Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 8 tháng 6, 2015

Thưa cụ Nguyễn Trung, không bàn về nội dung, hình thức mà nói cái này khó gọi là tiểu thuyết! Chắc chắn không nhà xuất bản nào dám xuất bản "tiểu thuyết" này đâu, thưa cụ Nguyễn kính mến ạ!

Lũ” chương 26 (chương kết) – phần đối thoại

… Cuối cùng, trước sức ép của tình hình, lãnh đạo đành chấp nhận đối thoại với doanh nhân và trí thức để xả xú-páp, ấn định ngày giờ, địa điểm, giao cho bên yêu cầu đối thoại lo mọi việc tổ chức…
Tại hội trường Câu lạc bộ Thống nhất ở Hà Nội, khoảng một giờ trước khi đối thoại bắt đầu, gần hai trăm doanh nhân và trí thức đại diện cho các địa phương cả nước đã có mặt đông đủ. Phía lãnh đạo có tới khoảng một trăm người thuộc các bộ máy có liên quan của Đảng và Nhà nước, trước hết là các phóng viên, các cán bộ và nhân viên của các cơ quan chức trách có liên quan. Cũng may, hội trường câu lạc bộ Thống Nhất khá rộng, có sức chứa đến bảy, tám trăm chỗ ngồi, nên không gian nơi đối thoại vẫn thoáng đạt. Ngân hàng PH lựa chọn rất kỹ và thuê trọn gói dịch vụ hội nghị cho tổ chức cuộc đối thoại này. Hợp đồng thuê dịch vụ quy định đến từng chi tiết nhỏ nhất, nhằm đảm bảo thành công tuyệt đối về mặt tổ chức.
Toàn bộ không gian nơi hội thảo được bài trí bằng hoa và cây xanh rất đẹp, không có bất kỳ chữ viết, khẩu hiệu, hay băng-rôn nào. Duy nhất trên phông của sân khấu là lá cở đỏ sao vàng lớn, che kín mặt phông sân khấu.
Tham gia đối thoại trực tiếp tất cả có bốn người.
Phía lãnh đạo có một vị đại diện có thẩm quyền thay mặt Đảng, Quốc hội và Chính phủ, một vị lão thành cách mạng có tên tuổi được nhiều người trong cả nước biết đến.
Phía doanh nhân và trí thức có thạc sĩ dược sĩ, doanh nhân Nguyễn Thị Bạch Yến. Người thứ hai là nhà toán học và đồng thời cũng là nhà hoạt động xã hội nổi tiếng giáo sư Hoàng Quốc Tuý, do các hiệp hội và các địa phương cử ra.
Ông bà Chính và hai ông bà Nghĩa thay nhau động viên Yến trấn tĩnh tham gia đối thoại, vì Thạch và Trung Nam đã bị bắt sang tuần thứ ba rồi mà vẫn chưa được thả ra. Đến giờ cũng không thấy một lời giải thích nào từ phía chính quyền về việc bắt bớ này. Ông Nghĩa cẩn thận dặn thêm không để cho mọi người hiểu lầm Yến đối thoại quyết liệt là do chồng con mình đang bị bắt, cần tập trung vào chuyện lớn của đất nước…
Đúng giờ, một người bước lên bục nói. Anh ta thông báo đối thoại bắt đầu và mời cả bốn người lên ngồi trên hàng ghế giữa sân khấu. Sau phần chào hỏi nhau, chào cử toạ, phần tự giới thiệu, cả bốn người tham gia đối thoại thoả thuận mời lão thành cách mạng là người cao tuổi nhất phát biểu mở đầu. Cả bốn người cùng ngồi trên hàng ghế đặt giữa sân khấu, mặt nhìn về phía cử toạ.
Lão đồng chí cầm microphone đứng dậy:
–… Một lần nữa tôi cảm ơn sáng kiến tổ chức đối thoại giữa giới doanh nhân, giới trí thức và giới cầm quyền đất nước. Tôi chủ ý dùng khái niệm giớitrong đối thoại này, để nhấn mạnh sự bình đẳng, tính cởi mở, tính xây dựng, để cùng nhau chia sẻ mối quan tâm về những vấn đề lớn của đất nước, với tất cả ý thức trách nhiệm cao nhất của chúng ta.
Cử toạ nhiệt liệt vỗ tay hồi lâu hoan nghênh
… Xin cảm ơn… Cuộc đối thoại hôm nay diễn ra đúng vào lúc cả nước có nhiều lễ kỷ niệm năm chẵn các sự kiện trọng đại… Đứng dưới lá cờ Tổ quốc tại đây hôm nay, tôi nhớ lại không khí hào hùng của ngày 19-8, khi tôi được chứng kiến lá cờ này lần đầu tiên phủ kín phía trước của Nhà hát lớn thành phố Hà Nội, mở đầu cuộc mít-tinh lịch sử và sau đó là cuộc biểu tình vĩ đại mở ra cuộc Cách mạng Tháng Tám. Tôi mong cuộc đối thoại hôm nay sẽ được dẫn dắt bởi tinh thần cách mạng vĩ đại ấy, vì đất nước chúng ta đang đứng trước nhiều vấn đề trọng đại phải giải quyết, có nhiều thách thức quyết liệt phải vượt qua.
Tôi đã đọc kỹ tài liệu chuẩn bị cho đối thoại của doanh nhân và trí thức về tình hình đất nước. Tôi đánh giá cao tâm huyết thể hiện trong văn bản này, và mong hôm nay được trao đổi thẳng thắn, xây dựng. Quan điểm của tôi là không tránh né vấn đề nào, cũng không sợ bị bất kỳ ai hay lực lượng nào xuyên tạc lợi dụng. Chúng ta làm mọi việc vì nước, có gì mà sợ? Tạo được thống nhất ý kiến, thống nhất ý chí, đất nước ta càng mạnh, lại càng không có gì mà sợ!
Tiếng vỗ tay từ cử toạ âm ầm ran lên
Trong quá trình thảo luận từng vấn đề, khi nào thấy cần tham gia bàn bạc, tôi sẽ nói ý kiến của mình. Tôi xin đề nghị đại diện lãnh đạo phát biểu trước, sau đó là đại diện giới doanh nhân và trí thức. Tiếp theo là thảo luận hay tranh luận.
Vì Bản đánh giá tình hình đất nước và nhiệm vụ đặt ra do doanh nhân và trí thức soạn thảo rất đầy đủ, do đó trong đối thoại này tôi đề nghị bàn thẳng vào những vấn đề gai góc.
Sự tham gia đông đảo của cử toạ hôm nay thể hiện tính công khai minh bạch của đối thoại. Để không khí đối thoại cởi mở, tự nhiên, không bị gây nhiễu vì bất kỳ lý do gì, tôi trân trọng đề nghị cử toạ lắng nghe, chứng kiến, nhưng không tham gia thảo luận.
Tôi xin nhấn mạnh, vì mục đích của đối thoại và thành phần tham gia đối thoại đã được ấn định, nên việc cử toạ muốn tham gia thảo luận hay nêu câu hỏi, xin được dành cho một diễn đàn khác. Chắc chắn đối thoại hôm nay sẽ mở ra nhiều diễn đàn khác.
Tôi xin nhắc lại một lần nữa, để tôn trọng sự thảo luận giữa đại diện lãnh đạo và đại diện giới doanh nhân và trí thức trong đối thoại hôm nay, tôi trân trọng đề nghị cử toạ chỉ nghe và theo dõi. Dứt khoát xin miễn đặt câu hỏi hoặc tham gia thảo luận. Tôi xin hỏi cử toạ có đồng ý không ạ?
Tiếng “Đồng ý” và tiếng vỗ tay rầm rầm hưởng ứng. Một không khí trang nghiêm, cởi mở lan toả khắp hội trường.
– Bây giờ tôi xin mời đồng chí đại diện lãnh đạo phát biểu.
Lão đồng chí đặt mirophone xuống bàn, yêu cầu các đại biểu tuỳ nghi, có thể đứng hoặc ngồi phát biểu để có không khí thân mật, thoải mái.
Đại diện lãnh đạo:
– Thưa cử toạ, thưa các thành viên tham gia đối thoại, tôi rất tán thành gợi ý và cũng là lời khuyên của lão đồng chí về cách chúng ta tiến hành đối thoại hôm nay. Lão đồng chí nhắc đến những ngày Tháng Tám lịch sử, nên tôi rất mong đối thoại của chúng ta được tiến hành trong tinh thần ấy. Tôi đã đọc kỹ bản Đánh giá tình hình đất nước và nhiệm vụ đặt ra do doanh nhân và trí thức chuẩn bị cho đối thoại này, và bây giờ xin nêu lên ba câu hỏi:
Câu hỏi đầu tiên của tôi là những đánh giá tình hình kinh tế đất nước nêu trong kiến nghị như thế của doanh nhân và trí thức có bi quan quá không? Bởi vì không thể phủ được nhận thực tế là quá trình khủng hoảng kinh tế của đất nước hiện nay đang từng bước được khắc phục. Dù sao đi nữa, tổng sản phẩm quốc nội tính theo đầu người của nước ta hiện nay so với lúc tiến hành đổi mới năm 1986 tăng gấp hơn một chục lần! Câu hỏi thứ hai là dựa vào những đánh giá của mình, giới doanh nhân và trí thức cho rằng tình hình đất nước đang lâm nguy, nhận định như thế có quá cường điệu không? Xin nói ngay, trong đối thoại công khai và thẳng thắn này, tôi không ngại chuyên vạch áo cho người xem lưng đâu. Câu hỏi thứ ba là doanh nhân và trí thức đã cân nhắc mọi mặt của đại cục chưa, đã quan tâm thoả đáng yêu cầu giữ vững ổn định chưa mà kiến nghị những giải pháp cải cách như vậy?
Xin mời thạc sĩ dược sĩ Nguyễn Thị Bạch Yến, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Ngân hàng PH, đi thẳng vào câu hỏi đầu tiên trong đối thoại này.
Thạc sĩ dược sĩ, doanh nhân Nguyễn Thị Bạch Yến:
– Xin cảm ơn sự ưu tiên dành cho tôi. Trước khi phát biểu, tôi xin nhấn mạnh doanh nhân và trí thức xác định rất rõ tinh thần trách nhiệm của mình đối với đất nước và chuẩn bị cho đối thoại này với tất cả ý thức xây dựng.
Tôi xin bàn ngay câu hỏi thứ nhất vị đại diện lãnh đạo đã nêu lên: Đánh giá tình hình đất nước trong kiến nghị của chúng tôi có bi quan hay không?
Xin thưa:
Có thể nói đánh giá của chúng tôi về tình hình đất nước thực ra là một tổng kết bước đầu của chúng tôi về tình hình đất nước từ khi tiến hành đổi mới năm 1986 đến nay. Trong tổng kết này, chúng tôi nhấn mạnh các thành tựu đạt được là sự nỗ lực rất lớn từ bỏ nền kinh tế quan liêu bao cấp, thực hiện được những bước đi đầu tiên của nền kinh tế thị trường, nhờ đó đã hoàn thành thời kỳ phát triển ban đầu nước ta nhất thiết phải trải qua.
Những thành tựu của đổi mới đã chặn đứng nguy cơ kinh tế sụp đổ, đồng thời thay đổi quan trọng vị thế quốc tế của đất nước. Nguyên nhân cơ bản của mọi thành tựu là thực hiện được dân chủ trong kinh tế ở mức độ nhất định, rõ nét nhất là thừa nhận sự vận động của kinh tế thị trường. Trong chính trị không thể nói như vậy.
Tổng kết 30 năm của chúng tôi nhấn mạnh: Trở lực lớn nhất là tình trạng mất dân chủ đang ngày càng kìm hãm quá trình đổi mới và sự nghiệp phát triển đất nước. Mất dân chủ đang tha hoá ngày càng nghiêm trọng toàn bộ hệ thống kinh tế và và hệ thống chính trị quốc gia. Sự tha hoá này tác động sâu sắc đời sống mọi mặt của đất nước. Chưa bao giờ các giá trị đạo đức, văn hoá xã hội bị băng hoại như ngày nay. Nhiều quyền tự do của nhân dân bị tước đoạt. Môi trường tự nhiên bị tàn phá nặng nề. Hiện tượng mất dân chủ quay trở lại rất sớm kể từ khi có Hội nghị Đảng toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII tháng giêng 1994, và hiện nay đang tiếp tục biến dạng toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của đất nước. Sản phẩm nổi bật của mất dân chủ là tệ nạn quan liêu và tham nhũng nở rộ. Việt Nam đang bị chế độ chính trị của chính mình giam hãm, chứ không phải là do bối cảnh thế giới bên ngoài.
Vốn dĩ đầy triển vọng trở thành con rồng hay con hổ mới ở Đông Nam Á, đang được dư luận thế giới rất kỳ vọng, song trong vòng dăm bảy năm nay Việt Nam tiêu tán gần như mọi nguồn lực tích luỹ được trong hai thập kỷ trước đó. Mọi cái dễ làm dễ ăn, kể cả đất đai và những tài nguyên khác, đã bị bóc hết, đẽo vạc như gần hết, thế mà vẫn là một nước nghèo và lạc hậu, không tạo ra được những tiền đề cho việc chuyển đất nước lên một giai đoạn phát triển cao hơn.
Đúng là tổng sản phẩm quốc nội tính theo đầu người của nước ta sau ba chục năm công nghiệp hoá tăng khoảng hơn một chục lần. Xin lưu ý cho, cũng sau 30 năm thực hiện công nghiệp hoá, tổng sản phẩm quốc nội tính theo đầu người của Hàn Quốc tăng gần 30 lần. Hàn Quốc giành được thành tựu này trong hoàn cảnh xuất phát điểm tổng sản phẩm quốc nội của họ năm 1960 chỉ xấp xỉ 100 (một trăm) USD tính theo đầu người, trong khi đó chỉ số xuất phát điểm này của ta năm 1986 bắt đầu đổi mới và công nghiệp hoá là 160 (một trăm sáu mươi) USD, nghĩa là cao hơn Hàn Quốc. Trong giai đoạn 30 năm công nghiệp hoá này của mỗi nước, toàn bộ nguồn lực ta huy động được trong và ngoài nước cho mục tiêu công nghiệp hoá này ước lượng nhiều hơn gấp đôi của Hàn Quốc1. Nhưng Hàn Quốc trở thành nước công nghiệp. Trong khi đó nước ta hiện nay sau 30 năm công nghiệp hoá mới chỉ là một nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp, thậm chí kinh tế và chính trị nước ta hiện nay đang có nhiều bế tắc lớn rất nguy hiểm, đất nước lệ thuộc.
Chưa nói đến việc chỉ số tăng trưởng GDP thường không nói lên được hoặc che khuất những yếu kém nghiêm trọng của phát triển đang tồn tại trong nền kinh tế nước ta.
Thưa các quý vị, mới đây thôi, một uỷ viên Trung ương Đảng chua xót nói với báo chí: Hiện nay ở Hàn Quốc có sáu vạn người Việt sinh sống, ở Việt Nam có sáu vạn người Hàn Quốc sinh sống, nhưng sáu vạn người Việt là kẻ đi làm thuê, còn sáu vạn người Hàn Quốc là kẻ làm chủ. Đại thể, hai con đường công nghiệp hoá của hai quốc gia đã dẫn đến môt bên là những người làm thuê và một bên là những người làm chủ như vậy.
Xem lại mình và so sánh với người như thế, phải thừa nhận bốn mươi năm độc lập thống nhất đầu tiên của nước ta là một giai đoạn phát triển thất bại! Hiển nhiên nước ta không thể nào hoàn thành công nghiệp hoá vào năm 2020. Tôi xin nhấn mạnh, đấy là thất bại của đường lối chính sách của Đảng, của hệ thống chính trị. Toàn đảng từ Tổng bí thư đến toàn thể đảng viên phải chịu trách nhiệm trước đất nước về thất bại này! Thực tế này đặt ra đòi hỏi gay gắt phải thay đổi việc xây dựng Đảng, phải cải cách hệ thống chính trị.
(Cả hội trường rộn lên trước sự thật phũ phàng. Yến phải dừng lại chờ một lúc rồi mới nói tiếp được)
… Với kết quả 30 năm công nghiệp hoá như vậy chỉ tính từ khi đổi mới, Việt Nam đang trở thành niềm thất vọng của chính nhân dân trong nước và của nhiều bạn bè quốc tế. Việt Nam hiện nay đang tụt hạng trên tất cả các lĩnh vực của phát triển, xếp hạng càng thấp nữa về tự do, dân chủ, quyền con người và bảo vệ môi trường tự nhiên, nhiều chỉ số cạnh tranh đang tụt dốc, ngày càng tụt hậu ngay trong ASEAN...
Trong khi đó người dân đầy tâm trạng bi quan, bức xúc. Dân tình nơi nào cũng rất nặng lời về chế độ chính trị và những người lãnh đạo. Xin đề nghị đồng chí lão thành và vị đại diện lãnh đạo tìm cách thâm nhập vào dân mà nghe cho thủng! Tôi đã được sống qua nhiều giai đoạn khác nhau của đất nước trong thời chiến và trong thời bình, nhưng quả thực chưa bao giờ tôi thấy lòng dân bi quan, mất niềm tin vào Đảng, vào chế độ như hiện nay.
Vị đại diện lãnh đạo bật lên như một cái lò so bị nén vừa mới mất cái hãm:
– Sao lại nói thế được!? Tình hình có lúc nào không có khó khăn thách thức? Đã thế, làm sao tách khủng hoảng kinh tế nước ta hiện nay khỏi bối cảnh suy thoái kinh tế thế giới? Hiển nhiên là từ đỉnh cao lạm phát 2 con số xuống chỉ còn một con số trong năm 2012 và đang ổn định tiếp. Hiện tượng vàng hoá hay đô-la hoá nền kinh tế coi như cơ bản được khắc phục. Tỷ lệ tăng trưởng GDP của nước ta vẫn là cao so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực… Phải nói đấy là những thành quả quan trọng chứ? Giới kinh tế nước ngoài vẫn đánh giá cao nền kinh tế nước ta và khả năng hấp dẫn đầu tư nước ngoài (FDI), đánh giá cao sự ổn định chính trị, vân vân… Nếu các vị cứ nhìn vào mặt tối của vấn đề làm sao có lối ra được? Vì là đối thoại, nên tôi không muốn chụp mũ. Tổng kết của các vị như thế là bôi đen, là hù doạ!
Thạc sĩ dược sĩ, doanh nhân Nguyễn Thị Bạch Yến, vẫn giọng nói điềm đạm:
– Thưa vị đại diện lãnh đạo, tôi tán thành phải ra sức củng cố những kết quả bước đầu đã giành được trong khắc phục khủng hoảng kinh tế.
Tuy nhiên, nghiêm túc đánh giá tình hình đất nước, theo tôi phải nói thẳng thắn:
Chúng ta nhiều năm nay đã lỡ tay vụng về, tự gây nên hoả hoạn lớn tàn phá nhà cửa vườn tược của chính mình, những năm gần đây đang ra sức cứu chữa… Bây giờ chẳng lẽ chúng ta hôm nay ngồi đây chỉ để cùng nhau ca ngợi thành tích đã giập tắt được phần nào đám cháy và sửa chữa được ít nhiều những đổ vỡ khác tự mình gây ra?
Xin thưa, đấy không thể và không phải là công việc của đối thoại hôm nay ạ, càng không phải là công việc của Đại hội Đảng sắp tới!
Tôi xin đặc biệt lưu ý, cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay đã kéo dài sáu, bảy năm mà vẫn trong thời kỳ tìm đường thoát khỏi đáy. Không ít chuyên gia kinh tế trong nước và trên thế giới cho rằng phải mất vài ba năm nữa, với những nỗ lực rất quyết liệt, khủng hoảng hiện nay mới có thể chuyển sang giai đoạn phục hồi. Thực tế này nói lên lỗi của hệ thống chính trị nước ta vô cùng trầm trọng.
So sánh tổng quát đầu vào và đầu ra của toàn bộ nền kinh tế từ khi tiến hành đổi mới, hiển nhiên phải có một khối lượng của cải rất lớn của đất nước đã bị thất thoát, rất đáng làm những tính toán thống kê để định lượng hiện tượng này.
Không thể không đặt ra câu hỏi nghiêm khắc: Vậy thì khối lượng của cải khổng lồ bị thất thoát này rơi vào đâu?
Chúng tôi đã nghĩ mãi, và chỉ có thể tìm thấy câu trả lời định tính:
* rơi vào các chính sách và những quyết định kinh tế sai lầm, với những thiệt hại và lãng phí khủng khiếp, vì quan liêu ăn bám, vì duy ý chí, và vì sự ngu dốt của bộ máy quản trị quốc gia suốt ba mươi năm qua;
* rơi vào tham nhũng tiêu cực tràn lan khắp cả nước,
* rơi vào túi nước ngoài do những yếu kém của chính ta hoặc do bị lừa, hoặc là cùng tiếp tay để đất nước bị lừa.
Tôi cho đấy là ba cái thùng không đáy rất lớn. Nguyên nhân hàng đầu gây ra ba cái thùng không đáy khổng lồ này là phẩm chất và năng lực yếu kém của toàn bộ hệ thống chính trị hiện nay của đất nước.
Xin thưa hai vị, đặc biệt đáng lo ngại là: Sau ba thập kỷ đổi mới, thời kỳ phát triển kinh tế theo chiều rộng đã kết thúc. Yêu cầu phát triển tự thân của đất nước cũng như sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường quốc tế đặt ra cho nước ta đòi hỏi bức xúc phải sớm chuyển nền kinh tế nước ta sang thời kỳ khác: Thời kỳ phát triển theo chiều sâu. Nhưng xin nhắc lại, cuộc khủng hoảng cơ cấu kinh tế rất sâu sắc của đất nước đang chặn đứng tất cả, nhất là:
- chất lượng nguồn nhân lực thấp,
- kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật thiếu và lạc hậu,
- năng lực quản trị quốc gia bị tệ nạn quan liêu tham nhũng lũng đoạn nghiêm trọng,
- của cải tích luỹ được bị tham nhũng bốc hơi đến mức làm rỗng nguồn lực quốc gia…
Xin lưu ý, đặc biệt tệ hại với nhiều hệ quả lâu dài cho sự nghiệp phát triển của đất nước từ nay về sau là nền giáo dục của ta đầy bệnh hoạn và phản tiến bộ. Một ví dụ điển hình là hiện nay nước ta không có lấy một trường đại học nào đứng trong tốp 200 của thế giới, trong khi đó Thái Lan sát nách ta có 2 trường đứng trong tốp 100 của thế giới!
Thưa hai vị, xem xét cả về mặt chính trị, văn hoá, xã hội, cuộc khủng hoảng hiện nay của nước ta là toàn diện và trầm trọng nhất sau ba chục năm đổi mới, báo động nguy cơ đổ vỡ như một tất yếu. Song đồng thời chính cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay đang thôi thúc quyết liệt phải cải cách triệt để hệ thống chính trị của đất nước.
Nền kinh tế quốc dân hiện đang chất chứa trong nó quá nhiều các quả bom nổ chậm. Đó là lạm phát cao đang có nguy cơ quay trở lại, nợ xấu và nợ công ngày càng khó kiểm soát, những hiện tượng vỡ bong bóng gần như thường xuyên trong thị trường địa ốc và thị trường chứng khoán, những rối loạn và tỷ lệ nợ xấu ngất ngưởng của ngành ngân hàng, những xí nghiệp hay công trình kinh tế trọng điểm quốc gia kém chất lượng với triển vọng đất nước phải trả giá đắt - trong đó có bô-xít Tây Nguyên, các xí nghiệp khai thác titan bới nát ven biển miền Trung, thuỷ điện Sông Tranh 2 đầy uy hiếp, các nhà máy nhiệt điện và những công trình kinh tế quan trọng khác đắt và kém chất lượng do Trung Quốc trúng thầu trọn gói, nạn cho thuê đất thuê rừng, nguy cơ nước ta trở thành bãi thải của kinh tế Trung Quốc – ví dụ điển hình là khu công nghiệp Vũng Áng...
Xin thưa, quả bom nổ chậm lớn nhất hiện nay trong nền kinh tế nước ta là hiệu ứng tổng hợp của
- tích tụ những ách tắc nhiều mặt phát sinh từ cơ cấu kinh tế hình thành trong 30 năm qua không còn phù hợp,
- cộng hưởng với sự lũng đoạn mang tính chất mafia của các nhóm lợi ích, với những đổ vỡ do bất cập và ngày càng tha hoá của toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy quản lý nhà nước, với những hệ luỵ ngày càng gia tăng của chế độ đảng trị.
Nói một cách khái quát, nền kinh tế nước ta hiện nay vừa cạn lực và rối ren, dễ bị chấn thương, vừa khan hiếm khả năng đi vào các sản phẩm mới, trong khi đã hết không gian hay đã bão hoà trong sản xuất các sản phẩm hiện có. Cơ cấu hiện tại của toàn bộ nền kinh tế có quá nhiều ách tắc và bất cập hiểm nghèo, trong khi đó chế độ chính trị hiện nay ngoan cố kìm hãm khả năng thay đổi nó.
Tình hình sẽ trở nên nhạy cảm và nguy hiểm hơn bao giờ hết, nếu như lúc này kinh tế nước ta bị chấn động lớn từ bên ngoài, hoặc đất nước bị thiên tai lớn.
Xin lưu ý, nếu để xảy tay không kiểm soát được tình hình nêu trên, quả bom nổ chậm mang hiệu ứng tổng hợp này có nguy cơ tiêu vong mọi thành quả mồ hôi nước mắt của nhân dân và toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Càng để chậm cải cách thể chế chính trị để thay đổi đất nước từ gốc, thời gian phát nổ của nó càng đến gần!
Xin thưa hai vị, đất nước đang đứng trước một nghịch lý: Tổng sản phẩm nội địa tính theo người dân hiện nay tăng khoảng 12 lần so với khi bắt đầu công cuộc đổi mới. Song đời sống mọi mặt của đất nước ngày càng nhiều bất cập và tiêu cực, mất công bằng xã hội và chênh lệch giàu nghèo đã tới mức độ gây mất ổn định, nhiều quyền của dân bị xâm phạm nghiêm trọng, văn hoá - xã hội khủng hoảng sâu sắc chưa từng thấy. Hệ thống chính trị ngày càng mang nặng tính quan liêu ăn bám, đồng thời sự mục ruỗng của nó ngày càng nguy hiểm khó bề cứu vãn. Nhân dân mất lòng tin vào Đảng và chế độ...
Một nghịch lý khác nữa: Tiềm lực đất nước tăng nhiều so với khi bắt đầu công cuộc đổi mới, song lại hoàn toàn bất cập đối với những đòi hỏi mới của phát triển. Kể từ sau khi hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập và thống nhất, chưa bao giờ đất nước lại thiếu ổn định và có nhiều mối lo bất an như ngày nay. Càng phát triển, đất nước càng rệu rã và tích tụ ngày càng nhiều bất công, đồng thời cứ tiếp tục tụt hậu – so với ngay cả trong ASEAN... Khả năng đối phó với các thách thức từ bên ngoài - kể cả trong nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc – có nhiều điều đáng lo ngại.
Tóm lại, sau 30 năm đổi mới, đất nước kết thúc một giai đoạn phát triển. Tình hình đất nước đã sang trang. Tôi xin nhấn mạnh như vậy. Bản tổng kết của chúng tôi lưu ý: Cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng hiện nay và những vấn đề nghiêm trọng trong toàn bộ đời sống chính trị - văn hoá – xã hội của đất nước đang đặt ra đòi hỏi nhất thiết phải tiến hành cải cách hệ thống chính trị làm đòn bảy chuyển đất nước sang một thời kỳ phát triển mới. Không làm được như vậy khó tránh khỏi nguy cơ sụp đổ. Nếu nhìn tổng hợp cả những thách thức từ bên ngoài nữa, có thể nói hiện nay đất nước đang lâm nguy.
Tôi nghĩ tổng kết như vậy là nhìn thẳng vào sự thật với tinh thần đặt sự sống còn của đất nước lên trên hết, lợi ích quốc gia lên trên hết. Tôi không tán thành ý kiến của vị đại diện lãnh đạo cho rẳng bản tổng kết của chúng tôi là bi quan, là bôi đen, hay hù doạ.
Chúng tôi không tán thành chỉ nhân danh chống tham nhũng bắt bớ vài vụ như đang làm, nhưng lại trốn tránh đòi hỏi cấp thiết số một là phải cải cách triệt để hệ thống chính trị của đất nước.
Đại diện lãnh đạo phản ứng ngay:
– Ô hay, tham nhũng hiện nay không phải là vấn đề nóng bỏng à? Doanh nhân và trí thức không tán thành đấu tranh chống tham nhũng à? Không bắt như thế làm sao chống được tham nhũng?
Thạc sĩ dược sĩ, doanh nhân Nguyễn Thị Bạch Yến:
– Xin thưa, chống tham nhũng là việc nhất thiết phải làm, song không được biến tướng thành đấu đá giữa các nhóm lợi ích khác nhau. Vì làm như thế, trên thực tế là tiếp tục nuôi tham nhũng và làm kiệt quệ đất nước, trốn tránh đòi hỏi phải cải cách hệ thống chính trị.
Cả nước rất lo lắng, vì thấy có nhiều điều uẩn khúc đang bị giấu diếm đằng sau hay chung quanh những vụ “đánh tham nhũng”. Dư luận trong dân đâu đâu cũng cho rằng sự việc chắc phải nghiêm trọng hơn rất nhiều so với những gì được giải thích trên báo chí. Các vụ bắt bớ nhân danh đánh tham nhũng, thường gây ra ngay lập tức những hiện tượng tháo chạy ồ ạt trên thị trường chứng khoán. Có lúc Ngân hàng Nhà nước đã phải cấp tốc điều hàng trăm tỷ đồng chỉ để cứu một ngân hàng nào đó trúng đạn, nhằm phòng ngừa hiệu ứng rút tiền bày đàn và nguy cơ đổ vỡ domino của cả hệ thống. Cái nảy xảy cái ung, giữa lúc nhà nước đang cháy vốn. Xin hỏi: lấy tiền ở đâu ra mà cứu như thế? Hay lại in thêm tiền?.. Làm như thế là cách chống tham nhũng có hiệu quả hay sao?
Thực tế đã và đang xảy ra là các vụ bắt bớ như vậy, khiến cho cơ chế kinh tế thị trường hình thành dần dần trong suốt mấy chục năm đổi mới bỗng dưng bị các chỉ thị hành chính và các biện pháp hình sự bóp nghẹt.
Xin thưa, đánh tham nhũng kiểu đánh nhau như thế giữa các nhóm lợi ích, người thua là nền kinh tế cả nước. Xin thử hỏi, nếu chính quyền tuột tay để xảy ra đổ vỡ domino trong hệ thống ngân hàng, trong bất kể một ngành kinh tế nào khác.., sẽ lấy in tiền nào mà cứu cho xuể? Trong khi đó thâm hụt ngân sách kéo dài kinh niên và ngày càng cao, quá nhiều dự án thiếu vốn, quá nhiều công trình dở dang, nợ nần ngày càng khó kiểm soát...
Xin thưa lão đồng chí và vị đại diện lãnh đạo, chỉ số của thị trường chứng khoán từ nhiều năm nay ở Thành phố Hồ Chí Minh chỉ còn ¼, và ở Hà Nội chỉ còn 1/5 so với đỉnh cao nó đã đạt được2! Đây là chỉ số đo hiện tượng xuống dốc và hiện nay đang mất đà của nền kinh tế. Cùng một lúc tiền tệ - tài chính nước ta hiện nay thường trực cả hai nguy cơ: lạm phát tăng cao trở lại, hoặc rơi vào thiểu phát và đình đốn…
Tất cả nói lên nền kinh tế đất nước hiện nay có rất nhiều vấn đề rất nhạy cảm và nguy hiểm. Đời sống của người lao động đang rất khó khăn vì giá cả leo thang, và bây giờ là thêm nạn mất việc đang lan rộng…
Nếu nhìn toàn bộ những điều vừa trình bày dưới góc độ sự can thiệp thường trực của quyền lực mềm Trung Quốc, tôi nghĩ tình hình có lẽ còn đáng lo ngại hơn nhiều. Hiện nay, chỉ một tin đồn nhảm cũng khiến nhiều người lo âu, làm ngân hàng này ngân hàng nọ khốn khổ, dân tình nhốn nháo… Khắp nơi loạn xạ những lời đồn nhảm, khiến các cơ quan của ta phải làm việc này việc nọ để thanh minh, để giải thích… Tình trạng thiếu công khai minh bạch và bưng bít thông tin càng làm cho mọi chuyện phức tạp hơn…
Đại diện lãnh đạo:
– Xin hỏi thẳng bà Yến, bà không tán thành cách chúng tôi đã làm trong chống tham nhũng, vậy theo bà thì phải đánh như thế nào?
Thạc sĩ dược sĩ, doanh nhân Nguyễn Thị Bạch Yến:
– Xin thưa, Đảng độc quyền lãnh đạo và nắm quyền lực tuyệt đối, theo lẽ đương nhiên Đảng cũng phải chịu trách nhiệm toàn diện và tuyệt đối về tình hình đang diễn ra trên đất nước hiện nay. Tại các nước có chế độ chính trị đúng đắn thì tất cả những người lãnh đạo này lẽ ra phải từ chức ba, bốn lần rồi!
Đặt ra vấn đề gỡ rối, có nghĩa là tập thể Bộ Chính trị - với tính cách là những người đứng đầu các bộ máy của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, có trách nhiệm phải vượt qua lợi ích nhóm, gạt hết mọi riêng tư với nhau, để cùng nhau một ý chí bàn bạc cách sửa lỗi hệ thống, chứ không phải là chỉ tìm cáchđánh, hay đánh nhau như đang diễn ra. Tự phê bình và phê bình với tinh thần bỏ qua việc sửa lỗi hệ thống và chỉ đơn thuần nhằm vào “đánh” như vậy là sai ngay từ đầu rồi! là cách nhìn thiển cận, hoặc ngay từ đầu đã có dụng ý không tốt rồi!
Bộ Chính trị nắm trọn vẹn mọi quyền lực trong tay, nếu là một khối thống nhất và một lòng vì nước, thì hoàn toàn có thể làm được theo cách gỡ rối. Tại sao không làm?
Với mục đích sửa lỗi hệ thống như vậy, gỡ rối không loại trừ việc sẽ phải sử dụng những biện pháp nghiêm khắc nhất, song gỡ rối vẫn hoàn toàn khác với đánh.
Quyền lực trọn vẹn trong tay như thế mà không cùng nhau gỡ rối, lại chỉ chọn cách đánh như đang làm, rõ ràng đấy chỉ là biểu hiện của chia rẽ nội bộ, của bất lực, là đối phó lẫn nhau, là không vì nước! Có phải thế không ạ?..
Cả hội trường lào rào xì xào. Yến lại phải chờ một lúc:
Xin thưa, khắc phục các nguyên nhân gây ra tham nhũng mới thực sự là chống tham nhũng có hiệu quả. Hay là bây giờ bộ máy lãnh đạo và thực thi quyền lực đã quá nát, do đó không còn nữa khả năng gỡ rối? Mà đánh như thế, đương nhiên sẽ có bên thắng bên thua, song chung cuộc lỗi hệ thống vẫn còn nguyên vẹn, cuối cùng sẽ chỉ có đất nước thua vì phải chịu trận thảm hại! Có phải thế không ạ?..
Cứ giả thiết là lãnh đạo tiến hành đánh như vậy hoàn toàn với thiện chí – dù điều này trên thực tế là không thể, nhưng xin hỏi trong tình hình bê bối như thế, đánh làm sao xuể? Mà không đánh thì nợ xấu, thất thoát, vỡ bong bóng, thôn tính lẫn nhau… sẽ đẻ số ra mãi ra và sớm muộn sẽ làm phá sản toàn bộ nền kinh tế. Mới chỉ có bắt vài người mà đến hôm nay vẫn chưa khắc phục xong những thiệt hại lớn và tình trạng dao động nhốn nháo trong toàn bộ hệ thống tài chính - tiền tệ. Đánh tiếp nữa thì sẽ ra sao ạ? Mà chuyện phải đánh như thế thì còn rất nhiều, nhiều vụ đáng phải đánh còn bự hơn nhiều! Mới chỉ đánh sơ sơ như vậy, dư luận đã râm ran có lẽ phải vay tiền IMF để giải quyết vấn đề nợ xấu, nhà nước ta lại phải đứng ra cải chính! Tôi dám khẳng định đánh như đang làm hiển nhiên không phải là lối thoát, mà là đi nhanh hơn đến đổ vỡ!
Vị đại diện lãnh đạo:
– Nói như bà Yến là chẳng hiểu gì về tự phê bình và phê bình đợt này, mà lại còn có thái độ nghi vấn nữa. Tôi thẳng thắn hỏi thực: Doanh nhân và trí thức đứng về bên nào trong đấu tranh này? Vì đây là vấn đề lập trường: Ủng hộ hay chống đấu tranh chống tham nhũng?
Thạc sĩ dược sĩ, doanh nhân Nguyễn Thị Bạch yến, không mảy may thay đổi thái độ:
– Xin thưa, vị đại diện lãnh đạo nhận xét chúng tôi không hiểu gì là rất đúng ạ. Thực quả là rất cố gắng, song những đảng viên như chúng tôi vẫn không thể nào hiểu được ý nghĩa đợt học tập Nghị quyết Trung ương 4, đợt tự phê bình và phê bình kỳ này ạ. Các phương tiện thông tin đại chúng đều nói đợt này rất quan trọng, đã đạt được những kết quả ban đầu rất có ý nghĩa đối với xây dựng Đảng và công tác cán bộ. Lãnh đạo Đảng chính thức thông báo đi thông báo lại trên tivi: Trong đợt này ở cấp cao, có người đã viết đi viết lại bản tự phê bình, có người đã phát biểu phê bình bốn năm lần xây dựng cho người tự kiểm điểm, không khí rất chân tình, thiêng liêng…
Xin thưa, chính tôi cũng chăm chú nghe và đọc những tin này, nhưng thực tình tôi không hiểu lãnh đạo định gửi cho dân thông điệp gì… Bản thân tôi không thu lượm được bất kể thông tin nào từ những tin tức chung chung như vậy. Tôi cũng không thông minh thêm được chút nào qua các con số như “bốn năm lần góp ý”. Tôi cũng không muốn làm cái việc đoán mò xem những khái niệm như “chân tình”, “thiêng liêng” có nội dung gì, có thể mang lại chuyển biến gì… Nếu đồng chí đại diện lãnh đạo cũng ở vào địa vị người dân như tôi và được nghe những thông tin như thế, tôi chắc đồng chí cũng sẽ không thông minh hơn chúng tôi.
Nhân đây, tôi xin hỏi trực tiếp vị đại diện lãnh đạo: Kiểm thảo viết đi viết lại bốn năm lần, rất chân tình, thiêng liêng… là về những vấn đề gì? Chẳng lẽ Đảng phải giữ bí mật? Ở cấp cao nhất của Đảng có việc nào của Đảng mà không liên quan đến vận mệnh quốc gia? Chẳng lẽ người dân không nên biết những thông tin liên quan đến vận mệnh quốc gia?
Xin thưa, nếu cố ý không cho dân biết thì nên thôi hẳn việc thông tin chung chung gây nhiễu loạn như thế đi có hơn không?
Trong khi đó tôi rất khát khao được biết đợt tự phê bình và phê bình lần này làm rõ được những vấn đề nghiêm trọng gì của đất nước, đề ra được những giải pháp gì cho tình hình nóng bỏng hiện nay, và nhân dân cần phải tham gia đối phó thế nào, vân vân...
Xin nói thực lòng, cá nhân tôi không đứng về bên nào trong đấu tranh chống tham nhũng như cách đang làm trong đợt tự phê bình và phê bình lần này. Vìđánh như đánh nhau, nên dù bên nào thắng đất nước vẫn thua. Là chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng PH, mấy ngày nay tôi đứng ngồi không yên vì giao dịch của Ngân hàng PH bỗng dưng giảm hẳn, mặc dù Ngân hàng PH chẳng liên quan gì đến mấy vụ bắt bớ vừa rồi. Chính tôi cũng chưa sao ước lượng được cái giá nền kinh tế cả nước phải trả cho chuyện đánh như vậy.
