XUÔI NGƯỢC ĐỜI NGƯỜI
Truyện ngắn HG
Ai đã từng đến
thị trấn X hai mươi năm trước hẳn
còn nhớ câu chuyện này. Câu chuyện về hai gã tên Bình mở quán bán hàng ở đây. Đã
để lại câu chuyện ồn ào, xôn xao dư luận lúc bấy giờ. Không ít tình tiết hư hư
thực thực, cũng như sự nghi ngại khó yên tâm về nó.
Hồi đó khu chợ chưa có diện mạo như bây giờ.
Vừa mới qua thời bao cấp, người ta chưa có khái niệm về “kinh tế thị trường”,
cũng chưa có “định hướng” rõ ràng gì cả.
Mới chỉ có lèo tèo vài ba quán nước, quán ăn sơ sài, vài thứ hàng tạp hóa không
thể thiếu của bất cứ con chợ nào. Một vài hàng quà làm theo kiểu nhà quê. Có
người để nguyên cả buồng chuối chín vàng ươm chưa cắt rời thành từng nải..
Nét gì đó, nôm na, giản dị, dông dài của
người vùng sâu của tỉnh YCL.
Ý nghĩ ghẻ lạnh
với “đám con buôn” vẫn còn trong trí não nhiều người. Người ta không mấy thiện
cảm với người làm nghề buôn bán.
Trong tâm thế số
đông, đó là những hạng người lười lao động, sống ăn bám vào đồng loại, luôn mưu
mô mánh khóe, tìm cách trục lợi người một nắng hai sương trên rừng, trên dẫy.
Cũng là những năm an ninh trật tự còn nhiều lỏng lẻo. Không ít quán hàng bày
bán thuốc phiện từng tép công khai như bày bán thuốc lào, thuốc lá. Điều này sẽ
cắt nghĩa vì sao từ thời buổi đó, tệ nạn ma túy lại phổ cập, gây hại dai dẳng
cho đến tận bây giờ?
Ngay từ đầu đã có những lỗ hổng khủng khiếp mà sau này muốn vá, muốn bịt lại sẽ
tốn nhiều công sức và vô cùng khó khăn! Trước đó với phần nhiều nơi, xã hội
miền bắc, sự này là cái xa lạ, không mấy người biết và cũng rất ít gặp người
dùng!
“Các tệ nạn xã hội thường xuất hiện khi có khủng hoảng, bế tắc ở phương diện
nào đó”. Có người bạn nói với tôi như vậy về thời kỳ này, nhưng lúc ấy tôi
không quan tâm lắm!
Còn ngoài bờ sông, đứng trên bờ, nhìn xuống, từng dãy dài bè đào vàng, kín đen
từng đám. Nước sông kể cả mùa không có lũ cũng đục ngầu ngầu.
Lâu lâu giữa đêm khuya khoắt lại có tiếng súng nổ, tiếng kêu gào, đuốc sáng
ngoài bãi cát..
Đó là những năm
tháng cực kỳ khó khăn.
Có đêm còn nghe
tiếng đạn pháo từ miền biên viễn vọng về. Cuộc giành giật, giữ từng tấc đất
biên cương chưa thôi phần quyết liệt. Nhiều người vẫn còn mơ hồ về sự khốc liệt
và thời gian kéo dài của cuộc chiến này. Một cuộc chiến rất vô lý của những người cùng chung hệ ý thức, mục đích
phát triển của mỗi quốc gia. Nó không ngắn ngủi thời gian như người ta
tưởng, sự ác liệt có thể nói chưa từng
xảy ra.
Lại nghe nói bên
Đông Âu và Liên Xô sụp đổ. Nỗi hoang mang không ai nói ra, nhưng choán ngập tâm
trạng mỗi người như một khối sương mù trong ngày oi bức..
Giá như cuối năm
đó, nó không đột ngột kết thúc, bất ngờ như khi nó từng xảy ra, không biết tình
hình rồi sẽ đi tới đâu?
Nhà nào cũng lần ăn từng bữa, sống hôm
nay mà chưa rõ ngày mai ra sao. Ai đã trải qua những ngày như thế, sau hai cuộc
chiến kéo dài hơn ba mươi năm, vết thương chiến tranh chưa lành, lại phải “kháng
chiến” nữa ở cả hai đầu đất nước, mới thấy thiên hạ thái bình quan trọng, cần
thiết biết chừng nào?
