỗi dậy và bành trướng ở khu vực, bằng cách “xoay trục sang Châu Á” để tái cân bằng lực lượng, và sử dụng TPP (Tran-Pacific Partnership) làm khuân khổ hợp tác mới ở khu vực. Nhưng mục đích kinh tế của TPP có lẽ không quan trọng bằng mục đích chiến lược. 
Nói cách khác, đây là trò “rượu cũ bình mới”. “Rượu cũ” là mối đe dọa tiềm ẩn của chủ nghĩa bành trướng bá quyền Đại Hán (không hề thay đổi). “Bình mới” là Trung Quốc nay áp đặt “đường Lưỡi bò” và dùng dàn khoan để lấn chiếm Biển Đông và ráo riết xây dựng các đảo nhân tạo và công trình quân sự tại các đảo san hô mà họ chiếm của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hòng kiểm soát Biển Đông (như “lợi ích cốt lõi”). “Rượu cũ” là Mỹ “Ngăn chặn” Trung Quốc và “bình mới” là khuôn khổ hợp tác TPP (thay SEATO). Quan hệ Trung-Việt đầy phức tạp vừa là đối tác chiến lược (cùng ý thức hệ), vừa là đối thủ chiến lược (mâu thuẫn về lợi ích quốc gia). Đó là mối quan hệ bất bình thường (vừa yêu vừa ghét) như “anh em bạn thù”. Lúc này thật là dại dột và bất khả thi, nếu Việt Nam cố duy trì nguyên trạng quan hệ bất bình thường đó bằng cách đi trên dây để cân bằng quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ.   
Cách đây 60 năm, Mỹ đã ngăn chặn một Trung Quốc nghèo khổ (như con “hổ giấy”), tuy ngoài mặt thách thức Mỹ nhưng trong bụng rất muốn bắt tay. Còn bây giờ, Mỹ đang ngăn chặn một Trung Quốc giàu có như một “quái vật kinh tế và quân sự”, vừa muốn giữ nguyên trạng (trong nước), lại vừa muốn thay đổi nguyên trạng (ngoài nước), và thách thức vai trò cầm đầu thế giới của Mỹ. Trước đây, Mỹ đã ngăn chặn Trung Quốc bằng cách đánh Việt Nam (như một kẻ thù ý thức hệ). Còn bây giờ Mỹ đang ngăn chặn Trung Quốc hung hăng trỗi dậy bằng cách hợp tác với Việt Nam (như một đối tác chiến lược mới). 
Đây là một sự chuyển đổi đầy kịch tính, để sửa chữa một sai lầm lớn đã dẫn đến chiến tranh Việt Nam. Chiến lược Ngăn chặn Trung Quốc và chiến tranh Việt Nam là hai chuyện rất khác nhau, không nên nhầm lẫn. Đáng lẽ Mỹ không nên can thiệp vào Việt Nam bằng “một cuôc chiến tranh sai lầm, tại một địa điểm sai, vào một thời điểm sai, với một kẻ thù sai” (Omar Bradley, 1951). Nhưng phải 20 năm sau cuộc chiến, ông Robert McNamara mới công khai thừa nhận sai lầm này (trong cuốn sách xuất bản năm 1995). Thực ra, ngay từ năm 1965, ông George Ball (trợ lý ngoại trưởng) đã nhìn thấy trước một cuộc chiến sai lầm, đã cảnh báo và khuyên can tổng thống John Kennedy đừng quyết định đưa quân sang Việt Nam để can thiệp trực tiếp.

        Rất nhiều cuốn sách được xuất bản nói về cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.


Nhưng đáng tiếc là không ai muốn nghe George Ball, mà người ta còn cười nhạo ông ấy. Theo tôi, George Ball tài giỏi không kém gì George Kennan. Họ là những người Mỹ thông minh, dũng cảm, có tầm nhìn xa. Nếu chính quyền biết lắng nghe họ, thì nước Mỹ đã tránh được bao tổn thất về xương máu và nguồn lực tại Việt Nam và Iraq sau này. Tuy Iraq có một số điểm khác biệt, nhưng Việt Nam và Iraq là những bài học đẫm máu, còn tiếp tục ám ảnh người Mỹ. Thomas Vallely (cựu chiến binh, giám đốc Việt Nam program tại Harvard) đã nói rất đúng (tư liệu truyền hình, 1985), “chúng ta không nên làm cái việc sai lầm là đưa thanh niên đến chỗ chết, chỉ vì lòng tự hào của những ông già”.   
Khi ông Archimedes Patti (cựu sĩ quan OSS) ký tặng tôi cuốn sách “Why Vietnam” (Bangkok, 1990), tôi có hỏi ông ấy, “lúc đó họ có đọc sách của ông không”. Ông Patti nói với ánh mắt buồn rầu, “chẳng ai đọc nó cả, chẳng ai nghe tao cả”. Trong một lần báo chí phỏng vấn (năm 1981), ông Patti đã nói rất rõ,“Theo tôi, chiến tranh Viêt Nam là một sự lãng phí khồng lồ. Trước hết, nó không cần phải xảy ra. Hoàn toàn không. Không đáng tí nào cả. Trong suốt những năm chiến tranh Việt Nam, không ai đến gặp tôi để tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra năm 1945 hoặc 1944. Trong suốt những năm tôi làm việc ở Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao, và Nhà Trắng, không một ai có quyền hành đến gặp tôi cả…” 
Điều đó làm tôi nhớ lại sự kiện “Blood Telegram” (mà chắc nhiều người đã quên). Ông Archer Blood, tổng lãnh sự Mỹ tại Dacca (thủ phủ Đông Pakistan lúc đó) đã gửi điện về Washington (ngày 6/4/1971, có 29 cán bộ ngoại giao Mỹ ký tên) cảnh báo về nạn “diệt chủng có chọn lọc” đang biến Dacca trở thành “một thành phố ma” (3/4 dân số bị giết hoặc bỏ chạy). Họ công khai phản đối chính sách của Mỹ ủng hộ chính quyền quân sự (của tướng Yahya Khan) đàn áp dã man người Bengali đòi độc lập cho Bangladesh. Nhưng tổng thống Nixon và Tiến sĩ Henry Kissinger lúc đó đã lờ đi, vì muốn tướng Yahya Khan làm cầu nối với Trung Quốc để tổng thống Nixon đến Thượng Hải bắt tay Mao Chủ tịch, như một “bước ngoặt lịch sử”. Tôi xin trích một đoạn bức điện, “Chính phủ chúng ta đã không lên án việc đàn áp dân chủ. Chính phủ chúng ta đã không lên án tội ác. Chính phủ chúng ta đã không có biện pháp mạnh mẽ để bảo vệ công dân của mình, trong khi đó ra sức làm vừa lòng chính phủ do người Tây Pakistan nắm quyền và làm giảm bớt đi mọi sức ép tiêu cực của dư luận quốc tế đối với chính phủ Pakistan. Chính phủ chúng ta đã chứng tỏ một điều mà tất cả mọi người đều coi là phá sản về đạo đức”.


                 Trực thăng vận của quân lực Hoa Kỳ tại cuộc chiến ở Nam Việt Nam 


Tham dự tích cực: Trò chơi kết thúc?  
Tôi không biết tổng thống Nixon thực sự nghĩ gì khi ông ta bắt tay Mao Chủ tịch tại Thượng Hải năm 1972. Nhưng tôi tin ông Nixon đã một lần nói thật khi ông ấy nhận xét một cách chí lý (năm 1994, trước khi ông ấy chết), “Có lẽ chúng ta đã tạo ra một quái vật Frankenstein”. Ông Nixon lúc sắp chết đã trở thành “thiên tài”! Thực tế là phải 42 năm sau, đến tận 2014, đa số người Mỹ mới nhận ra “hệ quả không định trước” này và bắt đầu lo ngại về sự trỗi dậy “không hòa bình” của Trung Quốc (tuy vẫn tranh cãi về nguy cơ xung đột).
Công bằng mà nói, không nên đổ lỗi cho ông Nixon vì tiến sĩ Henry Kissinger mới chính là kiến trúc sư của chính sách Trung Quốc, từ Thông cáo Thượng Hải (Shanghai Communique) để cho Mỹ rút quân khỏi Việt Nam “trong danh dự” và chia sẻ quyền lực với Trung Quốc tại Đông Á, đến “Constructive Engagement” (Can dự tích cực) để thay thế “Containment” (Ngăn chặn) giúp Trung Quốc “trỗi dậy trong hòa bình”, và “China Card” (Con bài Trung Quốc) để biến Trung Quốc thành đồng minh “trên thực tế” chống Liên Xô, và cuối cùng là “China Lobby” để vận động hành lang ủng hộ Trung Quốc trong mọi chuyện làm ăn. Người ta tự hỏi liệu có mối liên kết đặc biệt nào giữa “China Lobby” và “Jewish Lobby” không? 
Trong nửa thế kỷ qua (nói chính xác là qua 8 đời tổng thống Mỹ, cả Cộng hòa lẫn Dân chủ), Washington vẫn cho rằng chủ trương “Can dự tích cực” là cách duy nhất để khuyến khích Trung Quốc cởi mở dần trong quá trình mà ông Kissinger gọi là “co-evolution” (cùng diễn biến) theo các giá trị của Mỹ, và “trỗi dậy trong hòa bình”. Chỉ gần đây, người Mỹ mới bắt đầu thất vọng như bị bạn tình Trung Cộng phản bội. Các chuyên gia về Trung Quốc bắt đầu nói đến sự cần thiết phải “ngăn chặn”, và hai bên bắt đầu coi nhau như đối thủ (thay cho đối tác). “Đồng thuận Washington” về lợi ích của “Constructive Engagement” bắt đầu đổ vỡ. 
Điều đó làm ta nhớ lại trận Trân Châu Cảng (7/12/1941) khi hạm đội Mỹ tại đây đã bị hải quân Nhật đánh đắm, nhưng đa số người Mỹ lúc đó vẫn không tin là Nhật Bản dám khởi chiến. Có lẽ “Đồng thuận Washington” giống một con voi quá lớn và quá chậm để dễ dàng chuyển dịch. Không biết người Mỹ có thật ngây thơ về Trung Cộng không, hay là cái bóng của ông Kissinger quá lớn, nhưng gần nửa thế kỷ qua, chính sách của Mỹ tại Châu Á-Thái Bình Dương vẫn xoay quanh “cái trục Trung Quốc” mà Kissinger đã thiết kế.
Constructive Engagement không phải là sáng kiến tồi, và lúc đó có thể không có sự lựa chọn nào khác tốt hơn. Nhưng sẽ là tồi tệ nếu Mỹ đi quá xa để giúp Trung Quốc trỗi dậy mà không có gì đảm bảo và răn đe để ngăn ngừa nguy cơ tạo ra con quái vật Frankenstein. Dù nguyên nhân Trung Quốc trỗi dậy ngày càng hung hăng (được ví như một đầu gấu tại khu vực) có phải do “Constructive Engagement” hay không, thì nhiều người nay cho rằng Mỹ và Trung Quốc khó tránh khỏi chiến tranh lạnh (thậm chí xung đột)
Gần đây, tỷ phú George Soros còn lập luận rằng nếu không nhân nhượng Trung Quốc về vấn đề tài chính sống còn đối với họ, thì lãnh đạo Trung Quốc có thể phải dùng đến xung đột vũ trang để tồn tại, dễ gây ra chiến tranh thế giới mới. Điều này nghe như bắt chẹt và làm ta nhớ lại chính sách “Appeasement” (nhân nhượng) của chính phủ Anh (Neville Chamberlain) đã thỏa hiệp quá nhiều với Hitler (tại Munich, năm 1938). “Constructive Engagement” nếu đi quá xa, mà không có gì đảm bảo hoặc răn đe, sẽ phản tác dụng hơn cả “Appeasement”. 
Michael Pillsbury, một cựu chuyên gia về Trung Quốc tại Bộ Quốc phòng Mỹ, nhận xét “Trung Quốc không đạt được hầu hết những mong muốn màu hồng của chúng ta”. David  Lampton, một học giả về Trung Quốc tại Đại học Johns Hopkins kết luận “Quan hệ Trung-Mỹ đã đi đến chỗ đổ vỡ”. Robert Blackwill, một chuyên gia về an ninh quốc tế tại Trung tâm Belfer, Đại học Harvard, lập luận “Constructive Engement với Trung Quốc chỉ giúp cho đối thủ mạnh lên”. Trong khi đó, Michael Swaine, một học giả về Trung Quốc tại Carnegie Endowment, đề xuất “phải có một sự cân bằng lực lượng ổn định Mỹ-Trung”. Với quan điểm hơi khác một chút, Kevin Rudd, cựu thủ tướng Úc, một chuyên gia về Trung Quốc, đã tóm tắt quan điểm của Trung Quốc về mục tiêu của Mỹ là “nhằm cô lập, ngăn chặn, làm suy yếu, phân hóa Trung Quốc, và phá hoại lãnh đạo chính trị Trung Quốc”. Kevin Rudd còn khuyến nghị “Constructive Realism” như một sáng kiến mới “thực dụng hơn” để thay thế cho “Constructive Engagement”.