Xin thưa lão đồng chí  vị đại diện lãnh đạo, cho dù kết quả đánh lần này có thể chống được một vài tội tham nhũng cụ thể nào đó.., cứ giả định một cách lý tưởng là như thế đi. Song chung cuộc những nguyên nhân gây ra tội lỗi vẫn còn nguyên vẹn, bởi vì hệ thống sản sinh ra những nguyên nhân ấy còn nguyên vẹn. Để rồi sau đợt đánh này, sẽ từ hệ thống này, lại thai nghén và ra đời một chu kỳ đánh nhau mới, hiệp này đẻ ra hiệp khác... Chung cuộc là tiếp tục đẩy nền kinh tế đất nước đi gần hơn nữa tới đổ vỡ.
Xin thưa, đánh như thế cho thấy trong lãnh đạo Đảng không còn ý chí và khả năng tìm tòi con đường sửa lỗi hệ thống, mà chỉ tuân theo bản năng ngoan cố, thực hiện những nỗ lực tuyệt vọng. Đánh chân tình và thiêng liêng như thế chỉ là để níu kéo cái gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa…
Vị đại diện lãnh đạo:
– Kiểm điểm chân tình và thiêng liêng nhận khuyết điểm như thế mà bà Yến còn nghi ngờ, vậy theo bà thế nào mới là tự phê bình và phê bình nghiêm túc? Thật là… là… Nói thế mà cũng nói được. – sắc mặt vị đại diện lãnh đạo bừng bừng. - ...Vì là đối thoại, tôi không muốn quy kết bà là chống Đảng hay lật đổ chế độ... Nhưng tôi muốn hỏi thẳng: Ý kiến của bà phải chăng chỉ nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng?
Hội trường ồ lên vì tính chất búa bổ của câu hỏi. Nhưng Yến vẫn giữ được bình tĩnh:
– Xin thưa, hiện tượng đánh là một chỉ dấu mới nữa, cho thấy tha hoá đã dồn Đảng tới ngã ba đường. Một ngả là đành ươn hèn tha hoá tiếp, để đi tới phân rã, và sẽ sụp đổ như của một tập hợp các băng đảng trong một đảng. Một ngả khác là phải lựa chọn lột xác, tự cải cách để đi với dân tộc, đi với đất nước, để trở lại là một chính đảng trong một đất nước do nhân dân làm chủ...
Vậy xin hỏi lại: Lãnh đạo Đảng hôm nay sẽ chọn ngả đường nào?
Trong tình hình đất nước như vừa trình bày, doanh nhân và trí thức chúng tôi kêu gọi cả nước phát huy sức mạnh hoà giải dân tộc, đứng lên tiến hành cải cách triệt để và toàn diện để cứu nguy và phát triển đất nước. Đấy là sự lựa chọn con đường hoà bình cải cách của chúng tôi.
Tiếng vỗ tay ầm ầm ran lên từng hồi từng hồi, nét mặt vị đại diện lãnh đạo và lão đồng chí cực kỳ căng thẳng, cả hai đều rướn lên chăm chăm, hết nhìn Yến lại nhìn về phía trước.
Mãi vị đại diện lãnh đạo mới nói được:
– Nói như bà Yến là cực kỳ phản động..., xin lỗi, là cực kỳ nguy hiểm… Mà tôi nói là phản động, là phản lại lại chủ nghĩa Mác – Lênin, là chống lại tư tưởng Hồ Chính Minh… Coi bà là phản động cũng không sai… Và như thế là có sự hiểu biết rất khác nhau về Đảng, về chủ nghĩa xã hội, về xây dựng đất nước, về độc lập dân tộc gắn với chủ nghã xã hội. Tôi xin nhắc lại, để tỏ ý thức dân chủ, ý thức tôn trọng lẫn nhau trong đối thoại, hôm nay tôi chưa muốn quy kết gì vội. Lúc nào đó sẽ tính…
Tôi muốn chuyển sang vấn đề khác. Bản tổng kết có một vấn đề rất thời sự và rất quan trọng khác, hôm nay tôi muốn nghe trực tiếp và trao đổi ý kiến. Đó là vấn đề Trung Quốc và mối quan hệ Việt – Trung. Bản tổng kết của các vị cho biết giáo sư Hoàng Quốc Tuý sẽ trình bày đề tài này. Xin được nghe ý kiến của giáo sư.
Hội trường lào xào một lúc nữa vì sự chuyển đoạn đột ngột, đồng chí lão thành cách mạng phải giơ hai tay lên trời ra hiệu sự yên lặng mới trở lại.
Giáo sư Hoàng Quốc Tuý:
– … Tôi xin bắt đầu từ lịch sử….
(Giáo sư điểm lại các giai đoạn phát triển quan hệ Việt – Trung từ thời kỳ Việt Nam – Trung Hoa từ khi hai nước có quan hệ ngoại giao chính thức năm 1950 đến hôm nay.)
Giáo sư kết luận:
– … Có thể nói, bốn thập kỷ nay kể từ khi giành lại độc lập thống nhất đất nước, quan hệ Việt – Trung là mối quan tâm đối ngoại hàng đầu của nước ta. Với tất cả nỗ lực có thể có được, nước ta vẫn chưa sao thành công trong việc xây dựng mối quan hệ này đúng với tinh thần núi liền núi, sông liền sôngnhư nó đã từng một thời... Thậm chí nước ta đã có những nhân nhượng, những hy sinh quá mức cho phép, chắc chắn sau này những người chịu trách nhiệm sẽ phải sám hối với dân tộc, với hậu thế… Tuy nhiên nước ta vẫn thất bại.
Xin thưa hai vị, vì mong muốn khôi phục quan hệ hữu nghị láng giềng tốt với Trung Quốc, nước ta đã chấp nhận mọi điều kiện để họp hội nghị Thành Đô năm 1990, quay về gắn bó liên minh với nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa vỏ. Đi vào bước ngoặt đổi chiều này, Việt Nam ta bỏ lỡ thời cơ trở thành một nước độc lập tự chủ đi với cả thế giới tiến bộ và không cần phải gắn mình với bất kỳ ai. Tuy qua bước đi này Việt Nam giành được sự hoà hoãn nhất định, nhưng cái giá phải trả rất đắt. Kết quả tổng thể đạt được cho đến nay là: Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc càng phát triển, Việt Nam càng lệ thuộc vào Trung Quốc, nước ta đang đứng trước tình hình con đường phát triển của đất nước có nguy cơ bị chặn đứng.
Bà Yến đã nêu lên sự lũng đoạn nguy hiểm của Trung Quốc đối với nền kinh tế nước ta, tôi xin miễn nhắc lại.
Trong phần trình bày của mình, xin cho phép tôi đặc biệt lưu ý hai vị về sự can thiệp mọi mặt của quyền lực mềm Trung Quốc vào nội trị nước ta. Nổi bất nhất là sự can thiệp này đã làm tê liệt đáng kể sức đề kháng của hệ thống chính trị của đất nước, đồng thời nó tiêm nhiễm vào các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta nhiều quan điểm phản động, nhất là đã xui khiến được phía ta du nhập trọn gói cái gọi là “chống diễn biến hoà bình” và coi “vấn đề dân chủ và quyền con người” là vũ khí của các thế lực thù địch chống lại chế độ chính trị nước ta.
Hệ quả sự can thiệp của quyền lực mềm cùng với tha hoá của Đảng đã dẫn tới Đảng nhận diện sai kẻ thù bên ngoài và coi nhân dân là đối tượng! Thực tế này khiến cho đất nước ta suy yếu nghiêm trọng, đồng thời phân hoá sâu sắc – có những mặt gần như đối kháng – mối quan hệ giữa nhân dân và Đảng, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Toàn bộ tình hình này trong bối cảnh quốc tế mới hiện nay, khiến cho tổ quốc Việt Nam yêu dấu của chúng ta đang lâm nguy!
Thưa hai vị, thực chất quan hệ Việt – Trung hiện nay là quan hệ giữa
● một bên là nước Việt Nam nhỏ yếu hơn, bị đối tác của mình uy hiếp và can thiệp ngày càng sâu về nhiều mặt, có một số khía cạnh lệ thuộc như một nước chư hầu kiểu mới, vùng biển đảo của quốc gia đang bị lấn chiếm, uy hiếp;
● và một bên là nước Trung Quốc to lớn, đông dân nhất thế giới, đang tranh giành địa vị siêu cường đầy sắc thái đại Hán. Tình hình càng trở nên éo le và khắc nghiệt ở chỗ do những điều kiện địa lý tự nhiên, Việt Nam ngẫu nhiên trở thành chướng ngại vật đầu tiên Trung Quốc cần khuất phục trên con đường của nó vươn ra đại dương để trở thành siêu cường.
Thưa hai vị, trong bối cảnh như vậy, những chuẩn mực của 16 chữ, 4 tốt, giữ đại cục… do Trung Quốc ban tặng cho mối quan hệ song phương Việt – Trung chỉ là lừa mỵ, trên thực tế đã và đang trở thành cái xích vô hình, có chức năng cột chặt hơn nữa chư hầu kiểu mới Việt Nam vào thiên triều Đại Trung Hoa.
Thưa lão đồng chí và vị đại diện lãnh đạo, trong tình hình như vậy, Việt Nam không thể tiếp tục lấy hoà hiếu, nhường nhịn, trăm sự lấy ngậm bồ hòn làm ngọt… để tự siết mình trong cái xích được ban tặng ấy.
Việc hai nước có chế độ chính trị một đảng giống nhau, cùng mang cái tên gọi là xã hội chủ nghĩa chỉ là sự giống nhau bề ngoài, không thể xoá bỏ hay làm dịu được những mâu thuẫn quốc gia quyết liệt như tôi vừa mới trình bày. Lịch sử quan hệ Việt – Trung, nhất là từ cuộc chiến tranh biên giới tháng 2-1979 cho đến hôm nay, cho thấy không thể bác bỏ sự thật khách quan này. Thậm chí trong hiện tại, với việc Trung Quốc quyết liệt thôn tính vùng “lưỡi bò” trên Biển Đông, quan hệ Việt – Trung lại một lần nữa đi vào thời kỳ bùng lên những nhân tố đối kháng mới rất nguy hiểm.
Theo tôi, sau khi dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa và một số đảo ở Trường Sa, Trung Quốc đã giành thêm được nhiều thắng lợi quan trọng trong việc thực hiện ý đồ “không đánh mà thắng” đúng tinh thần Tôn Tẫn đối với Việt Nam. Đấy là, sự lũng đoạn của Trung Quốc hiển nhiên đã làm thất bại nhiều nỗ lực chiến lược của ta trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước nói riêng và trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc nói chung. Trên thực tế Trung Quốc đã tạo ra được sự kiềm chế nhất định đối với nước ta về các mặt kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự ở mức độ rất đáng lo ngại. Đã xuất hiện những hiện tượng thoả hiệp, khiếp nhược của lãnh đạo nước ta trước những bước đi của Trung Quốc trực tiếp uy hiếp ta.
Toàn bộ chiến lược không đánh mà thắng hiện nay của Trung Quốc đối với ta cũng có thể tóm tắt trong 16 chữ: xâm lăng hàng hoá, vơ vét tài nguyên, lũng đoạn kinh tế, thao túng chính trị. Đó cũng là chủ nghĩa thực dân mới Đại Hán đang được Trung Quốc vận dụng rất thành công tại nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở châu Phi. Riêng ở Đông Nam Á và đối với nước ta, chủ nghĩa thực dân mới Đại Hán này còn được hỗ trợ bởi các biện pháp vũ lực và chúng ta đã được nếm trải trên Biển Đông.
Đại diện lãnh đạo:
– Tôi e rằng giáo sư lập luận như thế rất khiên cưỡng. Hiện nay ai cũng thấy quan hệ Trung – Nhật, quan hệ Trung Quốc – Philippines liên quan đến Biển Đông đang rất căng thẳng. Song trong quan hệ song phương Việt - Trung nhờ có 4 tốt và 16 chữ, nhờ cả hai bên đều quan tâm gìn giữ đại cục, do đó quan hệ Việt – Trung liên quan đến Biển Đông hiện nay khá hơn nhiều so với những cặp quan hệ song phương kia. Sự thật có phải là như thế không? Thoả thuận cấp cao Việt – Trung tháng 10-2011 về những nguyên tắc giữ gìn hoà bình trên Biển Đông rõ ràng phát huy tác dụng3. Giáo sư chẳng lẽ không nhận ra điều này?
Giáo sư Hoàng Quốc Tuý:
– Xin thưa, tôi hiểu là phía ta rất quan tâm gìn giữ đại cục, cố hết sức tự kiềm chế để giữ “đại cục”, thậm chí đã phải chấp nhận không ít nhân nhượng, sau này sẽ không thể tránh được sự phán xét của nhân dân, của lịch sử.
Cách giữ “đại cục” như Đảng và Nhà nước ta đang làm một mặt cho thấy lãnh đạo khiếp nhược trong đối phó với Trung Quốc, mặt khác lãnh đạo lại sợ nhân dân nổi dậy lật đổ chế độ. Giữ “đại cục” bằng cách lãnh đạo Đảng và Nhà nước tự đặt mình giữa hai gọng kìm như thế, ngay từ đầu đã là nguyên nhân của mọi thất bại, là khuyến khích Trung Quốc lấn tới. Nhân dân ta phản đối là tất nhiên. Nhất thiết lãnh đạo Đảng và Nhà nước phải xem lại chính mình và đảo ngược cách tư duy này. Nhất thiết lãnh đạo phải dám đi với dân, để tự gỡ mình ra khỏi cái gọng kìm quái ác tự lựa chọn cho mình này. Như vậy Đảng mới có khả năng đối mặt với tình thế hiện nay.
Tôi không nghĩ là nhờ giữ “đại cục”, nên quan hệ Việt – Trung liên quan đến Biển Đông đỡ căng thẳng hơn so với một số trường hợp khác. Quý vị đại diện lãnh đạo chắc cũng không lạ gì chiến thuật gỡ bó đũa và bẻ từng cái đũa của Trung Quốc.
Xin thưa rành rọt, có lúc nào nước ta quên giữ “đại cục”, thế mà đâu có được yên thân!? Nếu cảm thấy có sự yên ả hơn nào đó đối với nước ta trên Biển Đông như vị đại diện lãnh đạo nhận định, tôi e rằng đấy là nhận định sai lầm.
Kể từ khi có “Những nguyên tắc thoả thuận chung về giải quyết những vấn đề trên Biển Đông” ký ngày 11-10-2011 giữa hai bên đến nay, Trung Quốc đâu có để cho ta yên trên Biển Đông? Hoặc giả vì những lý do nào đó Trung Quốc có vẻ tạm thời “nương tay” với nước ta – như quý vị đại diện lãnh đạo nhận định - đương nhiên đấy chỉ là những tính toán thâm hiểm nhằm vào nội tình nước ta. Trong khi đó tiếng nói diều hâu ở Trung Quốc hiện nay cho rằng đánh chiếm “lưỡi bò” và cho Việt Nam “bài học” lúc này là thuận lợi nhất, tiếng nói uyên thâm hơn cho rằng duy trì một Việt nam dặt dẹo như hiện nay là rẻ nhất! Như vậy 16 chữ, bốn tốt và giữ đại cục Trung Quốc ban tặng ta thực chất có nội dung gì?
Trên thực tế suốt thời gian từ tháng 10-2011 đến nay Trung Quốc vẫn tiếp tục leo thang xâm phạm các vùng biển đảo nước ta. Nội dung, hình thức và quy mô các hành động leo thang ngày càng nghiêm trọng hơn. Nhiều lần người phát ngôn Bộ ngoại giao nước ta đã phải chính thức lên tiếng phản đối.
Tháng 6-2012 Quốc Hội nước ta thông qua Luật biển, ngay lập tức chính giới và báo chí Trung Quốc gay gắt lên án, ngang nhiên đến mức đòi nước ta phải huỷ bỏ Luật này! Phía Trung Quốc nói thẳng Việt Nam nên quên Hoàng Sa và Trường Sa đi, chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông là không thể bàn cãi, không toà án quốc tế nào, không UNCLOS 82 nào có thể thay đổi điều này. Trong khi đó hiện nay Trung Quốc lại đang chuẩn bị mọi việc để sắp tới sẽ đưa cái gọi là vấn đề Biển Hoa Đông4 của Trung Quốc ra kiện cáo tại Liên Hiệp Quốc!
Tháng 7.2012 Trung Quốc hoàn thành việc thành lập thành phố hành chính Tam Sa trên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa của ta, đặt quân đồn trú thường trực tại đây, giao trách nhiệm cho đơn vị hành chính mới này trực tiếp quản lý toàn bộ vùng “lưỡi bò” trên Biển Đông, triển khai các công trình hạ tầng vật chất kỹ thuật cho việc thực hiện những mục tiêu đã công bố. Cả thế giới xôn xao việc Trung Quốc đã bỏ ra hàng tỷ đô-la để xây dựng các kết cấu hạ tầng và thành phố Tam Sa ở Hoàng Sa để thực hiện ý đồ chiếm đoạt vĩnh viễn vùng này… Sau đó Trung Quốc ngày càng ráo riết xây dựng hàng loạt các căn cứ hải quân khác trên các đảo lấn chiếm cuả ta, đặc biệt là các căn cứ Chữ Thập, Gạc Ma, Vành Khăn… Cho đến nay Trung Quốc đã xây dựng xong 7 căn cứ trên biển như thế, với tổng diện tích là gần tám cây số vuông (8 km2), có căn cứ có bến đỗ hàng nghìn mét cho tầu chiến, có nơi có đường băng khoảng ba nghìn mét (3000 m) cho phi cơ… Giới quân sự Trung Quốc gọi thẳng đấy là Vạn Lý Trường Thành trên biển.
Tháng 8.2012 Trung Quốc “mua” Campuchia ngăn cản Hội nghị cấp cao ASEAN ra tuyên bố chung về Biển Đông theo hướng thông qua bộ quy tắc ứng xử COC5 mà tất cả các quốc gia trong vùng – kể cả Trung Quốc – phải tuân thủ.
Tháng 9.2012 Trung Quốc lại cho gọi thầu nước ngoài khai thác 26 lô dầu khí, trong đó có 9 lô nằm sâu trong lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của nước ta.
Bên cạnh việc phát hành hộ chiếu in hình “lưỡi bò”, từ 01.01.2013 Trung Quốc cho tầu cảnh sát kiểm soát mọi tầu bè qua lại trên Biển Đông...
Nhiều lần trong năm 2013 Trung Quốc cho hàng chục nghìn tầu cá, có tầu hậu cần 4000 tấn và các tầu của hải quân đi cùng, thực hiện sự có mặt thường trực của Trung Quốc trên Biển Đông, xâm phạm cả vào vùng biển của ta, âm mưu thực hiện cái gọi là sự kiểm soát trên thực tế và không thể tranh cãi của Trung Quốc ở Biển Đông.
Đặc biệt nghiêm trọng là tháng 5.2014 Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 cắm sâu vào vùng biển nước ta, vừa nhằm mưu đồ lấn chiếm biển, vừa tạo cơ hội đẩy mạnh hơn nữa sự có mặt của hải quân Trung Quốc trên các đảo đã chiếm của ta ở Hoàng Sa và Tường Sa…
Thậm chí từ đầu năm nay Trung Quốc đã ra lệnh cho các tầu chiến của mình trên Biển Đông tuần tra thường xuyên với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu!
Nhân đây, cho phép tôi lưu ý hai vị, mấy tuần qua Trung Quốc liên tục cho các tầu tuần tra áp sát vùng biển của Nhật thuộc đảo Senkaku, bất chấp sự phản đối quyết liệt của Nhật. Để hậu thuẫn cho những hành động uy hiếp này, Trung Quốc đồng thời cho hàng chục vạn dân khắp nơi toàn Trung Quốc tiến hành biểu tình chống Nhật, có nơi xảy ra bạo lực chống Nhật. Một số quan sát viên nước ngoài tại chỗ cho rằng nhà cầm quyền Trung Quốc trên thực tế là người đứng ra tổ chức những cuộc biểu tình này. Tôi không thể không liên hệ sự việc này với việc các nhà chức trách nước ta kiên định cấm và trấn áp thô bạo người dân yêu nước ta tự giác đi biểu tình phản đối Trung Quốc lấn chiếm biển Đông.
Chắc chắn lão đồng chí và vị đại diện lãnh đạo đều biết chuyện cán bộ khu phố được cử đến từng nhà giải thích với dân: những người đi biểu tình như thế là do bị kích động, bị mua chuộc hay được thuê đi biểu tình! Có nơi cán bộ còn nói thẳng với dân: đi biểu tình như thế là làm hại đến đại cục quan hệ Việt – Trung, khuyên dân không được đi biểu tình, bảo dân phải biết phân biệt đúng sai và phải biết hàm ơn Trung Quốc!!!…
Xin nói thực lòng, những việc làm này của các nhà chức trách nước ta khiến tôi cảm thấy rất nhục cho bản thân mình và cho đất nước mình! Tôi chỉ có thể kết luận: Nước ta càng ra sức giữ “đại cục” theo kiểu nhẫn nhục như thế, Trung Quốc càng lấn tới. Hoà bình, hợp tác và hữu nghị phải giành lấy, chứ không thể van xin như thế mà có được!
Thưa lão đồng chí và vị đại diên lãnh đạo, phần trình bày của bà Nguyễn Thị Bạch Yến và những vấn đề tôi vừa mới trình bày về quan hệ Việt – Trung cho thấy tình hình đối nội và đối ngoại của nước ta hiện nay đặt ra nhiệm vụ nhất thiết phải tiến hành cải cách triệt để hệ thống chính trị làm đòn bảy chuyển đất nước ta sang một thời kỳ phát triển mới.
Đại diện lãnh đạo:
– Xin cảm ơn giáo sư. Bà Yến và giáo sư đi tới kết luận phải xây dựng ở nước ta một thể chế chính trị của một nhà nước pháp quyền dân chủ như là một chìa khoá giải quyết mọi vấn đề và thách thức đang đặt ra cho đất nước. Tôi hiểu như vây. Đề nghị hãy khoan bàn chuyện này. Chúng ta đang nói về Trung Quốc, tôi muốn đặt ngay câu hỏi: Lúc này các vị muốn thay đổi chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa sang thể chế chính trị dân chủ tư sản - nghĩa là đi theo con đường chủ nghĩa tư bản. Xin hỏi: Làm như thế khác nào thay đổi trận tuyến để chuyển sang đi hẳn với Mỹ để chống Trung Quốc không? Chẳng lẽ các vị không hiểu điều tế nhị này? Tôi mong được nghe ý kiến của bà Yến và giáo sư.
Yến nhường giáo sư nói trước. Giáo sư Hoàng Quốc Tuý:
– Xin thưa, băn khoăn của vị đại diện lãnh đạo phần nào có lý. Hiển nhiên Trung Quốc sẽ rất lo xảy ra việc nước ta thay đổi chiến tuyến, vì dân chủ là gót chân Achilles của Trung Quốc. Nếu muốn, Trung Quốc rất có thể vin vào chuyện nước ta cải cách chính trị, để bịa ra cái cớ “Việt Nam đã thay đổi chiến tuyến nhằm chống Trung Quốc”, để một lần nữa có lý do “dạy cho nước ta một bài học.” Mặc dù họ thừa biết Việt Nam không bao giờ dại gì đi với một bên chống một bên.
Thưa hai quý vị, tôi nghĩ Trung Quốc thừa biết lợi ích lớn nhất của Việt Nam là mong được sống yên ổn, hoà bình và hợp tác cùng có lợi bên cạnh Trung Quốc. Họ cũng không tự ty đến nỗi sợ Việt Nam đi với Mỹ chống Trung Quốc đâu ạ. Hiểu vấn đề như thế, nên chúng tôi kết luận, không thể chỉ vì lo Trung Quốc nghĩ thế này thế nọ mà không dám tiến hành cải cách dân chủ ở nước ta, vì lợi ích phát triển của nước ta.
Lịch sử quan hệ 2 nước đã nhiều lần cho thấy Trung Quốc đánh ta hay không đánh ta chỉ phụ thuộc một phần nào đó về phía ta mà thôi, mà chủ yếu là phụ thuộc vào những tính toán của Trung Quốc trên bàn cờ chiến lược toàn cầu, với phương châm mục tiêu biện minh cho biện pháp. Thậm chí khi cần đánh ta, thì họ chủ động dàn dựng bối cảnh và tạo ra lý do đánh ta.
Báo cáo chính trị đai hội 18 của Đảng Cộng Sản Trung Quốc vừa qua nói rõ: Trung Quốc chủ trương nước giàu quân mạnh, phải sẵn sàng chiến thắng chiến tranh cục bộ.
Xin hỏi: Một cuộc chiến tranh cục bộ phải đánh thắng như thế chắc chắn chỉ có thể nằm trong khu vực nước ta đang sống, chứ không thể ở một châu lục nào khác được, có phải thế không ạ?.. Vậy sự uy hiếp công khai này nhằm vào ai đây? Sự uy hiếp này có chờ nước ta cải cách đâu? Cho nên vấn đề đặt ra không phải là sợ Trung Quốc đánh mà nước ta đành bó tay ngồi yên và chẳng dám làm những việc nước mình phải làm.
Xin thưa hai quý vị, nước ta chỉ có vấn đề, cũng như tháng 2 năm 1979, một khi Trung Quốc rắp tâm đánh ta, nước ta sẽ phải trả lời như thế nào?
Thạc sĩ dược sĩ, doanh nhân Nguyễn Thị Bạch Yến:
– Tôi rất tán thành ý kiến của giáo sư Hoàng Quốc Tuý. Xin đưa ra đây một số ví dụ để các quý vị tham khảo.
Trước cái bắt tay Mỹ - Trung Năm 1972 ở Thượng Hải, cả Trung Quốc và Việt Nam đều đứng chung chiến tuyến chống chủ nghĩa đế quốc. Nhưng sau cái bắt tay lịch sử Trung – Mỹ đầy tai tiếng này, nước ta có thay đổi chế độ chính trị gì đâu, thế nhưng Trung Quốc đã thay đổi chiến tuyến và phản thùng cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam.
Lợi dụng việc Mỹ phải rút khỏi Việt Nam theo Hiệp định Paris 1973, năm 1974 Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ phần Hoàng Sa còn lại của ta. Phần trước đó họ đã chiếm năm 1956 khi Hiệp định Geneva 1954 vừa được ký kết.
Năm 1977 Trung Quốc khiển Polpot đánh Việt Nam quy mô lớn, tạo ra cái bẫy buộc ta phải lâm chiến.
Năm 1979 Trung Quốc vin vào chuyện họ tạo dựng lên này, đẻ ra cái cớ cần dạy cho Việt Nam một bài học. Đấy là cách căng Việt Nam ra hai đầu mà đánh sau khi nước ta vừa ra khỏi cuộc kháng chiến chống Mỹ. Còn thủ đoạn nào thâm độc hơn không?
Năm 1988 Trung Quốc đánh chiếm thêm 7 đảo và bãi đá của ta ở Trường Sa...
Những sự kiện lịch sử này cho ta đủ lý lẽ kết luận: Khi cần, Trung Quốc đều dàn dựng mọi chuyện để chủ động đánh ta, không cần chờ đến việc ta thay đổi hay không thay đổi thể chế chính trị.
Hiển nhiên Trung Quốc đánh ta hay không đánh ta trước hết và chủ yếu phụ thuộc vào tính toán của Trung Quốc trên bàn cờ thế giới. Song cũng hiển nhiên như thế, phía ta có hay không có khả năng làm thất bại các đòn của Trung Quốc một khi họ ra đòn? Đây mới thực sự là vấn đề của nước ta ạ.
Chúng tôi đã cân nhắc mọi khía cạnh, và thấy: Để vượt qua được mọi thách thức trong, ngoài hiện nay, không có cách gì lẩn tránh được công cuộc cải cách triệt để chế độ chính trị của đất nước. Nhiệm vụ cải cách chế độ chính trị như vậy là điều kiện tiên quyết để có thể phát huy sức mạnh dân tộc và tạo ra sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Tôi xin nhấn mạnh, không có cải cách thể chế chính trị để có hoà giải dân tộc, sẽ không thể có một Việt Nam độc lập, tự do dân chủ, phát triển, dấn thân được cùng với cả thế giới tiến bộ, đứng bình đẳng được cạnh nách Trung Quốc. Nghiêm khắc hơn nữa phải nói: Không cải cách thể chế chính trị để có hoà giải dân tộc, nước ta sẽ không có đủ ý chí và sức mạnh thoát được thân phận một chư hầu kiểu mới của Trung Quốc. Mà như thế, ách nô dịch Đại Hán sẽ càng được củng cố. Xin đừng quên cảnh báo của cố Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch trước đây: Với Hội nghị Thành Đô 1990, nguy cơ Bắc thuộc lần thứ hai bắt đầu!
Vị đại diện lãnh đạo chen ngang:
– Quá nhấn mạnh đến hoà giải phi giai cấp như thế, bà Yến đứng trên lập trường nào? Bà Yến không thấy hàng ngày các thế lực thù địch đang ra sức chống phá nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta?
Thạc sĩ doanh nhân Nguyễn Thị Bạch Yến:
– Xin thưa, tôi đứng trên lập trường dân tộc, đứng trên quan điểm lợi ích dân tộc và lợi ích quốc gia là tối thượng. Xin nói thẳng thắn, tôi không coi cái mà các vị gọi là “nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta” và lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia là một! Xin nói rõ hơn nữa, cái gọi là “nhà nước của dân, do dân, vì dân” được dựng lên ở nước ta hiện nay chỉ là của giả, có cái tên gọi là “xã hội chủ nghĩa”. Quý vị có thể tổ chức thảo luận rộng rãi, dân chủ và công khai để nghe ý kiến cả nước về suy nghĩ này của tôi.
Tại điểm này, xin cho phép tôi nói một số suy nghĩ về hoà giải dân tộc.
Thưa các quý vị, con đường gian truân đất nước ta đã trải qua từ Cách mạng Tháng Tám đến nay đầy hy sinh tổn thất, có những mất mát không thể lấy lại được nữa. Con đường này để lại những hố sâu chia rẽ và những chướng ngại vật trên mọi phương diện đời sống tinh thần và vật chất của đất nước mà bốn chục năm nay hầu như vẫn chưa vượt qua được. Sự thực đau lòng và vô cùng khắc nghiệt đối với dân tộc ta là trên con đường này đã xảy ra cuộc nội chiến Bắc – Nam khốc liệt trong lòng cuộc kháng chiến chống ngoại xâm.
(Hội trường rộn lên xôn xao)
Vâng, một cuộc nội chiến khốc liệt trong lòng cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Đến nay chúng ta vẫn cố tình trốn tránh sự thật này. – Yến chậm rãi nhắc lại để nhấn mạnh.
… Cuộc nội chiến đẫm máu và nước mắt này quyết liệt đến mức có anh thì không có tôi.
Khắc nghiệt đến mức chỉ có thể giải quyết được bằng một bên phải loại bỏ, phải tiêu diệt một bên.
Sự khắc nghiệt này đầy ắp những ý tưởng hay lý tưởng không thể đội trời chung với nhau, lâm chiến quyết liệt với nhau suốt bảy thập kỷ vừa qua, đặc biệt là trong ba thập kỷ chiến tranh khốc liệt trên cả nước.
Sự khắc nghiệt này đầy ắp những xung đột đến tận cùng giữa ngu dốt và trí tuệ, giữa thiện và ác, giữa sống và chết, chia cắt dân tộc ta sâu thẳm trong tâm khảm cho đến hôm nay… Và ai biết được vết thương này trong lòng dân tộc ta còn rỉ máu đến bao giờ trong tương lai?!..
Sự khắc nghiệt này chất đầy những bi kịch và không hiếm khi là thảm kịch của biết bao số phận đã bị cột chặt vào những khung cảnh không thay đổi được nữa của cuộc đời… Cùng là con một nước, nhưng vì đứng bên kia chiến tuyến nên trở thành kẻ thù không đội trời chung của nhau. Cả nước, có không ít các gia đình bị xé đôi, có không ít các bà mẹ có các con mình ngã xuống cả hai bên chiến tuyến…
Đau lòng hơn nữa, ngay cả sau khi chiến tranh đã kết thúc, dư chấn của nó thời hậu chiến – đặc biệt là những chính sách sai lầm trong thời kỳ này - đã gây thêm nhiều tổn thất mới cho đất ước, đồng thời tiếp tục làm tan nát hàng vạn gia đình, đã xô đẩy hàng triệu người dân rời bỏ đất nước với thân phận thuyền nhân… Cho đến hôm nay, nhân dân cả nước ta vẫn chưa làm sao đếm được, chưa làm sao biết được bao nhiêu nghìn, bao nhiêu vạn trong số những người ra đi này đã bỏ mạng trên biển vì đói khát, vì bệnh tật, vì thuyền đắm.., bao nhiêu phụ nữ và em gái đã bị hải tặc hãm hiếp và giết chết?.. Thưa các quý vị, trong số những phụ nữ bị hải tặc hãm hiếp và giết chết này có người em họ là con gái của chú tôi!6 – … đến đây, Yến dừng lại, hai bàn tay nắm chặt đặt trên mặt bàn, cố không nhắc đến chuyện chồng và con mình đang bị công an giam gữ trong trận bố ráp đánh trường Đại học PH…
(Hội trường xì xào như quặn lên rồi lặng ngắt…)
… Thưa các quý vị, xin cho phép tôi nêu rõ ngọn ngành dẫn đến nội chiến là thế này:
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, lời nguyền địa lý ác nghiệt đã bất khả kháng đẩy nước ta vào cuộc giằng xé lịch sử giữa phe chủ nghĩa cộng sản và phe chủ nghĩa đế quốc, mà Việt Nam là chiến trường trực tiếp. Vì lẽ này, sự nghiệp kháng chiến chống xâm lược của nước ta bất khả kháng bị cài cắm vào nhiều cuộc chiến tranh qua tay người khác, còn gọi là các cuộc chiến tranh uỷ thác (các proxy wars)…
Cụ thể là từ 23 tháng 9 năm 1945, khi nước ta phải bước vào cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, nhất là từ khi phải bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, dân tộc ta cùng một lúc phải gánh trên vai mình năm, sáu cuộc chiến tranh khác nữa trong lòng một cuộc chiến tranh. Xin liệt kê như sau.
Một là cuộc chiến tranh nóng giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc trên đất nước ta, với quyết tâm của Mỹ ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, đến mức sẵn sàng đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá để thực hiện mục tiêu chiến lược này. Lợi ích chiến lược toàn cầu của Mỹ lúc ấy đòi hỏi như vậy, mặc dù nước Mỹ ngay từ thời tổng thống Eisenhower đến nay chưa một lần có ý đồ chiếm Việt Nam làm thuộc địa.
Hai là cuộc chiến tranh nóng trên đất nước ta chuyển tải cuộc chiến tranh lạnh giữa Liên Xô và Mỹ.
Ba là cuộc chiến tranh toạ sơn quan hổ đấu: Trung Quốc quyết tâm đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng, để giữ cho Mỹ không được đến gần biên giới Trung Quốc.
Bốn là cuộc chiến tranh của Trung Quốc chống Liên Xô trên đất nước Việt Nam, với mục tiêu chiến lược gió Đông thổi bạt gió Tây, nhắm ý đồ thoán đoạt từ tay Liên Xô vai trò thống lĩnh phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Năm là cuộc chiến tranh của phong trào giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc.
Sáu là – và đây là điều đau lòng nhất, trong lòng cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, dân tộc Việt Nam ta rơi vào cuộc nội chiến có lẽ đến nay là duy nhất trong lịch sử và vô cùng đẫm máu7. Sự thật đã xảy ra là: Bối cảnh quốc tế khách quan đã bất khả kháng đẩy mỗi nửa nước ta gắn bó với lý tưởng và ý thức hệ của một phe trong chiến tranh lạnh. Mỗi nửa đất nước tiến hành chiến tranh đối kháng quyết liệt chống nửa đất nước còn lại. Một bên cho rằng lựa chọn con đường của chủ nghĩa xã hội mới là yêu nước, vì vậy gọi nửa bên kia là tay sai của chủ nghĩa đế quốc. Một bên cho rằng con đường cứu nước phải là chủ nghĩa tư bản, vì vậy coi bên kia là lính đánh thuê của chủ nghĩa cộng sản. Mỗi bên đều dứt khoát coi bên kia là bán nước…
Thưa các quý vị, có nhìn thấu cuộc nội chiến hiện hữu đã xảy ra này – dù nguồn gốc phát sinh ra nó từ đâu, chúng ta hôm nay mới có thể nhìn thấu nhát cắt chia đôi trái tim dân tộc, vào giữa lúc đất nước chìm đắm trong khói lửa kháng chiến chống ngoại xâm.
Có nhìn thấu cuộc nội chiến này, chúng ta mới ngộ được trong cuộc huynh đệ tương tàn này lợi ích tối cao của quốc gia, của dân tộc đã bị lợi ích hay cách nhìn của ý thức hệ tác động, làm lu mờ, che khuất... Thực tế đau lòng này khiến nước ta bất giác – dù là nửa bên này hay nửa bên kia – ở một góc độ và phạm vi nhất định.., mỗi bên đều là một dạng cánh tay nối dài của một bên trong ba (3) bên nước lớn ngoại quốc Mỹ - Xô – Trung. Ba ông lớn này giành giật nhau vì lợi ích chồng chéo riêng, thông qua các hình thái chiến tranh trên tổ quốc chúng ta, và bằng xương máu của nhân dân ta.
Có nhìn thấu cuộc nội chiến này, cả nước ta – dù là nửa đất nước bên này hay là nửa đất nước bên kia, - nghĩa là, dù là Hà Nội hay là Sài Gòn – về phương diện này và trên thực tế đều chỉ là hai con tốt để chơi, để thí trên bàn cờ lớn giữa các cường quốc. Nước ta, dù là nửa bên này hay nửa bên kia, dù là gắn với cường quốc A, B, C nào.., đều bị đem ra mặc cả, bị bán đứng, bị giằng xé, bị biến thành vật đổi chác, hoặc bị bỏ rơi… không dưới một phen trên bàn cờ lớn này! Xin hãy điểm lại từng sự kiện lịch sử đã diễn ra từ năm 1945 chí ít cho đến Thành Đô (1990) để hiểu rõ đoạn trường đau khổ này của dân tộc.
Thưa các quý vị, hôm nay, sau bốn mươi năm nhìn lại, có thể nói đất nước được độc lập thống nhất là thành tựu vô giá, phải đời đời gìn giữ. Càng phải trả giá đắt, càng phải gìn giữ.
Đồng thời cũng phải nói: Những hy sinh và tổn thất nước ta phải chịu đựng trong bốn cuộc chiến tranh liên tiếp từ sau Cách mạng Tháng Tám (08-1945) như thế cho sự nghiệp độc lập thống nhất của tổ quốc, dù là chính nghĩa, anh hùng, hay dũng cảm đến thế nào đi nữa, song cọ xát với cái thế giới khắc nghiệt mà chúng ta đang sống, dân tộc ta hôm nay không thể không nhìn lại để tự làm bản kết toán cho chính mình:
- Phải chịu nhiều hy sinh tổn thất như thế là dân tộc ta ngu hay khôn?