Nhưng đấy là bối cảnh của những câu chuyện khác..
Câu chuyện hôm
nay, bây giờ, ở đây như tôi đã nói ngay từ đầu là câu chuyện của hai gã Bình
xảy ra vào thời gian ấy.
Một là Bình Nam,
gọi kép theo tên vợ, một Bình Hoa cách gọi cũng y trang như thế.
Tôi mới về làng. Tâm trạng của anh lính ra quân không nhiều “mơ ước viển vông”.
Cốt mong sao cuộc sống đỡ khổ, đỡ thiếu thốn, dễ chịu hơn một chút. Cá thịt
chưa phải là tức ăn thường ngày như bây giờ, chỉ năm khi ba họa. Nhưng cơm
trắng phải đủ no bụng, không phải cơm độn bo bo, sắn khô như mấy chục năm trước
là tốt lắm rồi.
Tôi sẽ cất gian nhà gỗ ba gian để ở. Mua thêm cái chăn, cái mùng cho mùa đông
thường đến sớm nơi vùng cao này.
Nếu thuận lợi làm hẳn cái nhà cột vuông bằng gỗ đinh, gỗ vảy ốc, được thế thì
càng hay. Nếu không, cũng phải là xoan ngâm, hoặc mỡ.
Quyết không phải là gỗ rừng, loại gỗ thường, cất đầu năm, cuối năm đã mọt.. Như
phần đông người cảnh ngộ như tôi thường làm.
Nên tôi cố gắng ghê lắm.
Đầu óc tôi không khi nào rời khỏi ý nghĩ ám ảnh nói trên. Mọi thứ phù phiếm,
sách vở trên đời lúc bấy giờ chả có ý nghĩa gì với tôi cả. “Hai cái bi” như lão
Thiệp nói khá chính xác về thời kỳ này. “ Bi kich của cái ăn và cái ở” thật có
lý trong hoàn cảnh này. Văn lão đọc dễ hoang mang, dễ buồn nên tôi không thích
lắm, nhưng về chuyện này công nhận lão ấy “Trăm phần trăm”, khá chính xác.
Sau này, tôi cứ lấy làm ngạc nhiên sao bấy giờ mình sống đơn giản sơ sài đến
thế?
Nhưng người ta không phải lúc nào cũng có quyền sắp xếp, đòi hỏi lối sống, sở
thích cho riêng mình, theo ý mình.
Còn hoàn cảnh,
số phận chung, những mặt hạn chế của toàn xã hội.
Còn những đòi hỏi, trách nhiệm trước mắt, hiện tại thiết thực gay gắt ràng
buộc. Tôi đâu có thế lơ mơ với những cái đó được?
Nếu lúc đó quá đà, say sưa thơ phú, “đàn ca sáo thổi” như bây giờ, chả biết
cuộc sống của tôi đã đi tới đâu?
Cũng may thời đó chưa có intenet, chưa có nhiều loại báo chí, sách vở dễ làm
người ta rối trí như bây giờ nên không bị phân tâm, không mất thời gian nhiều
về những cái chả liên quan, hoặc chỉ liên quan rất ít đến mình.
Tôi cam phận
sống theo hoàn cảnh, lao động đến kiệt sức, làm không tiếc sức, chẳng nề hà việc gì.
Lạ một nỗi thời bấy giờ ai cũng khen tôi chăm chỉ làm ăn, có đầu óc tính toán,
biết chia sẻ với mọi người và đặc biệt có uy tín trong làng.
Mẹ tôi cười móm mém, bà cụ có vẻ vui. Tuổi già có người để yên tâm trông cậy,
hay tôi đã thay tâm đổi tính?
Tôi đã là một tôi khác, chẳng giống “tôi” ngày nào. Một cái tôi ích kỷ, chỉ
biết đến nguyện vọng sở thích của riêng mình, quên mất bổn phận của kẻ làm con,
làm một người thường!
Sau này nhớ lại, tôi nghĩ có lẽ cái làm
cho cụ vui có lẽ là cả hai.
**
Một buổi tối,
Bình Nam
đến nhà chơi. Tôi lấy làm lạ, bởi chúng tôi không thân lắm. Chỉ một đôi lần ghé
quán gã mua vài thứ lặt vặt, như đá lửa, thuốc hút hay kim chỉ gì đấy. Điều kiện của tôi lúc đó phở
là thứ ẩm thực đặc biệt, một thứ xa xỉ, nên thú thực phở quán gã có ngon hay
không tôi hoàn toàn không để ý.
