Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 1 tháng 7, 2015

Mình và họ

“Mi xuống từ trời cao hay lên từ vực thẳm
Hỡi cái đẹp...”
(Baudelaire, “Ngợi ca cái đẹp”, trong tập Những bông hoa ác)

1. Một tiểu thuyết đầy máu
Có lẽ chưa bao giờ Nguyễn Bình Phương mô tả hiện thực một cách trần trụi như trong Mình và họ [1]. Trần trụi, nhếch nhác, oan nghiệt. Nhân vật chính, Hiếu, một thanh niên “đọc nhiều sách”, làm việc trong thư viện một cơ quan tại Hà Nội, sống trong một phòng trọ tồi tàn, nhưng lại là thành viên (hờ) một băng buôn thuốc phiện và là người tình (cũng hờ) của chủ băng, Trang. Ông ngoại Hiếu là “trùm phỉ”. Mẹ Hiếu đi tù vì “buôn hàng quốc cấm”. Anh ruột Hiếu tham gia chiến tranh biên giới, bị lính Trung Quốc bắt, thả về nhưng hóa điên. Bản thân Hiếu cũng dính – dù không trực tiếp – vào một số vụ thanh trừng giữa các băng nhóm. Cả cuốn tiểu thuyết kể về chuyến đi chơi miền núi, nhưng thực chất là “cuộc trốn chạy nửa cố tình nửa vô tình”[2] của Hiếu và Trang sau khi thanh toán địch thủ là Vân Ly. Chính Hiếu, khi bị công an phát hiện, đã gieo mình xuống vực.
Cũng chưa bao giờ Nguyễn Bình Phương lại viết nhiều về bạo lực đến thế. Thực ra thì trước đó bạo lực đã thường trực trong tác phẩm của anh, nhất là Thoạt kỳ thủy. Nhưng Mình và họ mở rộng hơn đề tài này bằng cách thêm yêu tố chính trị: nó vẽ lên cuộc chiến kinh hoàng giữa các lực lượng chính thống và phi chính thống (thổ phỉ, dân tộc thiểu số, buôn lậu, băng đảng thuốc phiện, săn đêm... ), giữa các lực lượng chính thống với nhau (quân đội Việt Nam và quân đội Trung Quốc).
Ở trang nào của Mình và họ độc giả cũng giẫm lên xác người. Xác trẻ sơ sinh trong “xe rác ven hồ Giảng Võ” (tr. 15). Xác chết vì tan nạn giao thông:“Đó là một phụ nữ, đầu gập qua nách, mặt trắng bệch, cả môi cũng trắng. Ngó dáng nằm kỳ quái, chân tay gập cả vào nhau (... ) Duy chỉ mớ tóc là còn sức sống, nó rờ rẫm, lả lướt trên mặt người chết mỗi khi có gió thổi qua” (tr. 19). Xác bị sét đánh: “đã cháy đến mức nó giống như đống giẻ rách nhồi chặt”. Xác bị côn trùng làm biến dạng:“anh đã chết, miệng và tai đầy kiến (... ) chuột hay con gì đó gặm mất một mắt và hai cánh mũi”(tr. 239). Xác khi bốc mộ: “Thợ mang sọ lên trước, sau đó mới chuyển phần thân lên. Ba người ba cái cật nứa cặm cụi làm. Đầu tiên khoét một vòng ở phần bả vai, tách cánh tay ra rồi rạch một đường dài dọc theo cánh tay và rút xương (... ) thịt hồng đào như chân giò luộc chưa kỹ”(tr. 28).
Trong Mình và họ, người ta giết hoặc bị giết bằng đủ mọi hình thức phương tiện, vì đủ mọi lý do. Người yêu cô giáo Kiều “uống rượu say rồi mang dao đến đâm bố mẹ Kiều vì bị họ ngăn cản cuộc tình. Giết hai người đó xong, cậu ta (... ) lên xe máy phóng đến trường tìm Kiều nhưng đã quệt vào cái bếp than để ở ven đường và bị bánh xe ô tô lăn qua đầu” (tr. 229). Trang và đồng bọn tưới xăng thiêu sống Vân Ly, người tình hờ của Hiếu, như trong một“hàng vịt quay Bắc Kinh” (tr. 193). Kẻ trộm chặt tay một ông lão bị sét đánh chết: “Không phải một mà là hai bàn tay đều bị chặt mất. Vết chặt cũng kỳ, tơi tướp...” (tr. 136).
Nhưng bạo lực nhiều nhất vẫn là những câu chuyện về phỉ. Ông ngoại Hiếu “bị mưu sát khi đang ngủ, xác treo ngược lên cành cây lim ở sườn núi, đầu thì biến mất” (tr. 58). Châu Quang Lồ, trùm phỉ người Miêu, bị kẻ thủ sát “lách dao vào đốt sống thứ hai tính từ đầu xuống và dằn mạnh. Cái đầu lìa ra gần như ngay lập tức”(tr. 63). Tàn quân của ông ta bị “phun lửa” (tr. 65). Haitce, “nhân viên phiên dịch tiếng Trung người Pháp”, bị phỉ “lấy gan (... ) nhắm rượu, còn thân thì chặt làm sáu mảnh, cắm lên cọc” (tr. 101) năm 1886, trong khi đám cận vệ của ông ta bị phanh thây – “Phỉ đặt người ta lên một phiến đá và nhẩn nha chặt như chặt thịt lợn. Có người bị chặt đứt phăng hai tay, hai chân mà vẫn còn sống, mồm miệng loe máu kêu gào” (tr. 101).
Bạo lực phủ đầy những đoạn về chiến tranh. Trên trận địa, người ta chết khi còn rất trẻ: “Bốn tay lính mặt non choẹt mải nhai lương khô đến mức khi bị bắn chết mồm tay nào tay ấy còn đầy khự, còn nhoe nhoét cả”(tr. 184). Người ta không chỉ giết bằng súng, mà thường bằng dao, trực diện, hoang thú: “Đại trưởng cắm dao vào giữa tim của tay to nhất, cái tay có một vết chàm xanh lét trên mặt” (tr. 182). Người ta chôn sống đối phương: “chín em trong đội văn nghệ quân đoàn bị bắt rồi bị đem chôn sống dạo tháng hai”(tr. 185). Người ta diệt cả đoàn xe:”hơn hai mươi chiếc bị phục kích (... ) ba bốn tháng rồi mà cả vùng này vẫn cứ thối inh lên” (tr. 209).
Chưa hết, Mình và họ vô khối những chuyện ăn “cao Bành trướng” – “sau cuộc Mười bảy tháng Hai, xác người chết nhiều đến mức dân vừa đói vừa tiếc, đem nấu cao ăn. Cao đó gọi là cao Bành trướng” (tr. 121), chuyện người ăn thịt người – “năm 1942 (... ) ở Cao Bằng (... ) Bọn Nhật nghi mấy người này bắt trộm chó của chúng nên bắn chết ba người và bắt những người còn lại nấu thịt một người ăn ngay trước mặt chúng” (tr. 120), – chuyện phỉ ăn gan người: “Trảo Sành Phú, từ khi nổi phỉ cho tới lúc kết thúc cuộc đời, đã ăn cả thảy mười một buồng gan người” (tr. 121).
Nhưng nếu chỉ có xác chết thì Mình và họ khác gì báo Công An nhân dân?
Không phải ngẫu nhiên mà Hiếu, nhân vật chính - người kể chuyện, vừa ghê tởm vừa say sưa trước bạo lực và chết chóc. Những cảnh mô tả trong truyện đều do Hiếu hoặc trực tiếp nhìn thấy, hoặc đọc thấy, nghe thấy. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Hiếu là độc giả vô điều kiện của báo Công an Nhân dân. Thủ thư cho cơ quan, anh ta đặt dài hạn báo Công an Nhân dân (tr. 256). Ngồi hàng nước, anh ta đọc Công An Nhân dân (tr. 257). Đi chơi biển với Vân Ly, Hiếu mua báo Công an Nhân dân (tr. 15). Đi chơi núi với Trang, anh ta đọc “mấy tờ Công an Nhân dân cũ vứt lại ở giá báo của khách sạn” (tr. 98). Nghe kể chuyện Châu Quang Lồ, Hiếu hồi tưởng lại tấm ảnh toán phỉ đã xem trên báo Công an Nhân dân (tr. 74). Nghe chuyện miền núi, Hiếu nhớ “trong số báo Công an Nhân dân cách đây hai năm có đăng một vụ giết người ở Thái Nguyên, thủ phạm giết năm xe ôm, chôn trong vườn nhà hắn”(tr. 122). Khi xe ô tô xuống núi, Hiếu nghĩ tới tờ “Công an Nhân dân số ra thứ Bảy ngày hai mươi mốt tháng Tám có bài viết về vụ tai nạn do tài xế ngủ quên...” (tr. 205).
Dù tuyên bố đó là “loại báo chí rẻ tiền” (tr. 253), là “mấy cú nhòm ngó đê tiện vào đời tư của ai đó” (tr. 15), Hiếu thừa nhận là mình “háo hức xem” (tr. 98), thông thạo từng số báo (tr. 205), thuộc vanh vách các vụ giết người, nhớ như in nhiều tấm ảnh. Ngồi trong xe với bạn, Hiếu “kể trong số báo thứ nhất có vụ một cô gái làm tiền bị giết tại nhà nghỉ” (tr. 141). Ở một huyện miền núi, Hiếu đọc ngấu nghiến hai tờ đã cũ mà Trang kiếm được “tại khu trung tâm huyện” (tr. 138). Hiếu đọc báo Công an Nhân dân ngày thứ Năm (tr. 29), ngày thứ Bảy (tr. 15), theo dõi các vụ án đăng tải liên tiếp nhiều kỳ (tr. 162). Cuối cùng, Hiếu cho biết rằng đây cũng là tờ báo được nhiều người đọc (tr. 253-256).
Báo Công an Nhân dân có tần số xuất hiện không dưới 30 lần trong tiểu thuyết. Như một ám ảnh, một lời cảnh báo, một cái nháy mắt của Nguyễn Bình Phương. Nếu chỉ có ly kỳ và máu, thì văn học có lẽ cũng không hơn gì một tờ báo giật gân. Cùng lắm, nó là một cuốn trinh thám.