- Chỗ nào là nước ta ngu? Chỗ nào là khôn? Ai ngu? Ai khôn?..
- Chỗ nào là nước ta rơi vào tình cảnh bất khả kháng của số phận? Chỗ nào lẽ ra là một quốc gia chúng ta phải tìm một lựa chọn khác?.. Có hay không một sự lựa chọn khác? Có lúc nào bỏ lỡ một lựa chọn khác?..
- Là một quốc gia, là một dân tộc, ta đã ý thức được về chính mình đến mức độ nào? đã giác ngộ lợi ích thiêng liêng của tổ quốc chúng ta đến đâu?
- Sống trong cái thế giới ngày càng quyết liệt này, dân tộc ta có được phép trốn tránh từng chặng, từng chặng phải nghiêm khắc tự nhìn lại mình không?
- Dân tộc ta đã đánh giá những chặng đường bảy mươi năm qua, bốn mươi năm qua như thế nào? Con đường đau khổ đất nước đã đi này, gian truân gây ra do tại phía cộng đồng dân tộc ta nằm ở những đâu và mức độ đến đâu? Tại các bên ngoài đến đâu?.. Mọi cái giá đã phải trả, cái gì là lỗi tại ta? Cái gì là tại ngoại cảnh, tại kẻ địch?
- Vân vân….
Thưa các quý vị, có bao giờ mỗi chúng ta ngồi đây tự hỏi mình những câu hỏi như vậy?
Xin hãy coi đấy là những câu hỏi mở, rất trọng đại, để từ đây xin mọi người trong cả nước cùng suy ngẫm, cùng nghiền ngẫm, với tất cả trí tuệ và nhiệt huyết của mình… Cho hiện tại. Cho tương lai.
Trong khuôn khổ đối thoại hôm nay, tôi xin phép chỉ xới xáo lên vài gợi ý riêng, để quý vị tham khảo…
Thưa vâng, lịch sử không làm lại được, nhưng thiết nghĩ mỗi người Việt chúng ta, nếu còn đầy đủ ý thức về bản thân mình và dân tộc mình, mỗi chúng ta sẽ không thể và không được phép nhắm mắt làm ngơ trước những câu hỏi cắt da cắt thịt vừa trình bày trên.
Vâng, lịch sử có những bối cảnh không thay đổi được, ví dụ, con đường Cách mạng Tháng Tám của nước ta khách quan rơi thỏm bất khả kháng vào cái trận địa ác nghiệt của cục diện quốc tế chiến tranh lạnh. Song lịch sử cũng không vì thế cấm đoán chúng ta nhìn lại dĩ vãng, để rút ra những bài học cần thiết cho hôm nay, cho tương lai.
Vâng, nếu chúng ta đối xử với lịch sử như một người thầy nghiêm khắc, phải chăng hôm nay chúng ta có thể nêu lên được nhận xét đầu tiên dễ thấy ngay để rút kinh nghiệm, đó là:
Vì trong lòng cuộc kháng chiến của nước ta chống ngoại xâm có tới ba, bốn cuộc chiến tranh qua tay người khác, các cuộc chiến tranh uỷ thác (các proxy wars) được gửi gắm hay cài đặt vào, để giằng xé đất nước ta, nhất là lại có cuộc nội chiến, cho nên sự nghiệp chống xâm lăng và giành lại độc lập thống nhất cho tổ quốc chúng ta thêm gian truân bội phần, với những cái giá phải trả đắt thêm bội phần. Chắc chắn có thể kết luận dứt khoát như vậy, có phải không ạ?
Xin thưa, lợi ích tối cao và nóng bỏng nhất của quốc gia và của dân tộc ta từ sau Cách mạng Tháng Tám cho đến hôm nay và mãi mãi về sau là: đất nước hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết rành rọt như thế.
Nhưng xin thưa với các vị, lợi ích quốc gia tối cao này trên chặng đường bảy mươi năm qua, dù ở phía bên nào – Bắc hay Nam, Hà Nội hay Sài Gòn – đều chịu tác động mọi chiều đối nội và đối ngoại của ý thức hệ, đều bị ý thức hệ nhuộm mầu và chi phối, đều phải đứng sau và đứng dưới ý thức hệ... Ngay tận hôm nay, đối với Đảng Cộng Sản Việt Nam: Độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội! – đấy là một ví dụ.
Đã thế, trong kháng chiến chống ngoại xâm, một phần rất quan trọng của năng lượng kháng chiến lại phải dành vào nội chiến, hoặc bị nội chiến triệt tiêu. Chưa nói đến một phần rất quan trọng khác của năng lượng kháng chiến bị sự giằng xé của các cuộc chiến tranh uỷ thác hút mất. Mỗi bát gạo viện trợ chúng ta nhận được, mỗi khẩu súng đem đến giúp nước ta dù là cho nửa đất nước bên nào, đều phải trả bằng máu của dân tộc ta. Chẳng có gì cho không cả!
Thưa các quý vị, bi kịch chiến tranh đày rãy những nghịch cảnh gắn quyện hữu cơ vào nhau không sao tách bạch ra được như thế của đất nước chúng ta trong 4 cuộc chiến tranh vừa qua cay đắng lắm.
Xin phép được hỏi: Hôm nay mỗi người Việt chúng ta đã ý thức được đầy đủ bi kịch đất nước đã xảy ra này? Chúng ta đang là một dân tộc như thế nào, đã phải trả biết bao nhiêu xương máu và tổn thất suốt bảy mươi năm qua mà đến nỗi hôm nay vẫn không ý thức được đầy đủ về bi kịch của quốc gia mình – mà mỗi người còn sống hôm nay đều là tác nhân, nạn nhân và chứng nhân!? Chẳng lẽ mỗi người Việt chúng ta thấp hèn đến vậy? – Tôi rất đau lòng và xin lỗi phải đặt ra câu hỏi thắt gan thắt ruột như vậy!
Hôm nay mỗi chúng ta có dám can đảm coi bi kịch đất nước đã xảy ra bảy mươi năm qua một phần có nguyên nhân là các lực lượng chính trị và trí tuệ của đất nước chúng ta – dù là bên nào, Hà Nội hay Sài Gòn, – đều có sự hiểu biết hão huyền và quá khờ dại về thiên hạ, về cái thế giới chúng ta đang sống. Chúng ta có dám kết luận như thế không ạ? Đấy là bài học đẫm máu thứ nhất.
Mỗi chúng ta hôm nay có dám thừa nhận bi kịch này của đất nước một phần có nguyên nhân là sự giác ngộ chưa đầy đủ của các lực lượng chính trị và trí tuệ trong cả nước – dù là bên nào – về lợi ích tối cao của quốc gia không?.. Sự thật có phải là như vậy không?.. Đây là bài học đẫm máu thứ hai.
Mọi thảm hoạ và lạc hậu đất nước ta đã và đang phải gánh chịu, nếu cứ đổ diệt mọi tội lỗi cho đế quốc sài lang, cho cái gọi là kẻ thù giai cấp do ta dựng nên, cho hoàn cảnh khách quan… hiển nhiên là không ổn.
Nêu lên những câu hỏi bên trên, tôi mong các quý vị nhìn thấu đáo những nguyên nhân yếu kém của chính ta, với ý thức: Kẻ thù số một mang lại mọi tai ương cho đất nước chúng ta suốt bảy mươi năm qua và 40 năm qua trước hết là những hèn kém của chính ta! Là chính ta!
Cần phải đặt vấn đề như vậy để tìm bằng được lối ra cho đất nước hôm nay. Một dân tộc sau mỗi chặng đường không biết phải tự tính sổ để hiều thấu đáo cái dại – khôn của mình, dân tộc ấy đúng là chỉ đáng làm chất liệu lót đường đi cho những kẻ ác!
Thưa các quý vị, cuộc kháng chiến giành độc lập thống nhất cho tổ quốc của chúng ta anh dũng vô song. Truyền thống yêu nước thiêng liêng này phải tiếp tục đời đời gìn giữ. Sự việc hàng triệu, hàng triệu người tại nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả trong lòng nước Mỹ, ủng hộ cuộc kháng chiến của Việt Nam chống Mỹ xâm lược một mặt nói lên tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến này, mặt khác sự ủng hộ như vậy của hàng triệu người trên thế giới là sự phản đối đanh thép tính chất tàn bạo cuộc chiến tranh này của Mỹ tại Việt Nam. Xin đừng bao giờ quên điều này.
Song tất cả những điều vừa kể ra như vậy dứt khoát vẫn không cho phép các lực lượng chính trị và trí tuệ của toàn thể dân tộc ta hôm nay nhắm mắt bỏ qua hai bài học đẫm máu phài nhớ đời đời kiếp kiếp nói trên. Lại càng không được phép nuôi dưỡng tinh thần yêu nước chỉ bằng cách khoét sâu hận thù trong quá khứ, dù là trong nội bộ Việt Nam với nhau, hay là đối với thế giới bên ngoài. Không thể đã bảy mươi năm rồi, bốn mươi năm rồi, mà hôm nay vẫn cứ lôi nhau ra mà nguyền rủa té tát! Thậm chí còn để tô son vẽ phấn làm vinh nữa!.. Một dân tộc ngàn năm văn hiến không thể sống và ứng xử như thế. Một dân tộc ngàn năm văn hiến nhất thiết phải có cách hành xử của văn hiến và nhân bản.
Nhân đây cũng phải nói thêm: Tha hoá hiện nay của Đảng, của chế độ đang ngày đêm cố mài quá khứ lịch sử bảy mươi năm, bốn mươi năm ra để sống, không phải chỉ đơn thuần vì sự tha hoá tự thân đang diễn ra và lòng tham bám giữ quyền lực, mà nguy hiểm hơn nhiều:
Đấy là sự bế tắc trong tư duy và con đường sống của Đảng và của chế độ, mà hệ quả là những thất bại nghiêm trọng của sự ngiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trong 40 năm đầu tiên của độc lập thống nhất.
Hiện nay, Đảng đang tiếp tục làm như thế bằng mọi giá, tất cả nhằm bảo vệ bằng được vị trí độc quyền thống trị của mình, bất chấp đất nước đang phải đối mặt với những thách thức gì!
Vâng, bao nhiêu hy sinh xương máu và tổn thất tổ quốc chúng ta đã phải chịu đựng trong bốn (4) cuộc chiến tranh vừa qua, những cái giá phải trả tiếp theo trong bốn mươi năm đất nước độc lập thống nhất đầu tiên phỏng còn ý nghĩa gì, nếu như hai bài học đẫm máu nêu trên không được rút ra?
(Cả hội trường rộn rạo hẳn lên cứ như đụng phải lửa, đứng ngồi không yên. Vị cách mạng lão thành như là ngồi uống các lời của Yến, chứ không phải nghe. Vị đại diện lãnh đạo kính tụt xuống giữa mặt, hai mắt trố lên vì căng thẳng. Giáo sư Hoàng Quốc Tuý ghi chép rất chăm chỉ… Yến phải chờ một lúc cho sự im lặng trở lại.)
… Vâng… … Xin thưa các quý vị, giáo sư Hoàng Quốc Tuý trong trình bày của mình đã lưu ý chúng ta về siêu cường Đại Hán đang lên đang thách thức cả thế giới.
Nằm ở vị trí địa đầu của khu vực, nước ta hôm nay lại đang đứng trước nguy cơ một lần nữa trở thành trận địa giằng xé lịch sử của thế kỷ 21 này. Nghĩa là, trong khi chúng ta chưa kịp định thần ngẫm nghĩ về bi kịch lịch sử đất nước rơi vào cuộc giằng xé hai phe bốn mâu thuẫn thời chiến tranh lạnh, chưa kịp rút ra cho mình hai bài học lịch sử đẫm máu trong thế kỷ trước, nước ta hôm nay lại đang rơi vào vùng tâm điểm của tranh chấp Mỹ - Trung trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương có ý nghĩa chi phối quyết định bàn cờ thế giới.
Trong tình thế mới này, sự lựa chọn chính thức trên giấy trắng mực đen, trên lời nói và bằng hành động của những người có quyền lực trong Đảng vẫn là:độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội – nghĩa là bảo toàn chế độ phải là lợi ich tối cao, chứ không phải tổ quốc!
Đáng lo ngại hơn nữa, trong Đảng vẫn tồn tại một xu thế quyết liệt, muốn níu kéo liên minh ý thức hệ để bảo toàn chế độ, thậm chí đến mức có lúc đã nói thẳng ra … mỗi bên coi sự phát triển của nước này là cơ hội quan trọng cho sự phát triển của nước kia trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc
Níu kéo liên minh ý thức hệ như vậy, phải chăng có thể được xem là đành nhắm mắt bỏ qua những gì đã xảy ra với nước ta xuyên xuốt toàn bộ quan hệ Việt - Trung liên quan đến những xâm hại lợi ích tối cao và chủ quyền quốc gia thiêng liêng của ta? Làm như thế phải chăng mặc nhiên coi những việc đã xảy ra là chuyện đã rồi (faits accomplis)? Nếu đúng như vậy thì chết thật! Cái gì nước ta bị cướp đành coi như mất đứt luôn và từ nay chịu ngậm bồ hòn làm ngọt? Có phải lập trường như thế là vớt vát đến cùng liên minh ý thức hệ, để mong được phía Trung Quốc bớt bắt nạt? Làm như thế để mong Trung Quốc bố thí cho hoà bình? Làm như thế phải chăng hy vọng sẽ được yên thân bảo toàn quyền lực thống trị của Đảng đối với đất nước và giữ được đại cục!?..
Là đảng viên, tôi phải nói lên lo lắng này của tôi với toàn Đảng và cả nước.
Là đảng viên, tôi phải đặt ra câu hỏi: Lịch sử quan hệ Việt – Trung 65 năm qua chẳng lẽ không đủ sức chỉ ra sự mù quáng của liên minh ý thức hệ này hay sao? Chẳng lẽ trí nhớ chúng ta đã bị tẩy trắng mọi cái giá đất nước ta đã phải trả cho liên minh này?
Thưa các quý vị, hai bài học đẫm máu của thế kỷ trước chẳng lẽ đến giờ phút này vẫn chưa đủ sức thuyết phục toàn thể dân tộc ta hôm nay, nhất là các đảng viên:
Mọi thứ chủ nghĩa áp đặt cho đất nước ta và liên minh ý thức hệ như vậy cho đến hôm nay chỉ đem lại thảm hoạ? Chúng ta không thấy các thứ chủ nghĩa và liên minh ý thức hệ như thế đang tiếp tục giam hãm nhân dân ta trong sự nô dịch mới của quyền lực Đảng, đang làm suy vong quốc gia, và trên thực tế là đang chặn đứng con đường phát triển của đất nước chúng ta?
Đây chính là sự thật đã và đang diễn ra trên đất nước ta trong 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên, có phải như vậy không ạ?
Xin cho phép tôi nhấn mạnh thế này: Nhất thiết nước ta phải vươn lên có thế và lực với tư cách là một quốc gia độc lập có chủ quyền, để xây dựng bằng được mối quan hệ hợp tác và hữu nghị với Trung Quốc, chứ không phải là tìm kiếm liên minh ý thức hệ chỉ để bảo toàn chế độ!
Nghe đến đây, vị đại diện lãnh đạo đấm bàn thình thình. Rồi ông đột nhiên đứng bật dậy, tay chỉ thẳng vào Yến, một thôi một hồi:
– Phản động! Bắt! Công an đâu? Bắt ngay! Bắt ngay!.. … Nói như thế là cực kỳ phản động! Không cho phép lợi dụng đối thoại để tuyên truyền phản động lật đổ chế độ!.. Phản động như thế đừng có hòng…
Hội trường nổ tung tiếng phản đối vị đại diện lãnh đạo, nhiều người đứng hẳn dậy hét lớn. Riêng khu vực cánh nhà báo và các viên chức nhà nước ngồi, mặt đất vẫn phẳng lặng giữa cái chợ vỡ.
Vị cách mạng lão thành phải đứng dậy. Ông kéo vị đại diện lãnh đạo ngồi xuống, rồi đưa cả hai tay lên trời vãn hồi trật tự:
– Bình tĩnh! Bình tĩnh! Tôi yêu cầu mọi người bình tĩnh! Đây là đối thoại, tất cả chúng ta phải bình tĩnh!..
Hội trường nhao nhao ủng hộ ý kiến vị lão thành cách mạng. Chờ sự yên lặng quay trở lại, vị lão thành cách mạng nói tiếp:
– Tôi thấy bà Yến nói lên nhiều phê phán quyết liệt. Đúng sai thế nào rồi đây sẽ mổ xẻ. Nhưng đến giờ tuyệt nhiên chưa thấy bà nói về giải pháp. Mời bà đi thẳng vào yêu cầu này.
Yến đứng dậy, nói tiếp:
– Xin cảm ơn vị lão thành cách mạng. Tôi xin tiếp tục.
Thưa các quý vị, trong tình hình nguy hiểm và bế tắc hiện nay, cả nước đang xôn xao chung quanh câu hỏi: Theo Trung Quốc thì mất Đảng, theo Mỹ thì mất chế độ, theo ai bây giờ?
Một đất nước có hai nghìn năm lịch sử, một dân tộc anh dũng chống ngoại xâm mà hôm nay phải hỏi mình như thế hả trời đất?!
Yến gần như hét lên, nắm cả hai tay giơ lên cao như đang hỏi trời và hỏi cử toạ.
– …Hỏi phải theo ai? như vậy, thực lòng tôi không hiểu tổ quốc chúng ta bây giờ đang ở đâu?
Tôi xin lỗi được phép nhận xét: Chính sự phân vân này, đặc biệt là trong cả giới trí thức, cho thấy đến nay chúng ta đang trở nên hèn yếu và mất phương hướng đến nhường nào! Cách đặt câu hỏi như thế càng cho thấy hình như chúng ta hôm nay vẫn chưa học được bao nhiêu từ hai bài học đẫm máu. Thiếu sót này nguy hiểm lắm. Bởi vì, dù là theo ai, mà ta không phải là chính ta, thì bao giờ người theo cũng chỉ là con tốt trên bàn cờ cho người chơi cờsử dụng. Kinh nghiệm cay đắng của bảy mươi năm qua là như vậy.
Xin thưa: Số phận của đất nước ta được định đoạt không phải ở chỗ theo ai?, mà là ở chỗ ta phải là chính ta và phải có năng lực và phẩm chất tập hợp được sự hậu thuẫn của cả thế giới cho sự nghiệp của nước ta nói riêng và cho lẽ phải nói chung. Đấy mới là con đường sống. Nếu bản thân ta không tự đứng lên là một người có nhân cách và bản lĩnh, có lẽ sống và dám sống, mà cứ dặt dẹo như một tên nghiện hút xì-ke ma tuý, hỏi rằng ta sẽ tự sống sao được, và ai sẽ chơi với ta?
Xin thưa, dứt khoát không thể gửi nhà cho Tàu hoặc Mỹ giữ hộ được. Cũng chẳng có Tàu hay Mỹ nào chịu làm lính đánh thuê giữ nhà cho ta đâu ạ.
(Tiếng vỗ tay ran lên.)
Thưa các quý vị, - Yến nói tiếp - …hàng chục năm nay, nhìn vào hiện trạng đất nước, các đảng viên thuộc ba thế hệ trong đại gia đình của chúng tôi cứ phải hỏi nhau: Để đất nước chúng ta suy yếu và tha hoá mọi mặt như hôm nay, những hy sinh tổn thất của cả dân tộc ta trên chặng đường bảy mươi năm qua, trên chặng đường bốn mươi năm qua có đáng hay không?
Tôi còn nghĩ rằng: Để đất nước lâm vào tình cảnh như hôm nay không một đảng viên nào, từ đảng viên thường đến Tổng bí thư, có quyền nói trước dân tộc là mình vô can! Kể cả tôi đang đứng trước mặt các quý vị! Tôi muốn nhấn mạnh điều nghiêm trọng này trước khi nói suy nghĩ về giải pháp.
(Hội trường vỗ tay nhiệt liệt tán thành và cổ xuý Yến.)
– Thưa các quý vị, thế giới hôm nay không mảy may quan tâm dân tộc ta đang phải mang trên mình những vết thương gì trong quá khứ, và hiện tại đang yếu kém ra sao. Thế giới hôm nay chỉ nghiêm khắc đặt ra cho nước ta những đòi hỏi và thách thức.
Trung Quốc hôm nay cũng chẳng dành cho nước ta sự chiếu cố nào về hoàn cảnh hay quá khứ bang giao giữa hai nước, mà chỉ đặt nước ta đứng trước vấn đề: Hoặc là anh đủ sức trở thành đối tác được tôi tôn trọng, hoặc là anh dặt dẹo cam chịu tôi khuất phục làm thuộc hạ?.. Chấm hết ạ!
Thưa các quý vị, thế giới khắc nghiệt hôm nay nói chung và Trung Quốc siêu cường Đại Hán đang lên nói riêng chỉ đặt ra cho nước ta câu hỏi duy nhất:Tồn tại hay không tồn tại – với tính cách là một quốc gia độc lập có tự trọng và được tôn trọng?
Cuộc sống quyết liệt của đất nước hôm nay cũng chẳng dành cho dân tộc ta giây phút chờ đợi nào, để “ta tự xử lý ta với nhau” cho xong mọi chuyện trong quá khứ đã, trước khi ta bắt tay vào công việc đối xử với cả thế giới và tìm cách sống được bên cạnh Trung Quốc. Có phải như thế không ạ?
Hơn nữa, tình trạng tay trái chém tay phải giữa ta với ta như đã xảy ra trên chặng đường đất nước đã đi bảy thập niên qua và bốn mươi năm qua đang hằn sâu trong tâm thức một bộ phận dân tộc cách nghĩ và mối quan hệ “có mày không tao”.
Hiểm nguy hơn nữa, hiện nay trong lòng đất nước vẫn đang tồn tại một đồng minh đầy quyền lực nhưng giấu mặt, đang vô ý thức hay có ý thức dung dưỡng tiếp trên thực tế sự chia cắt dân tộc đã xảy ra từ cách đây bảy mươi năm.
Xin thưa: Kẻ đồng minh đầy quyền lực và giấu mặt này hôm nay có tên gọi là kiên định độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội!
(Hội trường lao xao một lúc…)
– … Tư duy này hôm nay khét lẹt đến mức quy kết: Không yêu chủ nghĩa xã hội là không yêu nước!
Nhiều người lãnh đạo lúc nào cũng hô to phải trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội, mặc dù ngay cả người cao nhất của Đảng cũng phải thừa nhận chưa biết đến cuối thế kỷ 21 này chủ nghĩa xã hội sẽ như thế nào!
Xin thưa các quý vị: Chính cái tư duy này là một trong những tác nhân trực tiếp đang chủ động góp phần làm sâu sắc thêm hận thù, khoét sâu thêm vết thương dân tộc, nhất là mỗi lần vào dịp ngày Ba mươi Tháng Tư đến!..
(Hội trường chao đảo như nứt toác, như có luồng điện xung mạnh đột ngột chạy qua. Vị lão thành cách mạng nét mặt chăm chú đến tột độ. Vị đại diện lãnh đạo hai bàn tay trở thành hai quả đấm siết chặt trên mặt bàn, hai môi bặm vào nhau…)
Thưa các quý vị, - Yến tiếp tục. - …làm sao có thể bắt dân yêu nước thì nhất thiết phải yêu chủ nghĩa xã hội của Đảng như đang diễn ra trong đời sống hàng ngày của đất nước được ạ?
… Về hoà giải dân tộc, xin cho phép tôi lưu ý các quý vị: Đất nước chúng ta trong thế giới hôm nay và bên cạnh Trung Quốc như thế này, hoàn toàn không cho chúng ta thời giờ trang trải sòng phẳng ân – oánđúng – sai giữa ta và ta với nhau trong bảy mươi năm qua đâu các vị ạ… Xin hãy vì tổ quốc của chúng ta không bao giờ được phép nhắm mắt trước thực tế này!
Và giả thử có làm được cái việc trang trải bằng cách chúng ta xoá sổ lẫn nhau cho đến người cuối cùng đi nữa, cũng không bao giờ trang trải hết nỗi với nhau đâu. Có phải thế không ạ?
Đây là sự thật đầy oan khiên đang chặn đứng con đường dẫn tới hoà giải dân tộc. Đây chính là sự thật bây giờ mỗi người Việt Nam chúng ta phải nhìn thẳng vào! Yêu nước, thương dân tộc mình, thì chỉ còn mỗi con đường phải đối mặt với sự thật này để quyết vượt lên quá khứ.
Phải nhìn thẳng vào những thách thức, những đòi hỏi đang đặt ra cho đất nước, để mỗi chúng ta vượt lên chính mình, thực hiện cho bằng được hoà giải dân tộc.
Cho nên, hoà hợp dân tộc hoàn toàn không phải chỉ nhằm mỗi mục đích xoá hận thù cũ, khép lại quá khứ, để dĩ hoà vi quý! Hoàn toàn không phải chỉ có thế! Mà nhất thiết phải đi xa hơn nhiều! Trong suốt chiều dài lịch sử của mình, dân tộc ta không thấp kém đến nỗi chỉ vướng víu loay hoay với nhau trong những khó khăn tình cảm vụn vặt như vậy khi xảy ra bi kịch bất hoà dân tộc, mà còn luôn luôn biết vượt lên tất cả, vì đại nghĩa... Lấy bao dung, lấy đại nghĩa để vượt lên quá khứ. Thậm chí, nếu có xảy ra đổ vỡ nào trong lòng đất nước sức con người chưa làm sao hàn gắn ngay được, thì lấy khoan dung, lấy kiên định vận dụng sự trợ giúp của thời gian!.. Một dân tộc trưởng thành thì phải có văn hoá và bản lĩnh hành xử như thế.
Thưa các quý vị, tôi xin phép nhấn mạnh: Hoà hợp dân tộc hôm nay trước hết là để nhìn lại mọi yếu kém của chính mỗi bản thân chúng ta, dù là bên này hay bên kia, là tự giác ngộ chính ta.
Hoà hợp dân tộc như vậy là để tự đứng lên giải phóng chính ta khỏi cái ngu dốt về thiên hạ và thế giới.
Hoà hợp dân tộc như vậy là để giác ngộ cho bằng được những cái còn thấp kém của chính bản thân mỗi chúng ta trong việc ý thức và bảo vệ lợi ích tối cao của quốc gia, cũng như để hiểu được con đường xây dựng nên những giá trị tạo ra sự phát triển của quốc gia.
Cho nên, hoà hợp dân tộc như vậy trước hết và duy nhất là để ta phải trở thành chính ta trong thế giới này, đồng lòng nhất trí cùng nhau tạo dựng bằng được một Việt Nam ta là chính ta và dám dấn thân cùng thế giới!
Vị lão thành cách mạng đột nhiên giơ tay:
– Tôi xin lỗi chen ngang hỏi một câu: Bà Yến nói về hoà giải dân tộc như thế có khác gì bắt dân tộc ta phải sám hối! Bà dám đòi dân tộc phải sám hối có phải không?
Yến:
– Xin thưa, thực lòng tôi không dám ạ. Nhưng nếu quý vị coi việc tự nhìn nhận lại mình để thực hiện bằng được hoà giải dân tộc là việc sám hối, tôi xin phép tán thành với tất cả tâm nguyện việc sám hối như thế.
Đúng là dân tộc ta đang cần việc sám hối như thế. Để biết đau, biết nhục, biết cái hèn kém của mình. Để nhất quyết phải tìm một con đường sống khác. Nhất thiết phải như thế ạ.
Tóm lại: Hoà hợp dân tộc hôm nay trước hết là để quyết cùng nhau hun đúc trí tuệ và ý chí để trở nên một dân tộc trưởng thành không gì chia cắt và lung lạc được, tạo ra cho dân tộc mình sức mạnh đứng được trong thế giới khắc nghiệt hôm nay, với tính cách là một thành viên có tự trọng và được tôn trọng trong cộng đồng quốc tế.
Xin hãy đem tất cả trí tuệ và nghị lực xây dựng hoà hợp dân tộc như thế, bắt đầu từ xoá bỏ độc quyền yêu nước, từ thực thi dân chủ và tự do, từ bảo đảm công khai và minh bạch trong toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Tinh hoa và trí tuệ của cả nước lúc này hơn bao giờ hết có nghĩa vụ dồn sức thực hiện bằng được hoà giải dân tộc như thế, để nhờ đó có ý chí và trí tuệ đổi đời số phận đau thương của đất nước đã bị giam hãm gần hai thế kỷ nay trong nghèo nàn, lạc hậu, và hiện nay vẫn đang bị trói buộc tiếp trong nô dịch, tụt hậu và lệ thuộc!
Không có hoà giải dân tộc như thế, dứt khoát không thể đổi đời nước ta thành một nước phát triển, để có độc lập - tự do - hạnh phúc, để thoát được ách nô dịch của Trung Quốc.
Tổ quốc Việt Nam của chúng ta hôm nay xứng đáng có một hoà hợp dân tộc như thế, và phải như thế! – Yến càng nói càng sôi nổi.
(Cả hội trường đứng dậy vỗ tay rầm rầm…)
Giáo sư Hoàng Quốc Tuý:
– Xin cảm ơn bà Yến, tôi hoàn toàn tán thành. Bây giờ cho phép tôi nói rõ thêm về chiến tranh hay hoà bình trong các mối quan hệ liên quan đến Trung Quốc trong cục diện thế giới hôm nay.
Xin thưa, như một phản ứng tự nhiên trước những nỗ lực bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông, không phải ngẫu nhiên trong giới chính khách và học giả trên thế giới hiện nay bỗng dưng rộ lên chuyện nghiên cứu lại những bài học của lịch sử về các nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới II. Cuộc thảo luận này kết luận: Chính sách xoa dịu (appeasement policy)8 mà Anh và Pháp vào những năm 1930 đã tiến hành, với hy vọng sẽ ngăn chặn được cuồng vọng của Hitler, đã hoàn toàn thất bại. Kết quả đạt được là nước Đức của Hitler được khuyến khích tiến nhanh hơn nữa vào chiến tranh thế giới II, Áo và Tiệp Khắc là hai nước bị “thí” đầu tiên cho phát xít Đức. Cuộc thảo luận này cũng nhắc lại bài học lại lịch sử nhục nhã của thống chế Philippe Pétain, người đứng đầu chính phủ Pháp bấy giờ9 đã chủ trương đầu hàng và câu kết với Hitler, cốt mong cho nước Pháp được yên thân. Nhưng cái mà Pétain đạt được là nước Pháp vẫn không thoát khỏi bàn tay đẫm máu của nước Đức Hitler. Sau đó Pétain bị nước Pháp chiến thắng phát xít Đức kết án tử hình, nhưng vì tuổi già, nên được hưởng án tù chung thân. Cũng trong cuộc thảo luận này, người ta nhắc lại sự thoả hiệp của Liên Xô bằng cách “thí” Ba Lan cho Đức qua hiệp ước Molotov – Ribbentrop ký ngày 23-08-1939. Nhưng bước đi ngoại giao này cũng không cứu được Liên Xô thoát nổi hoạ xâm lăng của phát xít Hitler. Cuộc thảo luận trên thế giới hôm nay cũng nêu ra những bài học tương tự như vậy đối với chủ nghĩa phát xít Nhật.
Các chính khách và học giả trên thế giới đi tới kết luận: Thế giới ngày nay không được phép để tái diễn một loại chính sách xoa dịu như thế đối với Trung Quốc hôm nay, dù bất kỳ dưới hình thức nào. Thế giới hôm nay lại càng không thể coi Biển Đông là Sudetenland10, là vật tế thần dâng hiến cho Trung Quốc, với ảo tưởng làm dịu được tham vọng bá quyền của Trung Quốc. Đơn giản là nếu chấp nhận để cho Trung Quốc kiểm soát toàn bộ Biển Đông, sẽ đồng nghĩa với việc chấp nhận để cho Trung Quốc khống chế hoàn toàn con đường thông thương huyết mạch qua eo Malacca chiếm khoảng phần nửa lưu lượng vận chuyển hàng hoá toàn thế giới! Thế giới đặt câu hỏi: Con đường tơ lụa trên biển triều đại Tập Cận Bình đề xướng liên quan đến chuyện này như thế nào? Chưa nói đến Biển Đông đang được Trung Quốc coi là kho nhiên liệu sống còn cho tương lai siêu cường Trung Quốc!
Đặc biệt nguy hiểm, đến nay Trung Quốc đã xây xong bảy (7) căn cứ quân sự trên các đảo thuộc Hoàng Sa của ta mà Trung Quốc đã chiếm trong các năm 1956 và 1974, trên 7 đảo Trường Sa của ta mà Trung Quốc đã chiếm năm 1988, dựng lên cái Trung Quốc gọi là Vạn Lý Trường Thành trên Biển Đông. Trên thực tế, đấy là một chiến luỹ trên biển án ngữ toàn bộ vùng biển nước ta, đồng thời nhằm từng bước khẳng định bằng vũ lực đường lưỡi bò 9 vạch, mở rộng dần việc kiểm soát trên thực tế toàn Biển Đông. Trung Quốc đang tính thời điểm cho việc thiết lập vùng nhận dạng phòng không trên Biển Đông. Giới lãnh đạo Trung Quốc từ Tập Cận Bình trở xuống, không dưới một lần gọi những hành động này nằm trong phạm vi chủ quyền bất khả xâm phạm của Trung Quốc, khẳng định lập trường này của Trung Quốc trên Biển Đông rắn như đá, không thể thay đổi được… Họ đang cân nhắc thời điểm thiết lập vùng nhân dạng phòng không ở vùng này…
Trong chính giới Trung Quốc, đặc biệt là cánh diều hâu, có nhiều ý kiến cho rằng phương Tây hiện nay chưa ra khỏi suy thoái kinh tế. Trong khi đó sau chiến tranh Iraq, Mỹ bây giờ mới quay trở lại châu Á nên chưa kịp bén chân và đang bị phân tán vì bận bịu tứ tung, sắp tới lại có bầu cử nữa... Vì thế lúc này là thời cơ cho Trung Quốc cần chớp lấy. Nguy cơ đụng độ trên biển hay chiến tranh lấn chiếm biển đảo vì vậy trở nên thường trực, giới quân sự Mỹ đã nhiều lần cảnh báo. Trên thực tế Trung Quốc đã tiến hành nhiều hoạt động quân sự mới nghiêm trọng ở vùng biển Hoa Đông, ngày 20-11-2013 đã lập vùng nhận dạng phòng không (AIDZ) ở đây bao gồm cả vùng trời đảo Senkaku thuộc về Nhật mà Trung Quốc đang đòi, và vùng trời bãi đá ngầm Socotra thuộc Hàn Quốc mà Trung Quốc đang tranh chấp. Không phải ngẫu nhiên hợp tác quân sự Mỹ - Nhật và hợp tác quân sự Mỹ - Philippines được nâng lên cấp độ mới để ứng phó. Hơn nữa nội tình Trung Quốc đang có nhiều chuyện rối ren cần phải hướng sự bùng nổ ra bên ngoài.