Hơn nữa, chả ai ngồi quán ăn phở ngay gần nhà. Người ta chỉ dùng đến nó khi đi
xa, lỡ độ đường. Đấy là suy nghĩ về phở thời bấy giờ của tôi!
Cần phải nói ngay để bạn đọc đỡ thắc mắc, hồi đó mọi người chưa có thói quen
kéo nhau rồng rắn ăn sáng đông như bây giờ. Đa phần “bạch định” chờ đến bữa
trưa cho nó thật ngấu đói ăn cho ngon miệng.
Nhà nào kha khá thì cơm rang, cháo trắng thế là
ổn văn định, lịch sự lắm rồi!
Đấy là lý do tại làm sao tôi có phần ngạc nhiên khi gã đến.
Gã không nói tôi cũng biết gã luôn bận, luôn chân luôn tay. Chán cảnh bãi vàng
nhốn nháo suýt mất mạng vì chốn quân hồi vô phèng hỗn tạp, từ ngày mở quán phở
gã gần như không đi đâu. Ban ngày quán
gã đặc biệt vắng. Họa lâu mới có tay buôn trâu ghé vào. Lão ta buộc con trâu
mới tậu ngay mé bờ sông trước cửa quán. Tay bê
bát phở nhưng mắt không rời khỏi hướng đó. Không nói thì ai cũng biết đây là
loại người khôn như rận, chả sơ hở, chả
chịu mất không cái gì bao giờ. Người vùng tôi có câu: “ Lái trâu lái lợn, lái
bè – Trong ba thằng ấy chớ nghe thằng nào”. Hoặc một đám sơn tràng nào đấy ở dưới xuôi lên khai thác lâm sản, làm nứa
“tiêu chuẩn”.. Những ông khách như thế,
số đông là người có hoàn cảnh, ăn tiêu cực kỳ dè xẻn. Có vào quán chủ
yếu chỉ mua bát canh ăn với cơm nắm mang theo.
Tóm lại doanh thu ban ngày quán nhà gã không
đáng kể. Nó chỉ sôi động từ lúc chạng vạng tối cho đến lúc về đêm. Khi
các bửng làm vàng nghỉ “ca chiều”, chuẩn bị cho canh buổi tối. Hay các con bạc tụ họp nhau chuẩn bị “sới”.
Cái chợ quê miền núi ban ngày như người ngủ gà ngủ gật, về đêm tỉnh táo, sôi
động lạ thường. Đèn đuốc một vùng sáng choang.
Chưa có điện lưới nhưng đèn măng sông cũng đủ sáng lóa một vùng. Những cái cát sét thi nhau véo von những bài hát một thời người
ta chỉ hát thầm. ( Không ít người phải đi tù vì thứ nhạc vàng “ủy mị” đó).
Nhưng vào thời thiên hạ nổi cộm, có vấn đề này, những thứ cấm đoán vớ vẩn đó như có phép lạ, tự dưng biến đi đâu mất, hầu
như chả ai quan tâm.
Đáng lẽ giờ
này Bình Nam phải ở nhà coi quán , sao lại
đến đây?
Tôi không phải chờ lâu, gã vào đề ngay và luôn:
- Chú mày ra quân, về nhà làm ăn “binh tình” thế nào? – Đây là khẩu khí riêng
của gã. Đáng lẽ hỏi “tình hình” thì lão chơi luôn bằng “binh tình” theo lối dân dã, chợ búa.
- Thì cũng có “binh tình” gì đâu. Em dọn dẹp lại nhà cửa vườn ải mấy năm đi
vắng còn mọi sự tính sau. Với lại cũng chưa tính ra cái gì nữa.
Gã cười ngất:
- Làm cái thằng
đàn ông không biết tính việc nhớn cho vợ con được nhờ còn ra thể thống gì nữa?
Không biết cướp lấy cơ hội chả thể nên người được!
- Cơ hội gì cơ? – Tôi không hiểu?
- Chú có thấy trên lâm trường người ta đang khai thác đồng loạt mỡ bồ đề không?
Cái này thì tôi có biết. Cũng chặt ngọn, cành bồ đề, tận dụng mọi thứ lâm trường không dùng đến, kết thành mảng
mang về bến thị xã bán. Nhưng người khôn
của khó, nằm đợi chờ hàng ngày giời mà bán chả được bao tiền, nên tôi bỏ.