2. Vẻ đẹp của sự chậm rãi [3]
Vậy cái gì làm cho Mình và họ khác với Công an Nhân dân hay truyện trinh thám?
Ngay từ trang đầu, tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương đã báo hiệu một lối viết độc đáo.
“Xe xuống chậm một cách thận trọng. Mặt trời chậm chậm lăn theo lưng núi. Đám người mặt lạnh đanh này cũng thở chậm dần. Những chớp mắt của Trang trở nên lờ đờ hơn. Tất cả đều chậm lại sau cú bay thảng thốt tuyệt mỹ của mình. Lúc ấy mình không hình dung đó là cú bay qua nhiều ngọn cây và đá. Mình cũng không ngờ rồi mọi thứ lại nhẹ nhõm đến thế này. Mình chỉ nghĩ anh đã sơ sểnh chủ quan, anh không quyết định dứt khoát nên mới bị họ vồ được. Mình không muốn lặp lại sai lầm của anh, cả của mẹ nữa. Đừng bao giờ để bị bắt, anh đã ghi câu ấy bằng nét bút dằn đậm.
Vừa mới đây, mình còn đứng sát cột mốc, hình dung xem anh quay lại bằng cách nào...”(tr. 7).
Người ta có cảm giác đang xem một đoạn phim quay chậm[4]. Các hình ảnh chuyển động thật chậm, chậm đến mức bất thường. Máy quay đi từ cảnh rộng: một chiếc xe đang xuống núi, mặt trời sắp lặn. Sau đó, nó chuyển sang cận cảnh, thậm chí cận tối đa, để diễn tả chi tiết những động tác và cử chỉ mà mắt thường khó nắm bắt: vẻ mặt lạnh đanh và nhịp thở chậm dần của đám người, cả những chớp mắt của Trang. Rồi đột ngột máy quay chuyển hướng theo “cú bay” xuyên qua “cây và đá” của người kể chuyện, kẻ xưng “mình”.
Trong tiểu thuyết, những dòng chữ này được in nghiêng, càng nhấn thêm sự chậm rãi. Đoạn văn mở đầu với một nhạc điệu trầm và chậm - nhờ sự có mặt của nhiều thanh nặng và thanh huyền, liên tiếp các từ “chậm”, nhiều từ láy và vô số phép điệp. Các câu ngày càng dài – từ 7 đến 16 âm tiết. Hình ảnh và sự kiện được kể lộn xộn, không được diễn dịch, phân tích, lý giải như trong một tác phẩm văn học truyền thống: “mình” là ai? đang làm gì? ở đâu? thời gian nào? “đám người” là ai? Trang là ai? “cú bay” là gì? tại sao “qua nhiều ngọn cây và đá”? “mình” như vậy là người, là chim, là thần thánh? “anh” là ai? “họ” là ai? “anh” và “họ” gặp nhau trong hoàn cảnh nào? “sai lầm của anh” cụ thể là gì? liên quan gì đến “mẹ” nữa? vân vân.
Nhưng rõ ràng đoạn văn không mang mục đích thông báo, kể chuyện, giải thích, thuyết phục. Chúng ta đang ở trong một độc thoại nội tâm. Sự rời rạc của các chi tiết mô phỏng hoạt động suy nghĩ và xúc cảm của nhân vật trong mạch chảy tự nhiên của nó. Những cảm nhận – xe xuống chậm, mặt trời chậm, đám người mặt lạnh thở chậm, chớp mắt lờ đờ của Trang, vân vân – được anh ta ghi lại theo cách chúng xảy đến. Vì thế, chúng không được xắp xếp, quản lý, kiểm soát, nhằm mang đến một thông điệp rõ ràng như trong một văn bản giao tiếp thông thường. Nguyễn Bình Phương không kể nội dung mà mô tả cái mạch chảy giữa ý thức và vô thức.
Tất cả báo hiệu một thử nghiệm văn chương. Không phải ngẫu nhiên mà từ “tuyệt mỹ” có mặt ở ngay đoạn mở đầu này – “cú bay thảng thốt tuyệt mỹ” (tr. 7). Như một lời tuyên bố về nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương. Với một sự áp đặt gần như tuyệt đối, nó chuẩn bị tâm thế cho người đọc trước khi bước vào khám phá tác phẩm mới của anh.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà “cú bay” sẽ trở lại ở mấy trang tiếp theo. Và một lần nữa, ngòi bút của Nguyễn Bình Phương thăng hoa:
“Mình nhắm mắt bay xuống. Trong luồng gió ù ú cuốn theo mình có những âm thanh méo mó: chản chồ, chản chồ, nghe hỗn hào, xấc xược. Và rồi cái âm thanh xấc xược ấy tan biến đi vì giọng không rõ của Trang hay của Hằng lảnh lói sau lưng mình:
- Đừng Hiếu ơi!
Bạt ngàn ức triệu lá với cành ràn rạt, thoạt đầu còn cứng, sau thì mọi thứ mềm mại, sau nữa thì mình không thể gọi tên chính xác bất cứ điều gì dính dáng tới cái vực thẳm hút ấy nữa” (tr. 11).
Vẫn là một đoạn phim “quay chậm”. Nếu hành động “bay” của nhân vật chỉ xảy ra trong khoảng thời gian cực ngắn – chúng ta biết rằng một vật thể rơi từ độ cao 2000 mét chỉ mất khoảng 20 giây để chạm đất – đoạn phim cho chúng ta cảm giác nó diễn ra lâu hơn thực tế, vẫn nhờ các hình ảnh chạy chậm, thật chậm. Nhưng khác với đoạn mở đầu, chúng kèm theo nhiều âm thanh vừa phong phú vừa tinh tế: tiếng gió “ù ù”, tiếng người nước ngoài “hỗn hào, xấc xược”, tiếng gọi của ai đó “lảnh lói”, tiếng cành lá “ràn rạt”.
“Cú bay” là một điểm xoáy trong số phận của nhân vật – từ một người sống, anh ta chỉ còn là một linh hồn chết. Và những âm thanh, màu sắc, những hình ảnh cùng sự chuyển hóa của chúng, trong khoảnh khắc chớp nhoáng đó, được nhân vật căng các giác quan ra đón nhận, bằng thị giác, thính giác và cả xúc giác – “thoạt đầu còn cứng, sau thì mọi thứ mềm mại”. Như một cách tận hưởng và nâng niu những giây phút cuối cùng của sự sống.
Vì vậy, cái chết, với nhân vật, là một giải thoát khỏi nỗi sợ bị săn đuổi truyền từ mẹ và anh, nhưng việc ra đi dường như không vội vã. Sau “cú bay” là cuộc trở về của linh hồn, cũng kỳ bí và không kém tuyệt mỹ, vẫn diễn ra trong một vận tốc chậm: “Ánh sáng dâng mình lên, thứ ánh sáng trắng tinh, nhẹ, bâng lâng, xóa bỏ hết mọi ngượng ngùng và phải mất một lúc mình mới nhận ra ánh sáng với mình chỉ là một” (tr. 11). Từ “vực thẳm hút” của cõi âm, hồn ngược lên chốn dương, nhưng vô hình vô ảnh, lẫn vào ánh sáng, trong một cảm giác “nhẹ”, “bâng lâng”, tinh sạch.
Như thế đó, giữa cuồn cuộn các sự kiện và chi tiết dày đặc của Mình và họ, giây khắc chuyển từ cuộc sống sang cái chết lại như ngưng đọng. Nó được mô tả chậm rãi, kỹ lưỡng, ngoạn mục. Bên cạnh hiện thực đầy bạo lực của tiểu thuyết, âm điệu dịu dàng và vẻ đẹp trinh nguyên của cõi vô hình làm chúng ta sửng sốt, khắc khoải.
Qua từng tiểu thuyết, Nguyễn Bình Phương không ngừng đặt câu hỏi về vô thức, trực giác, bản năng – thế giới hồng hoang, bí hiểm, thường trực trong mỗi chúng ta. Trí nhớ suy tàn mô tả một ký ức đang tan dần trong một cơ thể nguyên vẹn. Người đi vắng cho nhân vật Hoàn bị nạn nằm bất tỉnh nhưng hồn thì lang thang. Thoạt kỳ thủy là cuộc sống với những giấc mơ và những người điên. Mình và họ qui tụ tất cả những yếu tố đó, bằng cách cho câu chuyện được kể bởi một hồn ma, qua đại từ “mình”. Mình và họ là Tiểu Thuyết của các tiểu thuyết.
Và Nguyễn Bình Phương đặt tên cho vùng hoang hoang của vô thức là “cừ rừm”. “Cừ rừm” vắng bóng trong từ điển tiếng Việt, nhưng xuất hiện 35 lần trong Mình và họ. "Cừ rừm" chỉ có mặt trong ngôn ngữ của ba cha con Hiếu, vào những lúc cảm xúc bị đẩy lên cao trào. Người sử dụng đầu tiên là ông bố:
“Bố gằm mặt như con trâu chuẩn bị húc nhau:
- Còn gì nữa đâu mà xử lý. Thằng em tôi chưa kịp chạm vào cái dải rút quần của nó... cừ rừm . Tôi về đây”(tr. 42).
“Cừ rừm” chi chít trong cuốn sổ người anh viết khi tham chiến và sau này, ở trại điều dưỡng. Nó có thể đứng một mình:  Cừ rừm . Đại trưởng lắp đạn vào khẩu B41 cho thằng Tấn bắn” (tr. 178). “Đại trưởng bảo tao, đánh nhau mà không có xe tăng nó cứ nhàn nhạt thế nào ấy. Cừ rừm  (tr. 180). Nhưng nó thường đứng giữa câu: “Đại trưởng lắc đầu, cừ rừm bảo thám báo thường đi theo nhóm ba thằng”(tr. 181). Ở ví dụ trên, “cừ rừm” là ngôn ngữ của người anh (tức người viết nhật ký) xen vào khi chép lại lời nói của kẻ khác. Rõ ràng cách đệm này có nguy cơ làm nhiễu loạn cấu trúc ngữ pháp, quấy rối ngữ nghĩa. Nguy cơ đó càng lớn khi “cừ rừm” lặp lại 3 lần liên tiếp: "Thằng chỉ huy xổ ra một tràng cừ rừm cừ rừm cừ rừm , rồi hất hàm ra hiệu cho phiên dịch" (tr. 224). Ở đây, “cừ rừm” vẫn thuộc về phát ngôn của anh chứ không phải của “thằng chỉ huy”. Trong đoạn sau, một câu là tập hợp của 4 lần “cừ rừm”: “Thực ra tao cũng hoang mang, không hiểu bọn Tàu làm quái gì với những người kia. Cừ rừm cừ rừm cừ rừm cừ rừm ...” (tr. 267).
Rất khó định nghĩa “cừ rừm”, nhưng hai âm đó không thể không gợi đến tiếng gầm gừ của loài thú dại. Nó như tiếng vọng về từ một chốn hoang liêu. Trong Mình và họ, "cừ rừm" là tiếng tức giận của người cha. Sau này, nó là tiếng kêu hoảng hốt của người anh, là dấu hiệu tâm thần len lỏi trong suốt cuộc chiến, cho đến khi bị bắt làm tù binh, thả về, vào trại an dưỡng và hóa điên.
“Cừ rừm” cũng là hai chữ cuối cùng của Mình và họ, được chọn để kết thúc tiểu thuyết. Lần này do hồn ma của Hiếu, người em, thốt ra. Nó thể hiện một tâm thần bấn loạn, một tiếng kêu tuyệt vọng.
Mình và họ là câu chuyện của một hồn ma trong khi còn lơ lửng giữa hai cõi, âm và dương, vô thức và ý thức. Xác thì đã nằm dưới vực, nhưng hồn còn phiêu diêu ít nhất một đêm trước khi thuộc hẳn về bên kia. Tiểu thuyết được tổ chức thành hai phần - một phần gồm những đoạn in thẳng, phần kia gồm những đoạn in nghiêng – nhưng “thẳng” và “nghiêng” không tách bạch mà đan xen nhau. Những đoạn in thẳng thường dài hơn nhưng có vận tốc gấp gáp hơn. Một bên là toàn bộ cuộc sống trước khi chết, trong khoảng 30 năm, từ tuổi thơ “bẻ cây múa kiếm” với anh trai đến khi bay xuống vực thẳm tự vẫn. Bên kia là cuộc sống sau cái chết, trong khoảng 12 giờ, từ lúc “mặt trời chậm chậm lăn theo lưng núi” đến “trước ban mai” hôm sau. Một bên là dĩ vãng, bên kia là hiện tại.
Và Nguyễn Bình Phương đã chứng tỏ một khả năng đặc biệt trong thao tác thủ pháp lắp ghép. Ở hai trang cuối, các đoạn in nghiêng và in thẳng được nối với nhau như sau:
“... Trang không ngồi ghế trước mà ngồi giữa mình với thằng Hiệp, đó là chỗ Vân Ly vừa mới ngồi.
Không một chiếc xe ngược chiều.
Mình nhớ là mình đã nghĩ như thế và giờ thì chắc hẳn cũng sẽ không còn xe ngược chiều nữa bởi đã gần sáng.
Trước ban mai bao giờ cũng vắng ngắt...”.
Sự vắng mặt của “xe ngược chiều” trong đêm là mô típ duy nhất kiên kết hai sự việc độc lập, xảy ra trong hai không gian và hai thời gian khác nhau – một bên là cuộc trở về Hà Nội sau khi đã thanh toán Vân Ly, còn bên kia là giây phút hiện tại của linh hồn đang lơ lửng trên núi cao. Đúng là thông tin này không mang giá trị đặc biệt nào trong nội dung của hai sự kiện, nhưng rõ ràng nó gợi một hình ảnh, một chuyển động, một ánh sáng, một cảm xúc. Và chính những chi tiết này mới là lực đẩy nội tại của liên tưởng và ký ức.
Vì vậy có thể đọc Mình và họ như một hành trình đi tìm thời gian đã mất, cuộc phiêu du trong“cái vùng ẩm ướt thoang thoảng gọi là trí nhớ” (tr. 258).Mình và họ có những đoạn tuyệt vời về trí nhớ, đúng hơn về phương pháp vận hành của nó. Lúc gặp người phụ nữ gốc Nam Định, Hiếu chỉ thấy, qua thị giác, một “người đàn bà (... ) rất khó đoán tuổi, to cao, tóc bạc thành từng vệt, mặt nhiều nếp nhăn, má và cằm đã xệ xuống”(tr. 112). Nhưng sau đó, qua tầng tầng tiềm thức và ký ức của nhân vật, người đàn bà dường như biến xác, hơn thế nữa, có khả năng đánh thức xúc giác của anh ta, biến thành ám ảnh nhục dục: “Mình nhớ lại khuôn mặt người đàn bà ấy, thấy gò má của bà ta như có than ở bên dưới. Trí nhớ lần xuống cổ , xuống cánh tay để trần của bà ta, và nhận ra rằng vẫn có sự mịn màng, vẫn còn gì đó mướt mát lắm, ở cái tuổi trên dưới năm mươi” (tr. 124).
Trong Mình và họ, hai từ “mình nhớ” có tần số xuất hiện đáng kinh ngạc - hơn 40 lần - chưa kể “mình còn nhớ”, “mình sực nhớ”:  Mình nhớ thứ Bảy mình rủ Trang đi Quảng Ninh” (tr. 14),  Mình nhớ là mình quyết định về Hà Nội ngay. Vân Ly cự lại” (tr. 17). Trong đoạn sau, từ “nhớ” xuất hiện ở hai câu liền nhau: “Và mình còn nhớ khi rời khỏi cuộc rượu của đám cựu binh, những nét chữ nguệch ngoạc của anh cứ chờn vờn hiện ra trong đầu mình.Mình nhớ như thế  (tr. 2013). Chưa hết, hai lần “nhớ” được dùng trong một câu, như cố gắng chạm tới quá khứ của quá khứ:  Mình nhớ lúc ấy mình nhớ cậu nói với mình rằng cuộc Bảy chín sông Bằng cũng đỏ lừ máu” (tr. 131).
Mình và họ khảo sát cái đẹp trong sự chậm rãi. Khác với văn bản báo chí và tiểu thuyết trinh thám, văn bản nghệ thuật không đi đường thẳng, không suy luận logic, mà lần theo những ngóc ngách của vô thức, bản năng và ký ức, những mạch ngầm của cảm xúc và liên tưởng, những con đường “vờn vẽo, quanh co” (tr. 302).
Mình và họ không tìm thấy, nó là một cuộc đi tìm.