  
Tôi cũng không rõ liệu cao kiến của ông Kevin Rudd và Michael Swaune, tuy thực dụng hơn, nhưng liệu có hiệu quả hơn không, khi điều chỉnh chiến lược gần đây của Washington vẫn tỏ ra “quá ít và quá muộn”. Lập trường cứng rắn hơn của Mỹ (như điều máy bay quân sự đến Biển Đông) là một tín hiệu tích cực và lời cảnh báo rõ ràng đối với Trung Quốc, nhưng có lẽ vẫn chưa đủ thuyết phục Bắc Kinh phải thực sự nghiêm túc, và chưa đủ thuyết phục các nước Asean đang bị Trung Quốc bắt nạt và phân hóa phải dựa vào Washington hơn là Bắc Kinh. 
Ít nhất đó là nhận thức của Trung Quốc về lập trường cứng rắn hơn của Mỹ tại Biển Đông và tại Đối thoại Shangri-La (29-31/5/2015). Dường như có một khoảng cách lớn về nhận thức giữa Bắc Kinh và Wahington, rất nguy hiểm cho quá trình giải quyết xung đột, vì đôi khi nhận thức quan trọng hơn cả thực tế. Đây không phải chỉ là vấn đề truyền thông, mà còn là ý đồ của Trung Quốc muốn thao túng cả thế giới qua một nước cờ lớn, vì tin rằng thời gian ủng hộ họ. Đúng hay sai, đó là cách suy nghĩ và nhận thức “đặc thù” Trung Quốc. 
Biển Đông: Một thùng thuốc súng?
Hơn một năm nay, từ khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào Biển Đông và ráo riết xây dựng các công trình quân sự và đảo nhân tạo trên các đảo san hô họ chiếm tại Hoàng Sa và Trường Sa, để chuẩn bị thiết lập khu vực nhận diện phòng không, đe dọa tự do hàng hải, thì Biển Đông đã nóng lên như thùng thuốc súng. Quốc hội Mỹ và giới nghiên cứu đã chuyển biến khá mạnh về tư duy chiến lược, buộc chính quyền Obama phải có thái độ cứng rắn hơn, đưa máy bay quân sự và tàu chiến vào Biển Đông để răn đe, bất chấp Trung Quốc phản đối. Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế đã thực sự lo ngại. Một số nước đồng minh của Mỹ (như Nhật Bản và Úc) đã thay đổi hẳn thái độ, sẵn sàng tham gia tuần tra hải quân trên Biển Đông.  
Trong khi bức tranh địa chính trị tại khu vực thay đổi nhanh và rõ nét hơn, thì tương lại Biển Đông vẫn mù mịt và bất định. Liệu đối đầu Trung-Mỹ tại Biển Đông có dẫn đến chiến tranh thật không, hay chỉ là chiến tranh lạnh? Liệu Trung Quốc và Mỹ có thể thỏa thuận với nhau để chia sẻ quyền lực (như trước đây)? Liệu căng thẳng Trung-Việt có dẫn đến chiến tranh không, hay tiếp tục nhùng nhằng (không hòa không chiến) và Trung Quốc tiếp tục chiến thuật “cắt lát gặm dần” như “chuyện đã rồi”, không đánh vẫn thắng? Và cuối cùng, liệu sức ép của Mỹ và cộng đồng thế giới, cũng như quá trình dân chủ hóa và đấu tranh quyền lực tại Trung Quốc, có đủ sức xoay chuyển thái độ của Bắc Kinh, và hóa giải được xung đột lợi ích tại Biển Đông để biến thùng thuốc súng này thành khu vực hợp tác hòa bình và cùng khai thác? 
Một số chuyên gia về Trung Quốc theo thuyết “cái bẫy Thucydides” (Graham Allison đặt tên) cho rằng xung đột Trung-Mỹ là khó tránh khỏi, và Biển Đông có thể là cái ngòi nổ cho thế chiến thứ ba. Một số khác theo thuyết phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế (phái “Neo-liberalism”) lập luận rằng chiến tranh Trung-Mỹ rất khó xảy ra vì hai nền kinh tế khổng lồ này đã quá phụ thuộc vào nhau, nên khả năng cùng bị hủy diệt do chiến tranh là một sự răn đe hiệu quả. Số còn lại đưa ra nhiều giả thuyết và kịch bản khác nhau, chủ yếu dựa trên phân tích hàn lâm, thường làm rắc rối hơn là làm sáng tỏ vấn đề, và góp phần làm cho Biển Đông nóng hơn (trên mặt báo và các diễn đàn nghiên cứu) như thêm gia vị vào các thực đơn nghiên cứu. 
Graham Allison dựa vào thực tế lịch sử để phân tích rút ra quy luật, chủ yếu nhằm cảnh báo về một nguy cơ tiềm tàng khó tránh, để biết mà phòng tránh chứ không phải để kết luận như đinh đóng cột rằng chiến tranh nhất thiết sẽ xảy ra. Trong thế giới đầy biến động khôn lường và đầy biến số này, không ai có thể chắc chắn về một điều gì như hằng số.


Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia trong thế giới phẳng là một thực tế hiển nhiên. Trong trường hợp Trung-Mỹ thì sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới càng lớn hơn. Nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau càng lớn thì mâu thuận cũng càng lớn và rủi ro càng cao, rất khó kiểm soát. Sự khác biệt về hệ thống giá trị cơ bản giữa hai quốc gia này như mặt trăng và mặt trời. Trong khi Mỹ dẫn đầu thế giới trong việc phát triển truyền thông xã hội, thì Trung Quốc dẫn đầu thế giới trong việc kiểm soát nó. Trong khi Mỹ muốn Trung Quốc áp dụng hệ thống giá trị của mình, thì lãnh đạo Trung Quốc coi đó là lật đổ. 
Nếu cả hai xu hướng chính là “cái bẫy Thucydides” và “phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế” cùng tồn tại trong quan hệ Trung-Mỹ thì nó có thể triệt tiêu lẫn nhau, dẫn đến nhùng nhằng (không hòa không chiến) như chiến tranh lạnh kiểu mới (xu hướng thứ ba). Nếu tình huống này thắng thế, thì Trung Quốc càng có lợi, tiếp tục “cắt lát” để gặm dần, biến thành “chuyện đã rồi”, và cuối cùng đạt được mục tiêu kiểm soát Biển Đông mà không tốn một viên đạn. 
Có lẽ cả Trung Quốc và Mỹ đều qúa bận tâm về các vấn đề chính trị nội bộ nên muốn hướng dư luận vào các vấn đề chính trị quốc tế. Họ cũng có thể gây căng thẳng tại đâu đó trên thế giới để thử gân nhau. Nhưng có lẽ lúc này cả hai đều không muốn và không sẵn sàng chiến tranh tổng lực. Do đó, kết quả có thể là chiến tranh lạnh kiểu mới, một dạng chiến tranh nửa dơi nửa chuột (hybrid warfare) hoặc mượn tay người khác (proxy warfare). 
Tuy nhiên, khi căng thẳng được đẩy lên thành kịch tính thì rủi ro càng lớn, và hai bên cần một cơ chế kiểm soát rủi ro để tránh sử dụng vũ lực. Dù sao, người ta cho rằng chiến tranh lạnh vẫn còn hơn là thế chiến thứ 3. Quá trình tháo gỡ cuộc xung đột địa chính trị này chắc còn kéo dài, nên nó chỉ có lợi cho chiến lược của Trung Quốc tại Biển Đông. Căng thẳng tại Biển Đông chắc sẽ là một chủ đề chính tại Đối thoại Trung-Mỹ về Chiến lược và Kinh tế (23/6/2015), nhưng có lẽ nó chỉ là bước tiếp nối Đối thoại Shangri-La tại Singapore gần đây. 
Dù lạc quan về lập trường cứng rắn hơn của Mỹ đối với Trung Quốc tại Biển Đông, chúng ta cũng không nên quá mong đợi vào Đối thoại Trung-Mỹ cũng như vào chuyến thăm Mỹ chính thức của Tông Bí thư Nguyễn Phú Trọng (đầu tháng 7/2015). Chừng nào lập trường giữ cân bằng quan hệ của Hà Nội đối với Bắc Kinh và Washington chưa có chuyển biến cơ bản, thì cuộc gặp cấp cao lần này có lẽ cũng không khác gì mấy so với cuộc gặp cấp cao lần trước, giữa Chủ tich Trương Tấn Sang và Tổng thống Barack Obama (25/7/2013). Tuy nhiên, chúng ta có lý do để hy vọng rằng chuyến thăm của Tổng thống Obama đến Việt Nam (vào cuối năm nay) có thể mở ra một bước ngoặt mới cho quan hệ hai nước. Nếu không ngăn chặn kịp thời, thì Trung Quốc có thể vượt qua cái ngưỡng “không thể đảo ngược được” tại Biển Đông.      
     
Trong khi chưa biết rõ kết cục tại Biển Đông sẽ như thế nào, thì các học giả về Trung Quốc cho rằng màn chót của chế độ Trung Cộng có lẽ đã bắt đầu. Bề ngoài, Trung Quốc có vẻ giàu có và hùng mạnh, nhưng nó che đậy một hệ thống đã đổ vỡ bên trong. Không phải chỉ có ông Gordon Chang lâu nay dự báo “Trung Quốc sắp sụp đổ”, mà cả giáo sư Paul Krugman (được giải Nobel kinh tế) cũng báo động rằng “Trung Quốc đã kịch đường” (tới điểm giới hạn). Đáng chú ý là cả giáo sư David Shambaugh (một chuyên gia hàng đầu về Trung Quốc tại George Washington University) đã tuyên bố “màn chót của chế độ Trung Cộng đã bắt đầu”…
 
Chiến dịch “đả hổ” chống tham nhũng quyết liệt của ông Tập Cận Bình để cứu chế độ (hay củng cố địa vị) đang đẩy màn chót đến nhanh hơn. Việc tăng cường đàn áp càng bộc lộ sự đổ vỡ của hệ thống và đẩy nhanh quá trình sụp đổ. Thay vì mở cửa, ông Tập Cận Bình đang tăng cường kiểm soát gấp đôi. Thực ra, chính trị nội bộ mới là mối lo chính, vì ngân sách an ninh của Trung Quốc còn lớn hơn cả ngân sách quốc phòng. Giới tinh hoa ở Trung Quốc sẵn sàng ra đi hàng loạt nếu hệ thống bắt đầu sụp đổ. Theo Elizabeth Economy (tại Council on Foreign Relations) 2/3 (hoặc 64%) người Trung Quốc có tài sản trên 1,6 triệu USD đang di cư hoặc dự định di cư. Xu hướng “bỏ phiếu bằng chân” ào ạt này là một dấu hiệu hệ trọng, phải theo dõi kỹ.