- Không phải vậy! – Gã phẩy tay – Tớ nói là đất rừng. Cây chặt đi rồi có nhanh
phải hai năm mới trồng mới lại được. Sao ta không tranh thủ trồng lấy vài vụ đỗ
tương. Khi cây khép tán rồi, mình đã có vốn xoay ra việc khác. Tớ đang bán quán
còn muốn làm nữa là chú em. Vốn liếng không cần nhiều mà lại “dễ ăn” sao không
làm?
Rồi gã vẽ cho tôi cái sơ đồ của cách làm ăn mới, tôi chưa gặp bao giờ. Chỉ cần
phát, đốt, dọn dẹp, chọc hố, thả hạt vào..Trên dưới trăm ngày là có vài tấn đỗ.
Con số tấn đỗ khi ấy ngang bằng tài sản của người có máu mặt trước nay trong
vùng. Nghe qua đã thấy ham!
Sở dĩ gã tìm gặp tôi là do cách làm ấy có một chỗ khó, đấy là: Nhân lực! Gã
không tính, hoặc biết tính cũng không được nên không đặt vấn đề tôi làm thuê
cho mình. Gã cần tôi ở chỗ khác. Gã muốn nhờ tôi về quê tôi ở dưới xuôi, đón
người lên cho gã. Tất nhiên giữa tôi và gã phải có một điều kiện. Gã sẽ lo đất
cho tôi để cùng làm, vốn liếng nếu thiếu gã sẽ hỗ trợ..
Tôi và gã trở nên thân tình từ sau đận “phối kết hợp” nọ! Mặc dù sau đấy gã làm tôi khá thất vọng và bất ngờ. Đám đất
gã bảo “lo” cho tôi hóa ra của một người người khác. Ông ta phải mất nhiều công
sức luồn lọt các cửa mới có được nó. Việc tôi “nhảy dù” đưa người vào làm giữa đám nương của người ta chút nữa đôi bên
xảy ra xung đột. May mà mẹ tôi những năm tôi xa nhà có bận giúp vợ con ông ta
chút tiền mọn cho người đi nằm bệnh viện. Một phần nữa, tôi là lính vừa ở chốt
về. Đến cái sống cái chết nơi mũi tên hòn đạn, những thằng như tôi còn không
màng, người ở hậu phương lẽ nào không có chút lương tâm, nhân nhượng? Tôi không
phải kiêu binh, công thần gì, sau vụ ấy mỗi lần gặp mấy người này, tôi vẫn cứ
thấy áy náy trong lòng.
Bình Nam
sau đấy xoa dịu tôi bằng một trận rượu ở
quán phở nhà gã. Phải công nhận món phở
nhà gã “chất”. Có khi còn ngon hơn phở Nam Định một lần đã lâu, về quê tôi được ăn. Nhưng
không phải chỉ có thế.
Tôi đâu phải kẻ cứ có miếng ăn là quên hết mọi sự trên đời? Điều này Thanh Nam hiểu. Ngoài bữa rượu miễn phí
thịnh soạn ấy ra, gã giúp tôi mấy chục cân đỗ giống, là thứ cực kỳ hiếm vào
thời bấy giờ. Chỉ quý và nể nhau như thế nào người ta mới làm như thế. Ngay như
đến hỏi mua, người bình thường, không thân thiết chưa chắc đã có ai bán cho ai
vì nó cực đắt và quá hiếm. Một giống đậu quý , mới nhập lần đầu ở vùng này,
chưa có bán đại trà như sau này. Hơn nữa, sâu đấy vụ tranh chấp đất cát kết cục
cũng khá thuận lợi, tôi quên dần sự gạt gẫm của gã về miếng đất qua lời hẹn hứa
với nhau!
Cách nhà Bình Nam mấy nhà là nhà Bình Hoa, một
chỗ gần như chí thiết. Thân nhau nhất
thị tứ này hồi đó. Quan hệ bạn bè giữa đôi bên ban đầu là do hai cô vợ từ thủa còn
bắt chấy, chơi ô ăn quan.
Lúc đầu tôi rất khó hiểu vì sao họ lại chơi
và thân thiết với nhau như vậy. Nhà Bình Hoa vợ bán tạp hóa, chồng sửa xe, nghề
nghiệp giữa hai bên khác nhau rất nhiều.