3. Đi tìm Tà Vần
Trong Mình và họ, nhiều nhân vật khá quan trọng nhưng không có tên riêng. Có hai lái xe, một Land Cruiser của chuyến lên và một xe màu đen, loại bảy chỗ” của chuyến xuống, nhưng chỉ được gọi chung là “lái xe”, được nhắc tới 217 lần và lần nào độc giả cũng phải ngắc ngư hơn một giây để phân định được ai là ai. Vô số các nhân vật khác chỉ được định danh bằng một đại từ, như “cậu”, “cô”, “chú”, “thím”, “anh”, “hắn”. Nếu có “bác Lâm”, “bác Song”, thì “chú” chỉ là “chú”. Người anh của nhân vật chính, kẻ thương yêu nhất, cũng không có tên, chỉ được gọi là “anh” trong suốt tác phẩm. Bạn của nhân vật chính, kẻ đi cùng anh ta suốt chuyến “xe lên”, cũng chỉ được gọi là “hắn”. Nhưng dù sao đi nữa, họ đều là những nhân vật có gốc tích, hình thức, quan hệ cụ thể, rõ ràng.
Trong nhóm những nhân vật “vô danh” này, “họ” (hay “bọn họ”) và “nó” gây cho độc giả nhiều hoang mang nhất.
“Bọn họ” là lính Trung Quốc trong chiến tranh biên giới: “anh cũng không thể biết rằng bọn họ đã phục sẵn ở đó” (tr. 8), nhưng ngay sau đó, “bọn họ” lại là nhóm công an đến bắt Trang và Hiếu:  Bọn họ xăm xăm tiến lại, mặt ai cũng lầm lừ”(tr. 10). “Bọn họ” là các chính trị gia: “Mình từng nghĩ bọn họ làm bằng thép không gỉ” (tr. 34). “Họ” cũng là đám người dân tộc gặp trên đường: “Vài ba người dân tộc say rượu gật gà, lầm lầm đi, mỗi khi thấy xe họ lại nép vào vệ đường, giương đôi mắt sầm sì, vô cảm nhìn theo. Giữa mình với họ là ngàn trùng” (tr. 124).
Riêng đoạn sau xuất hiện hai “bọn họ” có vẻ như không cùng căn cước: “Khi dẫn Trang về lấy đồ, bọn họ tảng lờ coi như không thấy chiếc ba lô ấy (... ) // Nghe tiếng lốp, mình biết mặt đường đang dần ướt. Bọn họ đã đến từ lúc nào, lờ mờ ở bên ngoài, đến vì mình, chính xác hơn là đón mình đi” (tr. 22).
“Bọn họ” thứ nhất dễ đoán: đó là nhóm công an áp tải Trang. Nhưng “bọn họ” thứ hai dường như vô hình vô ảnh, chỉ có “mình” - thực chất là một linh hồn - nhìn thấy, phân định được. Với “mình”, có “đám bên trong” và “đám bên ngoài”: “Mình bị kẹp giữa bọn họ đám bên ngoài không mang theo gì cả, ngoài sự kiên trì ghê gớm, và đám bên trong này với sức mạnh của súng và còng số tám” (tr. 29). “Bọn họ” ảo sẽ ẩn hiện suốt những đoạn in nghiêng, luôn gắn với cuộc sống sau cái chết, với “bên ngoài” và sự câm lặng: “Bọn họ sẽ không bao giờ trả lời, bởi bên ngoài còn lạnh hơn nhiều”(tr. 26), “Trang vẫn lạnh lùng im phắc. Bọn họ bên ngoài cũng thế”(tr. 85), “Bọn họ dạt ra, lẫn vào với màn sương đùng đục” (tr. 126), “Bên ngoài, bọn họ xem ra còn bình thản hơn, đeo đẳng, kiên nhẫn”(tr. 163).
“Bọn họ” lặng lẽ chờ đợi, cho đến khi linh hồn Hiếu nhập hẳn vào cõi âm, để “mình” thành “họ”.
“Nó” cũng là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Bình Phương. “Nó” là một hồn ma, nhưng trái với “bọn họ”, “nó” được phấp phỏng đón chờ: “Nhưng thì mình vẫn chưa thấy đến” (tr. 22). Chưa xuất hiện, “nó” đã đồng nghĩa với sự tinh nguyên:   đang đến, mình cảm nhận thế, muốt trắng, ru ru giữa không trung vắng lặng” (tr. 30). Và “nó” chỉ đến ở trang cuối cùng của tiểu thuyết, cùng với “ban mai”, kết thúc cuộc rong ruổi giữa hai cõi của linh hồn Hiếu:   đã ở phía trên mình, bông bênh, vô sắc khí.  đấy, khuôn mặt yểu ớt, cái miệng xinh xinh bợt bạt tỏa hương quỳnh thơm dịu thủa nào” (tr. 302).
Nếu “bọn họ” là những hồn ma vô danh, “nó” có màu sắc, có “khuôn mặt”, có “cái miệng”, có mùi “hương”. Đặc biệt, “nó” gắn với kỷ niệm về hoa quỳnh. “Nó” là ai?
Trong Mình và họ, trường đoạn 5 trang về hoa quỳnh được đặt trang trọng chính giữa trung tâm tác phẩm: “Tầm chín rưỡi thì hoa đồng loạt mở cánh. Khóm cây như người lên đồng, chao đảo, run bần bật. Những cái cánh hoa trắng muốt được bọc bởi lớp vỏ hồng hồng giờ rung rung hé lộ bên trong những chiếc nhuỵ vàng mơ, nhoà nhạt, lẩy bẩy như những cánh tay vươn lên từ trong bóng tối sâu thẳm nhưng sạch sẽ. Mỗi bông quỳnh như một đám mây trắng đính trên chậu quỳnh lá vàng xanh cong cong. Mùi thơm ngào ngạt, ngây ngất toả ra” (tr. 148). Dưới nét bút của Nguyễn Bình Phương, quỳnh là loại hoa mang nhiều mâu thuẫn. Quỳnh vừa nở đã tàn, tinh sạch dù vươn lên từ đêm đen, trắng muốt nhưng lại khơi gợi dục tính – quỳnh “run bần bật”“lớp vỏ hồng hồng (... ) rung rung hé lộ”“lẩy bẩy”. Riêng “lẩy bẩy” chỉ xuất hiện hai lần trong tiểu thuyết, ở cảnh làm tình với Hằng và cảnh hoa quỳnh nở.
Quỳnh là kỷ niệm chung cuối cùng giữa Hiếu, anh, bố và “thằng nhỏ”. Đêm đó, người anh hoang mang lên đường nhập ngũ, còn ông bố xem quỳnh nở và “trở lại thái độ hồi hộp mơ màng”. Cũng đêm đó, Hiếu biết mình là cha, đứa bé vừa chào đời là kết quả mối tình vụng trộm với Hằng, chị dâu:“Cả đám người đê mê, thiêm thiếp trong mùi hương ngọt ngào của những đoá quỳnh thì bỗng nhiên từ phía nhà anh vang lên tiếng trẻ khóc (... ). Thế là Hằng đã sinh. Ai thúc vào lưng, mình loạng choạng đứng dậy lao sang nhà anh”(tr. 148). Trong tâm tưởng của Hiếu, đứa bé vừa sinh chính là bông thứ một trăm của khóm quỳnh vừa nở “chín mươi chín bông”. Cũng theo Hiếu, đứa bé mất lúc tám tháng tuổi đúng dịp người anh bị bắt ở Tà Vần, và sự lụi tàn của khóm quỳnh.
Quỳnh là gạch nối giữa bốn người đàn ông cùng máu mủ. Bốn số phận oan nghiệt. Bốn cái chết thê lương. Như vậy, quỳnh vừa là sinh vừa là tử, vừa mong manh vừa mãnh liệt.
Quỳnh gặp trên đường đến Tà Vần.
Bản đồ mỹ học của Nguyễn Bình Phương dường như chỉ chấp nhận dạng địa hình lồi, có độ cao. Về lý do khai trừ biển, Mình và họ viết thế này: “Qua cửa kính xe nhìn ra núi cũng giống biển, nhấp nhô, gờn gợn xanh, chỉ có điều dào dạt ở đâu đó xa lắm”(tr. 14). Sự khát khao núi, chính là cảm giác xa xôi bí hiểm của nó. Vì vậy, trước khi lao vào kiến tạo chuyến đi núi định mệnh của nhân vật, Nguyễn Bình Phương đã để Hiếu cùng Vân Ly ra biển, Quảng Ninh. Và cảm xúc về thành phố biển này không là gì khác ngoài “chán”, “nhạt nhẽo”, đến độ nhân vật phải thốt ra với người tình: “Anh muốn tè mẹ nó một bãi vào mặt cái thành phố này” (tr. 18). Kỷ niệm thú vị duy nhất của Hiếu về Quảng Ninh là con gián và con thạch sùng nhìn thấy khi ngồi trên bồn cầu trong khách sạn!
Điều đó giải thích vì sao hầu hết các tác phẩm của Nguyễn Bình Phương đều có bối cảnh là vùng trung du Thái Nguyên, từ Người đi vắng đến Thoạt kỳ thủy. Nhưng có lẽ với anh, những đỉnh núi chót vót vẫn là giấc mơ lớn nhất. Vì thế Mình và họ mở ra bằng hình ảnh “xe xuống chậm (... ) mặt trời chậm chậm lăn theo lưng núi”. “Xe lên xe xuống”, tựa đầu tiên của tiểu thuyết, trên hết phải được hiểu như là một giá trị mỹ cảm, bởi tôi đồ rằng chính mỹ cảm về chiều cao mới là xuất phát điểm của sáng tạo, nội dung ý tưởng chỉ là cái đến sau.
Trong Mình và họ, vùng biên ải “hoang hoang bồng bềnh”, nơi vừa là lên vừa là xuống, Nguyễn Bình Phương gọi là Tà Vần.
Phải nói ngay rằng trong Mình và họ, nếu biển mang một cái tên hoàn toàn có thật – Quảng Ninh, núi được Nguyễn Bình Phương âu yếm chọn cho một địa danh hư cấu, Tà Vần. Trong tiếng Việt, “Tà Vần” không có nghĩa gì mà chỉ gợi lên cảm giác hoang vu, nguyên sơ, hơi chút ma tà. Và chính Tà Vần quyết định số phận của Hiếu và người anh.
Với người anh, Tà Vần vang lên như mơ ước, ám ảnh, hy vọng, sự sống. Bởi khi cùng đồng đội bị lạc trong chiến tranh Việt Trung, điều mà người anh mong ngóng sau nhiều ngày lẩn trốn là tìm được Tà Vần, “ranh giới giữa mình với họ”“Tìm về tới đấy là thoát” (tr. 279). Nhưng cùng lúc, Tà Vần đi mãi không đến và sự tồn tại của nó luôn là một nghi vấn của những chiến binh bị săn đuổi: “Tao thắc mắc đây có đúng là chân Tà Vần không. Thằng chinh sát lúng túng nói lảng...” (tr. 281), để rồi khi về đến nơi tưởng là Tà Vần, tất cả sẽ bị giết còn người anh bị bắt: “Tao nghĩ thế là mình sẽ chết ở Tà Vần này” (tr. 277). Đây chính là ý nghĩa kép của Tà Vần, nó vừa là sự sống và cái chết, niềm tin và tuyệt vọng, là mình và họ. Tà Vần khốc liệt và bi thương, nhưng Tà Vần dường như chỉ là một ảo ảnh: “Mình hỏi: Có đỉnh Tà Vần thật không? Anh ngẩn ra: Tao cũng không rõ” (tr. 166).
Có lẽ vì sự mâu thuẫn đó mà Tà Vần ám ảnh Hiếu những năm tuổi trẻ. Cũng như với người anh, suốt chuyến đi vừa là chạy trốn vừa là phiêu lưu của nhân vật, Tà Vần vang lên như một lời vẫy gọi, một sự hướng tới: “làm sao tới được địa danh Tà Vần” (tr. 105). Tà Vần luôn ở “phía trước”: “Đỉnh Tà Vần vẫn chờn vờn phía trước” (tr. 277). Để rồi khi đạt đến nơi tưởng là Tà Vần, Hiếu sẽ bị bắt và nhảy xuống vực. Như vậy, giống với người anh, Tà Vần là sự sống và cái chết, là niềm tin và tuyệt vọng, với Hiếu. Nó là ảo ảnh.
Chỉ có điều, Tà Vần, trong con mắt Hiếu, trên hết tượng trưng cho cái đẹp: “Phía trước vẫn là dãy núi xanh óng” (tr. 214), “cái chóp núi xa hút, mờ mờ trong dải mù trắng” (tr. 276), “Những dẻ nắng xòa xuống làm dãy núi phía trước xanh óng, ngân vang, mê ly”(tr. 146). Chính ở trang cuối cùng của tiểu thuyết, tại nơi tưởng là Tà Vần, Nguyễn Bình Phương cho Hiếu qui tụ với “nó” – đứa con hoang đã chết, “ quỳnh” – loài hoa vừa nở đã tàn, và “cừ rừm” – tiếng kêu hoang thú.
Như vậy, nếu Tà Vần là cái đẹp, nó cũng là cái ác, là nơi ẩn chứa bạo lực và chết chóc. Tà Vần cũng là bí ẩn của vô thức, hồng hoang, nhục dục, tội lỗi. Tà Vần lẫn lộn mình và họ. Với Nguyễn Bình Phương, cái đẹp nằm ngoài vòng phong tỏa của đạo đức.
Tà Vần là một địa danh mới trong từ điển mỹ học của Nguyễn Bình Phương.