Anh em bạn thù: Làm sao để thoát? 
Định mệnh về địa lý
Dù muốn hay không, Việt Nam vẫn phải sống cạnh người láng giềng khổng lồ, như một định mệnh về địa lý, không thể thay đổi được. Vì vậy về lâu về dài, Việt Nam phải tìm cách chung sống hòa bình, tử tế với các nước láng giềng, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Là một nước nhỏ hơn, muốn bảo vệ độc lập, chủ quyền của mình, Việt Nam phải thay đổi và mạnh lên để Trung Quốc phải tôn trọng. Nếu Việt Nam yếu đi trong khi Trung Quốc mạnh lên, thì chắc chắn Việt Nam sẽ mất độc lập, chủ quyền và trở thành miếng mồi ngon cho tham vọng bành trướng bá quyền Trung Quốc. Đáng tiếc tình trạng hiện nay đúng là như vậy. Không phải Việt Nam chỉ mất đất biên giới và hải đảo tại Biển Đông, mà có thể sẽ mất tất cả, để “trở về tương lai” như thời kỳ Bắc thuộc. 
Tương quan lực lượng
Trung Quốc đã trở thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới, đang thách thức vai trò số một của Mỹ, và muốn kiểm soát toàn bộ Biển Đông. Trung Quốc không chỉ là con quái vật kinh tế, mà còn là con quái vật quân sự và ý thức hệ, với tham vọng bành trướng bá quyền như đầu gấu trong khu vực. Họ đang lợi dụng chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hướng dân Trung Quốc vào “Giấc mộng Trung Hoa”, hòng che đậy những mâu thuẫn cơ bản đang đe dọa sự tồn tại của chế độ. Biển Đông chỉ là một mảnh trong ván cờ lớn của họ. Trung Quốc muốn giữ chặt Việt Nam trong cái bẫy ý thức hệ, như một chư hầu ngoan, không được thân hơn với Mỹ. Vì vậy, Việt Nam phải thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ, để lớn mạnh và độc lập. Việt Nam phải khai thác được nguồn nhân lực của cái mỏ người hơn 90 triệu dân bằng cách nâng cao dân trí để phát triển kinh tế và đổi mới chính trị. Tuy nhiên, việc này không thể một sớm một chiều. Đáng tiếc là chúng ta đã đánh mất ít nhất bốn thập kỷ, kể từ sau Chiến tranh Việt Nam.  
Chủ nghĩa dân tộc cực đoan
Chủ nghĩa dân tộc luôn là động lực chính trong quan hệ quốc tế. Trong lịch sử, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam và Trung Quốc đã chứng tỏ sức mạnh và sức sống tiềm tàng, như những đối thủ truyền kiếp. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bành trướng bá quyền là hiểm họa cho cả Việt Nam và Trung Quốc. Khi chủ nghĩa dân tộc trở thành cực đoan và bá quyền, nó như con quái vật, xô đẩy các nước vào lò lửa chiến tranh. Chủ nghĩa dân tộc thường bị các chế độ độc tài thao túng để kích động lòng yêu nước và huy động dân chúng ủng hộ các tham vọng cực đoan của họ, hoặc che đậy những mâu thuẫn xã hội và xung đột nội bộ.
Người Đức thông minh tài giỏi như vậy, nhưng cũng bị Hitler và đảng Quốc Xã cực đoan thao túng, dẫn đến thảm họa chiến tranh thế giới. Người Trung Hoa có bề dày lịch sử và văn hóa như vậy, nhưng cũng bị Mao và các phái cộng sản cực đoan thao túng, dẫn đến thảm họa Cách mạng Văn hóa. Người Khmer hiền lành như vậy, nhưng cũng bị Pol Pot và Khmer Đỏ thao túng, trở thành nạn nhân của họa diệt chủng. Nguy cơ xung đột tại Biển Đông là do chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa bành trướng bá quyền. Vì vậy, muốn tránh hiểm họa chiến tranh và xung đột, các nước phải nâng cao dân trí và dân chủ hóa, tăng cường cả sức mạnh mềm lẫn sức mạnh cứng, để có “sức mạnh thông minh”.



Dân chủ hóa  
Đối với các xã hội chuyển đổi (như Trung Quốc và Việt Nam), dân chủ hóa là quy luật tất yếu và quá trình cần thiết để xã hội phát triển. Quá trình này nhanh hay chậm tùy thuộc vào đặc điểm chính trị và xã hội của từng nước. Dân chủ hóa thường song hành với quá trình phát triển tầng lớp trung lưu và dân trí cùng xã hội dân sự. Nó vừa là động lực để đổi mới và phát triển kinh tế, vừa là đối trọng để hạn chế chủ nghĩa cực đoan và cuồng tín. Do đặc điểm lịch sử, văn hóa phức tạp nên quan hệ Việt-Trung vừa bị chi phối bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và bành trướng bá quyền, vừa bị trói buộc bởi ý thức hệ cộng sản cực đoan. Chỉ có dân chủ hóa và nâng cao dân trí thì Việt Nam và Trung Quốc mới có thể thoát khỏi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và nguy cơ xung đột. Hiện nay, tầng lớp trung lưu ở Việt Nam đã giàu hơn, nhưng dân trí chưa chắc đã cao hơn. Sự phát triển bùng nổ của internet và truyền thông xã hội dựa trên kỹ thuật số gần đây có vai trò rất lớn trong quá trình này, như một cuộc cách mạng truyền thông.  
Cất cánh kinh tế 
Tuy Trung Quốc và Việt Nam có thể chế chính trị giống nhau (do Đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo), nhưng kinh tế hai nước phát triển không giống nhau, làm quan hệ trở thành bất bình đẳng và lệ thuộc. Trong khi kinh tế Trung Quốc cất cánh với tốc độ tăng trưởng 2 con số trong suốt 3 thập kỷ, thì kinh tế Việt Nam không cất cánh lên được, thậm chí còn tụt hậu. Mặc dù đều độc tài và tham nhũng, nhưng Trung Quốc đã trỗi dậy mạnh mẽ và nhanh chóng theo kinh tế thị trường, trong khi Việt Nam vẫn duy trì “định hướng XHCN”, dựa vào các doanh nghiệp nhà nước tham nhũng và yếu kém làm chủ đạo, dẫn đến thua lỗ và phá sản (như Vinashin và Vinalines). Trong khi Trung Quốc vơ vét tài nguyên khoáng sản toàn cầu để nuôi con quái vật kinh tế khổng lồ, xuất khẩu hàng hóa ra khắp thế giới để tích lũy tư bản, thì Việt Nam vẫn không công nghiệp hóa và nội địa hóa sản xuất được, chỉ bán rẻ tài nguyên khoáng sản lấy tiền nhập siêu hàng tiêu dùng. Đây cũng là một bi kịch quốc gia. Nếu không đổi mới cơ bản về thể chế kinh tế và chính trị, để hội nhập vào thị trường thế giới, thì Việt Nam khó tránh khỏi lệ thuộc vào Trung Quốc và mất chủ quyền tại Biển Đông.  
Đối tác chiến lược.  
Muốn đối phó với một láng giềng lớn chuyên bắt nạt (như Trung Quốc), Việt Nam phải liên kết với đối tác chiến lược mạnh hơn (như Mỹ) làm đối trọng và răn đe. Đó là quy luật tất yếu ai cũng biết, nhưng vận dụng như thế nào là một chuyện khác. Có nhiều bài học lịch sử. Ví dụ, không nên dựa hẳn vào bên này để chống bên kia, gây thù chuốc oán, như trước đây Việt Nam đã dựa hẳn vào Trung Quốc để chống Mỹ, rồi sau này lại dựa hẳn vào Liên Xô để chống Trung Quốc. Nhưng cũng không nên có quan hệ đối tác chiến lược với quá nhiều nước, mà chẳng nước nào có khả năng đương đầu với Trung Quốc để bênh vực Việt Nam. Nó giống như câu thành ngữ “lắm mối tối nằm không”. Việc giữ cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Mỹ bằng cách đi trên dây không phải là một chiến lược lâu dài. Càng không phải là một cái cớ để trì hoãn quan hệ đối tác chiến lược sống còn với Mỹ khi Trung Quốc đã lộ rõ bộ mặt thật là mối đe dọa chung đối với khu vực. Không nên nhầm lẫn mục tiêu chiến lược với phương tiện chiến thuật. Nếu không có quan hệ đối tác chiến lược chặt chẽ với Mỹ và gia nhập TPP, Việt Nam dễ bị Trung Quốc bắt nạt và đô hộ. Muốn có quan hệ đối tác chiến lược chặt chẽ, trước hết người Việt phải đoàn kết và hòa giải với nhau, để vươn lên mạnh mẽ, làm các đối tác tôn trọng và tin cậy. Quan hệ đối tác chiến lược là vô nghĩa nếu không dựa trên tầm nhìn chiến lược và lòng tin chiến lược.  
   
NQD - 6/2015
* Nguyen Quang Dy is a Harvard Nieman Fellow, 1993.


*Ảnh minh họa trong bài của Blog Nguyễn Vĩnh (từ tư liệu cá nhân lưu trữ & sưu tầm trên Internet).

------
Tham khảo
1. “Hitting China’s Wall”, Paul Krugman, the New York Times, July 18, 2013 
2. “Pivot 2.0”, A Report of the CSIS Asia Program, CSIS, Jan 2015
3. “The Coming Chinese Crackup”, David Shambaugh, the Wall Street Journal, March 6, 2015.
4. “Revising US Grand Strategy Toward China”, Robert Blackwill & Ashley Tellis, Special Report, Council on Foreign Relations Press, April 2015
5.  “The Future of US-China Relations under Xi Jinping”, Kevin Rudd, Summary Report, Belfer Center, Harvard Kennedy School, April 2015,
7. “A Tipping Point in US-China Relations is upon us”, David Lampton, address, at the Carter Center conference, May 6, 2015
8. “Retaining America’s balance in the Asia-Pacific: Countering China’s Coercion in South East Asia”, Patrick Cronin, Congressional Testimony, May 13, 2015
9. “At a Crossroad: What is the Future of US-China Relations?”, Elizabeth Economy, the National Interest, May 21, 2015
10. “Fact, Fiction and the South China Sea”, Bill Hayton, Asia Sentinel, May 25, 2015
11. “Can China Be Contained”, Andrew Browne, the Wall Street Journal, June 12, 2015
 
Nguồn: Vinhnv43

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đọc lại hồi ký Trần Quang Cơ

Hồng Khiêm( Nguyên Tham tán Bộ Ngoại giao )
 

Đã hớ, đã dại rồi mà còn nói đặt sự nghiệp cách mạng lên trên hết… Người lãnh đạo không nên làm như vậy. Với Trung Quốc, vừa qua không phải là chúng ta bình thường hóa, mà là chúng ta đã bị “phụ thuộc hóa” quan hệ (Phạm Văn Đồng).
 
Tối hôm trước ngày đi viếng cựu Thứ trưởng Trần Quang Cơ, tôi đọc lại “Hồi ức và Suy nghĩ”của ông, coi như một cách tưởng nhớ đối với người quá cố mà tôi rất đỗi kính trọng, người đã tự rút ngắn sự nghiệp của cả đời mình đặng để lại cho hậu thế những trang tư liệu lịch sử quý giá cùng những kiến nghị và những bài học đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nhiều bài học đến nay vẫn chưa được học hết, nhiều khuyến nghị ông nêu ra cho vẫn chưa được áp dụng hoặc thực hiện đến nơi đến chốn.