Tính cách lại càng khác. Bình Nam
sành sỏi, khôn ranh như rận. Bình Hoa tính thô vụng, cục cằn, bụng phưỡn, ngón
tay to như quả chuối. Chả nói cũng biết ngay là người lỗ mãng cục mịch. Vợ
chồng Bình Nam
như đôi đũa ngọc nếu đem so với vợ chồng Bình Hoa. Chồng cao ráo, trắng trẻo,
vợ xinh xắn, đôi mắt sắc lẻm, hai bên má hai lúm đồng tiền, tóc dài chấm gót.
Nhà Bình Hoa chồng cun cũn một mẩu,
tướng ngũ đoản, mắt trắng, môi thâm. Vợ da mặt sần sùi như bị sơn ăn dở, răng
cái nào cái nấy to như răng ngựa, môi dày trễu ra.
Sau này tôi hiểu tình bạn khác với tình yêu ở chỗ không quá trọng hình thức bề
ngoài. Có khi người ta còn lợi dụng luôn tính đối ngược để tôn bản thân. Không
thiếu những cô nàng duyên dáng kết bạn với các cô xấu xí thô vụng như để làm
nền cho mình.
Nhưng tất cả những cái đó cũng chưa phải là chất keo gắn kết quan hệ đôi bên.
Cái chính hai cô Hoa này học với nhau từ ngày còn vỡ lòng. Cả hai đều có gia đình khá giả nhờ các ông bố một thời
có máu mặt trong vùng. Họ chơi với nhau như sự lựa chọn của từng lớp người, một
kiểu mặc định dù chưa ai hề nói ra. Đó là có chung hoàn cảnh.
Chuyện chỉ có
thế đã không có gì đáng nói. Ngoài chỗ Bình Hoa với tôi là chỗ anh em họ hàng
xa. Vợ chồng Bình kia cũng không có quan hệ gì đặc biệt. Tôi sẽ chẳng hơi đâu
để ý đến họ làm gì.
Cũng là chuyện người giữa muôn vạn, muôn triệu người. Nếu không xảy ra một
chuyện sau đó ít lâu..
***
Một buổi tối vợ chồng Bình Hoa đến tôi chơi. Nhìn sắc mặt hai người tôi đoán
chắc đã xảy ra chuyện gì ghê gớm lắm. Vì là chỗ người nhà, tôi là người nhà
Bình Hoa muốn dãi bày đầu tiên. Chuyện này cả hai chưa hề nói với ai.
- Em không ngờ bạn bè với nhau mà chúng nó khốn nạn thế?
- Chuyện gì thím cứ thong thả nói..
Anh chồng vội xen ngang:
- Cũng chẳng có chuyện gì đâu. Vợ chồng em có ít tiền hàng để trong tủ mãi tận
trong buồng.. Chiều nay đi bà ngoại về, giở đến không cánh mà bay.. Nếu người
ngoài không ai biết chỗ em để tiền như thế..
Rồi anh cu chàng kể: Tuy là có tủ đứng nhưng bọn em không cất tiền ở đấy. Em để
trong vạt áo bông cũ rách buộc lại treo
trên vách khá cao. Nếu người ngoài chả ai nghĩ tiền cất như thế.
- Thế chú thím có nghi cho ai không?
- Một mất mười ngờ, nghi thì nói làm gì. Em vào bà thầy mới nổi ở trên đồng
cạn. Bà này nói chắc như đinh đóng cột đúng là chỉ có vợ chồng nhà này.. Gã còn mô tả có dấu vết từ bờ sông lên, khóa
bị bẻ như thế nào. Phải là chỗ thân thuộc mới biết đường đi lối lại kỹ như thế.
Rõ ràng là trộm ngày mà không có ai biết vì lối bờ sông lên khuất chả ai để ý..
Bác bảo có nên đưa ra công an không?
- Cái này thì
tùy chú thím. Có đưa ra công an chưa chắc đã giải quyết được. Ngoài sự nghi ngờ
ra, chú thím lấy gì làm bằng chứng để họ giải quyết?
Cả hai nín lặng một lúc. Vợ Bình bảo:
- Dạo này nhà đấy chồng cờ bạc trở lại, có khi lúc thua bạc làm liều bác ạ!