Chiến tranh lớn giữa Trung Quốc và Mỹ, hoặc giữa Trung Quốc và Nhật trên Biển Đông tuy là một khả năng tiềm tàng, nhưng Trung Quốc phải suy tính nhiều, vì hoả lực còn thua kém của mình, vì nhiều thứ khác, mặc dù Tập Cận Bình đã chỉ thị cho quân đội Trung Quốc phải chiến thắng bất kỳ cuộc chiến tranh cục bộ nào. Nhưng đối với các nước nhỏ trong vùng, trong đó có nước ta, từ 1956 đến nay, Trung Quốc sẽ liên tục lấn tới.
Thưa lão đồng chí và vị đại diện lãnh đạo, đương nhiên Mỹ không chịu khoanh tay ngồi yên. Việc Mỹ trở lại châu Á hiện nay là quyết liệt. Thực tế này cho thấy câu chuyện chiến tranh và hoà bình trong khu vực chúng ta trước hết là câu chuyện của mối quan hệ Trung Quốc – Mỹ, và câu chuyện mối quan hệ giữa Trung Quốc và cả thế giới còn lại. Vấn đề Trung Quốc – Biển Đông về nhiều mặt cũng là vấn đề của thế giới!
Toàn bộ thực tế trình bày trên đặt ra cho Việt Nam đòi hỏi: Muốn giải quyết những xung đột trong quan hệ Việt - Trung, đặc biệt là trong vấn đề Trung Quốc - Biển Đông, Việt Nam phải đứng vững trên đôi chân của mình và phải tranh thủ được sự hậu thuẫn của cả thế giới. Chưa nói đến so sánh lực lượng Việt – Trung cũng đòi hỏi nước ta phải có cách tiếp cận vấn đề như vậy. Nghĩa là, nước ta nếu chỉ có chính nghĩa không thôi thì cũng chưa đủ, mà còn phải có các phẩm chất và giá trị tập hợp được cả thế giới tiến bộ đứng về phía ta, như bà Yến đã lưu ý các quý vị… - xin đặc biệt nhấn mạnh như vậy.
Thực tế 65 năm quan hệ Việt – Trung cũng cho thấy mọi cam kết song phương đạt được giữa hai nước liên quan đến độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia chưa một lần nào bảo toàn được lợi ích quốc gia của ta, mà thường là chỉ mang ý nghĩa một chặng dừng chân để tạo cơ hội mới cho Trung Quốc lấn tới bước tiếp theo.
Thưa các quý vị, chiếm đoạt vùng lưỡi bò là ý đồ chiến lược thường trực của Trung Quốc, đang được vận hành theo kiểu thế giới đặt cho cái tên là “cắt các lát xúc-xích salami” – nói theo ngôn ngữ Việt đại thể là xà xẻo dần từ miếng. Họ giành giật từng thời cơ, lấn chiếm từng bước, quyết thực hiện đồng bộ các biện pháp kinh tế - chính trị - quân sự, luôn luôn chủ trương thực hiện các bước đi đã đề ra càng sớm càng tốt!
Năm 2008 Trung Quốc đã thẳng thừng mặc cả với Mỹ chia đôi Thái Bình Dương, lấy đảo Hawaii làm mốc, nửa phía Đông là phần của Mỹ, nửa phía Tây là phần của Trung Quốc, dĩ nhiên Mỹ không thể chấp nhận. Gần đây Trung Quốc lại đưa ra ý kiến mới: Tốt nhất là Mỹ nên dành toàn bộ Đông Dương cho Trung Quốc, để Mỹ quay về giữ phần còn lại của ASEAN!.. Đương nhiên chấp nhận sự chia chác như thế cũng có nghĩa siêu cường Mỹ chấp nhận tự sát, điều này chắc chắn là không thể!
Điều đã xảy ra là mọi hy vọng về một đồng thuận Mỹ - Trung (G2) được Obama khởi xướng khi lần đầu tiên bước vào Nhà Trắng mong kéo Trung Quốc đi chung với trật tự thế giới để kiềm chế Trung Quốc đã thất bại. Trục xoay Châu Á – Thái Bình Dương hiện nay là phương án thay thế. Tầu chiến và máy bay Mỹ trong phạm vi vùng biển và vùng trời quốc tế bắt đầu thường xuyên tìm cách tiếp cận với các căn cứ nổi Trung Quốc xây dựng trên các đảo chiếm ở Biển Đông để khẳng định tự do thông thương theo luật quốc tế và UNCLOS 1982, phía Trung Quốc xua đuổi ráo riết. Giới nghiên cứu chiến lược của Mỹ đang khuyến khích thượng viện Mỹ sớm thông qua UNCLOS 1982 để tăng thêm cơ sở pháp lý quốc tế cho hoạt động của Mỹ tại vùng này. Căng thẳng đang tăng lên từng ngày.
Có thể phán đoán: Mỹ và đồng minh chắc chắn không thể để Trung Quốc độc chiếm Biển Đông và uy hiếp toàn vùng. Mỹ sẽ cùng với đồng minh của họ chốt đến cùng chiến tuyến phia Bắc Biển Đông là Nhật Bản và Hàn Quốc, chiến tuyến phía Nam bắt đầu từ Philippines – mà làm như thế sẽ là giữ được vùng biển Đông Nam Á và bảo toàn được sự hậu thuẫn lẫn nhau trong liên minh với Úc, Ấn Độ… Mỹ chủ trương không tham gia vào việc tranh chấp biển đảo giữa các bên trên Biển Đông, nhưng kiên trì lập trường phải tôn trọng luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982, bảo đảm tự do thông thương trên biển quốc tế.
Bước đi quan trọng nhất giữa Mỹ và đồng minh là Mỹ hậu thuẫn mạnh mẽ việc Nhật sửa đổi điều 9 của Hiến pháp, gỡ bỏ mọi hạn chế ràng buộc cuối cùng có liên quan đến chiến tranh thế giới II để Nhật có khả năng cùng với các đồng minh khác tham gia toàn diện vào các vấn đề quốc phòng và an ninh trong khu vực và có thể mở rộng ra cả ASEAN.
Cũng như hầu hết các quốc gia khác – vì rất nhiều lý do địa kinh tế và địa chính trị, Mỹ đương nhiên không muốn Việt Nam rơi vào vòng tay Trung Quốc. Mỹ ủng hộ mạnh mẽ một Việt Nam phát triển mạnh và dân chủ, bảo vệ chủ quyền quốc gia và độc lập của mình. Mỹ đang làm tất cả đẩy mạnh thực hiện mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Vấn đề dân chủ và quyền con người là những vấn đề nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của Mỹ, do chế độ chính trị của Mỹ đòi hỏi như vậy, không nên đơn giản hay cố tình xem đấy chỉ là những thủ đoạn diễn biến hoà bình.
Có thể nói trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của mình vì một nước Việt Nam phát triển và dân chủ, Việt Nam dấn thân đến đâu, sẽ nhận được sự hợp tác và hậu thuẫn của Mỹ đến đấy. Mỹ nói thẳng, sự hợp tác của Mỹ không nhằm thay đổi chế độ chính trị của Việt Nam, vì Mỹ coi đấy là vấn đề thuộc chủ quyền và thuộc nội bộ tự thân sự phát triển của Việt Nam. Đây không chỉ là một tính toán khôn ngoan, mà còn là kinh nghiệm rất đắt của chính bản thân Mỹ. Kinh nghiệm này bắt đầu trở thành một nguyên tắc đối ngoại của Mỹ thời Obama.
Ví bằng, với những lý do nào đấy, giả thử Việt Nam chịu khuất phục đầu hàng Trung Quốc, đi hẳn với Trung Quốc. Mỹ sẽ coi đấy cũng chỉ là câu chuyện của Việt Nam, rồi Việt Nam sẽ phải tự rút ra bài học cho mình như đã từng được nếm trải trong quá khứ, nhân dân Việt Nam sẽ tự giải quyết công việc của mình. Trong trường hợp này, vị thế của Mỹ trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương không hề yếu đi. Thậm chí trong trường hợp này, các đồng minh của Mỹ trong khu vực có thể sẽ chủ động liên kết chặt chẽ hơn nữa với Mỹ, để chặn đứng sự gia tăng bành trướng của Trung Quốc. Chí ít xu thế trong khu vực chống Trung Quốc sẽ quyết liệt hơn, vì không thể nào chấp nhận sự bành trướng hiện nay của Trung Quốc.
Xin thưa các quý vị: Không bao giờ Trung Quốc có thể làm được vai trò lãnh đạo thế giới, cho dù một khi trở thành nền kinh tế lớn nhất đi nữa. Bởi vì tư duy và văn hoá Trung Quốc và chủ nghĩa thực dân mới Đại Hán tự loại bỏ khả năng này: Văn minh nhân loại ngày nay không thể chấp nhận Khổng giáo và văn hoá mục tiêu biện minh cho biện pháp.
Song Trung Quốc thực sự đang là một cường quốc khu vực dồi dào bạo lực, nhưng vô cùng đói khát giấc mơ Trung Hoa, luôn luôn hành xử mềm hoặc rắn theo nguyên tắc (maxime, Grundsatz) mục tiêu biện minh cho biện pháp, đang uy hiếp áp đảo các nước nhỏ.
Có thể nhận định, Việt Nam không quan trọng đối với Mỹ đến mức nếu “mất” Việt Nam vào tay Trung Quốc ảnh hưởng của Mỹ trong khu vực này sẽ suy giảm hoặc suy sụp.
Nhưng xin thưa, nếu Việt Nam không thực hiện được hợp tác toàn diện với Mỹ, gần như sẽ đồng nghĩa Việt Nam không thể cùng đi được với cả thế giới. Khỏi phải nói, nếu xảy ra như vậy, Việt Nam sẽ suy yếu và lép vế như thế nào trong quan hệ Việt – Trung, khiến Việt Nam sẽ chỉ còn đường bó tay cam chịu thuần phục Trung Quốc, làm quân cờ cho Trung Quốc, thậm chí có lẽ Việt Nam sẽ không đủ tiêu chuẩn để được Trung Quốc đối xử như Bắc Triều Tiên!
Thưa các quý vị, chúng ta cũng không thể bỏ qua một thực tế quan trọng khác: Mỹ và Trung Quốc có nhiều vấn đề phụ thuộc lẫn nhau, hiện đang tránh đụng độ trực tiếp với nhau. Thực tế này có nghĩa là trong một bối cảnh nhất định nào đó, hoàn toàn có thể xảy ra khả năng một nước thứ ba nào đó bị một trong hai bên Mỹ / Trung bán đứng, mặc cả, đổi chác, đẩy ra làm bung xung chống bên kia, hoặc “thí” cho bên kia... Từ sau chiến tranh thế giới II cho đến hôm nay, đã nhiều lần các thế lực cường quốc chọn nước thứ ba làm trận địa giải quyết xung đột lợi ích trực tiếp giữa họ với nhau. Nhất là nước ta xin đừng lúc nào quên thực tế đầy máu và nước mắt này trong bốn cuộc chiến tranh đã trải qua ở thế kỷ trước (kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ, chiến tranh của Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc nước ta, chiến tranh Campuchia). Cho đến nay, không dưới một lần phía Trung Quốc thẳng thừng đòi Mỹ không được nhúng mũi vào chuyện Trung Quốc tranh chấp biển đảo trong khu vực.
Thưa các quý vị, kịch bản Trung Quốc mong muốn nhất, và cũng đang được tiến hành thành công nhất đối với nước ta là: Duy trì một Việt Nam èo uột và phụ thuộc, cam chịu giữ đại cục, 4 tốt và 16 chữ, tiếp tục củng cố những gì Trung Quốc đã cướp được, và từng bước thực hiện quyền kiểm soát trên thực tế cái “lưỡi bò”.
Thưa các quý vị, lật đi lật lại mọi vấn đề, đặt ra mọi tình huống, tôi vẫn cứ phải quay lại kết luận: Tình hình hiển nhiên đòi hỏi nước ta phải có một chế độ chính trị đủ mạnh, thực hiện được hoà giải dân tộc để phát huy được tối đa sức mạnh quốc gia, đồng thời huy động được hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của mình. Đấy là cái bất biến ứng vạn biến nước ta đang thiếu. Đấy là cái dĩ bất biến nhất thiết nước ta phải có trong bối cảnh thế giới hôm nay. Cải cách chế độ chính trị hiện nay vì thế trở thành đòi hỏi tất yếu. Không làm được như vậy, Đảng dù có cam kết hàng nghìn hàng vạn lần với nhân dân “lãnh đạo Đảng và Nhà nước này không bán nước!” cũng chỉ là xáo rỗng.
(Tuy được nhắc nhở phải yên lặng, nhưng cử toạ vẫn không sao tránh khỏi bàn tán râm ran. Giáo sư Tuý lại phải chờ một lúc.)
Xin đặc biệt nhấn mạnh, trên thế giới hầu như hiếm có quốc gia nào điên khùng ủng hộ khát vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc. Chắc chắn cũng rất hiếm có như thế một quốc gia nào trên thế giới lại mong Việt Nam rơi vào vòng tay ôm ấp của siêu cường Trung Quốc. Vì vậy cũng phải đánh giá đúng tầm: Lợi ích quốc gia thiêng liêng của ta và tình hình khu vực này sẽ ra sao, phụ thuộc rất nhiều vào bản lĩnh hay sự nhu nhược của chính nước ta.
Bài học tháng Hai năm Bảy chín (02-1979) cho thấy Trung Quốc rất tàn ác, nhưng không phải ta không xử lý được.
Sự kiện giàn khoan HD 981 tháng 5-2014 là cái “test” mới nhất cho thấy Trung Quốc không phải muốn làm gì cũng được, nên buộc phải rút sớm trước một tháng.
Bởi vì Việt Nam rất quyết liệt bảo vệ chủ quyền của mình, thế giới lên án nghiêm khắc hành động phi pháp của Trung Quốc.
Phải rút sớm một tháng, vì Trung Quốc lo rằng chế độ chính trị của ta sẽ không thể kiểm soát nổi sự phản kháng quyết liệt của nhân dân ta, khiến Trung Quốc có thể sẽ mất chỗ đứng đã tạo dựng được ở Việt Nam.
Phải rút sớm một tháng, để đi những nước cờ mới thâm hiểm hơn: chia rẽ nội bộ lãnh đạo Việt Nam và làm cho dư luận thế giới mỏi mệt.
Phải rút sớm một tháng, vì nếu quá thô bạo, sẽ khuyến khích hình thành sớm ở đây một vành đai chống Trung Quốc rất bất lợi…
Trong khi đó Trung Quốc đang có trong tay khoảng bốn nghìn tỷ đô-la dự trữ để theo đuổi những chính sách thâm nhập khác của “củ cà rốt” không kém phần nguy hiểm đối với cả thế giới. Cái gọi là Ngân hàng Đầu tư phát triển hạ tầng Châu Á (AIIB) và con đường tơ lụa trên biển ra đời vì mục đích này, và phải thừa nhận “củ cà rốt” thường hấp dẫn được các con thỏ!..
Liên quan đến vấn đề chiến tranh và hoà bình trên Biển Đông, tôi muốn đặc biệt lưu ý hai vị:
- Chủ động giữ hoà bình cho nước ta trên Biển Đông trước hết có nghĩa nước ta phải đủ bản lĩnh làm nản lòng, chứ không phải khuyến khích, những tính toán chiến tranh của Trung Quốc đối với nước ta.
- Chủ động giữ hoà bình cho nước ta trên Biển Đông trước hết có nghĩa bất kể hành động lấn chiếm nào có vũ trang hoặc không vũ trang của Trung Quốc đối với các vùng biển đảo của nước ta sẽ vấp phải sự chống cự không khoan nhượng của cả nước ta, chứ không phải là chính quyền đem công an đi trấn áp dân yêu nước, chỉ để giữ “đại cục”!
- Chủ động giữ hoà bình cho nước ta trên Biển Đông còn có nghĩa nước ta sớm muộn phải đủ sức tạo ra bằng được tình hình Trung Quốc trở thành đối tác chiến lược của nước ta đúng như tinh thần và nội dung của khái niệm này – đương nhiên không phải và không thể bằng cách ta “thuần hoá” cái bá quyền của Trung Quốc, mà chỉ có thể bằng cách nước ta phải vươn lên giàu mạnh, khiến cho Trung Quốc phải chấp nhận một Việt Nam được tôn trọng trong quan hệ song phương Việt - Trung. Đây là vấn đề trong tầm nhìn dài hạn, song lại phải bắt tay vào việc ngay từ hôm nay, nói cụ thể hơn nữa là từ cải cách chính trị Đại hội Đảng sắp tới cần đề ra.
Tôi xin phép diễn giải một cách nôm na nhưng khái quát mối quan hệ Việt – Trung nước ta nên lựa chọn. Đó là:
Ta không bao giờ có lợi ích chống Trung Quốc hoặc đi với ai chống Trung Quốc. Ta rất mong và luôn sẵn sàng làm hết sức mình đời đời có quan hệ hoà bình, hữu nghị, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với Trung Quốc, đồng thời mối quan hệ song phương này nhất thiết không được phương hại đến bất kỳ nước thứ ba nào. Là quốc gia độc lập có chủ quyền, nhất là đòi hỏi phát triển của nước ta rất gay gắt, nước ta sẽ hợp tác hết mình với tất cả các đối tác mình có được cho mục tiêu chiến lược này. Dứt khoát vì lợi ích tối cao của quốc gia, dứt khoát vứt bỏ ý thức hệ, để thực hiện bằng được mục tiêu chiến lược này.
Trong trường hợp Trung Quốc xâm phạm lợi ích và chủ quyền quốc gia của ta thì ta quyết bảo vệ, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của cả thế giới, kể cả Mỹ trong trường hợp tình hình đòi hỏi. Là láng giềng của Trung Quốc, ta hoan nghênh và sẵn sàng hợp tác nếu có thể mọi bước đi đối ngoại của Trung Quốc phục vụ cho hoà bình, hợp tác và cùng phát triển. Nhưng nếu Trung Quốc có bước đi nào xâm phạm lợi ích chính đáng của các bạn bè ta hay gây tội ác với thế giới, nhất thiết ta phải lên án và cùng với cả thế giới bảo vệ lẽ phải. Đơn giản là vì thế giới không phải là một khu rừng của động vật hoang dã, nên mọi thành viên trong cộng đồng xã hội thế giới đều có trách nhiệm như nhau trong gìn giữ trật tự và bảo vệ ngôi nhà chung của mình. Có dấn thân như vậy, nước ta mới trưởng thành và xây dựng được cho mình phẩm chất và khả năng tốt nhất là láng giềng tốt của Trung Quốc.
Thưa các quý vị, một nền ngoại giao như thế, đòi hỏi phải xây dựng trên nền tảng vững chãi của một nền nội trị trong một quốc gia tự do của một dân tộc tự do!
Nêu lên như thế, đủ biết Đảng đã lãng phí như thế nào bốn mươi năm đầu tiên của đất nước độc lập thống nhất.
Xin thưa các quý vị, sống bên cạnh Trung Quốc, lời nguyền địa lý chỉ cho phép nước ta lựa chọn một trong hai kịch bản để sống, đó là: Hoặc là cam chịu làm thân phận chư hầu của Trung Quốc, hoặc là vươn lên trở thành một quốc gia có tự trọng và được Trung Quốc tôn trọng, được bạn bè thế giới tin cạy, gửi gắm. Một Việt Nam tự do của dân tộc Việt Nam tự do!
Xin tạm dừng ở đây.
(Hội trường vỗ tay nhiệt liệt tán thành giáo sư Hoàng Quốc Tuý.)
… …
Vị đại diên lãnh đạo:
– Tôi đã nghe hết ý kiến của hai vị. Quan điểm của hai vị như thế hoàn toàn là phi giai cấp, chủ trương diễn biến hoà bình, cố tình bỏ qua đặc điểm hai nước Việt Nam, Trung Quốc đều là hai nước xã hội chủ nghĩa và do hai Đảng Cộng Sản lãnh đạo.
(Hội trường lúc này đầy tiếng huýt gió, có lúc xen cả tiếng la ó…)
– Tôi mong được nghe giáo sư bảo vệ quan điểm vì sao các vị cứ đòi cải cách chính trị, thậm chí là đòi toàn diện và triệt để nữa! – vị đại diện lãnh đạo yêu cầu.
Giáo sư Hoàng Quốc Tuý:
… …
(Sau khi trình bày bản kiến nghị của doanh nhân và trí thức về chương trình tổng thể cải cách hệ thống chính trị của đất nước, giáo sư Hoàng Quốc Tuý giới thiệu tóm tắt quá trình chuyển đổi hiện nay của Myanmar để lãnh đạo Đảng và nhà nước tham khảo). Giáo sư kết luận:
– Tóm lại, nếu nhận thức được đòi hỏi của đất nước, các nguy cơ và cơ hội đang đặt ra, nếu đặt lợi ích quốc gia lên trên hết và đi tiên phong chiến đấu trong hàng ngũ của dân tộc, cho đến giờ phút này Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn còn đủ điều kiện chính trị, tinh thần và vật chất chủ động tiến hành một cuộc cải cách chính trị triệt để từ trên xuống và từ trong Đảng ra, đưa nước ta bước vào một thời kỳ phát triển mới.
Phải nói cải cách chính trị nếu thành công, sẽ mở ra cho nước ta một thời kỳ đầy triển vọng lớn hơn nhiều so với khi đất nước ta làm Cách mạng Tháng Tám. Những điều kiện cho một cuộc cải cách chính trị triệt để như thế của nước ta có nhiều mặt thuận lợi hơn Myanmar. Song cái khó nhất của ta so với Myanmar là: Tầm nhìn và ý chí của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta bị ý thức hệ trói buộc nặng nề, lợi ích quốc gia không được đặt lên trên hết, có tâm lý khiếp nhược nặng nề trước uy hiếp của Trung Quốc, vì lo mất ghế và tiền nên không dám dựa hẳn vào nhân dân xoay chuyển cục diện đất nước.
Hội trường lặng đi hồi lâu, chờ đợi, vì mãi mới thấy vị đại diện lãnh đạo lên tiếng:
– Cho phép tôi hỏi thẳng, chẳng lẽ giáo sư không thấy đảng bộ các cấp trong cả nước đang trống rong cờ mở rầm rộ chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc theo mục tiêu xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn mình hay sao? Giáo sư cố tình không hiểu như thế, hay là giáo sư không tán thành?
Giáo sư Hoàng Quốc Tuý:
– Thưa vị đại diện lãnh đạo, tôi thấy chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc như đang làm chỉ là hình thức, giống y hệt các khoá trước. Những gì là mới mà tôi được nghe phổ biến ở chi bộ, thì chủ yếu là cách lựa chọn đại biểu đi dự và cách bầu cử kiểu mới vô cùng mất dân chủ.
Vị đại diện lãnh đạo:
– Giáo sư quả thật rất ngoan cố. Tập trung dân chủ, từ dưới lên, từ trên xuống như thế còn đòi cái gì? Xin hỏi, theo giáo sư, Đại hội phải được tiến hành như thế nào mới là đúng?
Giáo sư Hoàng Quốc Tuý:
– Cho phép tôi nói thẳng, toàn bộ những vấn đề chúng tôi trình bày trong đối thoại hôm nay, về thế giới, về đất nước và về Đảng không có lấy một chữ trong những gì tôi được nghe ở đại hội đảng bộ cấp cơ sở. Tiến hành chuẩn bị Đại hội như vậy, tôi chỉ có thể hiểu là lãnh đạo hiện thời cố tình bỏ qua hay không thấy đòi hỏi sống còn phải tiến hành cải cách chính trị để mở ra một thời kỳ phát triển mới cho đất nước trong một thế giới đã thay đổi.
Vị đại diện lãnh đạo:
– Tôi thấy giáo sư kiêu ngạo quá, dám coi thường trí tuệ, công sức chuẩn bị của toàn Đảng và của cả nước. Nếu giỏi, giáo sư thử trình bày, theo cao kiến của giáo sư thì chuẩn bị và tiến hành Đại hội như thế nào mới là đúng?!
Hội trường nhao nhao đồng tình, vì rất muốn nghe.
Giáo sư Hoàng Quốc Tuý:
– Thưa vâng, tôi rất vui lòng nói suy nghĩ của mình.
Trước hết phải nói gần hai năm nay, tốn kém bao nhiên tiền của công sức cả nước, chuẩn bị Đại hội chỉ làm được rất quyết liệt mỗi cái việc loại bỏ hoặc sắp xếp nhau ai ở, ai đi. Trên bốn mươi năm tuổi đảng, đây là lần đầu tiên tôi thấy trong Đảng mất dân chủ thậm tệ đến như vậy, vi phạm nghiêm trọng chưa từng có Điều lệ Đảng, và hầu như chỉ có mỗi vấn đề nhân sự là vấn đề duy nhất quan trọng của Đại hội sắp tới này. Mọi chuyện khác chỉ là, thứ yếu, hình thức và sai trái, nhất là về nội dung những nhiệm vụ Đảng phải làm trong khoá tới. Nếu nhìn vào hàng trăm, hàng nghìn kiến nghị giàu trí tuệ và rất xây dựng của nhân dân, của đảng viên từ hàng chục năm nay gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước, không thể nói là Đảng thiếu thông tin, mà chỉ có vấn đề: Đảng cố tình nhắm mắt lờ đi.
Các đảng viên nếu muốn cứu đảng của mình, nếu còn giữ tấm lòng của mình với đất nước, nhất thiết phải đồng thanh yêu cầu lãnh đạo thay đổi hẳn việc chuẩn bị Đại hội như đang tiến hành. Tôi nghĩ, dù là đã lãng phí quá nhiều thời gian, nhưng từ nay đến khi Đại hội họp, vẫn còn đủ thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội theo cách chấp nhận đối mặt với mọi vấn đề đang đặt ra cho Đảng, nhìn thẳng vào sự thật để xác định các việc phải làm và tìm lối ra cho Đảng, cho đất nước.
Cụ thể, tôi xin đề nghị toàn bộ những vấn đề đã được trình bày trong buổi đối thoại hôm nay, cùng với biết bao nhiêu thông tin và những vấn đề hệ trọng nhất của đất nước mà chắc chắn các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước, các Viện và cơ quan nghiên cứu, các trường Đại học đã sẵn có, các kiến nghị xây dựng đến từ nhân dân.., đều cần được sử dụng nghiêm túc cho việc mổ xẻ để nhìn thấy được sự thật và xác định được lối ra cho Đảng, cho đất nước.
Tôi xin kiến nghị, nên chuẩn bị sớm các thông tin trung thực và họp Ban chấp hành Trung ương thảo luận dân chủ, thẳng thắn, nhằm đánh giá thấu đáo tình hình mọi mặt của đất nước trong 40 năm độc lập thống nhất đầu tiên, để nhận ra vấn đề và xác định hướng ra.
Mục đích duy nhất của họp bàn này (có thể là một hoặc hai cuộc hội nghị Trung ương…) là để thấy rõ những sai lầm về đường lối, về chiến lược, về chính sách của Đảng 40 năm qua, những thách thức và cơ hội phía trước, để tìm lối ra, và để xác định những việc phải làm, tạo ra ý chí và hành động thống nhất của toàn Đảng và cả nước trong tình hình và nhiệm vụ mới. Huy động tất cả ý chí và trí tuệ của cả nước quyết làm rõ được bản chất những vấn đề của Đảng, của chế độ, của đất nước và lối ra, chứ không phải để khoét sâu thêm chia rẽ nội bộ và làm suy yếu đất nước.
Sau đó, Ban Chấp hành Trung ương nên đưa thẳng ra trình Đại hội một báo cáo trung thực do chính mình trực tiếp chuẩn bị, để Đại hội xem xét. Nếu phải họp bàn cả tháng thì cũng phải làm, vì đây còn là con đường nâng cao khả năng chiến đấu của Đảng. Như thế, báo cáo để Đại hội thảo luận không cần dài, nhưng nêu được những vấn đề cốt yếu để Đại hội bàn cho ra nhẽ và quyết định.
Đồng thời việc họp bàn này của Ban Chấp hành Trung ương khoá này nên trình ra Đại hội kiến nghị phương thức tiến hành họp Đại hội theo cách mới, khác hẳn đường mòn cũ, với mục đích:
○ Thực hiện tối đa chức năng và quyền năng của Đại hội là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng giữa hai nhiệm kỳ.
○ Hạn chế tới mức thấp nhất sự chi phối của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị khoá hiện tại đối với Đại hội. Dứt khoát loại bỏ mọi ý đồ và cách làm biến Đại hội trên thực tế chỉ làm việc hợp thức hoá những ý đồ, hay chủ trương, hay quyết định của những cá nhân hay phe nhóm nào đó trong Ban Chấp hành Trung ương hoặc trong Bộ Chính trị khoá hiện tại.
○ Đối với những vấn đề quan trọng nhất, kể cả vấn đề nhân sự khoá tới, Đại hội cần tiến hành họp toàn thể để tranh luận trực tiếp tại hội trường, rồi quyết định trực tiếp bằng lá phiếu. Xin nhấn mạnh, dứt khoát không được biến Đại hội thành “các tiểu hội” chỉ để quán triệt, thông qua những thứ đã được quyền lực của khoá này chuẩn bị sẵn, rồi sau đó đưa ra họp toàn thể bỏ phiếu thông qua để hợp thức hoá lấy lệ. Lúc sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có lần phê phán nghiêm khắc: Cách làm “các tiểu hội” trong Đại hội như vậy đã cướp mất quyền của Đại hội.
○ Nên bỏ hẳn cách làm sẵn dự thảo Báo cáo Chính trị lê thê và hình thức cũng như các báo cáo khác được chuẩn bị sẵn như các Đại hội trước.
Lần này, sau khi làm xong việc thảo luận đánh giá tình hình và nhiệm vụ, Đại hội trực tiếp chuẩn bị một Báo cáo Chính trị duy nhất, ngắn gọn, chừng dăm sáu trang lả đủ, nêu lên một số vấn đề trọng đại nhất của đất nước và của Đảng 40 năm qua làm nền tảng cho xác định nhiệm vụ tới là: Cải cách thể chế chính trị nhẳm mở ra cho đất nước một thời kỳ phát triển mới theo đòi hỏi của đất nước và trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế và khu vực.
○ Đại hội có trách nhiệm đề ra những nhiệm vụ cụ thể của cải cách chính trị, gồm ba vấn đề lớn:
▪ Một là, phải đổi mới Đảng Cộng Sản Việt Nam thành đảng của dân tộc, để phấn đấu trở thành đảng cầm quyền được nhân dân lựa chọn thông qua bầu cử trung thực, chứ không phải là cái “đảng cầm quyền” theo kiểu “Đảng cử, dân bầu” như nhà nước chúng ta hiện đang có. Kiến nghị 61 (thư ngỏ ngày 28-07-2014 của 61 đảng viên) đã nêu rất rõ vì sao phải xây dựng lại Cương lĩnh để thực hiện việc xây dựng Đảng trở thành đảng của dân tộc.
Đảng xây dựng năng lực và phẩm chất lãnh đạo của mình bằng ý chí đặt lợi ich quốc gia lên trên hết, bằng tầm nhìn và dám đối mặt với mọi vấn đề của đất nước, bằng bản lĩnh và năng lực vạch ra được đối sách và giải pháp, có trí tuệ và phẩm chất tổ chức thực hiện các giải pháp, bản thân Đảng gương mẫu đi tiên phong thực hiện. Đây chính là con đường phấn đấu trở thành đảng cầm quyền thông qua bầu cử trung thực.
▪ Hai là phải xây dựng được nhà nước pháp quyền dân chủ với đầy đủ các hệ thống, hoạt động theo tam quyền phân lập, có Toà án Hiến pháp, hệ thống chính quyền nhà nước các cấp được xây dựng thống nhất của những nguyên tắc nhà nước pháp quyền dân chủ. Hiến pháp và Quốc hội là các thực thể tập trung quyền lực nhà nước cao nhất. Nhóm kiến nghị 72 (Kiến nghị ngày 19-01-2013 của 72 nhân sĩ, trí thức về sửa đổi Hiến pháp) đã nêu ra những ý tưởng chắt lọc và tiến bộ của kinh nghiêm thế giới cho việc xây dựng Hiến pháp và nhà nước pháp quyền dân chủ của nước ta, rất đáng để tham khảo.
▪ Ba là phải xây dựng được một chính phủ và toàn bộ hệ thống chính quyền có ý chí, năng lực và kỹ năng thực hiện nhiệm vụ cải cách chính trị và tổ chức lại nền kinh tế quốc dân. Điều cực kỳ quan trọng là Chính phủ phải đảm bảo cho cải cách chính trị được thực hiện trong sự ổn định và phát triển của kinh tế, tạo ra các bước tiến hay thành tựu kinh tế cụ thể hỗ trợ các bước đi của cải cách chính trị. Đặc biệt là Chính phủ phải có năng lực vạch ra và thực thi được chiến lược cải cách kinh tế, lộ trình các bước đi thực hiện, để trong vòng hai hay ba kế hoạch 5 năm tới, nghĩa là ước chừng đến năm 2030, nước ta sẽ có được một nền kinh tế phát triển: Mới về cơ cấu, được vận hành trong một thể chế hiện đại, phát triển chủ yếu dựa vào phát huy yếu tố con người và khoa học kỹ thuật, trở thành một mắt xích ngày càng quan trọng trong tổng thế kinh tế thế giới.
Cho phép tôi nhấn mạnh: Tuyên Ngôn Độc Lập 02-09-1945 và Hiến pháp 1946, cùng với những kinh nghiệm đầy xương máu và vô giá trên con đường 70 năm qua của đất nước, cùng với kho tàng trí tuệ của văn minh nhân loại, cùng với tiềm năng hiện có của đất nước hôm nay, và trên hết cả là khát vọng cháy bỏng của nhân dân đòi cải cách để đồi đời đất nước, tất cả cho thấy nước ta hoàn toàn có đủ điều kiện thực hiện thành công cuộc cải cách chính trị trọng đại này.