  Qua điếu văn do Bộ trưởng BNG Phạm Bình Minh đọc tại tang lễ, ta được biết chàng thanh niên TRẦN QUANG CƠ đã là người lính bảo vệ thủ đô Hà Nội, rồi hoạt động địch vận trong kháng chiến, sau đó khi hòa bình lập lại, theo sự phân công của tổ chức lại khoác ba lô về nhận công tác tại Bộ Ngoại giao. Tại đây, sau các công việc với Mỹ (đàm phán ở Paris với Mỹ về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đàm phán bình thường hóa quan hệ với Mỹ dở đang), Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã phân công cho ông - một người am hiểu về Mỹ, phương Tây - phụ trách mảng khó khăn nhất, “xương xẩu” nhất của công tác ngoại giao lúc bấy giờ: đó là giải pháp cho vấn đề Campuchia. Bắt đầu tham gia cách mạng là 1 người lính, rồi trở thành Thứ trưởng, Thứ trưởng thứ nhất, ông đã lại như một người lính dành cả chục năm cuối đời công tác của mình cho vấn đề Campuchia gai góc, mà vấn đề CPC lại gắn chặt với Trung Quốc. Ông đã sát cánh cùng với Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, trở thành một “cặp bài trùng” trong cuộc đấu tranh gay go phá bao vây cấm vận như mục tiêu đấu tranh cho cả một giai đoạn cách mạng nước ta lúc đó.
●  Bằng sự phân tích tinh tường, thấu đáo, “Hồi ký” của Trần Quang Cơ đã vạch ra ý đồ và vai trò thực sự của các nước lớn: Mỹ, Liên Xô, Trung quốc trong cuộc xung đột CPC. Trung Quốc bằng mọi cách đòi bỏ chữ “diệt chủng” để “rửa mặt” khỏi sự dính líu của họ với một trong những chế độ tàn bạo ghê tởm nhất trong lịch sử. Ông phân tích cái gọi là “giải pháp đỏ” sẽ gây cho Việt Nam rắc rối như thế nào, đấu tranh ngoại giao với Trung Quốc vất vả ra sao khi những người lãnh đạo Trung Quốc từ trên xuống dưới kể cả Đặng Tiểu Bình đều sử dụng thủ đoạn xuyên tạc sự thật một cách trắng trợn (cuộc nói chuyện của Đặng Tiểu Bình với Kayson về Việt Nam 7/10/1989), không bao giờ ngừng chia rẽ nội bộ và làm suy yếu Việt Nam.
Đọc “Hồi ức và Suy nghĩ”, có thể theo dõi cách xử lý vấn đề CPC và quan hệ với Trung Quốc của lãnh đạo Việt Nam đã khiến Việt Nam bị lừa và trượt dần vào vòng xoáy xảo trá của Trung Quốc như thế nào, mà bước ngoặt là hội nghị Thành Đô, và ông Trần Quang Cơ coi đó là hành động vô nguyên tắc, không đúng với nghị quyết BCT và bị Trung Quốc lỡm. Cuối chương 10, Trần Quang Cơ đã phải thốt lên: “Thuốc đắng thầy Tầu bốc cho ta đắng thật, nhưng vẫn không dã được tật”. Ngây thơ, cả tin vào Trung Quốc là đồng minh bảo vệ CNXH mặc dù bị Trung Quốc từ chối mà vẫn tự nguyện “giơ ngực cho người ta đấm” như nhận xét vừa hài hước vừa chua xót của Cố vấn Phạm Văn Đồng. Ông Cơ đã dẫn lời phát biểu của Phạm Văn Đồng tại cuộc họp BCT: “Mình hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao. Tôi không nghĩ người lãnh đạo nên làm như vậy”.
Theo ông Trần Quang Cơ, Việt Nam-Trung Quốc “không phải là bình thường hóa quan hệ, mà là phụ thuộc hóa quan hệ”, và kể từ sau Đại hội VII, đánh giá Trung Quốc của Bộ chính trị từ chỗ có 2 mặt: bành trướng bá quyền và XHCN nhưng về sau chủ yếu chỉ còn mặt thứ 2. Dẫn sự việc cấp cao của ta chỉ đạo các ngành quan hệ với Trung Quốc thông qua Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam mà không cần qua Sứ quán Việt Nam ở Trung Quốc, thậm chí không cần qua cả Bộ Ngoại giao Việt Nam và còn đi xin ý kiến đối phương (Ban Đối ngoại đi hỏi Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Từ Đôn Tín) về hướng giải quyết vấn đề trong đàm phán trước khi cử người đi đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao với Trung Quốc cho có kết quả. Ông Cơ cho rằng  “thật là có một không hai trong lịch sử đối ngoại!”.
 ●  Trước bước ngoặt thay đổi thời đại, thay đổi chiến lược trên thế giới cuối thế kỷ XX, Trần Quang Cơ mong ước Việt Nam sẽ “thay đổi tư duy đối ngoại để có được một đường lối phù hợp thực tế khách quan nhằm đưa đất nước thoát ra khỏi thế cô lập, hòa nhập được với đà phát triển chung của khu vực và thế giới”.
“Nhưng không!”, ông Cơ than thở: “Tư duy chính trị xơ cứng đã giam giữ nước ta trong hoàn cảnh khó khăn một thời gian dài”. Có nhiều chủ trương, quyết sách ta chậm đến 20 năm, chẳng hạn như  “từ chối đề nghị của Mỹ và làm cao khiến ta bỏ lỡ cơ hội, khiến cho bình thường hóa với Mỹ và gia nhập ASEAN mãi 20 năm sau (1995) ta mới thực hiện một cách chật vật”.
Ông lấy làm tiếc rằng “việc ta bỏ lỡ cơ hội với Mỹ đã khiến Việt Nam gần như đơn độc trước một Trung Quốc đầy tham vọng”, và đặt câu hỏi: “Liệu Trung Quốc có dám tiếp tay cho bọn diệt chủng Polpot khiêu khích ta và Trung Quốc có dám đánh ta năm 1979, nếu như ta có một chiến lược đúng đắn và cầu thị hơn?” Một câu hỏi đau đáu và chưa bao giờ mất tính thời sự.
Sau khi giải quyết xong vấn đề CPC, đáng lẽ về mặt đối ngoại  phải mở ra 1 thời kỳ đa phương hóa quan hệ một cách thực sự vì mục đích cao nhất là lợi ích dân tộc và phát triển đất nước, thì đất nước lại rơi ngay vào cái bẫy “toàn diện” mới (bẫy “ý thức hệ” về chính trị và “bẫy phát triền” về kinh tế). Nếu tính từ khi lập nước (năm 1945), đây là lần thứ ba hoặc thứ tư trước các bước ngoặt lịch sử (1946, có thể 1954, 1975, 1990), chúng ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội cho an ninh và phát triển tốt hơn.
Đọc lại Hồi ký Trần Quang Cơ và phần “Kiến nghị” ông viết gửi cho Bộ Chính trị theo yêu cầu của BCT, chúng ta thấy thật kỳ lạ là những vấn đề ông đặt ra từ cách đây 20 năm đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Chẳng hạn về những thách thức, trong số thách thức bên trong ông Cơ nhấn mạnh “tệ tham nhũng đang hủy hoại sức đề kháng vật chất cũng như tinh thần của dân tộc ta, làm giảm hẳn khả năng chống đỡ đối với các thách thức bên ngoài”. Về thách thức bên ngoài, ông nhấn mạnh diễn biến hòa bình và bá quyền bành trướng, trong đó những thách thức đe dọa nhiều mặt của Trung Quốc đối với ta đều là những vấn đề hiện thực đang xảy ra và ta đang phải xử lý, khác với những thách thức đe dọa của các đối tượng khác có phần nào chỉ là giả định và có khi chỉ là sự hù dọa của Trung Quốc.
Truyện Trung Quốc có quân sư Gia Cát Lượng viết bảo bối, kế sách cho tướng ra trận khi gặp hiểm nguy thì giở ra xem. Nhưng các kiến nghị của Trần Quang Cơ dù có giá trị đến mấy, nhưng đáng tiếc, ở Việt Nam không có nhà ‘minh quân” nào biết  giở ra xem và đưa vào ứng dụng trong thực tiễn.
Tâm nguyện đau đáu của “Hồi ức và Suy nghĩ” của Trần Quang Cơ là “rút ra những bài học bổ ích và đích đáng cho ngoại giao trong hiện tại và tương lai vì một mục đích tối cao là đảm bảo lợi ích của dân tộc trong mọi tình huống”. Vì thế ông đã bỏ vào đấy tất cả tâm huyết, trí tuệ, bản lĩnh, cả sinh mệnh chính trị, toàn bộ sức bình sinh của con người ngoại giao - một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, kỳ cựu, thượng thặng, vì đất nước! Tôi cũng suy tư mãi về quyết định “bỏ cuộc chơi” của ông. Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là bị ép, còn ông, ông tự bỏ. Bỏ cuộc chơi khi canh bạc đã tàn hoặc chỉ còn lại những con bạc khát nước thì cũng là điều không hẳn là đáng hối tiếc. Chỉ tiếc là tiếc cho đất nước, cho dân tộc, nếu nhỡ lần này nữa thì chúng ta sẽ rơi vào một vòng trầm luân mới mà chưa biết khi nào mới lại thoát ra được?

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 3-7-15
__________

Mục Lục

Hồi ức và Suy NghĩViệt Nam trong thập niên 70 của thế kỷ 20Một nhiệm kỳ đại sứ không tẻ nhạtĐại hội “đổi mới” CP87 và 3 tầng quan hệ của vấn đề CampuchiaTừ chống diệt chủng đến “giải pháp đỏ”?Một bước tự cởi trói: đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ .Trung Quốc uốn ḿnh để thích nghi với thế cựcHiệp 1 của Hội nghị quốc tế Pa–ri về CampuchiaĐặng Tiểu B́nh tiếp Kaysone Phomvihan[1] để nói với Việt NamThuốc đắng nhưng không dă được tậtBCT đánh giá cuộc đàm phán tháng 6/1990Một sự chọn lựa thiếu khôn ngoanCuộc gặp cấp cao Việt–Trung tại Thành Đô
3–4/9/90
Thành Đô là thành công hay là thất bại của ta?Ai là người đáng lư ra phải nhớ dai?Món nợ Thành ĐôNhững vấn đề về t́nh h́nh quốc tế và chính sách đối ngoại c̣n có tranh luậnĐại hội VII và cái giá phải trả cho việc b́nh thường hoá quan hệ với Trung Quốc.Hiệp 2 của Hội nghị quốc tế về Campuchia.Kết thúc một chặng đường nhưng lịch sử chưa sang trangNhững thách thức đối với an ninh và phát triển của ta –– Một số kiến nghị đối sáchNhững thách thức đe dọa an ninh và phát triển của ta có thể xuất xứ từ đâu và dưới những dạng nào?Nguy cơ lớn nhất và thúc bách nhất đe dọa an ninh và phát triển của ta là từ đâu?Kiến nghị đối sáchBảng niên đạiPhụ Bản

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vì sao Trung Quốc sợ Nhật Bản can dự vào Biển Đông?


vi sao trung quoc so nhat ban can du vao bien dong
Sau cuộc tập trận song phương Nhật Bản-Philippines tại Biển Đông, Bắc Kinh liên tục công kích Tokyo. Động thái mới nhất diễn ra ngày 29/6/2015, khi nhân vật số bốn trong chính quyền Trung Quốc lên tiếng đòi Nhật Bản tránh xa hồ sơ Biển Đông. Cùng lúc, Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra thông cáo yêu cầu Tokyo thận trọng khi xử lý các vấn đề an ninh, cũng như Biển Đông, RFI đưa tin.
 
Theo hãng tin Nhật Bản Kyodo, nhân cuộc tiếp xúc với một phái đoàn nghị sĩ Nhật Bản ghé thăm Bắc Kinh, ông Du Chính Thanh (Yu Zhengsheng) Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, đã cho rằng vấn đề Biển Đông hoàn toàn không có liên quan gì đến Nhật Bản.
 
Đối với nhân vật trên danh nghĩa là lãnh đạo đứng hàng thứ tư trong guồng máy lãnh đạo Bắc Kinh, việc Nhật Bản cùng với Mỹ đua nhau chỉ trích Trung Quốc trong hồ sơ Biển Đông, mà không nói gì đến Philippines và các nước tranh chấp khác, là một điều không công bằng.
 
Cũng trong chiến dịch phản công nhắm vào Nhật Bản, vào hôm 29/6, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã lên tiếng cảnh cáo Tokyo là nên thận trọng và có thái độ đúng đắn khi xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh quân sự và Biển Đông.
 
Phản ứng trên đây được đưa ra sau khi truyền thông Nhật Bản tiết lộ rằng Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, khi nói chuyện với giới báo chí hồi đầu tháng Sáu, đã cho rằng các cải cách về an ninh mà Tokyo đang tiến hành đích thực nhắm vào Bắc Kinh và vấn đề Biển Đông.
 
Theo phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh, nếu các thông tin trên xác thực, thì giới lãnh đạo Nhật Bản phải có lời giải thích với Bắc Kinh.
Có thể nói Trung Quốc đã không che giấu phản ứng cay cú sau khi Tokyo không ngần ngại tham gia tập trận cùng với Philippines tại Biển Đông, ngay gần khu vực mà Bắc Kinh đòi chủ quyền.
 
Theo hãng truyền hình Mỹ NBC ngày 29/6/2015, một viên tướng Trung Quốc nổi tiếng là diều hâu vừa nhấn mạnh: không thể chấp nhận việc Nhật Bản tuần tra trên Biển Đông, cho dù có thể chấp nhận Mỹ.
 