Chồng gắt:
- Tôi đã bảo cô bao nhiêu lần, bạn thân thì bạn thân. Đến chơi ngồi bàn uống
nước. Lại giở chứng tỉa lông mày, lông nách đưa nhau vào buồng, nó mới để ý
đến..
Đằng nào sự việc cũng xảy ra rồi, có cãi nhau cũng thành vô ích, tôi bảo cả hai
tìm cách giải quyết sao cho khéo, không cẩn thận vừa mất tiền vừa mất bạn.
Vợ chồng Bình
Hoa không nói gì, mặt cứ xị ra.
Trưa hôm ấy có
cuộc khẩu chiến kịch liệt, suýt nữa xảy ra đánh nhau to. Không còn thiếu lời
nào hai bên không văng ra để chửi rủa, nguyền nải nhau. Bình Nam vác con dao
phở mặt đỏ tía tai vì xấu hổ, mất thể diện. Bình Hoa cũng mang cái búa ra. Nếu
không có chính quyền đến can thiệp đã xảy ra lớn chuyện.
Tôi là người ở giữa, không biết khuyên giải hai bên thế nào? Cuộc ẩu đả mới chỉ chấm dứt tạm thời vì có người can thiệp. Nhưng chắc
chắn còn chưa xong. Một đằng của đau con xót, lại nghe bà thầy nói như gọi tên
người lấy, làm sao chịu ở yên cho được? Một bên chưa rõ có ăn cắp hay không,
mất thể diện trước hàng phố thế này làm sao chịu được.
- Không bắt tận
tay, day tận trán, động đến bà, bà gang họng ra.. – Tôi thật bất ngờ vẻ đanh
đá, cá cày của Nam
vợ Bình. Ngày thường tôi vẫn gặp một chị Nam dịu dàng, duyên dáng, cười nói
thùy mị lắm cơ mà?
- Thôi được rồi, mày ăn của con bà không ngon đâu. Bà sẽ có cách làm cho nhà
mày tán gia bại sản, lìa lọi nhau, không bao giờ ngóc đầu lên được!
Tôi cũng bất ngờ không kém khi nghe lời này của Hoa vợ Bình. Đứa em dâu họ,
ngày thường lì lì ít nói. Vậy mà khi cần đấu mỏ, đâu có kém phần chanh chua?
Nghĩ bụng chắc nó tức mình nói vậy chứ “trộm nhảy qua rào” rồi, làm gì được
nữa, chẳng qua nói cho hả giận.
Cho mãi đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu chuyện nó thuê ông thầy phù thủy nào
đó “chài” người lấy cắp số tiền của nó là thực hay không?
Đó là thời kỳ nhiều thứ mung lung, huyễn hoặc, biểu hiện tâm lý bế tắc của
nhiều người. Đất nước đặt trong tình huống vô cùng khó khăn, bị cấm vận, chiến
trang tâm lý, phá hoại nhiều mặt. Nhiều người đến nay không nhớ được bằng cách
nào mình đã sống qua một thời như thế.
Tệ mê tín dị đoan một thời hầu như đã không còn tồn tại. Thày bà các loại bị
đưa đi học tập, cải tạo vì nó trái với đạo đức xã hộị mới của nền chuyên chính
đang được xây dựng trên đất nước này, lại có dịp nảy nở.
Đứa em dâu tôi tức vợ Bình Hoa có lần nói với tôi:
- Em quyết rồi. Có ông thầy hay lắm ở trên Chiêm Hái giỏi lắm. Chỉ cần nộp lễ
cho ông ấy hai chỉ vàng là vợ chồng thằng khốn này biết mặt!
Tôi không tin ở chuyện này lắm. Mà giả dụ có ông thầy giỏi như thế cũng không nên làm. Người ta xuôi
ngược trong đời cốt làm việc thiện. Làm việc ác tất nhiên không tránh sao khỏi
quả báo, đó là nói theo duy tâm. Làm hại người khác thì mình được cái gì? Và
tất nhiên quả báo trước sau gì rồi cũng tới.
- Nhưng em tức lắm. Quên thì thôi, nhớ đến là không ăn không ngủ được.
Nó còn diễn giải cách thức cho tôi lề lối
bùa bèn như thế nào. “Chỉ cần vợ chồng nhà kia sờ tay vào một tờ tiền
ông thầy kia đã làm phép là hiệu nghiệm ngay ”. Việc ấy không khó. Ở gần nhà
nhau bày ra một tình huống, việc này quá đơn giản. Có ai trông thấy tiền mà
không nhặt bao giờ?