4. Mỹ cảm của bạo lực
Nguyễn Bình Phương, với bản lĩnh thực sự của người cầm bút, đã chạm tới, hơn nữa, đã phanh phui chất hoang bạo luôn len lỏi giữa cuộc sống vật chất và tinh thần người Việt. Trong Mình và họ, bạo lực triền miên qua bao cuộc chiến, từ người Kinh đến người dân tộc, ngay trong giải trí đời thường. Nếu “dân Mèo say rượu múa khèn giống như đánh võ ấy, vui ra phết” (tr. 271) thì Hiếu được bố múa võ cho xem vào những phút thư dãn (tr. 271). Hành động và ngôn ngữ các nhân vật cũng đầy bạo lực. Người tình đi dạo trên bờ biển và gọi nhau là “đểu” (tr. 14), anh cầm thanh củi quật em trai đã có vợ và gọi là “chó” (tr. 39), cậu nhận xét về bạn rượu: “giáo viên đéo gì, say cả ngày” (tr. 73.
Rõ ràng, Hiếu cũng như tất cả những người sống quanh anh ta đều rùng mình trước bạo lực nhưng không chống cự nổi. Dường như từ truyền kiếp, họ bắt đầu là nạn nhân, sau đó chấp nhận, rồi cuối cùng đi đến thực thi bạo lực và cuồng say bạo lực. Đây là ý nghĩa sự tồn tại xuyên suốt Mình và họ của cuốn sổ trong đó người anh ghi chép về chiến tranh, mà Hiếu luôn mang trong người như vật bất ly thân. Bạo lực từ những trang viết khát máu này đã thấm vào Hiếu đến độ anh ta thuộc lòng. Rất nhiều đoạn, Nguyễn Bình Phương cài nhật ký người anh giữa lời của người-kể-chuyện, để hai anh em thay phiên nhau hào hứng với những cảnh chém giết:
“Thằng ấy chạy xiên qua mép đá chỗ tao đứng. Tao đã xỉa nó, chỉ một phát. Thằng khựa thọat nhìn tưởng đô con hơn tao nhưng khi đè ra mới thấy nó cũng chỉ cỡ cỡ như tao thôi, có khi gầy hơn. Mày còn nhớ cái ông chuyên gia ngày xưa ở gần nhà mình không? Thằng này giống y thế, cả cái mũi hơi vẹo sang bên, cả đôi mắt một mí xếch ngược lên, cả cái cổ cao ngẳng gân chằng chịt”.
Anh xỉa vào đúng cái cổ đó, dao cắm lút cán, nếu không vướng xương cổ thì chắc chắn đã xuyên sang bên kia. Tay lính không kêu được, hai mắt trợn trừng toàn lòng trắng nhìn anh.
“Lúc ấy trông nó càng giống ông chuyên gia trợn mắt đóng Tôn hành giả cho anh em mình xem” (tr. 281).
Như vậy, Nguyễn Bình Phương không chỉ dừng lại mô tả mà đi tìm căn tính của bạo lực. Mục đích đến Tà Vần của người em cũng là để chạm tới được cái bạo lực của người anh. Tuy nhiên, khác với nhiều nhà văn, Nguyễn Bình Phương không coi văn chương là một bộ phận phụ của các môn lịch sử, xã hội học hay đạo đức học. Anh đối xử với bạo lực với như một nghệ sĩ. Nó bình đẳng như tình yêu, tình dục, hay mọi đề tài khác. Bạo lực, dưới ngòi bút của Nguyễn Bình Phương, như ta đã thấy, tạo ra một nguồn mỹ cảm đặc biệt. Nếu bạo lực thường là biểu hiện của dương tính, thì trong Mình và họ, nó được tra hỏi, khai thác, cân bằng với Tà Vần và sự chậm rãi, hai cơ tố, dưới thẩm mỹ của anh, dường như mang nhiều âm tính. Bạo lực, với Nguyễn Bình Phương, vì thế trở thành một đề tài nghệ thuật độc lập. Bằng cách này, nó được tách ra khỏi quan điểm “chân-thiện-mỹ” đã áp đặt và, đương nhiên, vẫn kìm chế văn học nghệ thuật Việt Nam từ bao thế hệ.
Và có lẽ đấy là mạch ngầm sâu nhất, ám ảnh nhất, còn đọng lại trong mỗi chúng ta sau khi đọc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương.

Đoàn Cầm Thi
Paris tháng 6 năm 2015

_________________________
[1]NXB Trẻ, 2014. Tất cả các lời dẫn trong bài đều trích ở bản này. Nhưng chỗ gạch chân trong đoạn trích là do tôi (ĐCT).
[2]Xem phỏng vấn Nguyễn Bình Phương của Hoàng Nhân, “Nhà thơ Nguyễn Bình Phương ra mắt tiểu thuyết Mình và họ”, trong Thể thao & Văn hóa, 20/09/2014.
[3]Tên một bài viết của Nguyễn Bình Phương, trong Thể thao & Văn hóa ra ngày 01/12/2013.
[4]"Quay chậm" là một từ dân dã để chỉ những đoạn hình ảnh trên phim chậm lại so với tốc độ bình thường. Nhưng trong thực tế, không phải là “quay chậm”, mà là quay nhanh và phát chậm. Thuật ngữ tiếng Anh là Slow motion.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lúc đói lòng, xin được bới ra ăn.

TỔ QUỐC, CON ÂM THẦM YÊU MẸ.

Mẹ mới dựng nổi mái tranh bé nhỏ
Lẽ nào con mơ nhà lầu
Bữa ăn mẹ mới dọn cho con cơm rau
Lẽ nào con đòi bơ sữa?
Có ai đó hay bàn về Tổ Quốc
Nằm trong vỏ ốc nói hy sinh
Ai mặc ấm mà ngồi thương Mẹ rét
Trước khi yêu Tổ Quốc họ yêu mình
Có kẻ một thời từng nhân danh Mẹ
Bán quê hương đổi lấy sướng giàu
Những tổng thống, những chủ tịch, những vương triều như chong chóng
Xoay bên nào lòng Mẹ cũng bầm đau
Có kẻ rên la nhà Mẹ nghèo mưa gió
Họ mơ những chân trời xanh đỏ sắc đô-la
Miệng yêu Mẹ mà bàn chân chối bỏ
Tổ Quốc là một cách để ba hoa
Cám ơn những người làm ca ba bình thường như đinh ốc
Miếng bánh mì ăn còn dính mỡ, dính dầu
Tay quai búa trước lửa hàn chói lọi
Tổ Quốc suốt đời như quặng dưới bề sâu
Những người đến cơ quan lĩnh đồng lương gió thổi
Dạ dày nhiều khi co bóp trong đầu
Họ lầm lũi không còn gì để nói
Tổ Quốc yêu Người nào có dễ gì đâu
Những người lính ngã trong hào biên giới
Tổ Quốc chảy trong dòng máu của mình
Người lính ấy không nhân danh la lối
Họ âm thầm lao tới nhận hy sinh
Mẹ ơi, bao người chưa từng nói về Tổ Quốc
Lấy mồ hôi gieo hạt lúa nhọc nhằn
Tâm hồn họ như khoai vùi trong bếp
Lúc đói lòng, xin được bới ra ăn.
Sài Gòn mùa thu năm 1985
T.M.H.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hà Nội đắt đỏ nhất nước


Nghiên cứu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, trong các năm từ 2012-2014, Hà Nội luôn là thành phố có mức giá cao nhất, vượt xa các tỉnh thành khác trên cả nước.

Hà Nội và TPHCM luôn là 2 thành phố có mức sống đắt đỏ nhất trên cả nước.
Tổng cục Thống kê vừa công bố chỉ số giá sinh hoạt theo không gian (SCOLI) các năm 2010-2014. Đây là chỉ tiêu tương đối, phản ánh xu hướng và mức độ biến động giá sinh hoạt giữa các vùng, địa phương trong một thời gian nhất định.
Kết quả biên soạn chỉ số SCOLI trong 5 năm qua (2010-2014) cho thấy, Hà Nội và TPHCM luôn là 2 thành phố có mức sống đắt đỏ nhất trên cả nước. Trong các năm 2010 và 2011, TPHCM vượt Hà Nội là với chỉ số SCOLI cao hơn Hà Nội 1,2% vào năm 2010 và 0,8% vào năm 2011. Trong đó, nhóm học phí luôn cao hơn Hà Nội là 40%.
Năm 2012-2014, Hà Nội đứng đầu bảng trong khi TPHCM giảm xuống vị trí thứ 4 vào năm 2013 và thứ 6 vào năm 2014. Nguyên nhân là do trong những năm này, TPHCM thực hiện chương trình bình ổn giá nên giá lương thực, thực phẩm, may mặc, đồ uống, thuốc lá không có mức tăng đột biến.
Từ năm 2012-2014, các tỉnh vùng Tây Bắc (Điện Biên, Sơn La, Lai Châu) có mức giá cao ở các nhóm lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng và nhóm giao thông do vậy chỉ số SCOLI của các tỉnh này thường đứng vị trí thứ 2, 3, 4 trong cả nước khi so với Hà Nội. Tuy nhiên, mức giá bình quân của các tỉnh này chỉ bằng 94% so với mức giá bình quân của Hà Nội, riêng nhóm giao thông các tỉnh này luôn cao hơn Hà Nội 2-8%.
Trà Vinh là tỉnh có mức giá thấp nhất trong cả nước, trong đó thấp nhất là giá hàng hoá và giá dịch vụ ăn uống. Tháng 10/2012, nhóm dịch vụ y tế của Trà Vinh tăng 21,03%, mức tăng thấp nhất trên cả nước. Tháng 9/2013, giá dịch vụ giáo dục của tỉnh này tăng 12,64%, cũng là mức tăng thấp nhất cả nước.
Thái Bình là tỉnh có mức giá thấp thứ 2 sau Trà Vinh. Ngoài ra, giá các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long luôn thấp hơn Hà Nội do nhóm hàng lương thực, thực phẩm của các tỉnh trong vùng này giá chỉ bằng 75-85% mức giá của Hà Nội; nhóm hàng văn hoá, giải trí và du lịch của các tỉnh trong vùng này chỉ bằng 70-90% mức giá của Hà Nội.
Tỉnh Bắc Ninh, Hà Tĩnh, Bến Tre là các tỉnh có chỉ số SCOLI có mức biến động lớn nhất theo xu hướng ngày càng đắt đỏ hơn. Nguyên nhân chính là do các tỉnh này điều chỉnh tăng mạnh giá dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục. Trong đó đáng kể nhất là, năm 2012, Bắc Ninh tăng giá dịch vụ y tế 294,5% và Hà Tĩnh tăng 305,85% vào năm 2013. Bến Tre thậm chí còn điều chỉnh tăng phí giáo dục cho bậc phổ thông tới hơn 500% vào năm 2011.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hai mặt đã khó chơi, bốn mặt phải cảnh giác cao độ!