Để quốc gia sống sót, tồn tại và phát triển được trong thế giới khắc nghiệt hôm nay thông qua cải cách, cả nước và toàn Đảng nên một lòng kiên trì phương châm: Hướng về phía trước, không hồi tố, lấy hoà hợp và đồng thuận dân tộc làm trọng, chắt chiu từng thành quả, nâng niu từng nỗ lực, hoà bình thay đổi toàn diện cuộc sống của đất nước, học hỏi lẫn nhau để cả nước thành công cho mục đích sớm đưa nước ta thành một nước phát triển.
○ Nhằm bảo đảm thực hiện ba nhiệm vụ chính trị trọng đại của cải cách chính trị nêu trên của nhiệm kỳ khoá tới, Đại hội cần thông qua tranh luận trực tiếp bầu ra Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước, với tinh thần:
Đại hội trực tiếp đứng ra giao trọng trách này, và người được giao trọng trách này trực tiếp chịu trách nhiệm ràng buộc trước Đại hội, trước toàn Đảng và trước cả nước việc thực hiện thắng lợi ba nhiệm vụ trọng đại nói trên.
Thông qua việc Đại hội bầu trực tiếp Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước như vậy, Đại hội ra tuyên bố trân trọng thay mặt Đảng cam kết ràng buộc với nhân dân cả nước thực hiện bằng được ba nhiệm vụ trọng đại nêu trên. Tuyên bố này chính là Tuyên ngôn của Đảng trước dân tộc: Quyết tâm đổi mới Đảng thành đảng của dân tộc, đời đời đi với dân tộc.
Tiếng vỗ tay nổi lên rầm rầm tán thưởng giáo sư Tuý. Tiếng vỗ tay rộ lên ba bốn đợt rồi mới ngừng hẳn.
Chờ im lặng trở lại, vị đại diện lãnh đạo cáu kỉnh, tay liên hồi nện xuống bàn hỗ trợ cho cái mồm:
– Giáo sư chỉ nói lằng nhằng! Làm tôi điên hết cả cái đầu. Cứ lải nhải dân tộc với dân chủ! Trách nhiệm với ràng buộc! Rồi lại Tuyên ngôn... Chẳng thấy chủ nghĩa đâu. Định hướng xã hội chủ nghĩa cũng không!.. Có phải giáo sư muốn đưa tôi vào mê hồn trận không? Đừng hòng! Không được loanh quanh nữa! Vào đề thẳng đi.
Một là có phải các quý vị muốn xoá cái Đảng này không?
Hai là có phải các quý vị chỉ muốn đòi đa nguyên đa đảng không?
Sao không dám nói toẹt ra mà cứ vòng vo Tam quốc thế! Nói năng gì mà cứ rối như canh hẹ!..
Hội trường ồ lên, vừa cười, vừa nói ầm ỹ rồi đột nhiên tiếng vỗ tay lại nổi lên rầm rầm thành từng đợt, hình như là để giục giã các câu trả lời. 
Giáo sư Hoàng Quốc Tuý mời Yến nói.
– Thưa vị đại diện lãnh đạo, thưa lão đồng chí và cử toạ,.. – Yến đĩnh đạc: - …Chúng tôi muốn cứu chứ không muốn xoá sổ Đảng, vì lợi ích quốc gia đòi hỏi như vậy. Chẳng lẽ chuyện tay trái chém tay phải, chuyện nồi da xáo thịt của hôm qua không dạy chúng ta bài học gì cho hôm nay hay sao? Chủ nghĩa nào đi nữa thì nhân dân ta đến hôm nay vẫn là người phải tiếp tục trả giá cho tất cả, đất nước còn long đong không biết đến bao giờ! Chẳng lẽ người chiến thắng cứ muốn hưởng thụ mãi cái vinh quang bằng máu do tay trái chém tay phải viết lên hay sao?
(Hội trường rồ lên rung chuyển.)
Trong đối thoại này, tôi đã trình bày với các quý vị: Trên chặng đường 70 năm qua, chặng đường 40 năm qua, đất nước đã có được bài học đẫm máu thứ nhất là hiểu biết không cặn kẽ cái thế giới chúng ta đang sống. Đất nước có được bài học đẫm máu thứ hai là sự giác ngộ chưa thấu đáo đến cùng về quyền lợi tối cao của quốc gia.
Kính thưa vị đại diện lãnh đạo, bây giờ tôi xin nói rành rọt:
Chúng tôi không muốn xoá sổ Đảng. Xin nhắc lại, chúng tôi không muốn xoá sổ Đảng theo nghĩa “cách mạng”, cũng không muốn xoá sổ Đảng “hiểu theo nghĩa vật thể” (physical)… - … Yến gần như dằn từng chữ - …vì chúng tôi đã rút ra được bài học thứ ba. Bài học này ít đẫm máu hơn, nhưng rất nhiều mồ hôi và nước mắt, đó là bài học của phát triển.
Thưa các quý vị, xưa nay trên thế gian này cách mạng và bạo loạn hầu như luôn luôn có một điểm giống nhau, đó là chỉ phá vỡ được hiện trạng. Còn để xây dựng nên được một cái gì tốt đẹp mới, thì đấy phải là nhiệm vụ của phát triển.
Giả thử vì những cảm xúc xúc động, đến mức căm phẫn xoá nhoà hết mọi lý trí, muốn xoá bỏ dứt khoát cái đảng đang tồn tại của chúng ta bằng bất kỳ giá nào – kể cả bằng bạo lực, chuyện này hiển nhiên là không tưởng, nhưng cứ giả thử nếu xảy ra, sẽ vô cùng đẫm máu. Cái xảy ra tiếp theo đổ vỡ này sẽ là sự hỗn loạn triền miên… Không thể khác được. Không ai có thể nói trước được cái gì sẽ đến sau cơn bể dâu này!..
Ngày nay, xin hãy nhìn ra thế giới bên ngoài, chưa đầy dăm năm sau các cuộc cách mạng mang tên các mùa hoa ở Bắc Phi, bây giờ là bầu không khí khét lẹt khói súng của phe phái và nội chiến. Chúng ta có mong muốn điều này cho đất nước mình không? Xin cho phép tôi nhắc lại: Ukraina đang là bài học nhãn tiền cho cả Việt Nam hôm nay, mặc dù Việt Nam đã tự mình có quá nhiều bài học như thế trên chặng đường 70 năm, chặng đường 40 năm. Macedonia đang manh nha là một “Ukraina mới”. Lybie đang thực sự có nội chiến… Tất cả vẫn do các nguyên nhân kinh điển: tham nhũng, lạm dụng quyền lực, sự lũng đoạn của bên ngoài!
Xin nói thẳng thắn, ở nước ta, là đảng viên, nhưng chúng tôi vẫn phải nói rằng cái đảng tha hoá và tham nhũng như hiện nay đất nước đang có không còn lý do chính đáng để tồn tại. Tha hoá và tham nhũng hoành hành đến mức muốn bắt công an và quân đội phải trung thành với nó trước cả tổ quốc. Vì lẽ này, chúng tôi thấy ngay từ bây giờ phải tìm mọi cách chặn đứng nguy cơ một ngày nào đó, cái đảng tha hoá và tham nhũng này sẽ có thể gây ra một Thiên An Môn trên đất nước ta. Phải cảnh báo trong toàn Đảng và trong cả nước nguy cơ này! Để nước đến chân mới nhảy thì quá muộn!
Xin lưu ý các quý vị: Quảng trường Ba Đình là đất của Tuyên Ngôn Độc Lập và là nơi khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Vì lẽ này, một Thiên An Môn trên Quảng trường Ba Đình nếu xảy ra, không hẳn và chắc chắn không thể có kết cục như một Thiên An Môn ở Bắc Kinh, nhưng biển máu sẽ khó lòng tránh khỏi, ngoại bang sẽ tha hồ đục nước béo cò.
Bảo vệ lời thề vì nước của các đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ngã xuống cho Tổ quốc thuộc mọi thế hệ, của các đảng viên chân chính hôm nay còn sống, quyết không phản bội những hy sinh khôn kể siết của nhân dân dành cho Đảng, chúng tôi muốn toàn thể các đảng viên chân chính cùng với nhân dân cả nước đứng lên xoá bỏ cái đảng tha hoá và tham nhũng hôm nay, bằng con đường cải cách triệt để nó trở thành đảng của dân tộc, trong hoà bình, trong hoà hợp dân tộc, trong dân chủ.
Xoá bỏ cái đảng của tha hoá và tham nhũng, tôi nói như thế đã đủ rõ chưa ạ?
Đương nhiên, xin được phép cảnh báo, nếu để cho tha hoá hiện nay trói tay Đảng của chúng ta, dứt khoát cự tuyệt cải cách chính trị, sớm muộn và chắc chắn sẽ dẫn đến sụp đổ chế độ ở nước ta. Để xảy ra kịch bản này, chắc chắn Đảng cũng sẽ tiêu vong trong nội chiến đẫm máu, đất nước có thể bị ném trở lại vạch xuất phát trước đây 40 năm hoặc xa hơn nữa.
Tôi xin nói rõ thêm thế này:
○ Nếu Đảng hôm nay để tha hoá trói tay và cự tuyệt cải cách chính trị, là có tội với đất nước.
○ Nếu vì sự cự tuyệt này dẫn tới đổ vỡ và đổ máu, Đảng hôm nay cũng có tội đối với đất nước.
○ Nếu Đảng hôm nay chủ trương cải cách chính trị, nhưng thực hiện thất bại, cũng phải mang trọng tội với đất nước.
Vì cả ba trường hợp này đều mang lại cho đất nước những tổn thất khủng khiếp.
Đảng Cộng Sản Việt Nam là người độc nhất nắm quyền toàn diện, triệt để và tuyệt đối, cho nên Đảng Cộng Sản Việt Nam là người duy nhất phải chịu trách nhiệm toàn diện, triệt để và tuyệt đối về tổn thất khủng khiếp này của đất nước nếu xảy ra! Không thể đổ lỗi cho bất kỳ ai và cái gì khác! Rất mong toàn Đảng nhìn nhận vấn đề như vậy để quyết tâm cải cách chính trị.
Chúng tôi xin cảnh báo, xu thế tha hoá làm tê liệt Đảng đang ngày một trầm trọng thêm, dẫn chứng là cách chuẩn bị Đại hội Đảng lần này mất dân chủ nghiêm trọng hơn mọi Đại hội trước, nội dung chính trị cũng ngày càng bất cập hơn so với những đòi hỏi của đất nước. Sự tha hoá của Đảng đang di căn nghiêm trọng vào toàn bộ hệ thống chính trị của đất nước. Xu thế này cần phải được chặn đứng và khắc phục bằng cải cách chính trị. Ở nước ta hầu như chắc chắn không có khả năng chế độ và Đảng có thể đổ vỡ trong hoà bình như ở các nước Liên Xô Đông Âu đâu, mong các quý vị ngẫm nghĩ để quyết tâm cải cách chính trị.
Nhìn lại nước ta 70 năm qua, đặc biệt là trong 40 năm qua, Đảng và Nhà nước lấy các biện pháp cách mạng và chuyên chính thay thế cho quá trình phát triển và các giải pháp của phát triển để giải quyết các vấn đề của đất nước trong bất kỳ lĩnh vực nào, nên đã vấp phải không ít thất bại nghiêm trọng.
Chính vì không làm tốt được các nhiệm vụ của phát triển, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển con người, trong xây dựng thể chế kinh tế và thể chế chính trị, trong phát triển văn hoá và giáo dục, xây dựng xã hội dân sự.., nên 40 năm qua là một giai đoạn phát triển thất bại, đất nước hôm nay đang phải trả giá.
Kết luận là: muốn thực hiện tốt các giải pháp của phát triển, chỉ có một con đường là phải tiến hành cải cách chính trị và bắt đầu từ cải cách chính trị, trong đó khởi sự từ cải cách Đảng. Mà như thế trên thực tế không phải là xoá đảng, mà là cứu Đảng khỏi bàn tay đao phủ của tha hoá, cải tạo cái đảng duy nhất đang nắm vận mệnh đất nước trong tay thành đảng của dân tộc, ngăn chặn bằng được nguy cơ Đảng tha hoá tiếp không sao cứu vãn được, để cuối cùng sẽ chỉ còn lại là một lực lượng chính trị khủng khiếp đối kháng với dân tộc.
Xin thưa, trả lời của chúng tôi về câu hỏi có muốn xoá Đảng hay không như vậy đã rõ chưa ạ?
Hội trường vỗ tay thay cho câu trả lời. Yến nói tiếp:
– Tôi xin trả lời câu hỏi thứ hai: Có phải chúng tôi đòi đa nguyên đa đảng không?
Xin thưa, chúng tôi yêu cầu nhiều thứ cao hơn đa nguyên đa đảng ạ. Cao hơn rất nhiều! Quan trọng hơn rất nhiều!
Giáo sư Hoàng Quốc Tuý đã nói lên rất rõ 3 (ba) yêu cầu bức thiết của cải cách chính trị: phải cải tạo Đảng trở thành đảng của dân tộc, phải xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ trong đó quyền lực nhà nước là tối cao và thuộc về nhân dân, phải xây dựng được một Chính phủ với bộ máy chính quyền bảo đảm những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội tốt nhất cho tiến hành thành công cải cách chính trị và có năng lực mở đường cho đất nước ta phấn đấu trở thành nước phát triển.
Mặc dù phải xây dựng Hiến pháp mới, song chúng tôi đòi phải thực hiện ngay những quyền công dân và mọi quyền con người đã ghi được trong Hiến pháp 2013.
Nhằm phát huy trí tuệ và quyền năng của công dân, chúng tôi đòi phải thực hiện ngay quyền tự do ngôn luận, quyền biểu tình, quyền lập hội. Đặc biệt là phải sớm có luật trưng cầu dân ý để nhân dân có tiếng nói quyết định về những vấn đề đại sự của quốc gia.
Về vấn đề đa nguyên, đa đảng, tôi xin phép nêu lên suy nghĩ thế này: Đây là đòi hỏi tất yếu của một thể chế chính trị dân chủ, không thể khác được. Là nước đi sau, nước ta có lợi thế từ kinh nghiệm của cả thế giới và của chính mình, làm sao xây dựng nên được một thể chế chính trị đa nguyên và đa đảng của trí tuệ, của dân chủ và của phát triển, loại bỏ ngay từ đầu mọi nguy cơ của đa nguyên đa đảng của hỗn loạn.
Ngày nay tiến bộ của khoa học, sự phát triển của trí tuệ, đặc biệt là sự phát triển của giáo dục, hoàn toàn cho phép nước ta tận dụng lợi thế nước đi sau để xây dựng nên một thể chế chính trị đa nguyên đa đảng của phát triển như thế. Về tầm nhìn dài hạn, chế độ chính trị đa nguyên đa đảng còn phải thường xuyên được đổi mới, củng cố và phát triển trên nền tảng thường xuyên phát huy yếu tố con người trong quá trình phát triển kinh tế - chính trị - văn hoá xã hội của đất nước. Sự thật, đây cũng là quá trình xây dựng và vận hành thể chế chính trị đa nguyên đa đảng của các nước phát triển.
Là nước đi sau, nước ta không cần “copy” hay nhập khẩu thứ đa nguyên đa đảng cứ vài ba năm lại đảo chính một lần làm hỗn loạn đất nước, hoặc thứ đa nguyên đa đảng luôn luôn nói chuyện với nhau bằng bạo lực và bạo loạn.
Nhất thiết phải tiến tới một thể chế chính trị đa nguyên đa đảng của trí tuệ, dân chủ và phát triển như một số nước phát triển đã xây dựng được. Song ngay bây giờ còn quan trọng hơn thế, là nhất thiết phải xây dựng bằng được những điều kiện không thể thiếu cho việc thiết lập một thể chế chính trị đa nguyên đa đảng như thế.
Hiến pháp mới, Toà án Hiến pháp và sự thực thi nghiêm minh luật pháp phải trở thành nền tảng và công cụ cho việc xây dựng và bảo đảm sự vận hành của một hệ thống chính trị đa nguyên đa đảng như thế. Đây là những việc phải làm ngay trong nhiệm kỳ của Đại hội Đảng khoá tới, mặc dù lúc này chưa nên đặt ra vấn đề lập các đảng phái mới, chúng tôi nghĩ như vậy.
Để đẩy nhanh tiến trình hình thành và ra đời thể chế chính trị đa nguyên đa đảng trong phạm vi thời gian của nhiệm kỳ khoá tới hoặc muộn lắm là kéo dài thêm một hai năm nữa, chúng tôi kiến nghị Đại hội khoá tới này phải ghi vào chương trình nghị sự và giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá tới thực hiện: Đó là nhiệm vụ xây dựng xong trong nhiệm kỳ tới và trình Quốc hội thông qua Luật về đảng phái chính trị của nước ta. Cần thì thực hiện trưng cầu dân ý để bảo đảm chất lượng của Luật. Đảng của chúng ta hôm nay sẽ là người đầu tiên chịu sự ràng buộc và chịu tuân thủ Luật này, sau đó các đảng mới ra đời cứ thế mà làm theo.
Vị đại diện lãnh đạo chồm hẳn lên, tay chỉ thẳng vào Yến:
– Xin lỗi bà Yến. Bà nói gì? Luật về đảng phái chính trị cho Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay?
Yến:
– Thưa vâng.
– Đảng cũng phải chịu sự phán xét của Luật này? – vị đại diện lãnh đạo.
– Thưa vâng. Đảng phải tuân thủ Hiến pháp, chịu sự phán xét của Toà án Hiến pháp và và chịu mọi ràng buộc của Luật về các đảng phái chính trị, như bất kể một đảng chính trị khác nào đó sẽ ra đời trong tương lai. Nhà nước pháp quyền dân chủ bắt buộc đảng phái chính trị…
Yến chưa kịp nói hết câu, vị đại diện lãnh đạo bỗng dưng nấc liên tục, mặt tím tái dần, rồi ngã phủ phục xuống bàn bất tỉnh. Người bác sĩ riêng ngồi phía sau nhảy vọt lên, vội lấy ống xịt thuốc chống hen… Xong các động tác cần thiết cấp cứu tại chỗ, người bác sĩ riêng lệnh cho sĩ quan bảo vệ vị đại diện lãnh đạo gọi xe cấp cứu…
Hội trường im phắc.
Chưa đầy mươi phút sau, xe cấp cứu đưa vị đại diện lãnh đạo đi bệnh viện… Hội trường rì rào một lúc rồi trở lại trạng thái bình thường.
Vị lão thành cách mạng dõng dạc:
– Chúng ta chúc bệnh nhân mau bình phục. Đối thoại của chúng ta tiếp tục.
Tôi xin phép vừa hỏi, vừa nói lên tâm tư của mình.
Xin hỏi thật lòng bà Yến và giáo sư Tuý, ý tưởng cải cách và kiến nghị cách tiến hành Đại hội của các vị như thế có ảo tưởng không? Đến nay mọi chuyện chuẩn bị Đại hội đã an bài rồi, chỉ còn dang dở mỗi vấn đề nhân sự thôi. Đại hội nào chẳng thế. Ván đã đóng thuyền đến mức này rồi mà các vị vẫn còn mong ước hão huyền như vậy sao? Đã bốn mươi năm rồi mà không thể làm nổi cải cách chính trị, bây giờ làm được hay sao? Cho đến bây giờ, cứ ai đụng vào cải cách chính trị là bay luôn! Làm đến ông trời cũng bay!.. Chẳng lẽ các đồng chí không biết những chuyện này à?..
Tôi thừa nhận sáng kiến Đại hội trực tiếp bầu Tổng bí thư kiêm Chủ tịch nước là mới, táo bạo lắm, chí lý lắm. Nhưng chuyện này chưa hề có tiền lệ, nên càng ảo tưởng trăm lần! Có bói cũng không ra người như thế đâu để mà bầu trực tiếp. Mà ngay cả thực hiện được bầu trực tiếp, chắc gì hay lấy gì bảo đảm người được bầu sẽ làm đúng sứ mệnh được giao hả các đồng chí? Không phải bây giờ, mà từ lâu rồi, nhất là từ Hội nghị Trung ương 4, vấn đề nhân sự là vấn đề số một của Đại hội tới, đến hôm nay vẫn chưa thể nói là đã có câu trả lời yên tâm. Tôi lo lắm.
Yến:
– Thưa lão đồng chí, thưa cử toạ. Chúng tôi cũng lo lắng như lão đồng chí. Thú thật, chúng tôi cũng tự biết kiến nghị của chúng tôi là ảo tưởng, còn tệ hơn cả ảo tưởng.
Kính thưa lão đồng chí và cử toạ, chúng tôi không một chút mơ hồ về ảo tưởng của mình, nhưng chúng tôi quyết mạo hiểm! Tìm con đường sống cho đất nước, đòi hỏi phải mạo hiểm!
Xin cho phép tôi giãi bày từng điểm về suy nghĩ của lão đồng chí.
Trước hết, nếu chấp nhận mạo hiểm, thì không thể có chuyện ván đã đóng thuyền được ạ. Hiển nhiên là, đến nay hoàn toàn chưa có thảo luận dân chủ, thẳng thắn và trung thực trong Đảng về hiện tình đất nước và cục diện thế giới hôm nay. Không làm việc này làm sao tiến hành Đại hội một cách nghiêm túc được ạ? Nên xin toàn Đảng phải có tiếng nói của mình: Hoàn toàn chưa có và không thể cho phép có chuyện ván đã đóng thuyền, phải trở về với sự thật trước đã, trước khi Đại hội làm tiếp các việc khác.
Thưa lão đồng chí và cử toạ, hiện nay trong hàng ngũ những đảng viên tâm huyết với đất nước, đặc biệt trong giới lão thành, trong giới nhân sĩ trí thức, trong những người quan tâm khác… đều có chung lo lắng: Chưa thấy gương mặt nào có thể gửi gắm vận mệnh của đất nước, của Đảng, mà Đại hội đến sát nút rồi!.. …
Đúng là bế tắc thật, tìm người có sẵn như vậy là hoàn toàn không thể ạ.
Nhưng chẳng lẽ đánh bó tay chịu chết hay sao ạ?
Cho nên chỉ còn con đường phải xem lại cách tìm và cách chọn người vậy, chứ không thể tìm người có sẵn...
Chúng tôi đã tranh luận với nhau rất nhiều về con đường tìm và chọn này rồi ạ. Chúng tôi đi tới kết luận: Cứ thảo luận dân chủ và trung thực về tình hình và nhiệm vụ, về lối ra, giải pháp, chắc chắn sẽ bật ra được việc tìm thế nào và chọn thế nào, rồi Đại hội sẽ làm lộ diện được các ứng viên cho việc bầu ai.
Xin lưu ý cho, trong trình bày của mình, giáo sư Tuý đã nhấn mạnh một điểm rất quan trọng: Thảo luận dân chủ và trung thực về đất nước và về Đảng cả giai đoạn 40 năm qua là để tìm lối ra về đường lối, chính sách, chiến lược và các bước đi cho hôm nay, tuyệt đối không được lạm dụng vào chuyện xử lý cá nhân. Tiến hành Đại hội như thế, sẽ bật ra được cách tìm và chọn nhân sự. Không thể tìm và chọn theo cách có sẵn, càng không thểtìm và chọn theo mâm bát được Bộ Chính trị hay nhân danh Bộ Chính trị khoá này bày ra được ạ.
Đương nhiên theo quy định, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị khoá hiện tại có nhiệm vụ phải chuẩn bị tốt nhất cho Đại hội tới mọi việc. Song mọi việc chuẩn bị này dù hoàn hảo đến mức nào đi nữa cũng không thể thay thế trách nhiệm và chức năng của Đại hội.
Hơn thế nữa, Đại hội trực tiếp tìm và chọn bằng dũng cảm đối mặt với sự thật, bám sát cuộc sống. Tìm và chọn như thế chẳng lẽ không đáng tin cậy hơn, không tốt hơn chọn mâm bát đã bày sẵn hay sao?
Đừng, xin dứt khoát không được phó mặc quyền và trách nhiệm cao nhất của Đại hội cho mâm bát đã bày sẵn như thế! Đại hội chọn mâm bát đã bày sẵn, sẽ là: chính Đại hội vi phạm Điều lệ Đảng và sẽ phạm trọng tội với đất nước, với Đảng!
Cử toạ vỗ tay rầm rầm hưởng ứng. Yến phải chờ một lát:
– Thưa lão đồng chí và cử toạ, tôi xin phép nói lên suy nghĩ của mình về vấn đề đạo đức liên quan đến việc tìm và chọn của Đại hội tới như vừa trình bày.
Nếu đưa ra những đòi hỏi về tiêu chuẩn phẩm hạnh, dù là lý tưởng hay cao siêu đến thế nào đi nữa, song trong thâm tâm chỉ nhằm kiềm chế, loại nhau, trói buộc nhau, đặt xuống dưới việc lớn của Đảng và của đất nước, làm như thế là không có đạo đức.
Nếu lấy lý trí vượt qua mọi riêng tư, dựa trên dũng cảm đối mặt với tình hình và nhiệm vụ đang đặt ra cho đất nước, quyết tìm ra giải pháp khả thi và tối ưu cho Đảng, cho đất nước, xin nhấn mạnh là giải pháp khả thi và tối ưu trong thực tế của Đảng và của đất nước, chứ không phải là những điều trừu tượng hay hão huyền nào, làm như thế là có đạo đức. Làm như thế sẽ tìm được và chọn được.
Trong Đảng chẳng có sẵn siêu nhân nào cho Đại hội lựa chọn đâu ạ. Chắc Đảng cũng chẳng muốn đem một siêu nhân nào ngoài đời vào, nếu có. Cho nên, nhìn rõ được sự thật và những vấn đề phải giải quyết, trong quá trình thảo luận quyết sách, sẽ thấy được ai trong những nhân vật hiện hữu nắm bắt được nhiệm vụ đại hội đề ra và có những tố chất thực hiện. Quá trình này sẽ làm bật ra những gương mặt cho tìm và chọn, đồng thời cũng dẫn tới cáchtìm và chọn tối ưu trong hoàn cảnh cho phép.
Tôi cũng xin lưu ý, sông có khúc, người có lúc. Khi Thuý Kiều và Từ Hải đến được với nhau, thân phận phù du của Thuý Kiều trở thành quan toà, còn Từ Hải trở thành người thực thi công lý! Cái thực tế Thuý Kiều và Từ Hải đến được với nhau tạo ra sự thay đổi như thế. Con người là như thế! Và như thế mới là biện chứng!
Tại Đại hội tới này, cái đến được với nhau như thế, chính là Đảng phải tự lột xác để đến với sự thật, trở về với dân tộc!
Tiếng vỗ tay rầm rầm.
Thưa lão đồng chí và cử toạ,.. – Yến nói tiếp: Lịch sử ra đời của Đảng ta vốn dĩ là vì dân tộc. Quá trình chiến đấu ra sống vào chết của nó là vì dân tộc và được nhân dân nuôi nấng, bảo vệ. Một đảng như thế ngày nay chẳng lẽ không có khả năng trở về với dân tộc?
Lão đồng chí lo lắng, giả thử người được Đại hội chọn không làm nổi hoặc thậm chí có thể phản lại sứ mệnh được trao thì sao? Hoặc thậm chí sự lựa chọn của Đại hội sẽ bị Trung Quốc quyết phá thì sao? Thưa vâng, đấy là những lo lắng chính đáng và không phải không có khả năng trở thành hiện thực. Lo lắng như thế, không phải là bi quan. Thật ra, nếu không lo lắng như thế sẽ là tê liệt nhạy bén chính trị, sẽ là mù quáng! Thiết nghĩ toàn Đảng và cả nước phải luôn luôn thức với lo lắng này, để quyết sớm xây dựng bằng được cho đất nước ta cái dĩ bất biến mà giáo sư Tuý đã trình bày.
Cái bảo đảm bất khả kháng cho đất nước trước bất kỳ nguy cơ hay thách thức nào là: Đảng quyết trở thành đảng của dân tộc để đời đời đi với dân tộc, nhân dân ta quyết xây dựng bằng được cho tổ quốc mình một nhà nước pháp quyền dân chủ để thực hiện bằng được quyền của mình làm chủ đất nước.
Một khi Đảng hôm nay quyết trở thành đảng của dân tộc, trở về với dân tộc, một khi Đảng của dân tộc nguyện đời đời đi với dân tộc, một khi nhân dân ta quyết đứng lên thực hiện quyền của mình làm chủ đất nước trong nhà nước pháp quyền, chắc chắn sẽ đủ sức kiểm soát được mọi tình huống bất trắc.
Xin thưa lão đồng chí và cử toạ, chúng tôi chia sẻ hoàn toàn nỗi lo của lão đồng chí. Chúng tôi thừa nhận thực tế là sự tha hoá 70 năm, 40 năm của Đảng thâm căn cố đế đến tận cấp cơ sở thấp nhất trong toàn bộ hệ thống chính trị cả nước, không dễ gì khắc phục được. Nhiều thói hư tật xấu đã cáu kết lại thành những nếp văn hoá tiêu cực, rất khó tẩy rửa. Nhiều tập quán trong Đảng đã thành các luật còn mạnh hơn luật… Đây là sự thật. Thậm chí không ít ý kiến cho rằng Đảng này và hệ thống chính trị này không thể cải tạo được nữa, phải xoá bỏ nó. Suy nghĩ như vậy không phải là phi lý. Trên thực tế đã ba bốn lần nó xứng đáng được xoá bỏ rồi! Đến nay trên thế giới cũng chưa có đảng cộng sản nào ở các nước Liên Xô Đông Âu cũ tự thay đổi được chính mình, mà chỉ có hiện tượng các đảng này tan rã hay bị lật đổ. Đây cũng là sự thật. Ngay trong thế giới đương đại, không hiếm những cuộc cải cách đã thành công nhưng cuối cùng lại bị phản bội… Ukraina lúc đầu là như thế, sự phản bội đã đẩy đất nước đến bờ vực thẳm hôm nay… Rồi đến các võ bẩn của sự can thiệp từ bên ngoài…
Xin thưa các quý vị, còn một sự thật nữa, đó là chúng ta cũng có ít nhất hai cách lựa chọn thái độ ứng xử của mình đối với sự thật:
○ Hoặc là đầu hàng nó, cam chịu chờ chết.
○ Hoặc là quyết hiểu tường tận sự thật, để hiểu rõ những khó khăn phải vượt qua, để đi tới những quyết định chính xác, khả thi và tối ưu, để đủ lý trí tiến hành tuần tự từng bước theo hướng của phát triển, tất cả cho xây dựng cái dĩ bất biến làm nền tảng, tất cả cho quyết tâm tìm đường sống.
Thiết nghĩ nên thảo luận dân chủ, công khai trên các diễn đàn học thuật trong cả nước: Đất nước ta trong thế giới hôm nay và bên cạnh một Trung Quốc như vậy, nhân dân ta – đặc biệt là toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam – nên lựa chọn cách ứng xử nào đối với sự thật? Cuộc sống trong thế giới hôm nay cho phép cái gì và không cho phép cái gì?.. Lợi thế nước đi sau cho phép nước ta những lựa chọn tối ưu nào?..
Chúng tôi đã trăn trở hàng chục năm nay, để hôm nay được nói lên trước toàn thể các quý vị và trước cả nước mong muốn cháy bỏng của chúng tôi: Thế giới đã sang trang, tình hình đất nước đã sang trang, khát vọng của nhân dân đổi đời đất nước là sức mạnh, thời và thế đang đứng về phía đất nước, vì vậy Đại hội Đảng sắp tới này phải là Đại hội của sự thật, hoà hợp dân tộc và cải cách!
Chúng tôi mong ước cả nước và toàn Đảng chia sẻ quyết tâm mạo hiểm của chúng tôi!..
...
Đối thoại kết thúc, vị lão thành cách mạng đã chia tay mọi người từ lâu, nhưng cử toạ chẳng ai muốn ra về.
Mọi người tự phân ra thành các cuộc toạ đàm tuỳ nghi, từng đám từng đám… Ngay trong hội trường, trên sân cỏ, trong căng tin, chung quanh các ki-ốt bia, trong các quán cà-phê của khu vực hội trường… Cuộc sống do sự thật dấy lên có sức sôi động khác thường… Chỗ nào cũng rất nhiều lời thán phục và đồng tình với cải cách, lối ra của đất nước... Song cũng không thiếu những ý kiến đầy lo lắng, hoài nghi khả năng hiện thực của cải cách…
Yến và giáo sư Tuý cũng phải nán lại với họ một hai tiếng nữa rồi mới dứt áo ra về được.
Trời đã tối.
Trong xe từ Hội trường câu lạc bộ Thống Nhất trên đường về nhà, Yến tới tấp nhận được điện thoại của Vũ, Bảo Vân, Khái, Lan… gọi từ trong Thành phố ra: Phạm Trung Trung Nam đã bị công an đánh chết trong lúc tạm giam! Thạch vẫn chưa được thả.
Cả bầu trời sập xuống.
Yến run bắn người, vì trong đầu sục sôi: …Polpot đã giết chồng ta! Hải tặc giết em ta! Hôm nay công an cộng sản giết con ta! Trời ơi, sao chúng mày ác thế!..
Ngay đêm hôm đó Yến bay vào Thành phố…
Khoảng vài giờ đồng hồ sau cái tin đầu tiên trên mạng tinhthuong.com loan báo sự việc thầy giáo Phạm Trung Trung Nam bị công an đánh chết trong lúc tạm giam, học sinh tại nhiều trường đại học, trường phổ thông trong Thành phố tự động làm lễ truy điệu, post lên mạng những hình ảnh và tiếng nói quyết liệt..
Đến buổi trưa, rồi đến chiều, các lễ truy điệu tự động như thế lan dần ra các tỉnh và thành phố khác.
Sang ngày hôm sau, các cơn bão mạng dấy lên các cuộc bãi khoá trong nhiều trường khắp cả nước. Đất nước xôn xao.
Ngay trong ngày, công nhân các xí nghiệp của tập đoàn PH cũng chủ động làm lễ truy điệu Phạm Trung Trung Nam. Nhiều xí nghiệp cả ba miền Bắc, Trung Nam làm theo.
Sang ngày thứ ba, báo Tuổi trẻ hôm nay và báo Thanh niên của dân tộc, hai tờ báo lớn nhất quốc gia phá rào, ra số đặc biệt kèm theo phụ trương, dấy lên cơn đại hồng thuỷ. Nhiều báo chí chính thống khác tự tháo gông làm theo. Ngày càng nhiều báo chí làm theo…
Liên tiếp tuần này sang tuần khác các con lũ quét của sự thật phá tan tành nhiều thành trì của dối trá, quật lên mặt đất trỏng trơ các xác thối của tội ác và tham nhũng…
Đất nước chuyển mình trong lũ…
Hết
Hà Nội, Võng Thị, những ngày Tháng Tư năm 2015.