Ngày tháng qua đi, chuyện xích mích hai bên như bát nước nóng nguội dần, chả ai
nghĩ họ đã từng xô xát. Tôi cũng quên luôn câu chuyện về dự định thày thợ trấn
yểm của vợ chồng Bình Hoa. Nếu quả thực có ông thầy như thế trên đời này chẳng
có việc gì người ta không làm được. Chả cần mất công mất sức quá nhiều để trả
thù trả oán không biết bao nhiêu chuyện còn to tát, tày đình!
Nhưng rồi có
những việc không tin cũng khó..
Vợ chồng nhà Bình Nam
đang làm ăn lên ầm ầm, xây được nhà, mua xe máy mới, bỗng nhiên có chuyện.
Một buổi tối dân quân du kích, công an xã dẫn bên làng Chài về một xâu người.
Một xới bạc khá lớn vừa bị triệt phá. Bình Nam sau đó đi tù hơn một năm. Cô vợ
bán thuốc phiện lẻ cũng bị người ta cáo. Thứ hàng đó đến lúc này đã bị cấm
đoán, không công khai như trước. Chồng đi tù chưa về thì vợ đi tiếp. Hai đứa
con phải gửi cho ông bà ngoại nuôi. Quán phở cũng đóng cửa.
Chả biết sau đấy chạy chọt thế nào, hay xét hoàn cảnh con nhỏ người ta chị vợ
về. Quán lại mở, nhưng gần như không có mấy khách.
Xung đột biên giới đã đến lúc chấm dứt. Tự dưng những bãi vàng trên sông cũng chấm
dứt theo. Bao nhiêu bè mảng, lều quán dựng trên bờ sông như có phép lạ, biến đi
đâu mất. Chiến loạn và tệ nạn như cặp bài trùng, yên hàn trở lại, tệ nạn tự
nhiên biến mất. Những vụ trộm cắp, đâm chém trong vùng cũng giảm dần. Bình Hoa
thôi sửa xe đạp nhận chức phó công an xã. Còn Bình Nam ra trại đã trở thành con người
khác.
Không thiếu trường hợp người đi cải tạo về lại dễ vi phạm, hư hỏng, tệ hơn hồi
chưa đi. Bình Nam
thuộc hạng như thế.
Gã mang cái đầu trọc lốc và tính cộc cằn theo kiểu anh chị về khu chợ này. Vợ
chồng gã không mấy khi yên ổn, bát đĩa thường xuyên bay ra đường, nồi chảo
không cái nào không có vết dao.. Gã ghen vợ vì nghe người ta đồn hồi gã ở trong
trại vợ gã hay qua lại với mấy anh trạm thuế vụ.
Làm nghề buôn
bán, gặp gỡ thuế vụ là chuyện đương nhiên, bình thường, ai không phải làm?
Nhưng gã không tin. Gã bảo hồi gã ở nhà, cứ đến tháng người sở thuế sẽ đến tận
quán thu, chứ không đêm hôm, tối tăm đi đóng thuế bao giờ?
Vợ gã gầy dộc đi. Gã mượn rượu giải sầu. Thói quen hút hít ngày ở bãi vàng đã
bỏ từ lâu giờ trở lại. Vợ gã khuyên giải thế nào cũng không được , đành làm đơn
ra tòa..
Lâu lâu tôi vẫn
gặp chị ta ở nhà Bình Hoa. Giữa hai cô ả đã quên chuyện cũ. Nhưng Bình chồng Nam
thì không bao giờ đến nhà Bình Hoa nữa.
Nam cất cái quán giải khát nhỏ gần cuối chợ.
Cái chợ đồng rừng đã có diện mạo của một thị tứ đang hình thành với đủ sự phong
phú và phức tạp riêng của nó. Mất dần đi vẻ mộc mạc, chân chất, thô ráp của
vùng quê vốn tách biệt với cuộc sống bên ngoài.
Quán giải khát của Nam
khách tương đối đông. Cô bán thêm ăn sáng rồi làm thêm hàng cơm. Có một gã trong làng chết vợ giỏi nghề giết mổ
thường hay ra phụ giúp. Gã này chân tay to, nhưng tính hà tiện không mấy người
ưa.
Chả hiểu thế nào một thời gian Nam
mang lòng, để ý đến gã. Thôi thì “rổ rá cạp lại” chuyện chẳng đáng nói.