(Chính trị) - Chỉ ba tuần sau cảnh báo của đại biểu Nguyễn Ngọc Nghĩa tại Quốc hội về những bất ổn ở biên giới Tây Nam, ngày 28.6 tại cột mốc 203 do Việt Nam quản lý thuộc địa bàn tỉnh Long An, khoảng 250 người Campuchia tràn sang gây rối. Nhóm người này đã có những hành vi quá khích làm 7 người Việt Nam bị thương.
Hình ảnh từ hiện trường thuộc huyện Mộc Hóa (Long An) cho thấy, trước hành vi vượt biên trái phép và chủ động tấn công vào ta của một số phần tử quá khích người Campuchia. Phía ta dù mang theo gậy gộc nhưng đã hết sức nhã nhặn, kiềm chế. Như mọi khi chính sách của ta vẫn là kết hợp lực lượng vũ trang (Công an -biên phòng) với lực lượng địa phương tại chỗ (dân quân và người dân địa phương) để đẩy đuổi, không cho nhóm người Campuchia bước qua lãnh thổ Việt Nam. Đồng thời kêu gọi họ phải tôn trọng chủ quyền của ta.
Hình ảnh từ hiện trường thuộc huyện Mộc Hóa (Long An) cho thấy, trước hành vi vượt biên trái phép và chủ động tấn công vào ta của một số phần tử quá khích người Campuchia. Phía ta dù mang theo gậy gộc nhưng đã hết sức nhã nhặn, kiềm chế.
Hình ảnh từ hiện trường thuộc huyện Mộc Hóa (Long An) cho thấy, trước hành vi vượt biên trái phép và chủ động tấn công vào ta của một số phần tử quá khích người Campuchia. Phía ta vẫn đã hết sức nhã nhặn, kiềm chế, nhưng cương quyết không cho họ bước vào lãnh thổ Việt Nam. 
Tuy nhiên, đám đông vô thức dưới sự dẫn lối của một số nghị sĩ Đảng Cứu nguy dân tộc Campuchia (CNRP) núp dưới danh nghĩa “đến kiểm tra khu vực biên giới” giữa tỉnh Svay Rieng và tỉnh Long An vẫn hung hăng tràn vào lãnh thổ Việt Nam, đánh bị thương người dân Việt.
Quan sát trong nhóm người Campuchia lúc đó có sự xuất hiện của Thach Setha, một thành viên ‘sừng sỏ’ của CNRP, kẻ nổi tiếng vì những hành vi cực đoan chống Việt Nam và phá hoại mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Campuchia. Thach Setha từng giữ chức Tư lệnh Hải quân Hoàng gia Campuchia trước 1997. Sau cuộc bầu cử quốc hội 1998, Thach Setha là một dân biểu thuộc đảng bảo hoàng Funcinfec. Năm 2001, Thach Setha sang định cư ở Mỹ và là thành viên của Mặt trận giải phóng Kampuchea Krom (KKF) tại đây, như một mặt trận trá hình mị dân để phá hoại Việt Nam.
Quan sát trong nhóm người Campuchia lúc đó có sự xuất hiện của Thach Setha, một thành viên 'sừng sỏ' của CNRP, kẻ nổi tiếng không vì những đóng góp cho hạnh phúc, ấm no và sự phát triển của Campuchia mà vì những hành vi cực đoan chống Việt Nam và phá hoại mối quan hệ hữu nghị Việt Nam - Campuchia.
Quan sát trong nhóm người Campuchia lúc đó có sự xuất hiện của Thach Setha, một thành viên ‘sừng sỏ’ của CNRP, kẻ nổi tiếng vì những hành vi cực đoan chống Việt Nam.
Không khó để nhận ra nhóm người Campuchia gây rối ở Long An đa phần đều mang theo máy quay phim, máy hình mọi lúc mọi nơi, bấm chụp lia lịa. Và những hình ảnh này đi đâu mọi người đều đã biết. Không phải ngẫu nhiên mà các trang báo đài hải ngoại lại có thông tin trước cả báo chính thống Việt Nam.
Trở lại vấn đề biên giới lãnh thổ hai nước Việt Nam -Campuchia. Lẽ ra cột mốc 203 cùng với hơn một ngàn cột mốc khác ở biên giới Tây Nam đã cắm mốc xong từ năm 2012. Khi mà quá trình phân giới đã hoàn thành, nhưng việc cắm mốc thì cứ nhùng nhằng, không tiến hành được. Đặc biệt là sau khi Sam Rainsy lãnh đạo CNRP (kẻ nổi tiếng bợ đỡ Trung Quốc) được ân xá.
Câu chuyện ở cột mốc 203, khiến Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã lần đầu tiên trong nhiều năm phải lên tiếng về một cuộc xô xát, va chạm ở biên giới Tây Nam. Và cụ thể hóa nỗi lo lắng về một vùng biên bất ổn mà đại biểu Quốc hội từng lên tiếng.
Vì sao khu vực biên giới Tây Nam đột nhiên có biến, cùng lúc với việc Trung Quốc di chuyển giàn khoan Hải Dương 981 đến gần bờ biển Việt Nam trên Biển Đông chỉ vài tuần trước thềm chuyến thăm Mỹ lần đầu tiên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng? Ngẫm lại tất cả những vụ việc này thấy nó hoàn toàn không ngẫu nhiên, có vẻ như một ‘bàn tay ma’ đang mượn quân cờ Campuchia để chống phá Việt Nam vào lúc này, một ‘hợp đồng’ kẻ tung người hứng giữa các thế lực chính trị nhằm cô lập Việt Nam để Việt Nam ngả vào vòng tay những kẻ đang cố ve vãn?
Câu chuyện hôm nay ở Long An cũng khiến gợi nhớ đến hình ảnh ở cửa khẩu Lệ Thanh (Đức Cơ, Gia Lai): cột mốc biên giới chỉ là cục bê tông nhỏ, nằm tạm bợ giữa rừng vì phía Campuchia sau khi phân giới đã không tạo điều kiện để cắm mốc. Và áp sát đường biên là hàng ngàn ha rẫy tiêu thuộc huyện Ozadav (Rattanakiri) đã được Trung Quốc thuê dài hạn, với nhân công và chủ trang trại đều là người Trung Quốc.
Đường biên giới Tây Nam, như đại biểu Nguyễn Ngọc Nghĩa cảnh cáo, sẽ còn là câu chuyện dài. Và đó sẽ không chỉ là chuyện giữa Việt Nam và đất nước thờ vị thần có 4 mặt.
Bạn đọc Văn Dân

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhưng TTO đã có một bản tin nói ông Thanh đang giải phẫu tại Pháp? Đáng lẽ nên quan tâm nhiều hơn tình hình biển Đông đang cực nóng vào lúc này. Chả biết các pác cả hai lề làm truyền thông kiểu gì vậy?

Tin Đại tướng bộ trưởng quốc phòng PHÙNG QUANG THANH bi ám sát là chưa xác thực

28/06/2015 15:12
Long Nhất
Từ sáng nay một số trang tin và nhiều facebook liên tục đăng tải hình ảnh tin tức về việc Đại Tướng Bộ Trưởng Quốc Phòng PHÙNG QUANG THANH đã vừa bị ám sát bằng súng giảm thanh lúc sáng hôm qua Thứ Sáu 26-6-2015 trước một ngôi nhà trên đường phố Paris của Pháp. Tuy nhiên nhiều người cho răng đây là một trò lừa đảo mà thôi.
1558f88b2e2269.img
Hình ảnh đăng tin từ một số trang web được nhiều người chia sẻ dù chưa có tính sác thực.
Cập nhật: Theo trả lời nhanh từ phía Lãnh Sự Quán Việt Nam thì tin tức vụ ám sát là giả mạo, cư dân mạng nên ngừng chia sẻ và đính chính lại tin này.
Các trang tin này trích dẫn nguồn tin đặc biệt từ tổ chức R.H tại Mỹ với nội dung sau:
Đại tướng Phùng Quang Thanh và toán các cận vệ và sĩ quan tùy tùng sau khi đã kết thúc một tuần làm việc với đối tác Bộ Quốc Phòng Pháp nên rủ nhau đi chơi, mua sắm và thăm vài gia đình “Việt kiều yêu nước” là cơ sở nằm vùng tại Paris. Khi vừa ra khỏi một căn nhà trong hẽm phố Paris thì bị hai kẻ lạ mặt không rõ sắc dân hay quốc tịch đã dùng súng tự động hãm thanh bắn nhiều phát và Đại Tướng Phùng Quang Thanh bị trúng 2 viên đạn.
Tin cũng nói thêm rằng ngay tức khắc các cận vệ và đám sĩ quan tùy tùng đã đưa Đại Tướng Phùng Quang Thanh trở lại căn nhà vừa mới bước ra và liên lạc với Bộ Quốc Phòng Pháp để đề nghị bảo mật nguồn tin và lập tức đưa Đại Tường Phùng Quang Thanh ra phi trường trở lại Hà Nội khẩn cấp. Hiện tin nầy vẫn chưa nói rõ tình trạng vết thương của Đại Tướng Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh nặng nhẹ như thế nào.
Chuyến đi của Đại Tướng Phùng Quang Thanh qua Pháp gần như hoàn toàn không loan báo gì trên các mạng báo chí của Nhà nước.
Các bài viết của họ cũng cho rằng nguồn tin chính sác 99%, tuy nhiên hiện tại chưa có một tin tức khẳng định nào từ phía chính phủ Việt Nam, và các phóng viên của nhiều tờ báo lớn đang chờ đợi trả lời thông tin này.
Có nhiều người đặc biệt là cư dân mạng facebook zalô đã vội vã chia sẻ thông tin này.. với một tốc độ chóng mặt. Tuy nhiên XãLuận khuyến cáo và khẳng định giờ này chưa có một bản tin chính thức vụ việc này trên bất cứ phương tiện thông tin nào từ chính phủ Việt Nam.
img_b0c290ab9e06ca9d709f55b25990oe5617A1FD__gda__1445992109_46fc826da4a0e91e9480a9fc81e85786Hiện tại thì thời điểm này trùng với việc Tướng Phùng Quang Thanh đang ghé thăm Pháp theo một số trang tin công bố trước đó.
Ông Phùng Quang Thanh sinh ngày 02-2-1949, vào quân đội từ năm 1969 và được phong là Anh Hùng Quân Đội Nhân Dân từ năm 1971. Ông Phùng Quang Thanh được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Quốc Phòng nước VN từ tháng 6 năm 2006 kế nhiệm tướng Phạm Văn Trà. Ông là Uỷ Viên Thường Trực Bộ Chính Tri Trung Ương đảng CSVN.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đã có tin về tướng PQThanh:

Bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh trị bệnh tại Pháp

02/07/2015 00:00 GMT+7
TTO - Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, đi Pháp trị bệnh cách đây một tuần. Tối 30-6, ông Thanh đã được phẫu thuật.
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh trong lần trả lời phỏng vấn báo chí bên lề kỳ họp Quốc hội vào tháng 10-2014 - Ảnh: Việt Dũng
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang Thanh trong lần trả lời phỏng vấn báo chí bên lề kỳ họp Quốc hội vào tháng 10-2014 - Ảnh: Việt Dũng
Ngày 1-7, thông tin từ Ban bảo vệ và chăm sóc sức khỏe trung ương cho hay đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, đã đi Pháp trị bệnh cách đây một tuần.
Tối 30-6, ông Thanh đã được phẫu thuật, có thể là một khối u phổi.
Theo nguồn tin của Tuổi Trẻ, ông Thanh từng bị chấn thương vùng ngực từ thời chiến tranh, lâu dần chấn thương đó khiến một bộ phận phổi bị xơ.
Khoảng hai tháng trước, ông Thanh bắt đầu bị ho nặng, sinh thiết chưa phát hiện ung thư nhưng các dấu hiệu xơ hóa vùng phổi cộng với ho nặng là những dấu hiệu đáng ngại của căn bệnh này.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chết Bởi Con Rồng Đế Quốc:


Trong một cuộc di dân vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, Tàu đang biến cải toàn thể Phi Châu thành một thuộc địa mới. Tương tự như tây Phương đã làm trong thế kỷ 18 và 19—nhưng quyết liệt và với tầm cỡ lớn hơn nhiều—các lãnh đạo Tàu muốn Phi Châu là “chư hầu” ở xa, để vừa giải quyết vấn nạn dân số quá đông, và vừa lấy được tài nguyên. - Daily Mail Online.