Nguyễn Trung


Cuộc sống của tiểu thuyết. Toàn bộ tên các nhân vật, địa danh, sự kiện, sự việc, thời gian, không gian và mọi thứ khác… trong tiểu thuyết đều thuộc về đời sống trong tiểu thuyết và chỉ có trong tiểu thuyết mà thôi; mọi sự trùng lặp với đời sống thực ngoài đời nếu xảy ra, đều là và chỉ là ngẫu nhiên.
Nguyễn Trung
1 Ước đoán theo các số liệu thống kê thu thập được, tổng các nguồn lực đưa vào 30 năm (1986 – 2015) công nghiệp hóa ở nước ta ước khoảng 350 - 400 tỷ USD, hoặc có thể hơn nhiều. Những nguồn lực này bao gồm: đầu tư trong nước, FDI, kiều hối, ODA và các loại hình viện trợ khác nhau.
2 Chỉ số chứng khoán lúc cao điểm nhất ở TPHCM là khoảng 1300 điểm, nhiều năm gần đây đến hôm nay chỉ còn >600 điểm, ở Hà Nội các chỉ số này là khoảng 300 điểm, nhiều năm gần đây đến hiện nay là >60 điểm.
3 “Thỏa thuận nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” năm 1993, xử lý và giải quyết vấn đề trên biển tuân theo những nguyên tắc dưới đây:    
1. Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”, kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực. 
2. Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên Biển. 
3. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC).
Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Quốc, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.
4. Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của Thỏa thuận này. 
5. Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn. 
6. Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên nhất trí thiết lập cơ chế đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển”./. (TTXVN/Vietnam+)
http://nghiencuubiendong.vn/tin-ncbd/2121-tha-thun-vit-trung-v-nhng-nguyen-tc-c-bn-ch-o-gii-quyt-vn-
4 Vùng biển tranh chấp với Nhật, liên quan đến nhóm đảo Senkacư của Nhật.
5 Code of Conduct – có tình ràng buộc cao và nhằm thay thế DOC (The Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea) năm 2004.
6 Tìm xem: Nguyễn Trung, tiểu thuyết Dòng đời, sách đã dẫn.
7 Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, tiểu thuyết Dòng đờixuất bản năm 2006, quyển một, tập 2, chương “Nước đứng”, tr. 498 – 499, nhân vật đại tá Phạm Trung Nghĩa đã phân tích trong lòng cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược còn chứa đựng 5 – 6 cuộc chiến tranh khác mang tính chất chiến tranh ủy thác, và đặc biệt nghiêm trọng là có cuộc nội chiến Bắc – Nam. Yến tán thành nhận định của ông Nghĩa, đem chia sẻ với nhiều người và được chấp nhận, song ai cũng dặn Yến: Nói với nhau thì được, nói công khai sẽ bị quy kết là phản động đấy, rất nguy hiểm…
8 Tìm xem “Appeasement Policy” trên Google – Wikipedia.
9 Gọi là chính phủ Vichy (1940 – 1944), vì đặt thủ đô Pháp ở vùng này.
10 Vùng lãnh thổ của Tiệp Khắc giáp ranh với Áo, 1938 bị sáp nhập vào nước Đức Quốc xã do chính sách xoa dịu của thủ tướng Anh Neville Chamberlain.
nguồn: http://www.diendan.org/viet-nam/hien-trang-dat-nuoc-nhung-van-de-dat-ra-cho-dai-hoi-xii

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Còn chi nữa để chơi?