Theo đài NBC, Tướng Chu Thành Hổ, Giáo sư về chiến lược tại Đại học Quốc phòng Trung Quốc, đã giải thích thái độ bên trọng bên khinh của ông bằng sự kiện Mỹ đã hiện diện từ lâu đời về mặt quân sự ở Đông Nam Á: "Hoa Kỳ đã từng có căn cứ quân sự ở Đông Nam Á, đồng thời cũng có hợp tác quân sự với Singapore. Sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Biển Đông do đó là điều có thể chấp nhận được đối với Trung Quốc"
 
Nguồn bizlive
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2015

DÂN LẦM THAN:

SAM RAINSY - KẺ THEO CHỦ NGHĨA CỰC ĐOAN CHỐNG VIỆT NAM




      Trong những ngày vừa qua, trên khắp các trang mạng, báo chí quốc tế nói chung, đặc biệt là báo chí Campuchia và Trung Quốc nói riêng đang tốn biết bao giấy mực đưa tin về ông Sam Rainsy, lãnh đạo Đảng cứu nguy dân tộc đối lập của Campuchia đã đưa ra những phát biểu ngang ngược chà đạp lên lịch sử, quan hệ ngoại giao với Việt Nam…Chính ông ta đã phát biểu rằng xem Trung Quốc là một người bạn, một người đồng minh quan trọng, ủng hộ Trung Quốc một cách manh mẽ về mọi vấn đề trên biển Đông, mà trong khi đó cộng đồng quốc tế đang lên án mạnh mẽ những tuyên bố vô lý của Trung Quốc về vấn đề khu vực biển Đông.
Sam Rainsy thể hiện thái độ ủng hộ Trung Quốc trong giải quyết các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông
Không những thế, ông ta còn xem Việt Nam là kẻ thù, ông ta phát biểu một cách cực thù “kẻ thù của kẻ thù là bạn”, ông ta làm thế khác nào là kẻ bợ đỡ Trung Quốc, chà đạp lên chủ quyền nước khác, ông ta thật quá hoang đường, đã tự vẽ lên những câu chuyện không có thực nhăm lôi kéo cử tri Campuchia ủng hộ, ông ta dựng chuyện lên lừa bịp nhân dân Campuchia vào hoàn cảnh sợ hãi người Việt Nam chỉ vì tin vào những lời nói hoang đường của Sam Rainsy rằng: “Việt kiều ở Campuchia tranh giành công ăn việc làm của người Campuchia.”
            Như công chúng đã biết trong quá trình vận động tranh cử vào Quốc hội Campuchia, ông ta luôn luôn đưa ra những lời lẽ tạo ra thông điệp nhằm lấy lòng cử tri Campuchia, mạnh mẽ đưa ra những lời chỉ trích chê bai hướng tới các đối thủ chính trị, nhưng phần nhiều thời gian ông ta luôn nhắc tới “người bạn” Trung Quốc, Ram Rainsy luôn miệng bày sự hữu hảo với cái gọi là “người bạn” Trung Quốc. Không những thế ông ta còn dùng những lời “có cánh” , tán dương Trung Quốc tới khó chịu, kể cả những con người trung lập họ cũng cảm thấy không một chút vừa ý về thái độ cũng như hành xử của ông ta trong công việc chính trị.
Có lẽ do nhiều lần tới Trung Quốc cũng như chứng kiến sự phát triển của Trung Quốc nên Sam Rainsy đã cho rằng đó là “mô hình” để Campuchia học hỏi, có lẽ rằng ông ta đã quá bế tắc trong hướng đi tìm kiếm sự ủng hộ của người dân Campuchia nên đã dựa dẫm vào Trung Quốc, bằng chứng sâu sắc mà chúng ta có thể thấy qua câu nói đạm chất nịnh bợ của ông ta: “Chúng tôi không chỉ xem Trung Quốc là một người bạn mà còn là một đồng minh. Đảng của chúng tôi ủng hộ chính sách một Trung Quốc,” Rainsy nói.
Nhất là trên vấn đề biển Đông ông ta con tuyên bố ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề tranh chấp với các quốc gia khác, đặc biệt là Việt Nam, “Đảng của chúng tôi ủng hộ Trung Quốc trong việc bảo vệ toàn bộ lãnh thổ. Tất cả mọi hòn đảo do Trung Quốc bảo vệ là lãnh thổ của Trung Quốc. Chúng tôi lên án bất cứ hành động xâm lược nào. Những hòn đảo ấy là của Trung Quốc và chỉ thuộc về Trung Quốc mà thôi,”Sam Rainsy ngông cuồng nói. Không những thế ông ta còn khẳng định trước baó giới rằng chỉ có duy nhất Đảng của ông ta mới ủng hộ Trung Quốc rõ ràng và quyết liệt nhất.
Mới đây, sau sự việc một nhóm khoảng 250 người Campuchia tiến sâu vào khu vực mốc 203 giữa tỉnh Svay Rieng và tỉnh Long An của Việt Nam và tấn công làm 7 người Việt bị thương.Nhiều người cho rằngSam Rainsy đã đứng sau giật dây nhằm tạo bất ổn về chính trị xã hội, khiến Việt Nam phải phân tán lực lượng.Mặt khác, có thể xuất phát từ nhu cầu tranh thủ phiếu ủng hộ của những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, và những kẻ bài Việt trên đất nước này.
        Rõ ràng đây không phải lần đầu tiên Sam Rainsy lấy lòng người dân Campuchia bằng cách chà đạp lên chủ quyền của đất nước Việt Nam ta, trong quá khứ đã không ít lần chính trị gia hoang đường này đã ngang ngược xâm phạm chủ quyền của ta và kêu gọi sự ủng hộ trong nước. Cụ thể ngày 25/10/2009 ông ta đã tới khu vực biên giớ đang phân căm mốc và nhổ các cột mốc tạm thời mang về Phnompenh và đồng thời nhiều lần vu cáo chúng ta lấn đất Campuchia bằng việc phân mốc biên giới. Sau khi hành động phá hoại ngang ngược của ông ta , phía ta đã lên án mạnh mẽ hanh vi vi phạm pháp luật 2 nước này, đồng thời hành động của ông ta đã vi phạm hiệp định , thỏa thuận 2 nước và làm ngăn cản quá trình phân mốc biên giới. Chính vì hành động này của ông ta mà tòa án bên Campuchia đã tuyên phạt tù giam đối với ông ta. Dù vậy, trước đó ông ta đã bỏ trốn sống lưu vong tại Pháp. Tiếp đến năm 2010 ông ta còn bị tuyên án 11 năm tù giam và thêm tội danh ngụy tạo tài liệu hòng lừa gạt nhân dân Campuchia. Sau đó nhờ chính sách hòa giải dân tộc của Nhà nước Campuchia mà ông ta được trở về nước. Dù về nước chưa được bao lâu nhưng Sam Rainsy lại tích cực dùng chiêu bài cũ là “bảo vệ lãnh thổ Campuchia” và “đuổi người Việt Nam về” để vận động bầu cử.
Rõ ràng đây là điều hết sức hoang đường, dối trá và sặc mùi phân biệt, kì thị sắc tộc. Ông ta luôn nhận Trung Quốc là bạn nhưng ông ta có đảm bảo được Trung Quốc sẽ giúp ông ta thắng cử hay không? Ông ta đúng là chính trị gia hoang đường chỉ biết bợ đỡ ngoại bang, chà đạp lên lịch sử và xâm lấn, xúc phạm chủ quyền nước khác. Ông ta ca ngợi Trung Quốc nhiều như vậy sao không một lần ông ta nhắc tới công lao của nhân dân Việt Nam đã từng không tiếc xương máu cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng khỏi tay Khơ Me Đỏ, nhân dân Việt Nam đã từng sát cánh với nhân dân Campuchia trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược…Nay trong hòa bình nhân dân Việt Nam cũng giúp đỡ nhân dân Campuchia xây dựng đất nước. Tất cả đều bị ông ta phủ nhận.
 Sam Rainsy đã chối bỏ hoàn toàn lịch sử, ông ta đã biến mình thành một kẻ hoang đường, một kẻ chỉ biết đi bợ đỡ ngoại bang,khúm núm trước ngoại bang để có sức mạnh, một kẻ phá hoại tình hữu nghị của 2 nước anh em Việt Nam - Campuchia vì vậy ông ta không xứng đáng là một chính trị gia của Campuchia được, càng không xứng đáng đại diện cho nhân dân Campuchia mà nói chuyện đất nước Campuchia được.

HẢI TRANG

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đã không đập chết, còn may - Văn chương cái nghiệp giời đày - Đừng than!

ngominh 

Nhân ĐHNV 9:

ĐÃ ĐI VỚI NHÂN DÂN THÌ THƠ KHÔNG THỂ KHÁC

(Tham luận của  tại Đại hội Hội Nhà văn VIII nhưng không được đọc)
NGÔ MINH 
Đỗ Phủ là nhà thơ đời Đường, cùng với Lý Bạch được coi hai nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Bản thân ông 15 năm cuối đời là người bần hàn, khốn khó, đói ráchMột lần Đỗ Phủ chạy giặc trên chiếc đò nhỏ trên sông Tương, nhịn đói đã 10 ngày. Sau đó chức sắc trong vùng biết tin, đem rượu thịt mời. Ông ăn uống no say rồi bị “thương thực”, lăn ra chết. Gọi là chết no, nhưng thực chất là chết đói. Vì thế thơ ông thấm đẫm nỗi đau của người dân cùng khổ. Nói về Đỗ Phủ, trong bài thơ “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe” của Phùng Quán có khúc thơ rất thống thiết: Đã đi với nhân dân / Thì thơ không thể khác/ Dân máu lệ khốn cùng / Thơ chết áo đắp mặt… Tôi muốn nhân chuyện thơ Phùng Quán về Đỗ Phủ để nói vài ý kiến ngắn về lối đi của nhà văn trên con đường văn chương thăm thẳm để có tác phẩm đích thực mà người đọc luôn mong đợi. Gần mực thì đen/Gần đèn thì sáng. Nhà văn đi với ai thì sẽ viết ra thứ văn chương đó.
Có thể khẳng định rằng, lịch sử các tác phẩm nổi tiếng của văn chương Việt Nam trước năm 1945 đều là lịch sử của sự đồng hành của nhà văn với người dân cùng khổ. Cổ điển có Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ Nguyễn Công Trứ, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (Đoàn Thị Điểm dịch), thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu v.v... Hiện đại trước cách mạng có Chí Phèo, Sống mòn của Nam Cao, Bỉ Vỏcủa Nguyên Hồng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Giông tốSố đỏLàm đĩ của Vũ Trọng Phụng, Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, truyện ngắn Thạch Lam, Kim Lân, thơ của Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, Hồ Zếnh, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên v.v. Nhiều người làm quan to cỡ Tổng thống, Thủ tướng, về hưu là không còn ai nhớ, hoặc chỉ còn cái tên ghi trong kỷ yếu. Nhưng những cái tên như Kiều, Lục Vân Tiên, Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, Chị Dậu, Tám Bính, Xuân Tóc Đỏ, Vợ Nhặt v.v. dù họ là nhân vật do nhà văn hư cấu, lại ở tầng lớp tận cùng đáy xã hội vẫn sống mãi trong lòng hàng trăm triệu người đọc qua nhiều thế hệ, vì họ là CON NGƯỜI ĐÍCH THỰC. Đó là tầm cỡ tài năng của nhà văn, đồng thời đó cũng là sản phẩm của cuộc hành trình “đi với nhân dân” của các nhà văn muốn phá tung xã hội ngột ngạt, đồng thời nói lên khao khát một lẽ sống lớn. Những nhà văn lớn đó không ăn lương chính quyền để viết. Đó chính là văn chương mang tầm thời đại, vượt qua nhiều thời đại mà chúng ta đang khát khao, mong ước.
Trong hai cuộc kháng chiến, những nhà văn Việt Nam đã ra trận với bộ đội và nhân dân để làm nên chiến thắng đánh đuổi hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Sự đồng hành đó đã làm nên những tên tuổi nhà văn [chống Mỹ] tạc vào lòng người như Nguyên Ngọc, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Ngô Kha, Trần Quang Long, Phùng Quán, Nguyễn Minh Châu, Lê Anh Xuân, Thanh Hải, Trang Thế Hy, Hữu Thỉnh, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Khoa Điềm, Lâm Thị Mỹ Dạ, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Trọng Tạo v.v. Rồi trong 35 năm hòa bình, cũng có không ít nhà văn nhờ “đi với nhân dân” đã có những tác phẩm “xé rào” trong văn học làm xúc động người đọc như Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Quang Lập, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư, Trần Huy Quang, Hoàng Minh Tường, Tạ Duy Anh, thơ của Thi Hoàng Nguyễn Quang Thiều v.v.
Nhưng, 20 năm Miền Bắc “xã hội chủ nghĩa” và 35 năm cả nước “xã hội chủ nghĩa” từ sau Đại thắng Xuân 1975 đến nay, các nhà văn “đi cùng nhân dân” là bộ phận nhỏ, thậm chí rất nhỏ. Còn đa số các nhà văn đều đi với quyền lực. Nhà thơ Đỗ Hoàng, bạn tôi có câu thơ thật chính xác: Anh là nhà thơ nhà nước. Nhà văn nhà nước là nhà văn công chức, nhà nước trả lương cho để viết văn. Họ có lương, có chức quyền, bổng lộc, được cấp đất cấp nhà,lên một chức thì được đổi nhà mới,  cuộc sống ổn định. Nên phải viết thế nào đó để làm vừa lòng cấp trên mới mong bảo vệ được cái ghế và bổng lộc dài dài. Nhà văn nhà nước chỉ viết về cái tốt của chính thể, không khai thác sâu cái xấu xa, đểu giả, tàn bạo của bọn quan tham, không đi sâu vào số kiếp, thân phận, nỗi khổ của nhân dân, vì viết như thế sẽ bị coi là “nói xấu chế độ”. Mặc dù trong cuộc sống muôn đời, cái xấu, cái đau khổ bao giờ cũng nhiều hơn cái tốt.Cái đau khổ là bản chất cuộc sống con người. Trong chiến tranh, thứ văn chương tuyên truyền “ta thắng địch thua”, “địch xấu ta tốt” có tác dụng kịp thời động viên người lính ra trận. Lâu ngày, thứ văn chương ăn xổi ấy đối với một số nhà văn lại trở thành “mực thước”, “bất khả thay đổi”. Vì thế khi xuất hiện Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư… họ liền la lối, quy chụp, kết án. Một bộ phận “nhà văn nhà nước” khác thì biết tỏng tòng tong thứ văn tuyên truyền ấy không phải là văn chương đích thực, nó chỉ có tác dụng nhất thời, nhưng vẫn cứ viết như thế, vì sợ bị phê phán, sợ bị mất chức quyền. Thế là thành một thế hệ nhà văn biết mà không nói, không viết, sợ thành ra hèn. Kể cả các nhà văn tiền chiến tham gia cách mạng, biết rất rõ thế nào là sáng tạo văn chương, vẫn sẵn sàng làm các “đại nhân hèn” để được chức quyền bổng lộc. Nhiều tác phẩm văn chương cách mạng của họ không vượt qua được tác phẩm “thời tiền chiến” khi họ còn rất trẻ. Với họ, luôn thu mình lại, thậm chí khúm núm, tự răn mình “ăn cây nào rào cây đó”, chỉ viết ra những tác phẩm phục vụ các chủ trương làng nhàng. Ngay từ năm 1958, nhà văn Nguyễn Tuân - một người nổi tiếng tài hoa và sống ngay thật đã từng nói với bạn bè "Mình tồn tại tới giờ là do biết sợ". Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng viết nhật ký ngày 18-3-1958: "Bây giờ đã đến cảnh không ai dám nói thật với ai, sợ rồi một ngày kia người ta đem ra liên hệ". Ngày 10-7-1959 ông viết: "Thấy không khí vẫn có cái gì nằng nặng. Không ai nói một ý gì khác. Ít ai suy nghĩ. Trên bảo thế nào cứ y thế. Ít ai ra khỏi cái khuôn sáo của công thức".
Tệ hơn, có nhà văn còn đánh đu với bọn quan chức tham nhũng để được bữa nhậu, kiếm cái phong bì, lô đất làm nhà. Có nhà văn còn viết và đăng bài ca ngợi tán dương những người bán đất Tây Nguyên cho ngoại quốc, đưa người ngoại quốc vào đóng chốt ở Tây Nguyên, đe dọa sự tồn vong của quốc gia. Tây Nguyên là tử huyệt của đất nước. Đòn điểm huyệt Tây Nguyên tháng 3-1975 của Quân đội ta đã làm cho cả hệ thống quân đội Sài Gòn sụp đổ là một minh chứng. Thế mà có nhà văn vẫn nhắm mắt ca ngợi cái Tổng Công ty đưa người nước ngoài vào Tây Nguyên. Có lẽ cũng vì thế mà trong 3.000 chữ ký của trí thức trong bản Kiến nghị gửi lên Đảng, Nhà nước đề nghị dừng ngay việc cho Trung Quốc khai thác bauxite ở Tây Nguyên do nhà văn - Giáo sư Nguyễn Huệ Chi và hai người khác phát động, tôi đếm chỉ có vài ba chục nhà văn Việt Nam ký tên. Các nhà văn nhà nước của ta đang trở nên vô cảm với vận mệnh Tổ quốc, hay là vì bảo vệ niêu cơm của mình mà im lặng? Thật là hoàn cảnh.
Trong lúc các nhà văn nhà nước com-lê cà vạt, xe con đi họp, hội thảo, nghe Tuyên giáo xác định chủ đề tuyên truyền quý này, quý khác, thì “nhà thơ nhân dân” Trần Vàng Sao - người có bài thơ nổi tiếng “Bài thơ của người người yêu nước mình” - nghèo đói ở góc thôn Vỹ Dạ Huế vẫn ngồi lắc lư với chén rượu và những câu thơ: mả cha cuộc đời quá vô hậu / cơm không có mà ăn / ngó lui ngó tới không biết thù ai / những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất… / một hai ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa...”, “...muốn được say rượu / họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng”… Năm 2009, nhà văn Nguyễn Hoa, Hoàng Minh Tường vô Huế mời anh vào Hội Nhà văn: “Ban Chấp hành sẽ đặc cách hai suất cho hai người vào Hội năm nay là anh Việt Phương và Trần Vàng Sao. Anh Việt Phương đã viết đơn rồi…”. Nhưng khi tôi đánh máy sẵn cái đơn để anh ký vào thì Trần Vàng Sao chắp tay xá xá: “Mi cho tao lạy. Tao sợ vô Hội Nhà văn nhà nước lắm!”. Lực lượng nhà văn nhà nước ngày càng đông đảo thì Hội Nhà văn cũng như các Hội Văn nghệ địa phương bị hành chính hóa nặng nề. Suốt ngày họp hành, tập huấn chủ trương, quan điểm. Đó là cản trở lớn nhất đối với việc tự do sáng tác. Hành chính hóa đến độ mục tiêu của nhà văn không còn là phấn đấu có tác phẩm để đời nữa, mà phấn đấu để được là Chủ tịch, Phó chủ tịch, làm Trưởng ban, Trưởng phòng này nọ… để chẳng viết gì cũng là nhà văn lãnh đạo!
Từ những hoàn cảnh như vậy, 50 năm qua đã sinh ra loại văn chương minh họa chủ trương chính sách. Sinh ra văn học công nhân, văn học công an, văn học Giao thông vanajt ải, văn học ngành này ngành khác. Những loại văn học đó không vì cuộc sống, thân phận con người lao động mà chỉ tán dương ngành nghề, tán dương doanh nghiệp vớ vẩn. Năm 1987, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã có bài đăng trên báo Văn nghệ “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” làm xôn xao dư luận. Người ta ngạc nhiên rồi giãy nảy lên, rồi phản ứng gay gắt vì người ta tưởng văn chương lâu nay là thứ văn chương thật. Rồi Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến với những phát kiến trong phê bình lý luận làm thay đổi tư duy độc tôn lạc hậu trong văn học chính thống một thời với những khái niệm như “văn học phải đạo”, “văn học bước qua lời nguyền”… Lúc đó các nhà văn nhà nước bị sốc, la toáng lên là “Phủ nhận thành tựu văn học cách mạng”. Nhưng đến hôm nay ngẫm lại những điều Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Minh Châu nói hơn 20 năm trước mới chính xác làm sao, tâm huyết và trách nhiệm với văn chương Việt làm sao! Nguyễn Minh Châu bảo “Phải đổi mới gấp thôi, nếu không nhà văn sẽ xa rời nhân dân, văn chương chúng ta sẽ không có độc giả”. Đó là quá trình vận động đổi mới trong tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu ở giai đoạn cuối đời. Không có những suy ngẫm gan ruột đó, thể hiện tư tưởng đi với nhân dân đó, không thể có Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, hay Khách ở quê ra gây chấn động dư luận lúc bấy giờ... Ngay cả những “nhà văn làm lãnh đạo gạo cội” một thời như Chế Lan Viên, Nguyễn Khải, cuối đời cũng đã sám hối quyết liệt. Với thơ Di cảo, Chế Lan Viên đã vô cùng dằn vặt trước sự vô nghĩa của những giá trị trong ý thức hệ văn chương một thời mình từng say mê, hăm hở: Sau này / Anh đọc thơ tôi nên nhớ / Có phải tôi viết đâu! Một nửa / Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi / Giết một tiếng đau - giết một tiếng cười / Giết một kỷ niệm - giết một ước mơ - tôi giết ... Hay: Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ / Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn(Thơ Di cảo). Nhà thơ cách mạng Nguyễn Đình Thi, người hai lần giữ chức Tổng Thư ký Hội Nhà văn (Đại hội 2 và 3) đã thổ lộ lúc cuối đời: Người tôi còn nhiều bùn tanh / Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ / Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ / Nhiều dây nhợ tự buộc mình. Nhà văn Nguyễn Khải trong bút ký cuối đời Đi tìm cái tôi đã mất đã chua xót nhận ra một đời viết văn của mình “đã giả dối một cách thành thực” (chữ của cố nhà thơ Trịnh Thanh Sơn). Nhà văn coi cái Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật của mình như… “cái bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc”. Mà cái đời văn ấy lại chính là “cái tài sản tinh thần thâu góp một đời” mà “về già nhìn lại” “chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì”. Một lời tự sự quá ngậm ngùi, mặn đắng. Nhà văn đau xót viết: “Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại nói thế là thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và mình cũng sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.... Tại sao các nhà văn cách mạng rất chí cốt, đến cuối đời lại ngộ ra như thế? Đó là không kể nhiều nhà văn đảng viên hẳn hoi đã ly khai Đảng trong mấy năm gần đây. Đây là vấn đề đặt ra vô cùng nghiêm túc đối với Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề rất hệ trọng là quản lý nhà văn và văn chương như thế nào để phát huy tự do sáng tạo. Các nhà văn hôm nay hãy suy nghĩ về những sự sám hối muộn màng của các nhà văn lớn nói trên để mà thức tỉnh, để mà biết mình nên đi với ai.
Đúng như Nguyễn Khải nói, hiện nay ở cơ sở, Đảng - nhân dân không còn như trước nữa. Việc Đảng đảng làm. Việc dân dân làm. Tệ nạn dối trá, tham nhũng đã đến lúc ung thư di căn trầm trọng đến mức trong con mắt của người dân ông đảng viên cán bộ cấp nào cũng là “thằng tham nhũng”. Báo cáo láo là căn bệnh kinh niên. Tăng trưởng GDP của thành phố, tỉnh nào cũng từ 12 đến 15%/năm. GDP cả nước là con số cộng của sự tăng trưởng của các địa phương, các Tổng Công ty, thế mà GDP cả nước năm 2009 chỉ 6,2%. Tại sao vô lý vậy? Chỉ con số đó thôi đủ thấy là các địa phương báo cáo láo như thế nào. Ôi, sự dối trá tuyệt vời!
        Rồi người dân khốn khổ vì bị mất đất, mất ruộng do quy hoạch treo, do đền bù không minh bạch, thậm chí do các chức sắc bày ra dự án ma để ăn cướp đất dân để chia nhau. Nếu dân không chịu, họ dùng lực lượng công an, dân phòng để “cưỡng chế” cho bằng được. Cả anh hùng Ngọc Sương của Nông trường Sông Hậu cũng bị kết án tù vì không chịu giao đất cho bọn “ăn đất”. Dân mất đất kéo lên Hà Nội, TP HCM khiếu kiện thì bị bắt tống lên xe trả về địa phương rồi vu lên là do “kẻ xấu xúi giục”. Tổng Công ty Điện lực (EVN) sau khi được Chính phủ cho tăng giá điện là lập tức cắt điện luân phiên . Nông dân cả nước điêu đứng vì không có điện bơm nước để cấy lúa. Nhìn cảnh tượng bà cụ già toát mồ hôi hột ngồi quạt cho cháu ngủ suốt đêm trời nóng đến 40 độ mà ứa nước mắt. Sau một tháng đày đọa nhân dân trong tối tăm nóng nực, họ lại đòi tăng giá điện! Thật là lũng đoạn hết chỗ nói.
Bức xúc nhất là tình trạng sa sút về văn hóa. Đây là cái gốc đẻ ra mọi tha hóa trong xã hội, bởi vì nó đảo lộn hoặc vô hiệu hóa nhiều giá trị, luật pháp, thước đo và chuẩn mực. Vụ mua dâm nữ sinh ở Hà Giang là biểu hiện tột cùng của sự đồi bại: một thầy Hiệu trưởng cưỡng dâm nữ sinh vị thành niên. Một Bí thư Đoàn dắt gái cho cấp trên. Một Chủ tịch tỉnh nhiều năm trác táng sa đọa, giao cấu với trẻ con vẫn ngang nhiên điều hành chính quyền. Một công an ép cung, dựng án giả. Một tòa án phán những bản án oan! Thật là tồi bại. Còn bao nhiêu ông Tỉnh trưởng, Bộ trưởng đồi bại chưa bị lộ?
Vì không còn niềm tin vào chính thể, nên người dân khắp nước phải kêu cứu trời phật, thần linh. Nhiều quan tham từ trung ương tới địa phương do lo sợ bị lộ đã đổ xô đi lễ Bà Chúa Kho sì sụp, cúng tiền tỷ để nâng cấp chùa này chùa khác. Thế là cúng bái, bói toán, cầu đồng, đốt vàng mã ngút trời. Sự sa sút về văn hóa đang gây ra nhiều tác động tàn phá, để lại hệ quả lâu dài. Có thể thấy rõ sự tàn phá này trong lĩnh vực giáo dục: Học giả bằng thật, Tiến sĩ dỏm, mua điểm, mua bằng… đã thành lẽ sống của cả thầy và trò. Trong thực thi pháp luật thì án xử theo lệnh trên, trong bộ máy tổ chức cán bộ thì ăn tiền hối lộ, chạy chức chạy quyền, chạy việc. Tôi có đứa cháu ruột học Đại học Lâm nghiệp ra trường, muốn xin vào cảnh sát môi trường công an tỉnh để được bảo vệ rừng. Người ta đòi 250 triệu đồng mới vô được! Bán cả gia tài bố mẹ cũng không có số tiền ấy. Theo học giả Nguyễn Trung thì “Nhiều hiện tượng tiêu cực phổ biến gần như trở thành một loại văn hóa sống của không ít người trong hàng ngũ chức sắc đã tới mức gây nhức nhối trầm trọng trong xã hội, có thể khái quát như sau:
  • Cơ hội tranh thủ vơ vét
  • Tài nguyên tranh thủ khai thác
  • Đất đai tranh thủ chia chác
  • Thi nhau phô trương địa vị, bằng cấp (chất lượng thấp, giả và rởm)
  • Việc khó đùn cho tương lai hoặc cho người khác”.
Có thể nói tham nhũng và dối trá đã tạo ra một “giai cấp” gọi là “giai cấp lãnh đạo”. Đã là lãnh đạo từ trung ương đến tỉnh huyện, ông nào cũng giàu sụ. Có một tay Chủ tịch tỉnh, khi chưa được cơ cấu Chủ tịch tỉnh thì đi xe đạp “chân co chân duỗi”. Sau một nhiệm kỳ Chủ tịch tỉnh, có xe hơi xịn, nhà lầu ba bốn tầng cho mình, nhà lầu cho con trai, con gái, khách sạn 3 sao để kinh doanh, còn có cả 15.000 mét vuông đất thành phố cho thuê làm nhà hàng và đang xây một trường đại học để “kinh doanh giáo dục”… Con gái của một vị lãnh đạo có cái nhà nghỉ mát ở Nha Trang sang hơn chục lần Biệt thự vua Bảo Đại. Đảng ta hô hào cán bộ nhân dân “Học tập đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh”, nhưng lãnh đạo của Đảng dù đã có nhà cao cửa rộng ở tỉnh, ở Hà Nội, vẫn được cấp hàng ba bốn trăm mét vuông đất ở trung tâm Hà Nội, Cụ Hồ không có nhà, không có đất, thế thì lãnh đạo đất nước có học tập làm theo cụ Hồ không? Dù biện hộ như thế nào thì đây cũng là việc làm không thể gọi tên gì khác ngoài “chia chác đất đai tài sản quốc gia”, ”tham nhũng”. Trung ương làm sẽ tạo tiền lệ để Bộ, ngành cấp đất cho nhau, Tỉnh ủy, Huyện ủy, Xã ủy làm văn bản cấp đất cho nhau, tạo thành một chiến dịch “ăn đất” được bảo hộ. Từng việc một, những kiểu vơ vét như thế càng làm cho khoảng cách giữa dân và Đảng, Nhà nước càng doãng ra thêm. Thậm chí có nơi dẫn đến đối địch.
Tình hình xã hội phân chia giàu nghèo như vậy, đạo đức cán bộ sa đọa như vậy, nhà văn phải làm gì? Phải cùng Đảng và Nhà nước đưa những tên lãnh đạo sa đọa đạo đức, ăn cướp, ăn cắp của dân, của Nhà nước ra pháp trường công luận. Làm sao để có những tác phẩm ngang tầm thời đại? Ở nhiều Đại hội nhà văn vấn đề này đã được đặt ra nghiêm túc, nhưng không tìm được lối thoát. Văn chương vẫn cứ làng nhàng. Rất nhiều tác phẩm viết về chiến tranh xuất bản liên tục hàng năm, nhưng chưa có tác phẩm nào vượt qua được Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh viết cách đây hơn 20 năm. Trộm nghĩ, nếu được viết về tất cả các đề tài, viết về bộ mặt ghê tởm gớm ghiếc của bọn tham nhũng và dối trá ở mọi cấp để nhân dân phán xét; đồng thời phải có những tác phẩm mô tả chân thực cuộc sống của người dân bị đè nén, cướp bóc khốn khổ hiện nay để cho nhà nước thấy được bộ mặt thật của đời sống mà lâu nay bị bọn dối trá tung hỏa mù, chắc chắn văn chương ta sẽ đồng hành với nhân dân từ trong nguồn cội. Để có những tác phẩm để đời như Truyện Kiều, Tắt đèn, Chí Phèo, Dông tố, Cánh đồng bất tận… đòi hỏi phải có sự đổi mới, cởi mở của cơ quan quản lý văn nghệ. Chỉ cần một môi trường sáng tác bình thường như các nước Châu Á thôi, văn chương Việt Nam sẽ nở hoa trái bốn mùa. Bây giờ thì môi trường đó chưa có. Con đường có hai lề. Chỉ đi “lề phải” thôi thì không thể thành đường. Nhà văn vi phạm luật pháp, phạm vào các điều cấm kỵ của đạo lý như tuyên truyền chiến tranh, cổ động mại dâm, phỉ báng dân tộc… sẽ bị phán xét. Còn các tác phẩm phản ánh thực trạng xã hội, viết về cuộc sống chân thực của người lao động không vi phạm pháp luật đều phải được tôn trọng. Không có ai có quyền đứng trên pháp luật để ngăn chặn nhà văn viết về đất nước mình, nhân dân mình.
Nhưng nói gì thì nói, muốn có tác phẩm hay nhà văn phải có tài, có tâm với nhân dân, có chính kiến mạnh và có bản lĩnh vững vàng, không run sợ trước bất cứ thế lực nào, mới đủ tâm lực để có những tác phẩm văn chương đích thực. Tình hình đất nước, xã hội bức xúc hiện nay là thời cơ vàng để các nhà văn viết được những tác phẩm để đời. Tiểu thuyết Thời của thánh thần của Hoàng Minh Tường là một ví dụ. Chúng ta không làm văn chương cho một thế hệ, cho một nhóm người. Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Hàn Mặc Tử… làm văn chương vì Con người Việt Nam muôn đời. Cứ lặng lẽ viết, lặng lẽ bày tỏ chính kiến của mình, không in lúc này thì sẽ in lúc khác. Bây giờ là thời đại Internet, điều kiện để công bố tác phẩm rất rộng mở. Chúc các nhà văn mãi đi với nhân dân dù con đường cam go, nguy hiểm.
Ôi, Đã đi với nhân dân thì thơ không thể khác
Huế, đầu tháng 8/2010
NM