Trong khi các  hãng xưởng của Mỹ tiếp tục đóng bụi, trong khi các chính khách Mỹ và các nhà lãnh đạo quân sự chỉ chăm chú vào Trung Đông, và trong khi các chính trị gia ở Washington mê ngủ, Tàu cứ tiến tới. Một triệu quân Tàu di chuyển không ngừng ngang dọc Phi Châu và Nam Mỹ để chiếm các nguyên liệu chiến lược, và chiếm các thị trường mới nổi, không cho Mỹ, Âu Châu, Nhật, và các xứ khác vào. Đây là một cái đinh nữa đóng vào nắp quan tài của ngành sản xuất của Mỹ và của thế giới. Thế giới cần phải coi chừng cái đế quốc đang vươn lên này.

Con Rồng Đế Quốc Tàu là đứa con hoang của Con Rồng Sản Xuất vô độ—tiêu thụ nửa số lượng xi măng và gần nửa số thép của thế giới, một phần ba đồng của Tàu, một phần tư aluminum, và những số lượng vĩ đại các thứ khác như antimony, chromium, cobalt, lithium, zinc, và gỗ. Chính những tài nguyên này và các thứ khác từ nhiều nơi trên thế giới góp phần cho sự tăng trưởng kinh tế và mức sống của mọi quốc gia.

Bauxite và sắt từ những nước như Guinea và Tanzania được dùng để chế biến thành aluminum và thép mà chúng ta cần để sản xuất máy bay ở Seattle, Wahington và để đóng tàu ở Bath, Maine. Đồng từ Chile để làm dây điện, cobalt từ Congo dùng trong các xưởng cơ khí ở Michigan, và niobium từ Brazil dùng trong nhiều thứ từ máy hỏa tiễn cho quốc phòng đến lò điện nguyên tử dân sự.

Lithium từ Bolivia và Nambia dùng trong bình điện xe hơi lai (hybrid), manganese từ Gabon dùng để sản xuất bình nước uống bằng nhựa, và titanium từ những nơi như Mozambique, Madagascar, và Paraguay để sản xuất thép tốt dùng trong việc chế tạo máy bay tuyệt vời Boeing 787 Dreamliner hoặc đầu gối và hông nhân tạo của Johnson & Johnson.

Nhưng Tàu muốn tất cả những tài nguyên thiên nhiên ở tất cả các nước này là của Tàu, dành riêng cho ngành sản xuất của Tàu và để tạo việc làm trong nước Tàu. Nếu chúng ta thụ động đứng nhìn để Tàu tự tung tự tác, thì chúng nên tự đào hố chôn nền kinh tế của chúng ta bằng cái xẻng mạ vàng làm ở Thượng Hải. Nhưng nếu muốn trực diện đế quốc đang lên này để bảo vệ nền kinh tế và an ninh quốc gia, chúng ta cần hiểu rõ trò “nhử mồi” của Bắc Kinh.

Trò Nhử Mồi của Đế Quốc Rồng
Dân của lục địa đẹp mê hồn này cần sự tiến bộ. Nhưng Tàu đến đây không phải để giúp, mà là để cướp. - Daily Mail Online

Kế hoạch nhử mồi của Tàu luôn luôn bắt đầu bằng cùng một cách: Chủ tịch nước, hoặc thủ tướng, hoặc bộ trưởng thương mại đến thủ đô của một xứ xa xôi như Djibouti hay Niger hay Somalia, mà nhiều người Mỹ chẳng biết mấy chỗ này ở đâu trên bản đồ thế giới. Ông ta giơ cao vẫy vẫy một tấm chi phiếu to và hứa hẹn cho vay rộng rãi với lãi suất thấp để xây dựng hạ tầng cơ sở như đường xá, cầu cống, hải cảng, xa lộ; hoặc phí phạm như dinh tổng thống tráng lệ, hoặc AK47 để các lãnh tụ độc tài chà đạp người dân.

Đổi lại, thuộc địa mới chỉ cần chấp nhận hai điều kiện:
Đầu tiên, muốn nhận tiền thì phải giao nộp các tài nguyên thiên nhiên—như vậy Tàu có thể chiếm trọn cho riêng mình tài nguyên thiên nhiên của thuộc địa.

Thứ nhì, phải mở cửa cho hàng đã thành phẩm từ các xưởng sản xuất của Tàu tràn vào thị trường thuộc địa—như vậy Tàu chiếm luôn thị trường mới nổi này.

Phương pháp để có tài nguyên của Tàu khác rất xa phương pháp của hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, trong đó mọi người dựa vào thị trường toàn cầu để điều phối năng lượng và nguyên vật liêu qua hệ
thống giá cả. Phương pháp phân phối tài nguyên bằng thị trường tự do là cốt lõi của nền kinh tế thế giới để mọi người cùng có lợi. Nhưng thay vì hợp tác kiểu tư bản, đế quốc tư bản Bắc Kinh lại chỉ muốn làm
đế quốc.

Cái kiểu nhử mồi của con Rồng đang được áp dụng ở Phi Châu, Nam Mỹ, và phần lớn Trung Á, là định nghĩa chính xác cho chủ nghĩa đế quốc: Cướp tài nguyên thiên nhiên của thuộc địa mà những tài nguyên này là tài sản duy nhất của thuộc địa. Mang những tài nguyên này về Tàu thay vì sử dụng tại chỗ để giúp phát triển thuộc địa. Rồi sau đó chuyển ngược những tài nguyên này lại thuộc địa dưới dạng hàng đã thành phẩm.

Phương pháp này tạo việc làm nơi đế quốc, giúp các công ty đế quốc kiếm tiền, và dĩ nhiên khiến số người thất nghiệp ở thuộc địa càng nhiều thêm.

Phần thuộc địa được hưởng là những việc khai thác nguy hiểm lương thấp, trong khi các việc sản xuất được đưa về Quảng Châu hay Thành Đô (Chengdu) hay Thượng Hải. Tốt Tàu hưởng, xấu thuộc địa chịu.

Ngoại Giao Bằng Tiền Kiểu Tàu
Khi quan sát thực tế tại chỗ, chúng tôi tưởng như Tàu đã chiếm Phi Châu.—Ngoại Trưởng Musa Kusa của Libya.

Thực ra trò nhử mồi của Tàu đang xảy ra khắp nơi trên địa cầu.

 Angola đã trả nợ cho Tàu số lượng dầu trị giá 10 tỉ đô la và vẫn còn tiếp tục.

Cộng Hòa Dân Chủ Congo đến nay đã trả cho Tàu số lượng tài nguyên tương đương nhiều tỉ đô la.

Ghana đang trả bằng hạt ca cao, Nigeria trả bằng khí đốt, và Sudan lấy vũ khí và trả Tàu bằng dầu. Không một nước nào có lợi trong cuộc trao đổi với Tàu.

Trong khi đó ở Peru, Tàu đang làm chủ cả một ngọn núi đồng; và để mua núi Toromacho của Peru, Tàu đã học từ một câu nói nổi tiếng của W. C. Field, “Không bao giờ cho kẻ khờ một cơ hội.” Thực tế là Tàu đã mua được kho đồng quý giá này chỉ với 3 tỉ đô la, kể cả tiền hối lộ, và giờ đang lời tới mức 2,000 %. Trong khi đó các vấn nạn đói khát, mù
chữ, nghèo khó, tai nạn lao động, và môi trường ô nhiễm thì dân Peru lãnh đủ.

Trường hợp Peru đã tệ, việc Bắc Kinh trao đổi với lãnh tụ giết người Robert Mugabe của xứ Zimbabwe còn tệ hơn. Bạo chúa già nua run rẩy này đang cai trị một trong các xứ nhiều tài nguyên thiên nhất và cũng có ít việc làm nhất của thế giới, đã bán số lượng dự trữ platinum của Zimbabwe trị giá 40 tỉ đô la cho Tàu với giá chỉ 5 tỉ, rồi hắn dùng tiền này để xây lâu đài mới, sắm trực thăng vũ trang, chiến đấu cơ phản lực, và súng ống để đè đầu cưỡi cổ dân Zimbabwe.

Chỉ có Tàu mới có khả năng làm vụ kỳ thị và đàn áp người da đen (Apartheid) trước kia trở nên chuyện nhỏ khi so sánh với tình trạng hiện nay.

“Rồi sao?” Có thể bạn hỏi vậy. Tàu cũng phải được hưởng tài nguyên như Mỹ hay Âu Châu hay Nhật chứ! Và tại sao người Mỹ cần phải để ý khi Tàu bóc lột mấy xứ Phi Châu tham nhũng thối nát, hoặc mấy xứ nghèo mạt ở Nam Mỹ? Nếu lãnh đạo của mấy cái xứ tồi tệ này ngu quá hay tham quá để Tàu lừa gạt, thì kệ họ chứ! Làm sao mà chuyện này ảnh hưởng được đến mấy người làm cho các hãng cơ khí sản xuất đồ bằng graphite ở Bensenville, Illinois, kính màu cho nhà thờ ở Kokomo, Indiana, hoặc bàn ghế gỗ ở Asheboro, North Carolina? Và làm sao trò nhử tiền của Tàu lại ảnh hưởng được đến hy vọng tìm việc của những người trẻ tốt nghiệp đại học UC Berkeley với bằng hóa học, hoặc tốt nghiệp Georgia Tech với bằng kỹ sư?… Rồi, ít ra sau đây là một câu trả lời.

Bằng cách thiết lập các thuộc địa ở Phi Châu, Á Châu, và sân sau của Hoa Kỳ là Nam Mỹ, Tàu càng ngày thâu tóm càng nhiều tài nguyên của thế giới. Kế hoạch này cho Tàu ở vị thế độc quyền về tài nguyên với giá thấp nhất—và như vậy Tàu có lợi thế cạnh tranh với Mỹ và với cả thế giới.

Thực ra kế hoạch thâu tóm tài nguyên thế giới của Tàu cũng tương đương với việc cấm vận tài nguyên đối với các quốc gia khác trên thế giới. Vì khi Tàu kiểm soát bauxite ở Brazil, Equatorial Guinea, và Malawi; đồng ở Congo, Kazakhstan, và Nambia; sắt ở Liberia và Somalia; manganese ở Burkina Fasco, Cam Bốt, và Gabon; chì ở Cuba và Tanzania; zinc ở Algeria, Kennya, Nigeria, và Zambia, thì đâu còn gì cho các xưởng ở Cincinnati và Memphis và Pittsburgh—và Munich và Yokohama và Seoul.

Chuyện Tàu “cấm vận” khiến xe hơi tương lai sẽ được sản xuất ở Lan Châu (Lanzhou) và Vu Hồ (Wuhu) thay vì ở Detroit và Huntsville; máy bay tương lai sẽ được sản xuất ở Binzhou và Thẩm Dương (Shenyang) thay vì ở Seattle và Wichita; chíp máy vi tính tương lai sẽ được làm tại Đại Liên (Dalian) và Thiên Tân (Tianjin) thay vì tại Silicon Valley; và thép của thế kỷ 21 sẽ được sản xuất ngày càng nhiều hơn ở Đường Sơn (Tangshan) và Vũ Hán (Wuhan) thay vì ở Birmingham, Alabama, và Granite City, Illinois.

Đây chắc chắn không phải là cách thị trường tự do và sự hợp tác thương mại quốc tế hoạt động. Và tất cả chúng ta đáng lẽ phải nổi nóng với chuyện đang xảy ra này. Nhưng trong các phòng họp chính trị ở Berlin, Tokyo, và Washington, thái độ của các chính khách có vẻ ngày càng giống như Rhett Butler trong phim Cuốn Theo Chiều Gió: “Anh nói thiệt cưng nghe, anh chẳng  thèm để ý.”