Nó như vạn sự vô lý, có lí, ngẫu nhiên, tất nhiên vẫn hằng xảy ra nơi thế gian
này.
Phụ nữ dang dở
một lần, đâu có nhiều lựa chọn?
Đã có lúc tôi thoáng nhớ và nghĩ về chị Nam như vậy..
Tôi đi làm ăn
xa. Quê hương không phải không có lúc khó cưu mang nổi đối với một số người.Tôi
cũng vậy.
Cái nghề thợ xây của tôi chưa có có đất để phát huy nơi mảnh đất này. Nơi mà nhà cửa chủ yếu tranh tre nứa lá. Họa hoằn mới
có người nghĩ đến chuyện cất nhà tường, ở nhà xây.
Tôi không nghĩ
có ngày quê tôi xây nhà lại có dịp rầm rộ, đua nhau đến thế.
Cách đây mấy năm
tôi về qua nhà, thật ngạc nhiên thấy ngôi nhà khá đẹp xây ở khu chợ. Lại chính
là nhà Bình Hoa, em họ tôi. Nó cứ trách mãi hôm tân gia nhà tôi không có mặt.
Thì làm ăn mãi trong miền đông nam bộ, có hay tin tức gì đâu?
Nó khoe bây giờ cuộc sống tạm ổn. Quê tôi đã có điện lưới quốc gia. Ngoài công
việc ở ngoài xã, em còn mở thêm dịch vụ bán hàng. Các loại giống má, phân NPK,
thuốc trừ sâu.. Những mặt hàng chả lo ế ẩm hay mất giá bao giờ, lãi xuất ổn
định. Chỉ phải mỗi cái lo canh cánh bên lòng.. Tôi hỏi chuyện gì? Ngần ngừ một lúc nó mới nói:
- Không biết nhà em mắc căn bệnh gì? Tự dưng
da mặt cứ nổi từng đám như phát ban. Càng gãi đám nổi sần càng lan rộng.
Uống đủ thứ thuốc mà không khỏi. Bảo nó về bệnh viện Hà Nội khám xem sao lại
tiếc tiền không muốn đi.
- Hà tiện cái gì không nói, hà tiện với sức khỏe của chính mình sao được? Chú
phải cho thím ấy đi khám xem thế nào chứ?
Không biết có phải do câu nói này của tôi hay bệnh đến lúc nặng không cưỡng
được nữa, mấy ngày sau gã đưa vợ đi chữa bệnh.
Người nhà xuống thăm, nghe nói vợ Bình Hoa bị ung thư máu, đến giai đoạn cuối.
Đúng là người ta
sống ở đời không dễ dàng gì. Có thể bao nhiêu cái khó, cái khổ, kiên
tâm một chút, có thể vượt qua. Nhưng những thử thách nghiệt ngã của số phận, có
cái là không thể.
Trước lúc lâm chung, Hoa Bình nắm chặt tay
Nam,
nước mắt lưng chòng:
- Tao đã làm một việc không phải với mày. Lúc đó giận quá mất khôn. Có gì xin
mày tha thứ cho tao, tao mới yên lòng nhắm mắt được. Hai đứa con tao nhờ mày
trông nom dạy bảo các cháu. Bố nó tao chắc chả “đứng” được lâu, thế nào anh ấy
cũng đi bước nữa..Tao sợ chúng nó khổ..
Nam
gật đầu,sụt sùi. Đối với người sắp từ bỏ thế gian này, không ai có thể nói dối,
phủ nhận bất kỳ sự thật nào. Nếu có thể thì công nhận lầm lỗi của mình, rồi xin
tha thứ. Khó quá, không tiện nói thì im lặng. Chị Nam chọn cách thứ hai.
Còn hai đứa con thơ của bạn, chị còn cơ hội chuộc lại sai trái của mình.
Bạn bè với nhau
từ thời còn để chỏm, xuôi ngược trong đời bao nhiêu vui buồn, cuộc chia tay của
họ làm tôi suy nghĩ khá lâu về mục đích, ý nghĩa trong cuộc đời này. Đôi khi nó
không giống như câu ngoài cửa miệng người ta thường nói với nhau. Nó nằm ở sự
im lặng.
Nó ở rất gần và
cũng rất xa trong cuộc sống này!
==========================
Phần nhận xét hiển thị trên trang