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nga - Trung đang giúp Mỹ trở lại thống trị thế giới?



Theo tạp chí The Diplomat, những hành động gần đây của Nga, Trung Quốc và tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) đã giúp Mỹ lấy lại được vị thế thống trị thế giới vốn gần như bị lu mờ trước đó.

Hồi tháng 7/2014,  tạp chí trực tuyến Salon lớn tiếng tuyên bố rằng "thời kì của Mỹ đã qua”. Trong những năm qua, nhiều cuốn sách và nhiều bài báo khác cũng có tuyên bố tương tự.
Họ lập luận rằng, Mỹ sẽ tiếp tục là cường quốc thế giới nhưng không còn là cường quốc quyền lực nhất thế giới nữa.
Nhìn vào hoàn cảnh hiện tại, Mỹ đang phải quay cuồng đối mặt với hàng loạt thách thức từ Nga, Trung Quốc, IS.
Nga đang hành động mạnh mẽ ở Ukraine, Trung Quốc hung hăng trên Biển Đông, IS hoành hành ở Trung Đông.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Vladimir Putin.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Nga Vladimir Putin.
Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Adam Lowther thuộc Đại học Không quân Mỹ và Đại tá Không quân Mỹ Robert Spalding, những sự kiện trên dù không phải là mong muốn của Mỹ nhưng đã giúp củng cố vị thế của Mỹ trên thế giới.
Nga
Ông Lowther và ông Spalding lập luận, quyền lực của Nga đang giảm đi đáng kể khi dân số giảm và nền kinh tế đang phải đối mặt với nhiều khó khăn.
Hai ông này cũng cho rằng, mặc dù Tổng thống Nga Vladimir Putin mong đợi chỉ đối đầu với Mỹ ở Ukraine nhưng thực tế phức tạp hơn nhiều.
Châu Âu, mặc dù không thật sự mạnh mẽ về quân sự, nhưng phát triển, gắn kết.
Kết quả là Nga bị cô lập; còn Mỹ, bất chấp nhiều nhược điểm và sai lầm, vẫn tiếp tục là một thế lực mà các đồng minh châu Âu trông cậy.
Nhờ Nga, vị thế của Mỹ đang được củng cố trên khắp châu Âu. Nhiều quốc gia châu Âu đang trông chờ vào sự bảo vệ của Mỹ. Từ đó, mối quan hệ giữa các đồng minh và đối tác của Mỹ cũng được nâng cao đáng kể.
Quân đội Ukraine ở miền Đông.
Quân đội Ukraine ở miền Đông.
Chuyên gia Stephen Pifer của Viện Brookings nhận định, cách đây 5 năm, nhiều quốc gia NATO đặt nghi ngờ về sự cần thiết của việc đặt vũ khí hạt nhân ở châu Âu, nhưng ngày nay, do diễn biến khủng hoảng Ukraine, cuộc tranh lập này không còn tồn tại nữa.
Trung Quốc
Trung Quốc cũng đang đóng vai trò lớn trong việc khiến Mỹ một lần nữa trở nên quan trọng.
Bởi Trung Quốc đang có những hành động hung hăng ở Biển Đông nên bất chấp những ảnh hưởng kinh tế, các nước trong khu vực vẫn muốn Mỹ trở thành một cái “phanh” hãm hay là một đối trọng đối với Trung Quốc.
Hơn nữa, mối quan hệ liên minh của Mỹ ở châu Á, nhờ có Trung Quốc, đang ngày càng mạnh mẽ.
Điều đó góp phần đáng kể trong việc giúp Mỹ có vị thế tốt hơn khi so sánh quyền lực của Washington và Bắc Kinh ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Máy bay trinh sát của Mỹ ghi lại hình ảnh Trung Quốc xây dựng trái phép tại bãi Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam hồi tháng Năm.
Máy bay trinh sát của Mỹ ghi lại hình ảnh Trung Quốc xây dựng trái phép tại bãi Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam hồi tháng Năm.
Theo The Diplomat, dù một trong những mục tiêu chính trong những hành động hung hăng của Trung Quốc là nhằm đánh bật vị thế của Mỹ trong khu vực, nhưng Trung Quốc sẽ không chỉ phải đối đầu với Mỹ mà còn với các đối tác và đồng minh của Mỹ ở châu Á.
Đó là một mục tiêu khó khăn hơn rất nhiều.
Nhà nước Hồi giáo
Với việc tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) lợi dụng tình hình bất ổn để hoành hành ở Syria và Iran, nhiều quốc gia Trung Đông đang tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ.
Thay vì cho rằng những chính sách trước đây của Mỹ trong khu vực là nguyên nhân dẫn đến sự trỗi dậy của IS, họ lại trông chờ Mỹ tiêu diệt IS.
Không giống như trước kia, giờ đây, các nhà lãnh đạo ở Trung Đông muốn Mỹ tiếp tục duy trì ảnh hưởng trong khu vực.
Nhờ có IS, nước Mỹ đã có nhiều bạn bè ở Trung Đông hơn bao giờ hết. Thế giới Ả Rập luôn coi Mỹ là một nhân tố quan trọng trong việc giải quyết bất kì vấn đề nào.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cảnh giác với yếu tố Trung Quốc ở biên giới Tây Nam


Hồng Thủy

(GDVN) - Những hành động này không thể không có sự “chống lưng” của Trung Quốc, nằm trong một trong kịch bản do Trung Quốc dàn dựng để gây áp lực tối đa với Việt Nam.
Ngày 30/6, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình đã lên tiếng yêu cầu Campuchia có biện pháp xử lý thỏa đáng vụ việc ngày 28/6 khoảng 250 người Campuchia, trong đó có một số nghị sĩ đảng Cứu quốc Campuchia (CNRP) đối lập tiến sâu vào khu vực cột mốc 203 do Việt Nam quản lý thuộc địa phận tỉnh Long An.