Dân Con Rồng Tràn Ngập Đại Lục Đen
Không cần biết Tàu nói gì, thực tế rõ ràng là không phải chỉ có kỹ sư và khoa học gia Tàu đến Phi Châu. Nông dân cũng đến luôn. Đúng là thực dân kiểu mới. Hoàn toàn không có đạo đức, không có giá trị gì
cả.—Mustafa al-Gindi, Thành viên Nghị Viện Ai Cập

Trong khi Tàu phát triển và các nước sản xuất khác có nguy cơ xuống dốc, các thuộc địa mới của Tàu như Angola và Zimbabwe vẫn trong tình trạng đói nghèo, và thường bị nội chiến. Mặc dù các thuộc địa này có nhiều tài nguyên thiên nhiên, sự đói nghèo và xung đột ở Phi Châu là kết quả trực tiếp do sự tráo trở của Tàu. Lúc đầu Tàu hứa hẹn cho vay tiền để xây dựng hạ tầng cơ sở, tạo công ăn việc làm cho nhiều người dân địa phương. Nhưng khi khởi công thì Tàu lại xuất cảng đội quân cả triệu công nhân qua để làm. Thay vì thuê kiến trúc sư, kỹ sư, công nhân, xe tải, tại địa phương, Tàu đưa dân Tàu qua tối đa, chỉ thuê dân địa phương ở mức tối thiểu.

Tác giả của quyển sách Safari Của Tàu (China Safari) mô tả tình trạng ở Sudan như sau:
Người Tàu khoan dầu và bơm dầu vào ống dẫn của Tàu đưa lên tàu của Tàu để chở về Tàu dưới sự bảo vệ của nhân viên Tàu. Công nhân Tàu làm đường làm cầu và xây đập nước khổng lồ khiến nhiều chục ngàn dân địa phương và nhiều ngàn điền chủ phải di tản. Nông dân Tàu tự sản xuất thực phẩm cung cấp cho đội quân lao động Tàu, hoặc nhập cảng các thực phẩm khác từ Tàu. Tàu cũng trang bị vũ khí cho các lãnh tụ tồi tệ địa phương để phạm tội ác với con người, và bảo vệ cái chế độ đó trong Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.

Và đây là âm mưu của Tàu mà ít ai để ý. Ngoài mục đích thâu tóm tài nguyên và chiếm lĩnh thị trường mới, Bắc Kinh còn có kế hoạch xuất cảng nhiều triệu dân Tàu qua các xứ thuộc địa ở Phi Châu và Nam Mỹ để giảm sức ép do dân số quá đông ở Tàu. Trong quyển China Safari, một khoa học gia Tàu đã giải thích kế hoạch đổ bộ dân Tàu như sau:
Chúng tôi có 600 con sông ở Tàu mà hết 400 sông kể như chết vì ô nhiễm trầm trọng… Chúng tôi phải dời ít nhất 300 triệu dân qua Phi Châu thì may ra mới giải quyết được tình trạng.

Và đây là một thí dụ nhỏ về việc Tàu chơi ép để xuất cảng dân qua Đại Lục Đen: Khi Nambia không thể trả nợ, mấy tay cho vay cắt cổ ở Bắc Kinh ép Nambia phải nhận nhiều ngàn gia đình Tàu qua định cư. Bí mật này được tiết lộ bởi WikiLeaks; và không cần nói cũng biết là khi tin này xì ra, dân Nambia vô cùng phẫn nộ.

Có thể bạn cũng nổi điên nếu Tàu cũng ép Mỹ phải nhận di dân như vậy.

Thử nghĩ xem, nếu vài tỉ đô la có thể khiến Tàu đưa được vài ngàn gia đình qua định cư ở Nambia, thì nước Mỹ phải nhận bao nhiêu trăm ngàn dân Tàu để trừ số nợ hai ngàn tỉ? Các tiểu bang như Montana và Wyoming còn rộng lắm mà phải không?

Sau đây là sự mô tả của nhà báo có tiếng Andrew Malone về kế hoạch biến Phi Châu thành của Tàu:
Một cách âm thầm, bẩy trăm năm chục ngàn dân Tàu đã định cư ở Phi Châu trong một thập niên qua. Và vẫn còn tiếp tục. Kế hoạch này đã được các giới chức Tàu tính toán cẩn thận. Một chuyên gia ước tính là Tàu cần phải đưa ba trăm triệu dân qua Phi Châu để giải quyết nạn nhân mãn và ô nhiễm.

Kế hoạch có vẻ như đang tiến hành tốt đẹp. Cờ Tàu đang bay khắp nơi ở Phi Châu. Những hợp đồng béo bở đang được ký kết để mua các thương phẩm như dầu, platinum, vàng, và khoáng chất. Các tòa đại sứ mới đang được xây và các đường bay đang được thành lập. Thành phần thượng lưu Tàu ở Phi Châu hiện diện khắp nơi, đi mua sắm ở những cửa hàng đắt tiền, lái xe Mercedes và BMW, cho con học  trường tư riêng biệt…

Ở khắp nơi trên đại lục đẹp đẽ này, dân Tàu đang tràn vào như cơn nước lũ… Các khu đô thị biệt lập có hàng rào bao bọc đang mọc lên khắp nơi.

Người da đen không được bén mảng. Ngay cả những quần áo đặc thù Phi Châu bày ở tiệm cũng được nhập cảng từ Tàu, mang nhãn “Made in China.”

Từ lời nhận xét gay gắt trên của Malone, bạn có thể thấy được phần nào rằng Tàu không chỉ xuất cảng công nhân xây dựng qua Phi Châu, Á Châu, và Nam Mỹ, mà Tàu còn đưa qua nông dân, thương nhân, và cả gái điếm!

Để dễ cảm nhận được sự xâm chiếm đất đai của Tàu, ta hãy giả sử rằng chính phủ Mỹ tịch thu vài triệu mẫu đất canh tác tốt ở Iowa và Nebraska đem cho Tàu, đuổi nông dân ở đó đi chỗ khác chơi, rồi phân
chia vùng cho Tàu ở riêng, ăn uống riêng. Bạn thử nghĩ xem dân Mỹ sẽ phẫn nộ lên tới mức nào? Đó chính là điều đang xảy ra ở Phi Châu, nơi đã có hơn một triệu nông dân Tàu. Đúng vậy, hơn một triệu nông dân Tàu đang cày đất Phi Châu sản xuất thực phẩm để xuất cảng ngược về Tàu nuôi dân Tàu—ngay trong khi dân địa phương đang đói nghèo.

Đây là một sự thực cay đắng trong việc chiếm đất Phi Châu của Tàu:
Theo tuần báo The Economist, Tàu đã chiếm hơn 7 triệu mẫu dầu cọ (palm oil) tốt của Congo để làm xăng hữu cơ.

Ở Zambia các nông trại Tàu đã sản xuất một phần tư số trứng được tiêu thụ ở thủ đô Lusaka. Ở Zimbabwe, theo báo Weekly Standard thì chế độ của Mugabe đã cho không Tàu những trang trại trước kia của người da trắng. Trong khi đó Con Ngựa Thành Troy mang cái tên mai mỉa “Nông Trại Hữu Nghị” đang được xử dụng ở các xứ như Gabon, Ghana, Guinea, Mali, Mauritania, và Tanzania để chiếm những khu nhỏ hơn hầu tránh bị để ý.

Chiếm Thị Trường Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh
Cùng với cơn lũ nông dân Tàu, nhiều đợt con buôn Tàu cũng tràn vào Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh. Một số mang theo cơn lũ hàng Tàu vào các thành phố lớn như Kinshasa, Kampala, Lagos, Lima, và Santiago. Một số khác mạo hiểm hơn, đến lập nghiệp ở các nơi xa xôi đang có các công trình xây cất của Tàu khắp Phi Châu và Nam Mỹ.

Về chuyện gái điếm Tàu thì, giống như các công ty Tàu hạ giá thật thấp để tiêu diệt đối phương, các cô sống về đêm ở các quán rượu và nhà chứa cũng dùng cách rẻ tiền để loại đối thủ cạnh tranh. Các tác giả
của quyển China Safari mô tả về tình trạng ở xứ nhiều gỗ Cameroon như sau:

“Gái điếm Tàu chỉ đòi có 2,000 CFA (4.25 đô la) trong khi các cô địa phương thì phải trên 5,000 mới chịu lên giường.”

Và đây lại thêm một chi tiết buồn cười nữa về lý do kinh tế khiến dân Tàu bỏ xứ ra đi: Khi cảnh sát giải thoát được một nhóm các cô do các tay buôn người đưa vào Congo-Brazzaville để làm điếm, những cô này lại nhất định đòi ở lại. Lý do là các cô kiếm được khá tiền hơn và được đối xử tốt hơn khi ở quê nhà Tứ Xuyên (Sichuan). Thì ra làm điếm ở xứ Congo xa xôi còn khá hơn làm ruộng ở quê Rồng.

Tàu Xuất Cảng Sàn Gỗ Giết Người và Rác Độc Hại
Các công ty Tàu trả lương công nhân rất thấp và bắt họ làm việc nhiều giờ; làm sao đòi hỏi họ làm tốt hơn ở nước ngoài? Với 6,700 công nhân mỏ bị tai nạn chết mỗi năm (17 người một ngày)… làm sao trông mong được các công ty Tàu làm khá hơn ở các nơi khác trên thế giới? Tàu đã tàn phá hệ sinh thái nước Tàu trong quá trình hiện đại hóa nhanh chóng; làm sao ta có thể tin là Tàu sẽ tôn trọng môi trường như các nước Tây Phương?—Weran Jiang, Đại Học Alberta

Với công nhân xây dựng, lái buôn, gái điếm, nông dân, hoặc cơn lũ hàng rẻ tiền đang khiến các cơ sở thương mại địa phương phải dẹp tiệm, Tàu đang xuất cảng các vấn nạn kinh tế và môi trường của họ qua các thuộc địa mới, đồng thời đẩy người dân bản xứ sâu vào hàng ngũ những người nhận cứu trợ hoặc phải đi ăn xin. Nhưng đây không phải là những hàng xuất cảng duy nhất.

Tàu cũng đang xuất cảng sự coi thường công nhân và sự coi thường môi trường. Như giáo sư Weran Jiang đã nói rõ, không có gì phải ngạc nhiên. Bởi vì các kế hoạch gia Tàu ở Bắc Kinh còn chẳng chịu bảo vệ công nhân và môi trường của chính họ, thì làm sao trông mong là họ tử tế với mấy nơi khác như mỏ cobalt ở Congo, rừng ở Gabon, mỏ bạc ở Peru, hay mỏ đồng ở Zambia?

Sự trâng tráo của Tàu khi tàn phá đất thuộc địa có vẻ như không có giới hạn. Ta hãy xem chuyện gì đã xảy ra khi công ty quốc doanh thuộc hàng lớn nhất của Tàu là Sinopec vào Gabon để tìm dầu. Năm 2002 chính phủ Gabon đã phân định một phần tư diện tích quốc gia toàn rừng nguyên sinh là vùng thiên nhiên cần được bảo vệ. Nhưng khi Sinopec vào Gabon tìm dầu, Sinopec bắt đầu ngay giữa khu rừng, đào bới ủi đất làm đường chằng chịt ngang dọc, đặt mìn tàn phá bừa bãi—mà chỉ bị chính quyền khẻ tay nhẹ.

Cũng như “kim cương máu” để mua vũ khí Tàu tàn sát người dân vô tội ở Congo, tiền bán gỗ cho Tàu được dùng để tài trợ và mua vũ khí cho cuộc nội chiến đẫm máu.

Người Hùng Trên Yên Ngựa Đâu Rồi?
Ở Nambia khi những công nhân bị đối xử tệ lên tiếng than phiền thì bị bảo rằng “hãy cố chịu đựng để đời con cháu được khá hơn.” Ở Kenya, khi bị hạn hán trầm trọng, dân chúng chặn công nhân làm đường để đòi được lấy nước uống từ một cái giếng duy nhất trong khu vực Tàu đang thi công.—Africa News

Không khí sợ hãi và ghê tởm bao trùm các xưởng và mỏ của các ông chủ Tàu ở Phi Châu và Nam Mỹ, vì giống như ở Tàu, làm việc nhiều giờ, lương thấp, thiếu an toàn, và những ông xếp tàn ác—cùng với việc đổ bừa bãi đủ thứ chất thải độc hại vào môi trường chung quanh.

Chút chi tiết đẫm máu: Khi các công nhân ở mỏ than Collum Coal Mine miền Nam Zambia lên tiếng than phiền về lương thấp và điều kiện làm việc thiếu an toàn, ông xếp Tàu hung bạo dùng súng shotgun bắn gục 11 người. Người hùng trên yên ngựa của Clint Eastwood đâu rồi?

Vụ bắn này không phải là riêng lẻ. Chỉ vài tháng trước đó ở một mỏ khác ở Zambia, cuộc đình công trở thành cuộc bạo động khi một xếp Tàu bắn vào đám đông. Dĩ nhiên Bộ Ngoại Giao ở Bắc Kinh gọi cuộc thảm sát chỉ là “sự sai lầm.” Bạn nghĩ sao?