Trò chơi của trẻ em vùng cao ven quốc lộ mới Hà Nội - Lào Cai
Bọn trẻ cả trai lẫn gái đều cởi trần đầm mình trong rãnh thoát nước ven quốc lộ 6 đoạn qua huyện Vân Hồ (Sơn La), trượt từ trên cao xuống trong tiếng cười rộn rã. Quốc lộ 6 mỗi ngày có hàng nghìn phương tiện xuôi ngược Hà Nội lên Sơn La, Điện Biên... Dọc đoạn qua huyện Vân Hồ (Sơn La) không có vỉa hè mà chỉ có rãnh thoát nước. Sau cơn mưa, trẻ con lại ùa ra chơi trò trượt trong những rãnh thoát nước phủ rêu.
Sau mỗi cơn mưa, nước từ trên cao đổ xuống rãnh thoát nước này để chảy về xuôi. Các em dùng gạch, đá để chặn dòng nước chảy tạo thành máng trượt tự nhiên. Một cháu bé hào hứng cho biết: "Cảm giác trượt rất thích, phải căn đúng điểm dừng để không va chạm vào phần đá chặn nhé".


Lòng chiếc máng trượt tự nhiên này mọc nhiều rong rêu trở thành lớp thảm trượt dễ dàng.
Trò chơi trượt nước đơn giản nhưng có nước mát giữa ngày nóng nên trẻ chơi đi chơi lại không chán.

Chạy ngược về vạch xuất phát để bắt đầu một cuộc đua mới.
Tuyến đường trượt dài khoảng 10 m là sân chơi của trẻ con trong vùng.

Cậu bé này lấy đà trượt đứng như trượt patin.

Trẻ không quan tâm chuyện nước sạch hay bẩn, miễn là được thỏa thích vui đùa trong nước với bạn bè.

Các loại xe vẫn nườm nượm đi lại trên đường, bên cạnh sân chơi của các em nhỏ vùng cao vốn không có những sân chơi đích thực như ở các nơi khác.

https://www.youtube.com/watch?v=iMkwcR4L1gQ


Phần nhận xét hiển thị trên trang

sự ngộ nhận đáng tiếc

Truy tìm nguồn gốc đám ma… sexy
Nhạc lễ trong đám tang Nam Bộ là sinh hoạt văn hóa đúng đắn, tích cực, tăng tính trang nghiêm, long trọng cho nghi lễ mà không phải để mua vui. Và bản chất của lễ tang Nam Bộ hoàn toàn không có nghi thức đàn ca múa hát.
Người đồng tính “biểu diễn” ở một đám tang tại TP.HCM
(PLO) - Đám ma đàn hát thâu đêm, thuê ca sĩ, vũ công hát múa, có cả múa lửa, múa sexy… xuất hiện ngày càng nhiều. Có người lý giải đây là văn hóa Nam Bộ, khác với đám ma Miền Bắc buồn than khóc bi ai. 
Đây là sự ngộ nhận đáng tiếc, người Việt từ Bắc vào Nam thống nhất một nền văn hóa Á đông trong hầu hết những giá trị chuẩn mực. Nghi lễ tang ma, cưới gả cũng xuất phát từ cái nền chung. Dị biệt thì có, nhưng hoàn toàn không có “đám ma vui”.

Trên một diễn đàn, có người giải thích rằng đây là “nét văn hóa riêng” của Nam Bộ: “Lúc mình mới vào Sài Gòn năm 1998, thấy họ hát thâu đêm. Điều khác biệt rõ rệt nhất mà mình nhận thấy giữa đám tang hai miền là đám tang miền Nam không hề buồn chút nào.
Mình đã từng được nghe kể rồi, thế nhưng khi tận mắt chứng kiến vẫn không khỏi ngạc nhiên. Trong khi đó, đám tang miền Bắc thì buồn lắm, thê lương ai oán khủng khiếp”.


Ở đây có chuyện cần bàn là “đám ma vui” có phải là hiện tượng phổ biến, một đặc thù của văn hóa miền Nam hay không?

Người Việt nói chung trong nền tảng hỗn dung Tam Giáo tin tưởng con người có linh hồn, có luân hồi thế giới, có trời đất, có địa ngục niết bàn, nên nghi lễ tang ma cũng xoay quanh yếu tố này, thể hiện tấm lòng hiếu đạo của người còn sống với người mất, và mục tiêu làm sao cho người mất sớm siêu thoát vào cõi cực lạc. 

Nghĩa tử là nghĩa tận nên nghi tiết lễ nghĩa với người chết phải được thực hiện chu đáo. Cổ luật quy định việc tang ma không chỉ là nghi lễ mà còn là luật hình. Quy định về tang chế được Quốc Triều Hình Luật của Lê Thánh Tông và Hoàng Việt Luật Lệ của vua Gia Long quy định tương tự như nhau. 

Ai vi phạm quy chế này, cưới vợ gả chồng, vui chơi chè chén trong lúc cư tang sẽ bị phạt tù, lưu đày hoặc bị đánh bằng roi. Quy định này về sau bị mê tín hóa thành chuyện hên xui nên mới phát sinh lệ “đám cưới chạy tang”. 

Nghi tiết về ma chay cưới hỏi của người Việt được thực hiện theo sách Thọ Mai Gia Lễ. Người Nam Bộ thực hiện tang ma có một vài nghi tiết dị biệt như lễ đánh phá quàn trong lễ động quan, nhạc lễ trong đám tang, nhưng đều thống nhất theo tinh thần chung đám tang là trang nghiêm.

Lễ phá quàn được cho là nhằm nhắc lại lòng hiếu thảo của chàng Lía, một nông dân chống lại triều đình bị vây trên núi. Mẹ chết, biết quân triều đình mai phục, chàng Lía vẫn lẻn về nhà cướp quan tài của mẹ đem về căn cứ chôn giấu. 

Lễ phá quàn diễn ra ngay trước lúc động quan, tùy theo từng vùng, từng gia đình có thể làm quy mô như một hoạt cảnh có diễn xướng ca hát múa võ. Nội dung và giai điệu diễn xướng này đều phải theo quy ước, tuồng tích chàng Lía cướp quan tài của mẹ để báo hiếu.
Ngày nay lễ phá quàn đơn giản hơn, chỉ là một người biết võ cầm đuốc, đèn sáp, múa bài quyền tứ trụ trước đầu săng và chung quanh quan tài. Đơn giản hơn nữa là người trưởng nhóm đạo tỳ khiêng quan tài mang cặp nến to vái lạy trước quan tài và sau đó cùng đám đạo tỳ đi một vòng quan tài trước khi di quan. 

Ý nghĩa của lễ phá quàn có phần biến tướng về ý nghĩa là đánh bạt ma quỷ đeo bám để việc di quan được an toàn thuận lợi. Biến tướng hơn nữa là có vài trường hợp những người đồng tính đã lợi dụng lễ này để múa may uốn lượn kiếm tiền. 

Tuy nhiên những biến tướng này vẫn nằm trong khuôn khổ nghi thức động quan của đám tang, không phải là nội dung ý nghĩa của “đám tang vui”.

Người đồng tính “biểu diễn” ở một đám tang tại TP.HCM

Đặc điểm thứ hai của đám tang ở Nam Bộ là nhạc lễ. Với tên gọi của nó đã cho thấy không phải để mua vui, mà để tăng tính trang trọng cho tang lễ, khác với dàn nhạc vui chơi giải trí là đàn ca tài tử. 

Ngoài việc phục vụ cúng tế theo nghi lễ, vào lúc đêm khuya vắng người, theo yêu cầu của gia chủ hoặc những người dự tang, ban nhạc lễ cũng có thể hòa tấu những bài nhạc trong khuôn khổ nhạc cổ, nhạc lễ nhưng không có ca hát. Việc làm này có ý nghĩa làm không khí bớt cô quạnh vắng vẻ chứ không nhằm để vui.

Với những quy ước nghiêm nhặt như vậy, nhạc lễ trong đám tang Nam Bộ là sinh hoạt văn hóa đúng đắn, tích cực, tăng tính trang nghiêm, long trọng cho nghi lễ mà không phải để mua vui. Và bản chất của lễ tang Nam Bộ hoàn toàn không có nghi thức đàn ca múa hát. 

Gần đây, ở một số nơi có xảy ra biến tướng, ban nhạc lễ chơi cả tân nhạc trong những lúc nghỉ ngơi ngoài nghi lễ thậm chí có thể có những trường hợp múa hát nhạc trẻ, nhạc ngoại. 

Dùng nhạc cụ cổ truyền theo cung bậc ngũ âm chơi nhạc tây phương với giai điệu bát âm là sự pha trộn lố bịch, sự xuống cấp đáng báo động của những ban nhạc lễ, sự xuống cấp về thẩm mỹ văn hóa ứng xử của người nghe. Hiện tượng ca, múa thoát y, hoàn toàn là yếu tố ngoại lai chứ không phải là “văn hóa Nam Bộ” như một số bài viết và ý kiến trên các diễn đàn mạng./.

Anh Kiệt
http://baophapluat.vn/xa-hoi/truy-tim-nguon-goc-dam-ma-sexy-220822.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Những vần thơ thật đến đau lòng!

KHẮC ĂN KHẮC LỚN
Dám nào toan tính đâu anh
Khắc ăn, khắc lớn, khắc thành người thôi
Mười lăm tuổi khắc nên đôi
Trên lưng địu cả khoảng trời bình yên
Rừng thêm một đóa mộc miên
Là thêm rực rỡ cả miền sơn thôn
Phận hèn được cái tự tôn
Chẳng giành giật lấy phần khôn bao giờ
Sống như bị lộ thiên cơ
Dửng dưng với đói, tỉnh bơ với nghèo
Bữa ăn độn lẫn cheo leo
Giấc mơ vấp phải dốc đèo quanh co
Ở nơi trời đất bo bo
Hở ra là chỉ chực cho mất mùa
Đã đành không đấu mà thua
Quanh năm một kiểu lạnh lùa vào hông...
Thôi thì toan tính uổng công
Khắc ăn, khắc lớn, khắc... không có gì!

Nơi đỉnh trời hoa và cỏ, 06.06.2015
Nguyễn Đức Lợi

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2015

Trung Quốc và Tương lai Địa Chính trị của Châu Á


 
Giáo sư Mohan Malik cho rằng đây là thập kỷ của những sự chuyển giao quyền lực ở Châu Á, trong đó Trung Quốc đóng vai trò quan trọng quyết định cục diện ở khu vực.
Hội nghị Shangri-la gần đây ở Singapore đã chứng kiến những đối đáp có phần gay gắt giữa Trung Quốc và các bên tham dự khác. Việc Bắc Kinh triển khai giàn khoan cùng hơn 80 tàu bảo vệ ra Biển Đông, chỉ bốn ngày sau “chuyến thăm mang tính trấn an” của Tổng thống Mỹ Barack Obama tới các nước láng giềng Đông Á của Trung Quốc vào tháng 4 năm 2014, được xem là hành động khiêu khích có tính toán.
Tuy nhiên, động thái trên của Trung Quốc phản ánh đúng mô hình thúc đẩy yêu sách ở khu vực ngoại vi mà nước này đang áp dụng bằng hăm dọa, ép buộc, và đe dọa sử dụng vũ lực thông qua “các hoạt động bán quân sự chưa tới mức chiến tranh” (Paramilitary operations short of war - POSOW). Giàn khoan của Trung Quốc giống như một thông điệp chính trị thể hiện quyết tâm cũng như khả năng của nước này trong việc kiểm soát và khai thác Biển Đông đồng thời phủ nhận các bên yêu sách khác - và nó được gửi tới Washington cũng như Tokyo, Hà Nội, Manila, Jakarta, và New Delhi. Cùng với việc thăm dò dầu khí ở vùng biển tranh chấp, giàn khoan trị giá 1 tỷ USD này cũng đã khoan một lỗ lớn vào “chiến lược xoay trục” của Washington bởi nó ảnh hưởng tới uy tín của Washington với vai trò điểm tựa an ninh của khu vực hay người bảo vệ an ninh. Về cơ bản, đây giống như một sự mỉa mai cam kết an ninh của Mỹ đối với khu vực trong bối cảnh Trung Quốc sử dụng chiến thuật cưỡng ép nhằm thay đổi hiện trạng. Bắc Kinh cho rằng các láng giềng nhỏ bé và nước Mỹ sẽ không sử dụng vũ lực để ngăn cản việc Trung Quốc nỗ lực biến Biển Đông thành “ao nhà”. Trung Quốc hiện đang lặng lẽ, kiên nhẫn triển khai từng bước và cuối cùng tập hợp tất cả lại “khi điều kiện chín muồi.”
Nguyên nhân chủ yếu cho việc Trung Quốc hành xử quyết đoán trên biển là sự dịch chuyển mang tính kiến tạo trong môi trường chiến lược của Bắc Kinh, diễn ra sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991. Lần đầu tiên trong suốt chiều dài lịch sử, Trung Quốc không phải đối mặt với bất kỳ mối đe dọa nào ở biên giới phía bắc và chính diễn biến địa chính trị quan trọng này lý giải cho động thái bành trướng quân sự của Trung Quốc ở bờ biển phía đông và vùng biên giới phía tây nam. Chúng ta cần nhớ lại rằng các triều đại nối tiếp nhau của Trung Quốc đã xây dựng Vạn Lý Trường Thành để ngăn cản sự quấy nhiễu của người Mông Cổ và các bộ tộc Mãn Châu ở phía bắc khi các bộ tộc này thường tràn vào cướp bóc thời nhà Hán. Năm 1433, trước những cuộc tấn công ngày càng táo bạo của quân Mông Cổ cùng mối đe dọa từ các bộ tộc ở Trung Á đối với vùng biên cương tây bắc, các vị vua triều Minh của Trung Quốc đã tạm dừng những chuyến đi biển tốn kém của Đô đốc Trịnh Hòa để tập trung nguồn lực bảo vệ vùng biên cương của Vương quốc Trung Nguyên. Từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 20, một nước Nga Sa hoàng lớn mạnh và tiếp theo đó là Liên Xô luôn là mối quan tâm của các nhà hoạch định quân sự Trung Quốc. Ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn vào những năm 1950 khi hai bên có quan hệ nồng ấm, còn lại Bắc Kinh luôn canh cánh hiểm họa từ phía bắc trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh cho tới khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991.
Bất chấp những quan ngại địa chính trị như Trung Quốc xâm lấm vùng Viễn Đông và khu vực Trung Á có thể rơi vào vùng ảnh hưởng của nước này, Tổng thống Nga Vladimir Putin – trước thực tế bị Châu Âu và Mỹ cô lập sau khi Nga sáp nhập Crimea và tình trạng bất ổn đang tiếp diễn ở miền đông Ukraine - đã chấp thuận những điều khoản không hề dễ chịu từ Trung Quốc khi ký kết một thỏa thuận lớn về đường ống dẫn khí đốt nhằm đa dạng hóa thị trường xuất khẩu năng lượng của Nga ngoài Châu Âu, và biến Trung Quốc trở thành đồng minh quan trọng của Nga. Trong một loạt vấn đề, Nga và Trung Quốc đang thách thức trật tự quốc tế thời kỳ hậu chiến tranh lạnh. Mặc dù Trung Quốc đã không ủng hộ Nga trong vấn đề Georgia hay Crimea, nhưng ông Putin tin rằng mối quan hệ giữa Moscow và Bắc Kinh đang ở giai đoạn nồng ấm nhất. Nếu “liên minh Trung-Nga” được hồi sinh, thì có một sự đảo ngược hoàn toàn về vai trò các bên kể từ đầu thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc - chứ không phải một nước Nga suy yếu về kinh tế và nhân khẩu học - đóng vai trò chủ đạo trong liên minh này. Giống như trong quá khứ, những rắc rối gặp phải ở phía Tây một lần nữa buộc Nga đưa ra những nhượng bộ ở phía Đông. Kế hoạch của Bắc Kinh là khiến Nga phụ thuộc kinh tế vào nước này như phương Tây bị chinh phục bởi hàng hóa giá rẻ do Trung Quốc sản xuất. Ấn Độ cần phải tái điều chỉnh quan hệ với một nước Nga đang đóng vai trò thứ yếu so với Trung Quốc và đang cùng chung tay với Bắc Kinh cung cấp vũ khí cho Pakistan.
Không có gì ngạc nhiên khi các phương tiện truyền thông tràn ngập thông tin về một “liên minh chiến lược Trung - Nga mới có khả năng thống trị vùng trung tâm [của lục địa Á Âu],” báo hiệu “cơn ác mộng về tương quan lực lượng theo thuyết Mackinder đối với Washington.” Một số người liên tưởng việc hình thành trục Bắc Kinh-Moscow-Teheran dựa trên các yếu tố năng lượng, thương mại và an ninh trên toàn lục địa Á-Âu. Dù nguyên nhân Nga xoay trục sang Châu Á bắt nguồn từ sự bất ổn ở phía Tây khi nước này ở một vị thế yếu, nhưng người ta có thể thấy Washington ngày càng bị thách thức bởi các nước đang tìm cách thay đổi cán cân quyền lực trong khu vực.
Vì vậy, quan niệm cho rằng Châu Á bị mất cân bằng đang trở nên khá phổ biến. Một nước Mỹ mệt mỏi sau các cuộc chiến cùng sự eo hẹp về ngân sách rõ ràng đã thúc đẩy các cường quốc xét ​​lại như Trung Quốc và Nga hành động. Những nỗ lực của chính quyền Obama nhằm “tái cân bằng” vai trò của Mỹ ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương bị ảnh hưởng bởi nhận thức chung về sự bất đối xứng chiến lược cùng cán cân địa chính trị đang thay đổi nhanh chóng. Cuộc tranh giành quyền kiểm soát “các tài sản chung” (như biển, không gian mạng và không gian vũ trụ) ngày càng quyết liệt. Những quan ngại chiến lược xuất hiện ngày càng nhiều khi tham vọng, sức mạnh và ảnh hưởng đang lên của Trung Quốc đi ngược lại với lợi ích của các cường quốc hiện thời.
Biên tập viên Zackary Keck của tờ Diplomat và học giả Chen Dingding đã bắt đầu một cuộc tranh luận liệu Trung Quốc có trở thành một bá chủ toàn cầu kiểu khác hay sẽ hành xử giống như Mỹ và các bá quyền trong quá khứ. Dĩ nhiên giới lãnh đạo Trung Quốc rất khó tránh tham vọng bá chủ hay cách hành xử của một siêu cường. Trái với những tuyên bố chính thức, Trung Quốc đang hành xử không khác gì các cường quốc trỗi dậy đã làm trong lịch sử: Thiết lập mốc giới mới, vẽ ra các biên giới mới trên đất liền, bầu trời, đại dương xung quanh khu vực ngoại vi, cố gắng mở rộng biên giới trên bộ và trên biển, hình thành và sửa đổi các thể chế đồng thời ép buộc các bên khác đi theo quỹ đạo của mình. Vẽ bản đồ có thể sẽ trở thành một ngành kinh doanh phát triển ở Trung Quốc. Cách hành xử quốc tế của Bắc Kinh (nghĩa là cách “thể hiện sức mạnh” của họ) chắc hẳn sẽ không khác gì các siêu cường khác. Do vậy, Châu Á-Thái Bình Dương hiện đứng trước ngưỡng của sự thay đổi - những điều đã biết và chưa biết; đầy rẫy các thách thức và bất ổn. Tôi cho rằng sẽ có 7 sự dịch chuyển chiến lược lớn quyết định hành vi chiến lược của Trung Quốc cũng như bối cảnh địa chính trị Châu Á trong nhiều năm cũng như nhiều thập kỷ tới.
Xung đột giữa Cường quốc Mới nổi và Cường quốc Hiện thời
Quyền lực trong hệ thống quốc tế mang tính tương đối và luôn luôn dịch chuyển. Trong ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã chứng tỏ khả năng đáng kinh ngạc trong việc vạch kế hoạch và huy động nguồn lực quốc gia để thực hiện các chiến lược hành động với mục tiêu cụ thể trong các lĩnh vực như kinh tế, ngoại giao và quân sự. Tác động toàn cầu từ sự thành công của Trung Quốc sẽ là “khổng lồ kiểu Trung Quốc-Chigantic” (ghép hai từ "China" và “gigantic” của từ điển Oxford). Nếu Trung Quốc duy trì được đà tăng trưởng, tổng sản phẩm quốc nội của nước này (GDP), quân sự, và chi phí Nghiên cứu và Phát triển có thể cạnh tranh với các chỉ số tương tự của Mỹ, mặc dù không phải về chất lượng mà về số lượng. Trung Quốc đang nổi lên như một đối thủ ngang cơ mạnh hơn Liên Xô trước đây.
Không cường quốc trỗi dậy nào sẽ chấp nhận duy trì nguyên trạng. Về bản chất, các cường quốc có xu hướng bành trướng. Điều này thực sự có sức hút khó cưỡng. Năm 2009, một trong những cuốn sách bán chạy nhất ở Trung Quốc có nhan đề “Trung Quốc không hài lòng”. Người ta tự hỏi, Trung Quốc có thể nắm cả thế giới vậy tại sao họ lại không hài lòng. Trong lịch sử, các cường quốc trỗi dậy thường có những nỗi lo sợ hoang tưởng và chứa đầy nghi kỵ: họ cho rằng các nước khác quyết tâm đánh bại và ngăn chặn họ trên con đường tiến tới quyền lực. Kỳ vọng quá nhiều và quá sớm, các cường quốc này thường phản ứng thái quá. Điều này đôi khi khiến họ sụp đổ. Chúng ta hãy nhớ lại trường hợp của Nhật Bản và Đức. Cường quốc đang lên cũng có xu hướng mạo hiểm, thiếu kiên nhẫn. Họ phô trương sức mạnh và thử thách quyết tâm của các cường quốc già cỗi. Cường quốc trỗi dậy khai thác điểm yếu trong quyết tâm - chứ không phải năng lực - của các cường quốc hiện thời bằng cách sử dụng chiến thuật bất đối xứng để dần loại bỏ vị thế bá chủ của những cường quốc này.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, Trung Quốc đã chuyển chính sách từ “ẩn mình chờ thời” sang “nắm bắt cơ hội”, vươn lên dẫn đầu và phô trương sức mạnh nhằm định hình lựa chọn của các bên khác theo hướng có lợi cho mình.” Trật tự quốc tế sau chiến tranh phụ thuộc vào ba yếu tố: Các liên minh của Mỹ, vị thế thống trị trên biển không thể thách thức của Mỹ, và cán cân quyền lực tương đối ổn định. Tất cả những yếu tố trên đang bị thách thức bởi mục tiêu và sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc. Trung Quốc - nước hưởng lợi nhiều nhất từ trật tự thế giới sau chiến tranh - giờ đây nhận thấy sự thống trị của Mỹ không còn đem lại lợi ích cho nước này. Một sĩ quan quân đội Trung Quốc đã nhận xét: “Sự hiện diện của Mỹ và các đồng minh sẽ kìm hãm tương lai phát triển cũng như mục tiêu trong khu vực của Trung Quốc.” Bắc Kinh coi các liên minh của Mỹ là “tàn dư của Chiến tranh Lạnh”, cần phải được loại bỏ để khôi phục cái mà nước này gọi là “sự cân bằng quyền lực tự nhiên trong khu vực“ (nghĩa là: một Trật tự Thứ bậc trong đó Trung Quốc chiếm vị trí trung tâm của Châu Á như trong thời cận đại). Chấp nhận đóng vai trò thứ yếu so với các cường quốc khác không nằm trong gen của người Trung Quốc. Moscow đã đúc kết điều này một cách đầy cay đắng trong những năm 1950. Và giờ đến lượt người Mỹ với giấc mơ ấp ủ kết nạp Trung Quốc làm thành viên đàn em. Nhiều người cho rằng các chế độ không chia sẻ quyền lực hay tuân thủ nguyên tắc pháp luật cai trị trong chính trị nội địa thì cũng sẽ không tuân thủ luật lệ trong chính trị quốc tế hoặc chia sẻ quyền lực ở chính trường thế giới.
Mục tiêu chiến lược Châu Á của Trung Quốc là làm xói mòn uy tín của Mỹ với vai trò người bảo đảm an ninh khu vực. Bất kể các tuyên bố ngoại giao của Bắc Kinh như thế nào, “Quan hệ Cường quốc Kiểu mới” thực chất hướng tới việc Mỹ công nhận quyền bá chủ của Trung Quốc ở Châu Á trong một thỏa thuận địa chính trị nhằm hạn chế vai trò và sự hiện diện của Washington tại khu vực, và gạt bỏ các đồng minh truyền thống của Mỹ (đặc biệt là Nhật Bản) ra bên lề. Sự thúc ép này sẽ tiếp tục trong nhiều thập kỷ tới bởi Trung Quốc coi Mỹ đang “tụt dốc không phanh và ngày càng suy yếu trong khi Bắc Kinh ngày càng mạnh hơn.” Theo quan điểm của Bắc Kinh, vấn đề chính là làm sao để tận dụng và hưởng lợi từ việc Mỹ suy yếu. Về phía Washington, thách thức là làm thế nào quản lý sự trỗi dậy của Trung Quốc bên trong trật tự do Mỹ dẫn dắt mà không giảm bớt vai trò và sự hiện diện của nước này. Bên nào chiếm thế thượng phong trong cuộc đấu này sẽ quyết định tương lai trật tự thế giới. Chính vì điều này mà các quan chức chính quyền Obama đã tới thăm các nước Châu Á để trấn an bạn bè và đồng minh về những cam kết an ninh của Mỹ, đồng thời tái khẳng định quyết tâm của Washington trong việc tái cân bằng Châu Á.
Điều quan trọng là sự trỗi dậy của Trung Quốc cũng gặp phải những thách thức. Dưới sự lãnh đạo của ông Shinzo Abe, Nhật Bản đang trở thành một “quốc gia bình thường” với việc dỡ bỏ rào cản về tự vệ tập thể và chuyển giao vũ khí. Còn Ấn Độ đã tái cân bằng trên phương diện kinh tế và chiến lược đối với khu vực Châu Á-Thái Bình Dương trong gần hai thập kỷ thực hiện chính sách “Hướng Đông”. Với chiến thắng của đảng BJP dưới sự lãnh đạo của ông Narendra Modi trong cuộc bầu cử tháng 5 năm 2014, Ấn Độ có thể sẽ trở lại đầy mạnh mẽ. Do Bắc Kinh không từ bỏ chính sách vừa can dự kinh tế đối với Ấn Độ vừa tìm cách bóp nghẹt nước này về phương diện địa chính trị, một Ấn Độ hồi sinh sẽ trở thành người bảo vệ cán cân quyền lực Châu Á ở phía nam và chặn đứng nỗ lực thiết lập vị thế bá chủ của Trung Quốc. Các nước nhỏ và tầm trung (như Singapore, Hàn Quốc, Indonesia, Việt Nam, Philippines, và Australia) cũng đang tích cực hành động vì mục tiêu cân bằng và giành lợi thế. Đặc biệt là Indonesia và Việt Nam đã cải thiện đang kể sức mạnh hải quân của mình trong bối cảnh tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông leo thang. Về phần mình, nước Nga đang sử dụng nguồn năng lượng khổng lồ làm công cụ quay trở lại vũ đài chính trị thế giới. Dù cho cuộc khủng hoảng Ukraina đã giảm bớt sức nóng, chính sách xoay trục Châu Á của Nga vẫn sẽ được thúc đẩy do sự cô lập từ phương Tây với các lệnh trừng phạt; thỏa thuận cung cấp khí đốt thời hạn 30 năm của Gazprom cho Trung Quốc trị giá 400 tỷ USD; và nhu cầu ngày càng tăng từ các nước láng giềng của Bắc Kinh đối với các khí tài và nguồn năng lượng của Nga. Nhưng ít khả năng Nga sẽ trở thành một “Canada của Trung Quốc” mà không có bất kỳ phản kháng nào. Tất cả những điều này đã tạo nên một môi trường địa chính trị vô cùng rối rắm, phức tạp ở Châu Á. 
Những cường quốc hiện nay ở Châu Á-Thái Bình Dương cũng giống như Đức, Pháp, Anh và Ý ở đầu thế kỷ 20. Họ vươn ra thế giới để tìm kiếm thị trường, nguồn tài nguyên và các căn cứ; cạnh tranh quyền lực và tầm ảnh hưởng; chèn ép và tranh giành ở các khu vực khác nhau trên thế giới, qua đó hình thành những quan hệ đối tác tự nhiên vốn là đặc trưng của chiến lược phòng ngừa. Cuộc cạnh tranh quyền lực chủ yếu diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc, nhưng trên đại dương và đất liền thì là cuộc cạnh tranh giữa Trung Quốc và Nhật Bản; giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Hải quân Ấn Độ và Trung Quốc đang hiện diện ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương với tần suất ngày càng nhiều hơn. Logic của địa chính trị - đó là Nhật Bản và Ấn Độ quan ngại về vị thế của mình ở một Châu Á mà Trung Quốc ở vị trí trung tâm - sẽ gắn kết hơn nữa mối quan hệ Nhật-Ấn dưới sự lãnh đạo của ông Abe và ông Modi. Điều này làm tăng thêm những cạnh tranh chiến lược giữa Bắc Kinh với Tokyo và New Delhi.
Giống Châu Âu vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, Châu Á-Thái Bình Dương đầu thế kỷ 21 xuất hiện một số cường quốc trỗi dậy, đầy tính ganh đua bên cạnh một số quốc gia suy yếu hoặc dễ bị tổn thương. Các cường quốc trỗi dậy này hình thành cán cân chiến lược mới do quan hệ đối tác và liên minh giữa các quốc gia thay đổi. Châu Á-Thái Bình Dương đầu thế kỷ 21 có nhiều điểm tương đồng với Châu Âu cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, chứ không phải Châu Âu với các cường quốc già cỗi, đang suy yếu của thế kỷ 21. Động thái của Nga đối với Ukraina có thể khiến các cường quốc Châu Âu không hài lòng nhưng các nước châu Âu không đưa ra phản ứng chiến lược quan trọng chống lại Moscow. Điều này chắc chắn không xảy ra ở Châu Á. Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, Châu Á đang chi tiêu cho quốc phòng nhiều hơn Châu Âu. Sự nổi lên của các nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc ở Nhật Bản, Philippines và Ấn Độ một phần bởi thất bại rõ ràng từ những người tiền nhiệm của họ trong việc đối phó với sự xâm lấn của người Trung Quốc.
Mối quan ngại về Địa Chính trị
Đây là thập kỷ của chuyển giao quyền lực ở Châu Á. Đối với các nước láng giềng nhỏ bé của Trung Quốc, đây là một thập kỷ đầy nguy hiểm. Với các nước trong khu vực, Trung Quốc gợi lên một cảm giác bất an vì sự rộng lớn, mức độ liền kề, lịch sử cũng như sức mạnh của nước này, và quan trọng hơn, chính bởi ký ức về “hội chứng Vương quốc Trung Nguyên” hoặc hệ thống các nước chư hầu vẫn chưa phai mờ. Trong lịch sử, Trung Quốc chưa từng chấp nhận chung sống bình đẳng với cường quốc khác có sức mạnh tương đương hoặc yếu hơn. Trong quá khứ, một Trung Quốc thịnh vượng và hùng mạnh đòi hỏi các nước khác phải quy thuận và kính nể. Điều đã thay đổi đó là tham vọng về ý thức hệ trong quá khứ hiện được thế chỗ bởi các lợi ích kinh tế. Hầu như không có nước Châu Á nào tin vào luận điệu “Trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc” (hãy thử hỏi Mông Cổ, Nhật Bản, Việt Nam, Philippines hay Ấn Độ) hoặc tuyên bố “Không can thiệp vào công việc nội bộ” (hãy thử hỏi Bắc Triều Tiên, Campuchia, Lào, Malaysia, Indonesia, Myanmar, Nepal hay Sri Lanka).
Sự gắn kết trong quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Châu Á tạo cảm giác về một sự lệ thuộc cùng tâm trạng thất vọng. Trong khi các quốc gia này không phản đối sức mạnh cũng như sự thịnh vượng của Trung Quốc, thì họ cũng không sẵn lòng để mất quyền tự quyết trong việc hoạch định chính sách. Ngoại trừ một số ít (nhất là Pakistan), còn lại hầu hết các nước Châu Á (gồm cả Bắc Triều Tiên) không hề mặn mà với việc chung sống trong một Châu Á do Trung Quốc dẫn dắt hoặc chi phối. Thay vào đó, những nước này duy trì các liên kết an ninh hiện có, thực hiện chính sách ngoại giao khôn khéo cùng chiến thuật phòng ngừa giúp họ tự chủ hành động. Bởi Trung Quốc có vai trò trung tâm trong bối cảnh địa chính trị Châu Á, “phòng ngừa” hoặc “cân bằng” kiểu cũ đang trở thành lựa chọn ưa thích nhất của các bên trong khi vẫn duy trì các lợi ích từ việc quan hệ với Bắc Kinh. Các cường quốc hiện đang tìm cách tái cân bằng vị thế và chiến lược của mình. Chính sách “tái cân bằng” của Mỹ, Chính sách “Hướng Đông” của Ấn Độ, Chính sách “Hướng Tây” của ASEAN, Chính sách “Hướng Bắc” của Úc và hợp tác quốc phòng giữa Nhật Bản với Úc, Philippines, Việt Nam và Ấn Độ cho thấy xu hướng này.
Toàn vẹn lãnh thổ là lợi ích cốt yếu của tất cả các quốc gia: Dù yếu hay mạnh, lớn hay nhỏ. Căng thẳng leo thang giữa Trung Quốc và các nước láng giềng từ Ấn Độ đến Nhật Bản trong các tranh chấp trên lục địa và đại dương đều có ý nghĩa địa chính trị. Các tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết cùng “hội chứng Vương quốc Trung Nguyên” dường như bất lợi cho Bắc Kinh và có lợi cho Washington. Đề cập về căng thẳng trong tranh chấp lãnh thổ tại cuộc gặp tháng 4 năm 2014, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, Tướng Thường Vạn Toàn đã nói với Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel rằng Bắc Kinh sẽ “không thỏa hiệp, không nhân nhượng, [và] không đánh đổi” trong cuộc chiến bảo vệ cái ông Thường gọi là “chủ quyền lãnh thổ.” Ông Thường cảnh báo rằng: “Quân đội Trung Quốc sẽ nhanh chóng tập hợp, sẵn sàng chiến đấu và giành chiến thắng.” Người Trung Quốc có lẽ đang kinh ngạc bởi các nước láng giềng nhỏ bé đã thể hiện quan điểm cứng rắn, đầy thách thức. Bắc Kinh hy vọng các nước láng giềng tôn trọng lợi ích cốt lõi của mình bằng cách đặt nó lên trên trên lợi ích quốc gia của chính các nước này - một kiểu quan hệ chư hầu mà các nước công nhận Trung Quốc là bá chủ của Châu Á. Trong bối cảnh đó, sự hỗ trợ về quân sự của Mỹ được xem là chốt chặn lớn nhất ngăn cản Trung Quốc ép buộc Châu Á chấp nhận và quy thuận quyền lực của nước này.
Từ năm 2007, cách hành xử quyết đoán của Trung Quốc trong các tranh chấp trên biển, đất liền ở khu vực ngoại vi của nước này đã đẩy các nước láng giềng xích lại gần hơn với Washington. Vì vậy, tôi cho rằng giống như mọi sản phẩm khác thời nay, chính sách “xoay trục” hay “tái cân bằng” của Washington cũng là “Made-in-China”. Các tranh chấp chưa được giải quyết của Trung Quốc với các nước láng giềng đang tạo ra những liên kết chưa từng có trước đây. Ví dụ như liên minh Canberra-Tokyo, Manila-Hà Nội, Manila-Tokyo, Tokyo-Hà Nội, Hà Nội-New Delhi, và Tokyo-New Delhi. Mục tiêu chung của các liên kết này là tạo đối trọng với Trung Quốc, chứ không phải Nga hay Mỹ. Trên thực tế, các bên tham gia trò chơi cân bằng này với Trung Quốc (như Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, và Indonesia) đang được Nga và Mỹ trang bị vũ khí.
Trong lịch sử, sự nổi lên của một cường quốc lục địa dẫn đến việc hình thành liên minh các cường quốc biển để cân bằng lại. Điều này đặc biệt đúng khi cường quốc lục địa đó có một thể chế chuyên quyền nuôi dưỡng nhưng nỗi oán hận lịch sử bằng các tranh chấp lãnh thổ, hoặc là một cường quốc có tính phân cực. Trung Quốc cũng không nằm ngoài quy luật này. Phần lớn các nước ở khu vực ngoại vi của Trung Quốc coi Mỹ, một siêu cường ở bên ngoài, là đối trọng thực sự của Bắc Kinh. Các nước đều muốn hưởng lợi từ quan hệ kinh tế với Trung Quốc, nhưng không bên nào muốn Trung Quốc thống trị khu vực hay các lựa chọn chính sách của họ bị nước này chi phối. Nói một cách đơn giản, không bên nào muốn Trung Quốc thay thế ngôi vị bá chủ đang bị suy yếu của Mỹ.
Mặc dù Bắc Kinh muốn khôi phục lại vị thế thống trị ở Châu Á thời kỳ cận đại, nhưng hoạt động mở rộng lãnh thổ của nước này và những thay đổi cấu trúc bên trong môi trường địa chính trị Châu Á hơn 300 năm qua không cho phép hồi sinh hệ thống các nước chư hầu với Trung Quốc ở vị trí trung tâm. Địa lý là yếu tố quyết định vai trò và sức mạnh của một quốc gia, một yếu tố không thể nào thay đổi. Lý do quan trọng khiến Mỹ trở thành siêu cường toàn cầu đó là nhờ vào vị trí địa lý độc nhất của nước này. Các nước láng giềng của Trung Quốc không phải Canada hay Mexico, mà là các cường quốc - như Nga, Nhật Bản, Việt Nam, Indonesia, Úc và Ấn Độ - những nước sẽ làm tất cả để chống lại sức mạnh của Trung Quốc bởi nguyên nhân về lịch sử, nền văn minh, địa chính trị và địa kinh tế. Sự cách biệt giữa tham vọng ở Châu Á của Trung Quốc và bối cảnh địa chính trị đang thay đổi đã ngăn cản nước này khôi phục vị thế thống trị trong quá khứ, điều này đã khiến cho người Trung Quốc cảm thán gọi là “sự bao vây Trung Quốc.” Khách quan mà nói, đây đúng hơn là “sự quan ngại địa chính trị” chứ không phải “sự bao vây”. Sự bao vây, trong khái niệm đa chiều kinh điển của George Kennan (về kinh tế, ngoại giao, quân sự và chính trị), chủ yếu phản tác dụng trong nền kinh tế toàn cầu hóa. Quản lý sự trỗi dậy của Trung Quốc và tác động đến cách hành xử của nước này là thách thức ngoại giao lớn nhất đặt ra cho khu vực và thế giới trong những năm tới.
Cuộc Cạnh tranh Mới mà Cũ
Sự phát triển kinh tế sẽ tạo ra những lợi ích ngoài nước, thúc đẩy những tham vọng lớn về địa chính trị, và gần như chắc chắn sẽ dẫn đến việc tăng cường quân sự. Các bên sẽ tìm kiếm nguồn tài nguyên phục vụ mục tiêu tăng trưởng công nghiệp; thị trường mới để tiêu thụ hàng hóa; và các căn cứ để bảo vệ tài nguyên và thị trường giống như cách thức các cường quốc công nghiệp của Châu Âu tiến hành thuộc địa hóa Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ La tinh vào thế kỷ 18 và 19 trước đây. Ba yếu tố tài nguyên, thị trường và căn cứ bảo vệ thường đi cùng với nhau. Trao đổi thương mại, các thị trường, khai thác tài nguyên, hải cảng và phát triển cơ sở hạ tầng là những thành phần quan trọng trong chính sách đối ngoại hiện nay của Trung Quốc. Trung Quốc đang xoay trục về phía Tây (Châu Phi, Trung Đông, Nga, Tây Nam Á và Trung Á) tìm kiếm nguồn tài nguyên, thị trường, và môi trường ngoại giao. Giống như trong quá khứ, cuộc cạnh tranh “mới” về cơ bản là cuộc tìm kiếm các thể chế ôn hòa và thân cận làm nguồn cung tài nguyên và quyền tiếp cận các hải cảng. Trò chơi chính trị thế giới không thay đổi nhiều, chỉ có người chơi là thay đổi.
Thống trị Thế giới là Câu chuyện của Quá khứ
Không một cường quốc đơn lẻ nào có thể thống trị thế giới trong tương lai, bất kể nước này sở hữu bao nhiêu sức mạnh cứng và mềm. Kể cả liên minh G-2 cũng vậy. Mạnh cỡ nào thực sự không quan trọng bằng việc bạn sở hữu sức mạnh kiểu gì. Trung Quốc dường như tin rằng nếu nước này đạt được “sức mạnh tổng thể quốc gia” mọi thứ sẽ đi vào trật tự và các nước sẽ đi theo quỹ đạo của mình. Tuy nhiên, việc chỉ có “sức mạnh tổng thể quốc gia” sẽ không giúp Trung Quốc trở thành một siêu cường toàn cầu. Cường quốc trở thành siêu cường phải có sự ủng hộ của các nước vừa và nhỏ. Với số lượng đồng minh là 58 nước và đối tác tiềm năng là 41 nước trên toàn thế giới, Mỹ vẫn là một siêu cường không có đối thủ. Sự ủng hộ của các cường quốc vừa và nhỏ, hoặc không có điều này, sẽ là sự khác biệt lớn quyết định thành công hay thất bại của việc trở thành siêu cường. Bạn không thể trở thành một nhà lãnh đạo nếu không có những người ủng hộ. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc và Ai Cập là hai quốc gia bậc trung kiểu “gió chiều nào xoay chiều ấy.” Khi Trung Quốc và Ai Cập chuyển từ ủng hộ Liên Xô sang ủng hộ Mỹ, hai nước này đã trở thành những nhân tố quan trọng trong cán cân quyền lực ở Châu Á và Trung Đông. Cán cân lực lượng đã thay đổi không có lợi cho Liên Xô và phần còn lại là lịch sử. Tái hiện nước cờ địa chính trị này, Washington đang tìm cách lôi kéo các “quốc gia đảo cánh” mới như Ấn Độ, Indonesia để tạo thế đối trọng với Trung Quốc.
Luận điểm của Mackinder hay Mahan đều giá trị như nhau
Trọng tâm địa chính trị Châu Á đang dịch chuyển vào lục địa đã tác động đến các cường quốc biển. Luận điểm của Mahan hay của Mackinder, Spykman, Kautilya và Sun Zi đều quan trọng. Mặc dù tập trung vào cạnh tranh trên biển, nhưng các trung tâm kinh tế, các thể chế mới, hành lang giao thông, đường sắt cao tốc, đường cao tốc và hệ thống các đường ống đang thay đổi môi trường địa chính trị của lục địa Á-Âu. Trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh, phần lớn sự tăng trưởng kinh tế diễn ra bên trong hệ thống liên minh “trục và nan hoa” của Mỹ ở các vùng biển Châu Á. Thời kỳ Hậu Chiến tranh Lạnh, tăng trưởng kinh tế đã diễn ra ở Trung Quốc, Ấn Độ và lục địa Đông Nam Á, bên ngoài mạng lưới liên minh Mỹ-Thái Bình Dương.
Trung Quốc, giống nước Anh và nước Nga trong quá khứ, hiện đang sử dụng phương tiện giao thông hiện đại, đường sắt cao tốc, đường cao tốc, mạng lưới đường ống để vẽ lại bản đồ địa chính trị của lục địa Á-Âu. Là một phần trong chiến lược “Hướng Tây”, Bắc Kinh đã đầu tư hàng trăm tỷ để tạo “hệ thống trục và nan hoa kinh tế” ở lục địa Châu Á bằng các đường ống, đường cao tốc, mạng lưới đường sắt liên kết Trung Quốc với các khu vực Trung Á, Tây Nam Á và Đông Nam Á. Các nan hoa hoặc hành lang huyết mạch này sẽ vận chuyển nguyên liệu thô và nguồn năng lượng, đồng thời xuất khẩu các hàng hóa của Trung Quốc tới những khu vực trên và xa hơn nữa. Tuy nhiên, lục địa Á-Âu chưa được quan tâm thích đáng bởi ba thế kỷ thống trị đại dương của người Mỹ gốc Anh dường như khiến các nhà hoạch định chính sách mắc hội chứng “mù đất liền”.
Công nghệ: Một Đòn bẩy Thực sự
Công nghệ chính là nhân tố thay đổi cuộc chơi. Trong thời chiến hay thời bình, công nghệ định hình mối quan hệ giữa các quốc gia. Công nghệ quyết định thứ bậc trong quan hệ quốc tế. Rất ít nhà kinh tế dự đoán Trung Quốc sẽ trở thành một cường quốc kinh tế. Tại sao lại như vậy? Bởi họ đã không thể thấy trước được tác động của công nghệ trong tương lai. Cũng như không ai vào năm 1990 có thể đoán biết cách thức Internet sẽ thay đổi mọi thứ, sự phổ biến nhanh chóng của những công nghệ đột phá như in ấn 3D/4D, thành tựu của công nghệ sinh học, người máy, và điện toán lượng tử là những nhân tố quyết định cuộc chơi. Một cuộc cách mạng trong sản xuất dựa trên công nghệ in ấn 3D/4D có ý nghĩa gì nếu xuất xứ-tại-Trung Quốc? Những đột phá công nghệ trong tương lai chắc chắn sẽ tạo ra người chiến thắng và kẻ chiến bại mới, đồng thời cũng đem lại các cơ hội và thách thức mới.
Địa chính trị và địa chất học có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Khi Trung Quốc và các nước khác cho rằng Mỹ đang suy yếu, thì nước này thấy mình ở đỉnh đạt với khả năng tự cung cấp năng lượng, nhờ thành tựu đột phá trong “công nghệ phân tách bằng thủy lực” (fracking technology). Cuộc cách mạng về khai thác đá phiến có thể giúp Mỹ hồi sinh và kéo dài sự thống trị đối với trật tự quốc tế. Sự bùng nổ năng lượng tại Mỹ và Canada - nếu tận dụng triệt để - có khả năng thay đổi động lực sức mạnh giữa các cường quốc và vực dậy những liên minh của Mỹ. Điều này có thể khiến người chiến thắng hôm qua trở thành kẻ thua cuộc ngày mai. Giống như một Trung Đông “già cỗi” đang “hướng Đông” để thúc đẩy quan hệ năng lượng với Trung Quốc và Ấn Độ, một “Trung Đông mới” (bao gồm Canada và Mỹ) có thể đang “hướng Tây” để bán dầu - khí trong đá rắn cho Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, và các nước Đông Nam Á. Dầu - khí trong đá phiến sẽ không chỉ tăng cường đòn bẩy ngoại giao của Mỹ, mà còn làm thị trường dầu mỏ thế giới đa dạng, giúp bình ổn giá dầu, đồng thời các nước tiêu thụ sẽ giảm bớt sự phụ thuộc quá mức vào một Trung Đông biến động, các cacten OPEC, và nước Nga của ông Putin.
Tương lai Địa chính trị Châu Á
Những xu hướng chiến lược này sẽ định hình tương lai địa chính trị Châu Á, đặc biệt là tác động qua lại giữa Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản và Ấn Độ. Sự bất cân bằng sức mạnh giữa các cường quốc dẫn đến việc mỗi bên sẽ thiết lập các liên kết linh hoạt, tạm thời với những bên khác khi lợi ích của họ có điểm đồng; tận dụng sự ủng hộ của một bên để chống lại bên khác khi có xung đột quyền lợi; ngăn chặn hai bên khác hình thành liên minh chống lại mình bởi các nước có xu hướng cạnh tranh, liên minh và liên kết lại khi mục tiêu song trùng. Dĩ nhiên, Trung Quốc là mảnh ghép quan trọng nhất trong bức tranh địa chính trị này. Không quốc gia nào có thể đe dọa Trung Quốc khi nước này hiện nay đã lớn mạnh. Là quốc gia lớn nhất (về mặt lãnh thổ) và hùng mạnh nhất (về mặt kinh tế và quân sự) ở Châu Á, chỉ khi Bắc Kinh dừng lại và chấp nhận duy trì nguyên trạng lãnh thổ trên bộ và cũng như trên biển thì nước này mới có thể hóa giải được các liên minh của Mỹ thời kỳ Chiến tranh Lạnh và giảm bớt lý do nước này hiện diện tại khu vực. Nhưng chúng ta không nên tin vào khả năng này: Một chiến lược gia Trung Quốc (cơ bản nhắc lại lời Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc) từng nói: “Từ bỏ yêu sách đối với ‘các vùng đất bị mất vào tay nước khác’...là điều khó tin và không thể xảy ra.”
Do quân đội nhân dân Trung Quốc sẽ không chấp nhận duy trì nguyên trạng lãnh thổ hiện nay, câu hỏi đặt ra cho Mỹ và các đồng minh là cách thức duy trì cán cân quyền lực đủ mạnh nhằm ngăn chặn bất kỳ hành động hăm dọa và xâm lấn, đồng thời trấn an bạn bè và đồng minh đang phải đối mặt với một Trung Quốc đầy tự tin với quyết tâm thiết lập vị thế thống trị trên lục địa Châu Á và các vùng biển liền kề. Hòa bình và ổn định sẽ được duy trì nếu các cường quốc hướng tới xây dựng một Châu Á đa cực với các tổ chức đa phương toàn diện cùng các cơ chế giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, sự ganh đua, cạnh tranh và thậm chí là xung đột có thể dẫn đến trật tự lưỡng cực hoặc việc Bắc Kinh tìm cách thiết lập lại trật tự đơn cực mà nước này ở vị trí trung tâm, theo đó Trung Quốc sẽ hành xử như một bá quyền và đòi hỏi sự quy thuận, triều cống từ các nước láng giềng.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, không điều gì là chắc chắn trong cuộc sống cũng như vũ đài chính trị - trong nước hay quốc tế. Tương lai không phải là một đường thẳng. Nó đầy rẫy những bước ngoặt, vấp ngã, thất bại, điều bất ngờ và sự trái ngược, không liên tục và phi tuyến tính. Liên Xô và Nhật Bản chính là những ví dụ cho thấy việc Trung Quốc trỗi dậy không có gì là chắc chắn. Trong lịch sử, các cường quốc trỗi dậy, kỳ vọng quá nhiều quá sớm, thường bộc lộ sức mạnh một cách khác thường, và đây là kẻ thù nguy hiểm nhất của chính những nước này. Khác những gì sách giáo khoa Quan hệ Quốc tế dạy chúng ta, chính sách đối ngoại của một quốc gia không chỉ là những tính toán về sự được mất hoặc câu chuyện thiệt hơn. Đó là tổng hòa của năm yếu tố: Khát vọng, sức mạnh, lợi ích, kiêu hãnh và định kiến. Điều này khiến việc dự đoán tương lai của Trung Quốc hay tương lai chính trị thế giới trở nên hết sức khó khăn. Nguy cơ của những tính toán sai lầm nằm ở chỗ: Quân đội Trung Quốc đánh giá quá cao sức mạnh của mình, trong khi phần còn lại của thế giới đánh giá quá thấp tham vọng, sức mạnh cũng như mục đích của Bắc Kinh.
Mohan Malik là Giáo sư chuyên về An ninh Châu Á tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương ở Honolulu. Ông là chủ biên của cuốn An ninh Biển ở Ấn Độ-Thái Bình Dương (Rowman & Littlefield, sẽ xuất bản tháng 10 năm 2014) và tác giả cuốn sách Trung Quốc và Ấn Độ: Cuộc đối đầu của Hai Cường quốc (nhà xuất bản Lynne Rienner, 2011). Bài viết đăng trên trang “The Diplomat".
Người dịch: Viết Tuấn
Hiệu đính: Kim Minh