Những người này đã tấn công người dân Việt Nam khiến 7 người bị thương. Ông Bình yêu cầu phía Campuchia không để tái diễn những hành động phá hoại hòa bình ổn định ở biên giới như trên để đảm bảo công tác phân giới cắm mốc được triển khai thuận lợi.
Việt Nam có quyền ngăn chặn các hoạt động xâm nhập biên giới bất hợp pháp
Theo đài VOA Hoa Kỳ ngày 1/7, Trưởng ban Biên giới Chính phủ Campuchia Var Kim Hong nói rằng cơ quan ông sẽ có cuộc họp với cơ quan chức năng đồng cấp Việt Nam từ ngày 6/7 đến ngày 9/7 tới.
Ông Var Kim Hong được VOA dẫn lời nói rằng: "Chúng tôi đang yêu cầu họ ngừng các hoạt động này bởi vì chúng tôi chưa phân giới xong hoàn toàn ở bất kỳ khu vực nào, tỉnh nào. Chúng ta không nên thực hiện bất kỳ sự thay đổi nào, chúng ta phải giữ nguyên hiện trạng phù hợp với tuyên bố chung ngày 17/1/1995".
Ông Var Kim Hong cho biết, cuộc họp tuần tới không phải được tổ chức chỉ vì vụ va chạm ngoài biên giới hôm 28/6, nhưng nó sẽ được 2 bên trao đổi. Trưởng ban Biên giới Chính phủ Campuchia khẳng định, cả hai bên đều có quyền qua lại khu vực chồng lấn chưa phân giới.
"Vì vậy họ (Việt Nam) có quyền ngăn cản chúng ta (vượt mốc 203)", ông Var Kim Hong được VOA dẫn lời cho biết. Trưởng ban Biên giới Campuchia kêu gọi người dân nước này tránh những sự có vô dụng và các cuộc va chạm vô ích.
Xung quanh luận điệu kích động bài Việt, chống phá quan hệ hữu nghị Việt Nam - Campuchia của CNRP kêu gọi đảng Nhân dân Campuchia (CPP) cầm quyền đưa cái gọi là "tranh chấp biên giới Việt Nam - Campuchia" ra Tòa án Công lý Quốc tế, ông Var Kim Hong khẳng định: Các giải pháp cho vấn đề biên giới đang được hai bên đàm phán giải quyết.
"Đầu tiên chúng ta phải đánh giá. Chúng ta không thể cứ ra tòa mà không biết chúng ta sẽ kiện gì và kiện như thế nào". Ông cũng bác bỏ tuyên bố của CNRP về cái gọi là bản đồ "chứng minh Việt Nam lấn đất". Trưởng ban Biên giới Chính phủ Campuchia bình luận: "Đó là một giấc mơ. (CNRP) Hãy để chỉnh phủ làm việc và đàm phán".
Ông cũng bác bỏ kêu gọi của CNRP vô hiệu hóa các hiệp ước, hiệp định về biên giới đã chính thức ký kết với Việt Nam từ những năm 1985 và 2005. Ông Var Kim Hong khẳng định Campuchia đã đàm phán thành công với Việt Nam trong những hiệp định này và nó phát huy tác dụng trong việc củng cố đường biên giới chung giữa hai nước.
Phe đối lập Campuchia vẫn điên cuồng chống phá Việt Nam, lấp ló đằng sau là bóng dáng Trung Quốc
Ngày 29/6, hai nhà báo Campuchia Meas Sokhea và Shaun Turton nhắc lại trên tờ The Phnom Penh Post rằng, hơn 5 năm trước ông Sam Rainsy Chủ tịch đảng CNRP hiện nay dã bị nhà nước Campuchia phạt tù 2 năm và sau đó phải sống lưu vong vì tội đào và dịch cột mốc biên giới giữa Campuchia với Việt Nam.
Nửa thập kỷ sau Sam Rainsy về nước hợp tác với Kem Sokha thành lập đảng CNRP mưu đồ theo đuổi con đường chính trị nhưng không phải bằng sách lược gì tốt đẹp, mà vẫn ngựa quen đường cũ, tiếp tục mị dân lừa gạt bằng chiêu bài chống phá kịch liệt Việt Nam, bợ đỡ Trung Quốc - PV.
Năm ngoái Sam Rainsy đã công khai đường lối chính trị bài Việt và bám gót Trung Hoa khi khẳng định trên đài BBC tiếng Việt rằng: "Trung Quốc là tương lai" với mộng tưởng "Bắc Kinh sẽ giúp đỡ bảo vệ cái gọi là chủ quyền".
Sam Rainsy lập luận rằng ông ta học theo cố Quốc vương Norodom Sihanouk vì ông ấy là người xây dựng quan hệ rất tốt với Trung Quốc từ những năm 1950. Sam Rainsy tuyên bố: Coi Trung Quốc là nước thứ 3 để làm "đối trọng với ảnh hưởng" của 2 nước láng giềng, Thái Lan và Việt Nam?!
Theo The Cambodia Daily, ngày 4/3 năm nay cấp phó của ông Sam Rainsy, Kem Sokha với vai trò Phó Chủ tịch Quốc hội Campuchia đã gặp bà Bố Kiến Quốc, Đại sứ Trung Quốc tại Phnom Penh và tuyên bố, CNRP muốn hợp tác rộng lớn hơn với Trung Nam Hải.
The Cambodia Daily lưu ý, CNRP đã tìm cách lấy lòng Bắc Kinh trong cuộc bầu cử năm 2013 bằng tuyên bố ủng hộ yêu sách (vô lý, phi pháp) của họ ở Biển Đông.
Ngày 2/7 The Cambodia Daily dẫn lời Sam Rainsy tuyên bố: "Tình hình ở Campuchia đã thay đổi. Mọi thứ không còn giống như một vài năm trước đây." Sam Rainsy nói ông ta tin rằng những nỗ lực của Việt Nam tìm kiếm ủng hộ của Mỹ trong vấn đề Biển Đông với Trung Quốc đã tạo cho Campuchia cái gọi là "cơ hội duy nhất chống Việt Nam xâm lấn biên giới"?!
"Khi tôi nói chuyện với các quan chức Mỹ tại Washington DC, họ muốn Campuchia kết hợp với ASEAN chống Trung Quốc. Người Mỹ cho rằng họ cần sự gắn kết trong ASEAN, và do đó Mỹ có mối quan tâm rằng không nên có sự căng thẳng giữa Campuchia với Việt Nam.
Trong khi họ đang phải đối đầu với Trung Quốc, sẽ không phải lúc để Việt Nam tạo ra những căng thẳng với Campuchia hay gửi thông điệp sẽ có biện pháp cứng rắn với Campuchia, nước láng giềng yếu hơn", Sam Rainsy công khai bộc lộ tư tưởng bám gót Trung Quốc, chống phá biên giới Việt Nam - Campuchia.
Những tuyên bố lạc loài ra mặt ủng hộ lập trường vô lý, phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông
The Phnom Penh Post ngày 5/3 vừa qua cho biết, chính phủ Campuchia đã được quan sát thấy có thái độ đứng về phía Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, đặc biệt là năm 2012 khi Campuchia đảm nhiệm Chủ tịch luân phiên ASEAN. Đổi lại Bắc Kinh đã "hào phóng khen thưởng" hàng tỉ USD đầu tư và cho vay!
Năm 2013 sau cuộc bầu cử Quốc hội Campuchia, Tân Hoa Xã đã nhắc "vỗ mặt" Hun Sen rằng, nếu không "cải cách sâu sắc và nghiêm túc", CPP khó giành chiến thắng trong bầu cử quốc gia năm 2018.
Từ đó trở đi, những tiếng nói phụ họa, bao che ngụy biện cho tham vọng bành trướng lãnh thổ của Bắc Kinh trên Biển Đông xuất hiện ngày càng nhiều tại Campuchia. Gần đây nhất là phát ngôn của Quốc vụ khanh Campuchia Soeung Rathchavy ngày 6/5 ủng hộ lập trường đàm phán tay đôi của Trung Quốc và gạt Mỹ khỏi Biển Đông.
Ngày 4/6 người phát ngôn Chính phủ Campuchia Phay Siphan lại cáo buộc Mỹ "gây rối Biển Đông" và đòi Hoa Kỳ đứng ngoài cuộc, bất chấp các hành động leo thang của Trung Quốc.
Ngày 27/6, đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh tổ chức hội thảo quan hệ đối ngoại quốc tế có sự tham gia của các ông Vương Nghị - Ngoại trưởng và Lý Nguyên Triều - Phó Chủ tịch nước Trung Quốc. Tại đây, Norodom Sirivuth, Cố vấn Cơ mật tối cao của Quốc vương Campuchia lại tiếp tục lên tiếng phụ họa với Trung Nam Hải đòi Mỹ, Nhật "rời khỏi Biển Đông".
Đó là lý do tại sao ngay cả 2 nhà báo Campuchia Meas Sokhea và Shaun Turton cũng phải lưu ý trên The Phnom Penh Post hôm 29/6 rằng: Trong tuần qua những "hùng biện công khai" của một số quan chức CPP cầm quyền về vấn đề biên giới Việt Nam - Campuchia theo xu hướng ủng hộ quan điểm của phe đối lập đã cho thấy ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc.
Người phát ngôn Bộ Nội vụ Campuchia Khieu Sopheak cũng phát biểu sai sự thật rằng Việt Nam "dùng vũ lực" với nhóm người Campuchia trong vụ xâm nhập bất hợp pháp. Những động thái này khiến người ta khó tin rằng không có sự đổi chác, giật dây từ Bắc Kinh.
Cảnh giác với trò dương Đông kích Tây của Bắc Kinh ở biên giới Tây Nam
Bình luận về vấn đề này, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ cho chúng tôi biết:
"Những phát ngôn tuyên bố chính thức gần đây của Campuchia vừa qua đi ngược lại xu thế, nhận thức chung của khu vực và quốc tế về căng thẳng Biển Đông, đi ngược lại những thỏa thuận, thậm chí là hiệp định đã ký kết chính thức với Việt Nam phải chăng là hậu quả của những ngón đòn hiểm Trung Quốc dùng tiền, viện trợ vũ khí để thao túng?
Phải chăng các thế lực chính trị phản động Camphuchia cũng đang tính toán lợi dụng lúc Việt Nam đang tập trung đối phó với Trung Quốc trên hướng Biển Đông để kích động một bộ phận người dân Campuchia nhẹ dạ?
Hành động của bọn họ đang quấy phá vùng biên giới, thậm chí đòi hủy bỏ toàn bộ những thành quả của quá trình giải quyết vấn đề biên giới trong thời gian qua của 2 nước là điều không thể chấp nhận được. Tất nhiên, những hành động này không thể không có sự "chống lưng” của Trung Quốc, nằm trong một kịch bản do Trung Quốc dàn dựng để gây áp lực tối đa với Việt Nam.
Đã đến lúc Việt Nam cần cho những thế lực nói trên thấy rõ, người Việt Nam đã và sẽ có cách bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, cơ đồ cha ông để lại như thế nào.
Tất nhiên,trong bối cảnh quốc tế hiện nay, biện pháp đấu tranh ngoại giao, pháp lý vẫn là thích hợp nhất so với biện pháp quân sự. 
Bởi vì, hòa bình luôn luôn là nguyện vọng tha thiết nhất của nhân loại. Nhiều nhà bình luận quốc tế cũng đã từng cảnh báo rằng đã có lúc thế giới đang đứng bên miệng hố chiến tranh bởi những tranh chấp gay gắt giữa các thế lực mang đậm màu sắc chính trị, quân sự, sắc tộc và tôn giáo. 
Tại thời điểm hiện tại, thế giới vẫn đang ở trong tình trạng bất ổn đó. Các liên minh, các phe phái đối nghịch nhau trên phạm vi thế giới đã có mầm mống xuất hiện tại một số điểm nóng.
Có thể nói đây là thời khắc mà mọi ứng xử đều hết sức thận trọng, phải đặt lợi ích chung vì hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển của khu vực và thế giới lên trên hết. Cách ứng xử thích hợp nhất là phải thật sự bình tĩnh, cảnh giác phân biệt rõ đúng sai.
Bất kể là ai nếu hành xử không theo đúng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng của mình thì kiên quyết phản đối đấu tranh đến cùng, không khoan nhượng"./.
 
Phần nhận xét hiển thị trên trang