Sự Vô Đạo Đức Của Tàu Làm Hại Tây Phương
Trong 640 triệu vũ khí nhẹ đang lưu hành trên thế giới, khoảng 100 triệu ở Phi Châu.-Baffour Dokyi Amoa, Pambuzaka News

Dù bị thiệt hại đủ thứ, câu hỏi là tại sao nhiều nước Phi Châu, Á Châu, và Châu Mỹ La Tinh lại mở rộng vòng tay với Tàu? Có nhiều câu trả lời, và câu trả lời tùy vào cái xứ đó thuộc loại nào.

Loại địa ngục Phi Châu nơi lãnh tụ là những kẻ vũ trang, sát nhân, hoặc những lãnh tụ “dân chủ” trá hình với thùng phiếu bị tráo và dân bị bầu dưới họng súng. Những chế độ đểu cáng như Angola, Sudan, và Zimbabwe luôn luôn ở đầu bảng.

Ở những xứ này và nhiều xứ Phi Châu và Nam Mỹ khác, nơi nền dân chủ yếu và lãnh tụ quân sự mạnh, thực dân Tàu áp dụng khẩu hiệu lạnh xương sống do chính Thủ Tướng Tàu Ôn Gia Bảo thốt ra ở nghị viện Gabon: “Chỉ buôn bán thôi, không có điều kiện chính trị gì cả.”

Với chủ trương này, Tàu làm ăn với bất cứ một chính quyền ngoại quốc nào mà không cần biết chính quyền ấy tàn ác bạo ngược hoặc thối nát đến đâu. Tàu hoàn toàn không hề chỉ trích hay không hề đặt ra một điều kiện nào về nhân quyền hoặc sổ sách minh bạch.

Vậy ta có thể thấy ngay rằng chủ trương vô đạo đức của Tàu trong lãnh vực ngoại giao cho Tàu một lợi thế rất lớn so với các nước văn minh như Mỹ, Anh, Pháp, và Nhật. Những nước văn minh hành động riêng lẻ hoặc qua một cơ chế quốc tế như Liên Hiệp Quốc, dùng các vũ khí ngoại giao như cấm vận kinh tế, phong tỏa tài khoản, và cắt viện trợ, để buộc các bạo chúa phải bớt hung hăng. Nhưng trong khi các nước văn minh tạo sức ép lên các bạo chúa thì Tàu lén luồn vào bằng cửa sau.

Khi Mỹ ngưng giao thương với Sudan vì quân đội Ả Rập của nước này đang giết người da đen ở Darfur; khi Liên Hiệp Quốc cấm vận vũ khí đối với Ivory Coast hay Sierra Leone; khi Âu Châu cố gắng tạo sức ép lên Eritrea hay Somalia; ngay cả khi gần như toàn thế giới đang đòi lãnh tụ độc tài Robert Mugabe của Zimbabwe phải tôn trọng kết quả cuộc bầu cử, thì Bắc Kinh lợi dụng cơ hội nhẩy vào, cung cấp cho các bạo chúa này đủ thứ, từ vũ khí cá nhân và chiến đấu cơ phản lực đến máy vi tính và các phương tiện truyền thông.

Đây là một thí dụ cụ thể về việc “đổi máu lấy dầu” ở Dafur, trong đó vũ khí dùng để tàn sát dân là do Tàu cung cấp. BBC mô tả trong tài liệu “Cánh Đồng Thảm Sát Mới” như sau:

Nhiều ngàn phụ nữ và trẻ em bị hiếp dâm một cách có tổ chức ở Dafur trong khi các người chồng, người anh, và con trai của họ bị giết thê thảm… Chính quyền thả bom trước rồi lính tràn vào làng mạc Phi Châu trên lưng lạc đà, ngựa, và xe tải… Nhiều làng bị tấn công tới năm lần.

Một phụ nữ tên Kalima… khóc than gọi chồng khi chồng cô bị đám lính giết, còn đứa con nhỏ 3 tuổi trên tay cô thì bị đám lính giật ra rồi thiêu sống tại chỗ. Bản thân cô bị đè ra hiếp dâm tập thể.

Như vậy, trong khi chúng ta ở các nước tự do dân chủ tôn trọng đạo đức thì Tàu lợi dụng cơ hội để thu hoạch kinh tế, bằng cách cung cấp AK47 cho nhiều ngàn lính trẻ con Phi Châu ở Liberia, Nigeria và Sierra Leone—trong khi máy ủi đất của Tàu vùi nhiều ngàn tử thi dưới những
cánh đồng thảm sát ở Dafur.

Còn Nước Úc? Thế Giới Sụp Đổ
Công ty China Guangdong Nuclear Power Holding Co… muốn mua quyền kiểm soát công ty Energy Metals Ltd. của Úc với giá 83.6 triệu đô la Úc.

Đây là một phần làn sóng đầu tư của Tàu vào tài nguyên thiên nhiên của Úc. Việc công ty quốc doanh CGNPH muốn mua 70% chương trình khai thác uranium của Bigrlyi ở khu vực phía bắc nước Úc là dấu hiệu đầu tiên cho thấy Tàu muốn lấn vào nước sản xuất uranium lớn nhất thế giới.

Tàu tỏ ý muốn mua công ty Úc giữa lúc liên hệ Úc-Tàu xuống mức thấp.

Tháng vừa rồi Tàu giam giữ bốn nhân viên Anh-Úc của công ty Rio Tinto Ltd., trong đó có công dân Úc Stern Hu, với tội hối lộ và vi phạm bí mật quốc gia. Nhiều chính trị gia và bình luận gia không an tâm với việc Tàu muốn đầu tư lớn vào khu vực khai thác mỏ của Úc. —The Wall Strett Journal

Điều ngạc nhiên về kế hoạch thực dân của Tàu là làm sao ngay cả các nền kinh tế phát triển và có cơ cấu dân chủ vững mạnh như Úc, Brazil, và Nam Phi, cũng bị đồng tiền Tàu lôi kéo.

Ta hãy xem nước Úc. Dân Úc có trình độ giáo dục cao, tay nghề vững, và gần như có đủ loại tài nguyên thiên nhiên cần thiết để trở thành một trung tâm kỹ nghệ mạnh. Nhưng thay vì phát triển các ngành kỹ nghệ xử dụng tài nguyên sẵn có để sản xuất hàng tiêu dùng, các lãnh đạo thiển cận lại cho Tàu vào mua tài nguyên, đào những kho tàng khổng lồ để đem về các xưởng của Tàu.

Chỉ trong vài năm qua, các công ty Tàu như Yangzhou Coal Mining, China Minmetals, Hunan Valin Steel & Iron, China Metalurgical, và Shanghai Baosteel, đã được những hợp đồng khai thác tài nguyên vĩ đại. Dù trong ngắn hạn vài trăm gia đình thượng lưu Úc bỗng giàu to, nhưng về đường dài nước Úc sẽ lâm cảnh nghèo khó khi các mỏ bị vét sạch.

Ngay cả trong ngắn hạn nước Úc cũng đang bị thiệt thòi. Bởi vì sau khi Tàu dùng nguyên liệu của Úc sản xuất thành hàng hóa rồi đem ngược trở qua Úc bán, Úc bị thâm thủng mậu dịch với Tàu—mặc dù Úc có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú.

Cả hai nước Brazil và Nam Phi cũng tương tự–nhưng yếu hơn. Cả hai đều ngồi trên những kho tàng  phong phú. Cả hai đều có giới trung lưu và đều có nhiều cơ hội gia nhập hàng ngũ những nước kỹ nghệ. Nhưng cả hai lại cho Tàu lấy quá nhiều tài nguyên thiên nhiên và vì vậy bị thâm thủng mậu dịch với Tàu.

Chẳng hạn như ở Brazil và chỉ trong ngành dầu lửa, công ty quốc doanh Sinopec của Tàu đã đổ vào 7 tỉ đô la để mua phần lớn số dầu dự trữ khổng lồ ở Santos Basin. Và đó không phải là điều duy nhất: Sinopec
còn cho công ty Petrobras của chính phủ Brazil vay 10 tỉ đô la để đổi lại, Sinopec được quyền mua 10,000 thùng dầu thô mỗi ngày trong 10 năm với giá  thấp, dưới mức đáy. John Pomfret của báo The Washington Post đã vẽ bức tranh toàn cảnh “Chinamax” như sau:

Dọc theo dải cát vàng dài 175 dặm ở bờ biển Dại Tây Dương phía bắc Rio de Janeiro, Tàu đang xây dựng một thực thể kinh tế mới. Đi qua khỏi những hải cảng lớn nơi những tàu khổng lồ của Tàu đang lấy quặng sắt hoặc lấy dầu chở về Bắc Kinh, là một thành phố lớn gấp đôi Manhattan với các hãng xưởng đang mọc lên. Nhiều công trình này được xây dựng với tiền đầu tư của Tàu: xưởng luyện thép, công ty vận chuyển, xưởng xe hơi, xưởng sản xuất dụng cụ khai thác dầu và khí đốt… Sự đầu tư vào Brazil cho thấy kế hoạch “hướng ngoại” của Tàu để bảo đảm nguồn cung cấp tài nguyên thiên nhiên và để làm chậm sự phát triển của các công ty thuộc chính quyền địa phương.

Tổng Thống Nam Phi Thabo Mbeki tỏ ý lo ngại về sự xâm lấn của thực dân Tàu: “Nếu Nam Phi chỉ xuất cảng nguyên liệu thô qua Tàu và nhập cảng hàng đã thành phẩm từ Tàu, Phi Châu sẽ bị kẹt mãi mãi trong điều kiện kém phát triển.”

Dù là nước Úc văn minh, Congo loạn lạc, Nam Phi đang phát triển, hay là Zimbabwe độc tài, tất cả các nước này cùng giống nhau ở một điểm:
Tàu đang bóc lột có kế hoạch các kho báu của họ.

Và sau khi các kho báu bị cưa, bị xúc, và bị hốt sạch, những thuộc địa này chỉ còn là những cái vỏ rỗng, không còn cơ hội để trở thành quốc gia kỹ nghệ với khả năng tạo nhiều việc làm mà đúng ra họ đã có thể được hưởng nếu họ không là thuộc địa của Tàu.

Đại Bàng Mỹ Biến Thành Chim Bồ Câu Lớn Nhất Thế Giới
Con Rồng sản xuất rất tham ăn. Con Rồng thuộc địa không ngưng nghỉ. Đại Bàng Mỹ thì ngủ quên.—Ron Vara

Kết quả sau cùng là Tàu có kế hoạch chiếm đủ nguyên liệu cho các nhà máy Tàu chạy đều. Còn thế giới thì không. Trong khi đội quân triệu người của Tàu tràn đi khắp Phi Châu, Á Châu, và Châu Mỹ La Tinh để thực hiện kế hoạch thâu tóm tài nguyên và chiếm lĩnh thị trường, Đại Bàng Mỹ vẫn còn đậu dưới đất, Âu Châu không dám đối diện sự thật, và Nhật Bản thì bất lực vì quá sợ hãi. Nhưng trước kia đâu đến nỗi như vậy—ít ra là với nước Mỹ.

Nước Mỹ đã từng là bậc thầy trong việc sử dụng “sức mạnh mềm” trên thế giới qua các công tác cứu trợ, ngoại giao, và viện trợ quân sự. Nhưng giờ thì Đại Bàng Mỹ đã biến thành chim bồ câu; chúng ta đang gửi Peace Corps đến giúp những quốc gia mắc nợ ít hơn chúng ta, và chúng ta đang núp trong những trại lính ở những xứ mà chúng ta không nên đến. Đã đến lúc chúng ta và thế giới phải tỉnh dậy—và đứng lên chống lại—cái đế quốc thực dân đang hiện diện ngay giữa chúng ta. Một lần nữa, như Peter Finch đã nói một cách hùng hồn rằng, thế giới văn minh phải mở tung cánh cửa phía Đông mà gào to lên rằng, “Giận lắm rồi, không thể nào chịu nổi nữa.”

Bởi vì nếu chúng ta không vùng lên, “việc cấm vận” tài nguyên thiên nhiên mà Tàu đang áp dụng trên thế giới qua kế hoạch thực dân sẽ là dây thòng lọng siết cổ tất cả các nền kinh tế thế giới.

Với thời gian, khi đế quốc Tàu ngày càng thâu tóm được nhiều hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên quý hiếm để thỏa mãn cơn thèm khát của Tàu, dây thòng lọng sẽ càng siết chặt vào cổ của Mỹ, Âu Châu, Nhật, Nam Hàn, và các nước khác.

Peter W. Navarro & Greg W. Autry
Nguyễn Vinh dịch

Phần nhận xét hiển thị trên trang