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không suy thoái mới là lạ


Tác giả: Tô Văn Trường
.KD: Ts Tô Văn Trường vừa gửi cho mình bài viết này. Một bài viết khá gai góc, nhìn vào sự thật, với mong ước, sự đổi mới sẽ chấn hưng đất nước, dân tộc. Nhưng bao giờ?
Xin đăng bài viết lên để bạn đọc chia sẻ.  Bài đã được biên tập một số chỗ cho phù hợp tinh thần Blog KD/ KD. Blog KD/KD sẵn sàng đăng những bài viết mang tính phản biện bài viết này, trên tinh thần có trách nhiệm XH, công bằng, công tâm và văn hóa
Cảm ơn Ts Tô Văn Trường
————-
Khái niệm bản năng gốc là cội nguồn có ý nghĩa cơ sở để xem xét khách quan mọi vấn đề, của mỗi cá nhân và của toàn xã hội. Nó luôn là động lực cho sự tồn tại và phát triển của muôn loài, trong đó có loài người.

Trong mỗi con người đều có 5 bản năng gốc bao gồm: bản năng sống (tồn tại), bản năng sinh sản (duy trì nòi giống), bản năng bày đàn ( đám đông), bản năng đầu đàn (quyền lực) và bản năng sáng tạo (tư duy). Riêng bản năng sáng tạo chỉ con người mới có, nhờ nó mà con người có văn hoá. Nên nhớ rằng văn hoá là tất cả những gì con người sáng tạo ra.
Thu vén, tham lam, tham ô là hệ quả của bản năng sống. A dua, tôn giáo, đảng phái…. là bản năng bày đàn. Tham quyền cố vị, triệt hạ lẫn nhau, hám danh….là bản năng quyền lực.
Ngoại tình, đam mê tình dục… là hệ quả của bản năng sinh sản.
Cường độ và mức độ thể hiện của các bản năng đó khác nhau. Ví dụ như bên Ấn Độ, bên Phi Châu bản năng tình dục lại phát triển nhiều, còn ờ Việt Nam có lẽ sĩ diện cá nhân lại… nổi trội. Hiểu được những đặc điểm đó ở mỗi cộng đồng, mỗi vùng là đã chiếm được nhiều ưu thế. Nhưng chọn thời điểm để tác động phải là một nghệ thuật.
Theo tôi hiểu, khái niệm bản năng gốc này là cội nguồn có ý nghĩa cơ sở để xem xét khách quan mọi vấn đề, của mỗi cá nhân và của toàn xã hội. Nó luôn là động lực cho sự tồn tại và phát triển của muôn loài, trong đó có loài người.
Bản năng gốc như 5 mômen lực, nếu đồng pha thì phát triển, dị pha thì lụi tàn. Xã hội là tổng hoà các mômen trung bình của từng nhóm lợi ích, và mômen nhóm là tổng hoà của mỗi thành viên.
Thế giới, trong đó có Việt Nam đang trong tình trạng có chỉ số Entropia (nhiệt động) cực đại, đây là thời điểm đăc biệt, sớm muộn cũng bị phá vỡ để chuyển về trạng thái cân bằng mới. Khi nội năng càng lớn thì sự cân bằng càng mỏng manh. Đây là thuộc tính của xã hội đương đại. Nhờ bản năng sáng tạo con người sinh ra văn hoá, nhưng văn hoá hình thức, bề nổi đang thịnh hành ở ta và nhiều nơi khác sẽ sớm lụi tàn, điều ấy chỉ còn là thời gian.
Những bản năng đó gắn với những lợi ich trong “tháp lợi ích” 5 tầng của Abraham Maslow. Rất đáng tiếc, tất cả chỉ gắn với “tầng 1″ của tháp. Entropia chính là đấu tranh giai cấp theo cách lý giải của chủ nghĩa khoa học biện chứng. Xã hội Việt Nam hiện nay, cũng giống như trước đây luôn nằm trong các trạng thái cân bằng , mất cân bằng rồi tự lấy lại cân bằng vv… Trong các chu kỳ sau của cân bằng và mất cân bằng thường cao hơn các chu kỳ trước và mang tính văn minh hơn.
Ở Việt Nam, có hàng ngàn thứ không chỉ “rất lạ”, mà phải nói “vô cùng lạ”! Đơn cử như: Không biết có những quốc gia nào trên thế giới ghi vào Cương lĩnh tổ chức chính trị của mình mệnh đề sau đây: “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.” (Cương lĩnh năm 2011).
Trong khi đó, theo Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thì xây dựng chủ nghĩa xã hội còn lâu dài lắm, đến hết thể kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay không? Vậy hóa ra còn khoảng 100 năm nữa nước ta mới có độc lập dân tôc! Phần lớn các nước trên thế giới vẫn giữ được độc lập dân tộc còn vững chắc hơn ta mà không hề theo chủ nghĩa xã hội, chúng ta giải thích thế nào về hiện tượng phổ biến này!?
Ngày 23 tháng 6 năm 1990, trên tờ “Sự thật”, ông A. Iakovlev, ủy viên Bộ chính trị, nhà lý luận của Đảng cộng sản Liên Xô đã nêu lên đặc trưng của hệ thống chính quyền nhà nước Liên Xô lúc bấy giờ là: “một nền kinh tế trì trệ, phản dân chủ một cách trắng trợn, quan liêu và tham nhũng. Các cơ quan của Đảng, trên thực tế, đã thay thế tất cả các tổ chức khác, nhưng lại không chịu bất kì trách nhiệm về kinh tế hay pháp lý nào về các chỉ thị và nghị quyết của mình”.
Và chỉ 14 tháng sau khi tuyên bố này được đưa ra, ngày 19 tháng 8 năm 1991 Đảng cộng sản Liên Xô tan rã trong nháy mắt và Liên Xô sụp đổ sau 74 năm tồn tại.
Ở Việt Nam khác với hầu như các nước trên thế giới rất ít khi nhắc tới từ “công lý”, báo chí có nhắc tới chỉ nhắc trong cụm từ “Danh hài Công lý”, còn trong các bộ luật hình sự, dân sự, ngay trong các bản án đều vắng bóng thuật ngữ “công lý”. Mở đầu bản án bao giờ cũng có dòng chữ in đậm “Nhân danh nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, chứ không phải “Nhân danh công lý”, như thiên hạ vẫn làm. Và còn vô số điều “vô cùng lạ” lạ khác nữa….
Có lần tôi được nghe trực tiếp một vị trí thức (tướng công an) nhận xét về quy hoạch nhân sự ở Việt Nam, người nào bộ mặt thông minh quá thì đó lại là khiếm khuyết. Mới nghe thấy rất lạ, tưởng đùa nhưng ngẫm suy thì đó là sự thật. Đối với “Văn hóa làng chài” của Việt Nam thì người tài khó thể hội nhập, đăc biêt, khi đất nước không còn hiểm họa ngoại xâm.
Việt Vương Câu Tiễn (Vua nước Việt) sau khi diệt nước Ngô, hai mưu lược gia thân cận kỳ tài là Phạm Lãi phải bỏ nước ra đi, còn Văn Chủng bị bức hại vì quá giỏi. Khi điểu đã bay xa thì cung quý chẳng để làm gì, khi thỏ quý đã được bắt, thì chó quý giết thịt mà ăn.
Hiện tượng lịch sử này được lặp lại vào thời nhà Hậu Lê. Phạm Văn Sảo, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi là những công thần lập quốc, nhưng họ cũng bị Lê Lợi xử trảm và bất tín không dùng, đến thời nhà Nguyễn, thì Nguyễn Ánh cũng không khác các tiền nhân xưa mấy.
Điểm yếu của Văn hóa Làng chài vẫn tồn tại từ rất xa xưa không dễ thay đổi, ngay cả trong cách chọn nhân tài đất Việt. Cơ chế của ta trong lựa chọn nhân sự nhiều khi là một bộ lọc “ngược” kỳ lạ. Càng có kiến thức sâu rộng, càng có chủ kiến riêng, càng vô tư và lòng tự trọng thì càng khó được… tuyển dụng?
Không phải ngẫu nhiên trong dân gian truyền khẩu “giàu người ta ghét, nghèo ngươi ta khinh, thông minh ta cho chết” nên linh tinh ta cho quyền . Cụ Nguyễn Du đã phán ” chữ tài liền với chữ tai một vần”. Và như một quy luật tâm lý đời sống khá phổ biến, lãnh đạo giỏi thu phục người tài, lãnh đạo kém dùng đám xu nịnh cơ hội và gây chia rẽ để nắm quyền.
Trong bất kỳ một cuộc lột xác thay đổi nào đều không tránh khỏi nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần. Mục tiêu tối thượng phải làm sao để không hao tổn hiền tài và nguyên khí quốc gia. Muốn tránh được điều này, đổi mới nền quản trị quốc gia, đoàn kết dân tộc và thực hiện dân chủ phải thực sự bắt đầu từ trong đảng.
Có thể nói chưa có lúc nào đất nước ta lại lâm vào cơn khủng hoảng lòng tin, cùng với nguy cơ lớn từ phía Trung Quốc đe dọa độc lập và chủ quyền quốc gia như hiện nay.
Việt Nam đã thống nhất đất nước nhưng chưa hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng con người. Hệ thống tổ chức trở nên nặng nề, cồng kềnh, chồng chéo, kém hiệu lực, góp phần làm cho năng suất lao động vốn đã thấp, lỗi hệ thống này, cùng với “văn hóa làng chài” nếu cứ để vậy thì không suy thoái mới là lạ.
Thiết nghĩ sự suy yếu đối với ngôi nhà có nền móng không tựa trên 5 cái trụ cơ bản của động lực con người nên vecto lực tổng hợp bị triệt tiêu đi nhiều. Tuy nhiên, đó mới chỉ là cách nhìn nhận mang tính Logic, nếu nhìn vào lịch sử thì các chế độ ( kể cả các nhà nước Phong kiến Á châu trước kia) đều giống nhau ở chỗ chúng không thèm đoái hoài tới cái Vecto tổng lực kia.
Các chế độ đó rất dẻo dai, tồn tại hàng ngàn năm và chỉ buộc phải thay đổi, biến báo để thích nghi. Ngày nay toàn cầu hóa, hội nhập chính là áp lực mạnh từ mọi phía khiến các xã hội phải thay đổi.
Với người lãnh đạo thông minh, có viễn kiến và bản lĩnh thì việc cải cách thể chế đúng lúc, đúng hướng sẽ cứu vãn sự suy thoái, thế nhưng ở Việt Nam- bao giờ?
Phần nhận xét hiển thị trên trang